mở đầu
Trong tiến trình phát triển kinh tế của mình, nhiều quốc gia đã nhận thấy sức sống và tính năng động của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) trong nền kinh tế thị trường; chính hiệu quả của các doanh nghiệp này đã góp phần tạo nên sức mạnh kinh tế của các quốc gia phát triển và các nước công nghiệp mới (NICs).
Đánh giá đúng tiềm năng và vai trò to lớn của DNVVN trong sự nghiệp phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách khuyến khích và kích thích tăng trưởng của các DN
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1517 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VVN, không phân biệt thành phần kinh tế hay loại hình sở hữu. Mặc dù, trong những năm qua, DNVVN đã đạt được những kết quả rất khả quan; nhưng trên thực tế, các DNVVN, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) còn gặp nhiều khó khăn, trong đó có việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tuy nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (DN) là rất lớn song các DN chủ yếu huy động vốn thông qua thị trường tài chính phi chính thức (vốn tự có của chủ DN, vay mượn bạn bè, hoặc vay nặng lãi...) còn vốn tín dụng Ngân hàng rất ít hoặc DN có vay được thì chủ yếu vẫn là tín dụng ngắn hạn.
Sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh NHCT Hưng Yên, được sự hướng dẫn nhiệt tình của các cán bộ Phòng Kinh doanh, được tìm hiểu về hoạt động của phòng, đặc biệt là qua quá trình tìm hiểu về nghiệp vụ cho vay đối với DNVVN NQD hoạt động trên địa bàn tỉnh của Chi nhánh NHCT Hưng Yên, em nhận thấy: hoạt động tín dụng đối với DNVVN NQD của Chi nhánh NHCT Hưng Yên trong những năm qua tuy đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn rất lớn của các DNVVN NQD hoạt động trên địa bàn tỉnh. Mặc dù hoạt động cho vay đối với DNVVN NQD đã được Ban Giám đốc Chi nhánh và lãnh đạo Phòng Kinh doanh quan tâm, bên cạnh đó là sự đổi mới tư duy của các cán bộ trong phòng; song đây là nhóm đối tượng khách hàng có tiềm năng rất lớn mà NHCT Hưng Yên vẫn chưa khai thác thực sự hiệu quả.
Trong thời gian tới, Chi nhánh cần có sự quan tâm hơn nữa và cần xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý để mở rộng cho vay, và qua đó có thể khai thác tốt hơn tiềm năng của các DNVVN NQD. Chính vì những lý do nêu trên mà sau một thời gian thực tập tại phòng Kinh doanh của NHCT Hưng Yên, em đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu cho báo cáo thực tập chuyên đề là: “Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với DNVVN NQD tại Chi nhánh NHCT Hưng Yên”.
Bài viết gồm 3 phần chính:
- Những vấn đề cơ bản của TDNH đối với DNVVN ngoài quốc doanh.
- Thực trạng hoạt động cho vay đối với DNVVN ngoài quốc doanh tại Chi nhánh NHCT Hưng Yên.
- Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với DNVVN NQD tại NHCT Hưng Yên.
Chương I- Những vấn đề cơ bản về tín dụng Ngân hàng đối với DNVVN NQD
1.1. Tín dụng Ngân hàng đối với DNVVN NQD
1.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của Ngân hàng. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng; đây là hoạt động sinh lời lớn nhất song cũng chịu rủi ro cao nhất.
1.1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Vốn là điều kiện không thể thiếu để một DN thành lập và tiến hành hoạt động sản xuất - kinh doanh. Nguồn vốn của một doanh nghiệp luôn bao gồm hai phần: vốn chủ sở hữu và các khoản nợ. Tuy nhiên, việc lựa chọn cơ cấu của nguồn vốn như thế nào là phụ thuộc vào sự ổn định của nền kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô, quan điểm của chủ DN...
- Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm: vốn góp ban đầu (vốn điều lệ), lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu, các quỹ...
+ Vốn góp ban đầu: Khi thành lập DN bao giờ chủ DN cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định, đối với các DNNQD hoạt động theo Luật doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp phải có một số vốn nhất định để xin đăng kí thành lập DN (các chủ DN tham gia góp vốn, phát hành cổ phiếu...)
+ Lợi nhuận không chia: lợi nhuận không chia của DN thực chất là phần lợi nhuận cộng dồn để lại của DN; tuy nhiên, trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh, nếu DN hoạt động có hiệu quả thì DN mới có điều kiện để tăng nguồn vốn. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia - nguồn vốn nội bộ - là phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn vì DN giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc bên ngoài; vì vậy, các biện pháp làm tăng lợi nhuận của DN như các biện pháp miễn giảm thuế thu nhập cũng góp phần làm tăng vốn tự có của DN. Rất nhiều DN coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, tuy nhiên, không phải lúc nào DN cũng có thể dùng lợi nhuận không chia để tài trợ cho dự án, phương án sản xuất - kinh doanh của mình vì phần lợi nhuận không chia giữ lại không đáng kể hoặc không đáp ứng được nhu cầu về vốn.
- Nguồn vốn vay và các khoản nợ gồm: tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng, phát hành trái phiếu.
+ Tín dụng thương mại được hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hoặc trả góp, chi phí của tín dụng thương mại “ẩn” ngay trong mức giá. Tín dụng thương mại tuy là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt song nếu quy mô tài trợ quá lớn thì tính chất rủi ro rất lớn.
+ Phát hành trái phiếu: Trái phiếu là một công cụ huy động vốn dài hạn, lãi suất trái phiếu chính là chi phí vốn của việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, ngay cả ở những nước có thị trường tài chính phát triển như Mỹ, Singapore...thì phát hành chứng khoán cũng không phải là biện pháp hàng đầu để DN tài trợ cho hoạt động của họ. Chỉ có các công ty có uy tín và năng lực tài chính vững mạnh, đáp ứng đầy đủ các điều kiện thì mới được quyền phát hành trái phiếu; các DN nhỏ không được thiết lập vững chắc trên thị trường hầu như không bao giờ gom đủ vốn bằng cách phát hành chứng khoán. Vì vậy, Ngân hàng vẫn là nguồn vốn bên ngoài quan trọng để tài trợ cho các DN
+ Tín dụng Ngân hàng: Với điều kiện VCSH thấp, thị trường tài chính chưa phát triển thì việc các DN coi nguồn vốn tín dụng Ngân hàng là hình thức huy động vốn chủ yếu là một tất yếu. Tín dụng Ngân hàng không chỉ giúp các DN cân đối cơ cấu vốn, đảm bảo một cơ cấu vốn hợp lý mà đối với những DN có tỷ lệ nợ thấp thì có thể sử dụng nợ như một phương pháp để tiết kiệm thuế thu nhập doanh nghiệp, từ đó tăng lợi nhuận sau thuế (sở dĩ như vậy là vì doanh nghiệp được phép khấu trừ lãi vay vào lợi nhuận trước thuế của họ). Các DN thường cố gắng cân bằng giữa nợ và vốn chủ sở hữu để giữ vững khả năng thanh toán, củng cố uy tín tài chính. Khi tỷ lệ nợ ở mức thấp, nếu cần vốn thì các công ty thường chọn cách vay Ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu, tức là tăng tỷ lệ nợ; nếu tỷ lệ nợ ở mức cao thì các DN phải tránh tăng tỷ lệ nợ bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc cố gắng dùng lợi nhuận không chia. Tuy nhiên, các DN thường không quan tâm nhiều đến việc giữ một mức cân bằng nhất định mà việc điều chỉnh vốn chủ sở hữu và các khoản nợ thường tuỳ thuộc vào thực tế tình hình sản xuất - kinh doanh và các điều kiện khác.
Như vậy, có thể thấy vai trò quan trọng của tín dụng Ngân hàng đối với các DN của Việt Nam trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển và hoạt động chưa hiệu quả. Đối với các DNVVN NQD thì tín dụng Ngân hàng lại càng quan trọng bởi trong các loại hình DNNQD thì: Công ty hợp danh và công ty tư nhân không được quyền phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào, Công ty cổ phần, công ty TNHH có quyền phát hành trái phiếu song không phải DN nào cũng có thể thu hút được công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu tư phải đánh giá uy tín của DN rồi mới quyết định có mua hay không; các DN vững mạnh và có uy tín trên thị trường thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để thu hút vốn. Trên thực tế, điều kiện để phát hành trái phiếu cũng khá phức tạp, nhất là trong điều kiện thị trường tài chính hiện nay của Việt Nam, ngoài ra do đa số DNVVN có thời gian hoạt động chưa lâu nên chưa tạo được uy tín trên thị trường; để có thể phát hành trái phiếu đối với các DN NQD, nhất là các DNVVN là một việc rất khó khăn, chi phí lớn và mất thời gian; vì vậy, với yêu cầu về vốn phải nhanh chóng, kịp thời thì tín dụng Ngân hàng là một giải pháp tốt.
Đồng thời, trong điều kiện mà thị trường tài chính chưa phát triển và hoạt động chưa hiệu quả thì nguồn vốn tự có của DN là tương đối quan trọng trong việc mở rộng sản xuất - kinh doanh; tuy nhiên, ở nước ta nguồn vốn này còn rất hạn chế; vì vậy mà khi cần vốn thì các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN NQD nói riêng chủ yếu vẫn dựa vào nguồn vốn trên thị trường tài chính “phi chính thức” (nguồn lực vốn và tài sản tự thân, vốn góp của các thành viên, vay của người thân, bạn bè hoặc đi “vay nóng”, vay trả góp với lãi suất cao...), với lượng vốn “cấu vá” từ nhiều nguồn nhỏ lẻ khác nhau thì tính chất không ổn định là khá rõ ràng, ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch mở rộng sản xuất - kinh doanh của DN; nguồn vốn vay từ Ngân hàng còn chưa được tận dụng hiệu quả, các DNVVN tuy thiếu vốn để đầu tư sản xuất - kinh doanh song rất khó tiếp cận với các nguồn tài chính chính thức; tuy vay Ngân hàng là phương thức huy động vốn dài hạn mà các DN Việt Nam áp dụng phổ biến nhất, song không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tiếp cận được với nguồn vốn này và khả năng vay cũng bị hạn chế so với quy mô hiện tại của doanh nghiệp và nhu cầu của dự án, phương thức sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp theo đuổi.
Có thể nói: không có doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại và phát triển bền vững trên thị trường.Tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với phát triển của các DNVVN, điều này được thể hiện ở các đặc điểm sau:
- Nâng cao hiệu quả dụng vốn: khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng, DN phải tôn trọng các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng (HĐTD), bảo đảm trả nợ một cách đầy đủ và đúng hạn, đồng thời phải tôn trọng các điều khoản khác của hợp đồng cho dù DN sản xuất - kinh doanh hiệu quả hay không. Ngân hàng chỉ cho vay khi đã thẩm định đầy đủ về tư cách pháp lý của DN và các điều kiện khác, tất cả phải chứng minh được rằng DN kinh doanh có hiệu quả, khả năng tài chính lành mạnh và có khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Vì vậy, ngay từ khi thành lập phương án sản xuất - kinh doanh, DN đã phải cân nhắc "sản xuất - kinh doanh cái gì”, “bằng cách nào”, “đầu vào và đầu ra như thế nào”, không chỉ quan tâm tới việc thu hồi đủ vốn mà DN còn phải quan tâm đến việc sử dụng vốn như thế nào cho hiệu quả, để có thể tăng nhanh vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất đi vay Ngân hàng thì mới đảm bảo có lãi sau khi trả lãi cho Ngân hàng. Trong quá trình cho vay, Ngân hàng cũng phải tiến hành kiểm soát trước, trong và sau khi DN thực hiện dự án để đảm bảo DN sử dụng vốn đúng mục đích, đồng thời có thể phát hiện những yếu kém của dự án và qua đó có thể tư vấn cho DN về những biện pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
- Tín dụng Ngân hàng đảm bảo cho DN hoạt động liên tục: tín dụng Ngân hàng giúp cho DN đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị, trang trải chi phí cần thiết phục vụ cho quá trình sản xuất - kinh doanh và phát triển DN. Trong quá trình hội nhập, khi mà sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, DN muốn tồn tại và phát triển thì phải thường xuyên cải tiến kĩ thuật, đầu tư mới công nghệ, thay đổi mẫu mã, nghiên cứu tạo ra những sản phẩm mới; song trên thực tế, không có DN nào có đủ 100% vốn đảm bảo nhu cầu phát triển sản xuất - kinh doanh; vì vậy, để có thể mở rộng sản xuất - kinh doanh và phát triển thì DN chủ yếu vẫn phải dựa vào tín dụng Ngân hàng.
1.1.3. Các hình thức tín dụng Ngân hàng
1.1.3.1. Phân theo thời gian
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân hàng, vì thòi gian liên quan mật thiết tới tính an toàn và sinh lời cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng.
Phân theo thời gian, tín dụng phân thành:
- Tín dụng ngắn hạn: là các khoản tín dụng có thời gian dưới 12 tháng, nhằm tài trợ cho tài sản lưu động, hoặc nhu cầu vốn ngắn hạn.
- Tín dụng trung hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm, thường dùng để tài trợ cho các tài sản cố định như: phương tiện vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn hay một số loại cây trồng vật nuôi...
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm, dùng để tài trợ cho các công trình xây dựng như: nhà cửa, cầu đường... hay các loại máy móc, thiết bị có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu, khấu hao chậm.
1.1.3.2. Phân theo hình thức cấp tín dụng
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, điều 49 quy định: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”.
Theo hình thức tài trợ, tín dụng phân thành: cho vay, cho thuê, bảo lãnh, chiết khấu thương phiếu.
- Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng, là hình thức tín dụng mà Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng và khách hàng cam kết hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian nhất định. Cho vay gồm rất nhiều hình thức đa dạng, như: cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay thấu chi, cho vay luân chuyển...
+ Cho vay từng lần: là hình thức cho vay áp dụng đối với đối tượng là khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, hoặc không đủ điều kiện để được cấp hạn mức tín dụng; mỗi lần vay vốn, khách hàng phải làm đơn, trình Ngân hàng phường án sử dụng vốn; Ngân hàng và khách hàng thoả thuận về các điều khoản của hợp đồng tín dụng và làm các thủ tục vay vốn cần thiết.
Số tiền vay vốn bằn tổng nguồn vốn của dự án trừ đi vốn chủ sở hữu hoặc vốn tự có, vốn khác tham gia.
+ Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh dịch vụ và phục vụ đời sống. Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định nhằm thực hiện dự án nhất định thì khách hàng phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư và quá trình thực hiện dự án; qua đó, Ngân hàng sẽ thẩm định để đưa ra quyết định cuối cùng.
STCV = Tổng nhu cầu vốn của dự án - VCSH và các nguồn vốn khác tham gia
+ Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên việc luân chuyển hàng hoá của DN; DN thuế vốn khi muốn mua thì có thể vay Ngân hàng, khi DN bán hàng thì Ngân hàng sẽ thu nợ. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với DN thương nghiệp hoặc DN sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn, có quan hệ vay - trả thường xuyên với Ngân hàng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: áp dụng đối với các khách hàng có nhu cầu vốn thường xuyên hoặc có đặc điểm sản xuất - kinh doanh không phù hợp với phương thức cho vay từng lần.
Hạn mức tín dụng được xác định căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất - kinh doanh, nhu cầu vay vốn, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản đảm bảo tiền vay theo quy định của NHCT Việt Nam và khả năng nguồn vốn của Ngân hàng để tính toán và thoả thuận với khách hàng một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất - kinh doanh; trong suốt thời gian duy trì hạn mức tín dụng, khách hàng được quyền rút vốn phù hợp với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế nhưng phải đảm bảo không vượt quá hạn mức đã ký; mỗi lần rút vốn, khách hàng phải trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá, dịch vụ và lập một giấy nhận nợ với Ngân hàng.
Hạn mức tín dụng có thể cấp cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Trong kỳ khách hàng có thể vay - trả nhiều lần song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng, nếu quy định hạn mức tín dụng cuối kỳ thì trong kỳ dư nợ DN có thể vượt hạn mức tín dụng nhưng đến cuối kỳ thì DN phải trả nợ để dư nợ nhỏ hơn hạn mức đã được cấp.
+ Cho vay thấu chi: Ngân hàng thoả thuận bằng văn bản với khách hàng, qua đó Ngân hàng chấp thuận cho khách hàng chi vượt mức số tiền có trên tài khoản thanh toán phù hợp với các quy định của Chính phủ và NHNN về hoạt động thanh toán qua các tổ chức tín dụng cung ứng dịch vụ thanh toán.
- Cho thuê tài sản: là việc Ngân hàng bỏ tiền để mua tài sản và cho khách hàng thuê với những thoả thuận nhất định, trong đó bao gồm việc khách hàng phải hoàn trả gốc và lãi cho Ngân hàng. Cho thuê tài chính áp dụng trong trường hợp khách hàng không đủ (hoặc chưa đủ) điều kiện để vay; để mở rộng tín dụng, Ngân hàng mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng thuê; tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng, Ngân hàng có thể thu hồi khi khách hàng không trả được nợ.
- Bảo lãnh: là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay khách hàng của mình, khi khách hàng không thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam kết.
- Chiết khấu thương phiếu: là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng khi sở hữu thương phiếu chưa đến hạn.
1.1.3.3. Phân theo phương thức tài trợ
- Cho vay kinh doanh: là các khoản cho các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh cá thể vay để phục vụ hoạt động sản xuất - kinh doanh như: mua tài sản cố định, mua nguyên vật liệu, mua hàng hoá...
- Cho vay tiêu dùng: là các khoản tín dụng mà Ngân hàng cấp cho khách hàng là các cá nhân, hộ gia đình để mua nhà, mua các tài sản có giá trị...
- Cho vay khác
1.2. Những vấn đề cơ bản về DNVVN NQD
1.2.1. Các khái niệm và phân loại
1.2.1.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
a. Khái niệm
Theo Nghị định của Chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 thì DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
b. Các tiêu thức phân loại
Quy mô doanh nghiệp được xác định dựa trên các tiêu chí: nguồn vốn kinh doanh, quy mô lao động, doanh thu thuần và giá trị nộp Ngân sách Nhà nước.
- Lao động: là số lao động thực tế được sử dụng tính bình quân trong 3 năm gần nhất.
- Giá trị nộp Ngân sách: lấy theo số thực nộp vào Ngân sách Nhà nước theo số phát sinh trong kỳ, bao gồm các loại thuế và các khoản nộp khác theo quy định của Nhà nước trong năm báo cáo (không tính các khoản thuế xuất nhập khẩu, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, các khoản tiền phát, phụ thu).
1.2.1.2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
a. Khái niệm
Theo Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là doanh nghiệp là doanh nghiệp có tính chất hữu (không kể doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Các loại hình DNNQD chủ yếu là: Công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
b. Các loại hình DN NQD
Theo Luật doanh nghiệp năm 2005, các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh được quy định như sau:
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành cổ phiếu.
3. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp, trong đó:
- Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá năm mươi.
- Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp.
- Phần vốn góp của thành viên chỉ được quyền chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu.
3. Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty cổ phần
1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ một số trường hợp do pháp luật quy định;
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa.
2. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
3. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty hợp danh
1. Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên hợp danh còn có thể có thêm thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
2. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
3. Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào.
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
* Như vậy, trong tất cả các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì chỉ có công ty cổ phần là có quyền phát hành cổ phiếu, còn lại tất cả các doanh nghiệp khác đều không có quyền phát hành cổ phiếu. Mặt khác, công ty Cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân cũng có quyền phát hành trái phiếu song điều kiện để các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng rất khó khăn bởi trên thực tế, các doanh nghiệp này hầu hết đều có quy mô vừa và nhỏ, thời gian hoạt động chưa lâu và chưa có uy tín trên thị trường.
1.2.2. Đặc điểm của DNVVN NQD
DNVVN NQD là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và nhỏ. Tại Việt Nam, đa số các DNNQD đều có quy mô vừa và nhỏ; vì vậy, đặc điểm của DNVVN NQD cũng chính là đặc điểm của các DNVVN nói chung.
Thứ nhất, đặc điểm nổi bật của các DNVVN chính là quy mô vốn ban đầu thấp, vốn ban đầu để thành lập doanh nghiệp là do các thành viên góp vốn, do vậy có quy mô không lớn, hiện tiềm lực tài chính của khu vực này rất bé, số vốn chủ sở hữu bình quân chỉ khoảng 1.800 triệu đồng. Các DNVVN luôn gặp khó khăn do chính quy mô vừa và nhỏ của mình, chính đặc điểm này đã dẫn tới hệ quả là hầu hết các DNVVN sử dụng trang thiết bị, công nghệ lạc hậu nên sản phẩm hàng hoá - dịch vụ sản suất ra thường có giá trị công nghệ thấp, hàm lượng chất xám ít, không có tính ổn định và khả năng cạnh tranh không cao, không thích ứng được với nhu cầu của thị trường, nhất là thị trường thế giới; hầu hết sản phẩm tạo ra không có tính định hướng lâu dài trong kinh doanh và DN thường xuyên thay đổi ngành nghề và cơ cấu mặt hàng, các mặt hàng phong phú về chủng loại song số lượng không lớn. Mặt khác, cũng chính vì phần lớn công nghệ mà các DNVVN sử dụng đã lạc hậu hàng chục năm, thậm chí vài chục năm nên không thể nâng cao năng suất, giảm giá thành sản phẩm và thường gây ra ô nhiễm môi trường, và đây cũng là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu.
Các DN muốn mua sắm thiết bị, đổi mới công nghệ song do vốn chủ sở hữu thấp, tín dụng Ngân hàng thì khó tiếp cận, không phải DN nào cũng có thể tiếp cận được với tín dụng Ngân hàng; ngay cả khi có thể vay Ngân hàng thì nhiều khi số vốn vay được và thời gian vay cũng chưa thực sự phù hợp với thời hạn của dự án. Trong một cuộc hội thảo về vai trò và thực trạng của các DNVVN, 2/3 số Giám đốc của các DNVVN cho rằng: đôi khi các DNVVN cũng tiếp cận được với tín dụng Ngân hàng song chỉ là ngắn hạn, tín dụng dài hạn để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng là rất khó, có tới 80% số các khoản tín dụng là ngắn hạn; điều này chủ yếu là do để đầu tư cho máy móc, trang thiết bị thì cần nguồn vốn dài hạn trong khi nguồn vốn của Ngân hàng chủ yếu là không kỳ hạn và ngắn hạn nên thường không đáp ứng được nhu cầu của các DN.
Thứ hai, các DNVVN tuy hoạt động linh hoạt nhưng kém hiệu quả. Cơ sở sản xuất của đại đa số DNVVN thường phân tán, quy mô nhỏ lẻ, manh mún, thường sử dụng đất đai, nhà ở của gia đình trong khu dân cư làm mặt bằng sản xuất - kinh doanh. Hiện nay, đa số các DNVVN làm ăn có hiệu quả muốn mở rộng sản xuất - kinh doanh đều nằm trong tình trạng thiếu đất làm mặt bằng; việc xin cấp đất của các DNVVN bị cản trở bởi hồ sơ, thủ tục vẫn còn khá phức tạp. Trước sức ép của thời buổi “tấc đất, tấc vàng”, có chủ DN đã phải thốt lên: “Nghĩ đến việc xin cấp đất, thuê đất tôi như nhìn thấy trên con đường có những tấm rào không thể vượt qua”. Mặt khác, với đặc điểm sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, đó vừa là lợi thế song cũng tạo nên những khó khăn cho các DNVVN. Lợi thế của việc sản xuất phân tán, quy mô nhỏ là có thể hoạt động được ở những vùng dân cư sống phân tán, len lỏi vào những khu vực thị trường “ngách” mà các DN lớn bỏ qua, lĩnh vực hoạt động đa dạng, phong phú, cũng chính vì vậy mà có thể dễ dàng thay đổi ngành nghề, lĩnh vực hoạt động để chuyển sang các ngành nghề, lĩnh vực khác có lợi hơn khi thị trường có những biến động, chi phí rút lui khỏi thị trường thấp, dễ chuyển địa điểm kinh doanh hơn các DN lớn; tuy nhiên cũng chính vì điều này làm cho DN khó đương đầu với những biến động bất ngờ của thị trường, nếu không thực sự cố gắng thì sẽ bị thị trường đào thải. Các DNVVN thường không có chiến lược kinh doanh dài hạn mà chỉ làm ăn chạy theo phong trào, khi thấy có cơ hội thì tận dụng tối đa, triệt để nhất mọi nguồn lực để thu được lợi nhuân trước mắt mà không tính đến lâu dài.
Thứ ba, các DNVVN cũng thường phải chịu thiệt thòi, phải gánh chịu những thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng không chỉ ở thị trường trong nước mà còn trên thị trường thế giới. Phần lớn các DNNQD hiện nay hoạt động trong tình trạng thiếu cập nhật thông tin về các cơ chế chính sách mới ban hành cũng như thông tin về các thị trường đầu vào như: thị trường vốn, thị trường nguyên vật liệu, thị trường công nghệ, thiết bị kỹ thuật..; thiếu thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là thị trường xuất khẩu và chưa tiếp cận được với công nghệ thông tin trong quản lý DN. Trong điều kiện hiện nay, khi chúng ta đang trên đường hội nhập với thế giới, Việt Nam đang rất tích cực đàm phán để gia nhập WTO trong năm nay thì các DNVVN càng cần phải nâng cao trình độ tiếp cận thông tin, nhất là thông tin về các quy định của pháp luật ở trong và ngoài nước, bởi gia nhập WTO cũng có nghĩa là cạnh tranh sẽ không ngừng tăng lên, các tranh chấp thương mại trên thị trường sẽ xảy ra ngày càng nhiều hơn và khốc liệt hơn. Khi Việt Nam gia nhập WTO, các DNVVN chính là lực lượng tiên phong, được hưởng lợi và cũng là lực lượng chịu sự cạnh tranh khốc liệt nhất; tuy nhiên, cho đến thời điểm này, khi mà Việt Nam đã đứng trước ngưỡng cửa của WTO thì các DN thuộc khu vực này vẫn chưa có sự chuẩn bị tích cực.
Theo ông Lý Đình Sơn - Phó chủ tịch hiệp hội DNVVN của Việt Nam - “khi các DN có quan hệ làm ăn chặt chẽ với các đối tác nước ngoài thì cũng là lúc các vụ kiện thương mại tăng lên; trong đó các vụ kiện bán phá giá giày dép, cá tra, cá basa, hay mới đây là vụ Liên minh Châu Âu kiện các DN Việt Nam bán phá giá xe đạp và các vụ kiện do giao hàng chậm...mà các DN Việt Nam gặp phải trong thời gian qua là những ví dụ điển hình. Trong bối cảnh như vậy, ngoài việc tự tăng cường kiến thức hội nhập, kiến thức về luật pháp quốc tế, các DNVVN Việt Nam cũng nên hợp tác với nhau. Có một sự thật là các DN Việt Nam có chung lợi ích rất ngại hợp tác với nhau, mà lại thường cạnh tranh làm cho vấn đề càng trở nên phức tạp, trong khi phía đối tác nước ngoài thì hoàn toàn ngược lại”.
Do quy mô nhỏ nên mô hình tổ chức của các DNVVN rất gọn nhẹ, số lượng lao động không nhiều, không có quá nhiều các khâu trung gian nên hoạt động năng động, dễ thích nghi với những thay đổi của thị trường, dễ dàng chuyển đổi; các quyết định, chỉ đạo nhanh chóng đến với người lao động, giảm độ “trễ” do các khâu trung gian tạo ra, công tác kiểm tra, giám sát cũng nhanh chóng và hiệu quả hơn; điều này làm giảm chi phí, tăng hiệu quả hoạt động của DN đồng thời. Tuy nhiên, cũng chính vì quy mô nhỏ nên nhiều DN chưa quan tâm đến việc xây dựng nội quy lao động để đưa người lao động vào một “khuôn khổ, quy củ” nhất định; có DN xây dựng nhưng chỉ để lấy lệ, chưa kiểm tra chặt chẽ. Việc thực hiện các nội quy này việc xây dựng nội quy trong mỗi DN là rất quan trọng vì điều này không chỉ giúp tăng kỷ luật lao động mà còn giúp người lao động hiểu được nhiệm vụ của mình và cũng qua đó để DN xác định mức độ hoàn thành công việc của người lao động; vì vậy, các DN cần quan tâm hơn nữa đến việc này.
Thứ tư, các doanh nhân, các nhà quản lý DN chưa được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu hiểu biết đầy đủ về quản trị doanh nghiệp hiện đại trong điều kiện hội nhập kinh tế nên trình độ quản lý chưa cao; các DN chủ yếu do chủ DN đứng ra làm giám đốc, hầu như chưa có DN nào thuê giám đốc, và các chủ DN quản lý DN chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Văn hoá lãnh đạo quản lý là nhân tố then chốt, trực tiếp quyết định khả năng phát triển kinh tế - xã hội. Trong lịch sử cũng như hiện nay, sự thịnh - suy của một quốc gia hay một DN... suy cho cùng bao giờ cũng có nguồn gốc trực tiếp từ sự quản lý của nhà lãnh đạo. Yếu tố con người, nhất là những người giữ vai trò lãnh đạo có ý nghĩa rất quan trọng; các nước như: Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc... đã học tập người Nhật và đã thành công khi đặc biệt chú ý đến vấn đề đào tạo đội ngũ quản lý DN; đây cũng là bài học quý báu mà chúng ta cần học tập ở họ. Trong thời gian tới, cần tập trung vào việc tăng cường công tác đào tạo về pháp luật kinh doanh, thương mại quốc tế cho đội ngũ lãnh đạo các DNVVN; trang bị cho họ những kiến thức bài bản để họ có thể “đương đầu” với những thách thức ngày càng gay gắt hiện nay.
Thứ năm, tay nghề của lực lượng lao động trong các DNVVN của chúng ta hiện nay được đánh giá là thấp so với nhu cầu. Theo ông Nguyễn Hữu Dũng - Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và các vấn đề xã hội - tuy Việt Nam là một nước có nguồn lao động dồi dào, trẻ và rẻ; lao động Việt Nam có truyền thống cần cù, sáng tạo và tư chất thông minh, song đa số lao động Việt Nam không có trình độ chuyên môn kỹ thuật (đến năm 2010 mới phấn đấu có 25% lao động qua đà._.o tạo, trong đó có 15,5% được đào tạo nghề trong khi đó ở các nước tỷ lệ này là 50%), lao động trình độ cao thiếu trầm trọng do giáo dục đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế, năng suất lao động trung bình thấp, thể lực và sức bền của người Việt Nam còn yếu, ý thức kỷ luật lao động và tác phong lao động công nghiệp chưa cao. Lực lượng lao động của Việt Nam hiện nay đang trong tình trạng “thừa thày, thiếu thợ”, hiện tượng thiếu lao động lành nghề, lao động có trình độ cao ở một số khu công nghiệp đã dẫn tới tình trạng cạnh tranh không lành mạnh để tranh giành lao động có chất lượng giữa các DN. Mặt khác, do người lao động chưa hiểu biết nhiều về kỷ luật lao động nên trong thời gian vừa qua đã liên tục xảy ra một số vụ đình công bất hợp pháp, tự phát của công nhân một số nhà máy ở Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh...không chỉ gây thiệt hại cho DN mà còn gây bất ổn cho xã hội.
Ngoài những đặc điểm của DNVVN, DNVVN NQD còn có những đặc điểm của các DNNQD. Để tìm hiểu về đặc điểm của các DN Việt Nam nói chung và DNNQD nói riêng, chúng ta sẽ tìm hiểu thông qua bảng sau:
Bảng mô tả sơ lược về các loại hình DN tại VN năm 2003 (bảng 1)
Loại hình DN
Tổng số doanh nghiệp
Tỷ trọng số DN (%)
Lao động
Nguồn vốn kinh doanh (nghìn tỷ đồng)
Nguồn vốn bình quân (tỷ đồng)
Thu nhập bình quân (nghìn đồng)
Số lao động (nghìn người)
Số lao động TB
1. Doanh nghiệp quốc doanh
4.845
6,70
2.260
466
1.003
207
1.495
2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
64.808
89,65
2.050
31,8
337
5,2
1.046
3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
2.641
3,65
86
325,6
369
139,7
1.774
Tổng cộng
72.294
100
5.700
71,8
1.709
1.367
Qua bảng trên có thể thấy:
- Tổng số DNNQD rất lớn, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số DN và có xu hướng ngày càng tăng mạnh. Nếu như năm 2003 chúng ta mới chỉ có hơn 64 nghìn DNNQD thì đến năm 2005, tổng số DNNQD đã tăng lên 200 nghìn. Trong khi tổng số DN tăng nhanh trong những năm qua thì cơ cầu có sự chuyển dịch mạh mẽ: số lượng DN tăng mạnh ở khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài còn khu vực DNNN lại giảm mạnh do tổ chức sắp xếp lại, cho thuê, cổ phần hoá...
- Tổng số lao động mà khu vực ngoài quốc doanh thu hút được đang ngày càng nhiều và chiếm tỷ trọng lớn. Mặc dù số DNNQD rất lớn song số lao động trung bình/ một DN vẫn khá cao, đạt 31,8 lao động/ một DN; tỷ lệ này đã luôn tăng qua các năm.
- Nguồn vốn kinh doanh bình quân của kinh tế ngoài quốc doanh rất nhỏ, chỉ đạt 5,2 tỷ đồng/ một DN, thấp hơn rất nhiều so với khu vực kinh tế Nhà nước (207 tỷ đồng) và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (139,7 tỷ đồng).
- Thu nhập bình quân của người lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tuy thấp hơn so với khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài song cũng tương đối cao.
1.2.3. Vai trò của DNVVN NQD trong nền kinh tế thị trường
Trong những năm qua, DNNQD luôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Theo con số thống kê, hiện nước ta có khoảng 200.000 DNNQD, với tổng số vốn lên đến hàng trăm tỷ đồng.
Sau 20 năm đổi mới, với cơ chế mới, Nhà nước đã tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế cùng phát triển; đến nay, các DNNQD đã trở thành bộ phận quan trọng tạo nên bước phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nước ta trong thời gian qua. So với kinh tế Trung Ương thì đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ) trong Ngân sách địa phương lớn hơn rất nhiều; điển hình như: Thành phố Hồ Chí Minh, kinh tế tư nhân đóng góp trong tổng thu Ngân sách địa phương (năm 2004) khoảng 15%, Tiền Giang là 24%, Gia Lai là 22%, Ninh Bình là 19%...
Trong bài viết nhận xét về sự đánh giá vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng X, bà Phạm Chi Lan - chuyên gia cao cấp, ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ - đã khẳng định: “Trong 5 năm qua, tuy sức ép từ những chấn động bên ngoài rất lớn nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn phát triển chính là nhờ khu vực kinh tế tư nhân; ngay cả khai thác khả năng xuất khẩu trong thời gian qua cũng nhờ khu vực kinh tế tư nhân nhiều hơn là khu vực kinh tế Nhà nước. Chẳng hạn, việc khai thác thị trường Mỹ, các thị trường xuất khẩu mới là nhờ đóng góp ngày càng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân. Nếu không có sự đóng góp của khu vực này, nhất là sau khi thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 1999 thì kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, giai đoạn 2001 - 2005 không thể có được những bước phát triển như đã thấy. Có thể nói, tất cả những kết quả trọng yếu mà chúng ta đạt được trong thời gian qua đều có sự đóng góp to lớn của khu vực kinh tế tư nhân.”
Như đã phân tích, đã có nhiều quốc gia trên thế giới nhận thức được vai trò, tầm quan trọng và những đóng góp to lớn của DNVVN trong quá trình phát triển kinh tế của mình, trong đó không thể không kể tới các quốc gia phát triển như: Mỹ, Anh, Pháp, hay các quốc gia công nghiệp mới như Hàn Quốc, Singapore... Tại các nước này, tuy hệ thống siêu thị rất phát triển song cũng không thể thay thế hoàn toàn các doanh nghiệp bán lẻ, nhất là việc cung cấp hàng hoá tại các địa bàn phân tán, nơi không tập trung đông dân cư và đối với các sản phẩm mang tính chất tiêu dùng, nhỏ lẻ (năm 1994, các DNVVN ở Nhật đã tạo ra trên 55% GDP; ngay cả ở Mỹ - một đất nước mà ở đó có những cái tên như: Microsoft, IBM hay Ford nổi tiếng toàn cầu, thì các DNVVN vẫn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, thể hiện ở một con số không nhỏ - 40% GDP của Mỹ là nhờ sự đóng góp của các DN thuộc khu vực này, những DN lớn như Boeing hay Microsoft cũng không thể hoạt động riêng lẻ mà không có sự hợp tác với các DNVVN). Các nước trên thế giới (nhất là các nước đang phát triển) đều tích cực hỗ trợ DNVVN bởi:
- Muốn phát triển bền vững phải dựa vào nội lực hơn là trông chờ vào các nhà đầu tư từ bên ngoài.
- Phát triển DNVVN là cách tốt nhất để giảm tỷ lệ thất nghiệp và các tệ nạn xã hội.
- Phát triển kinh tế DNVVN là biện pháp hiệu quả góp phần giảm bớt cách biệt về kinh tế giữa thành thị và nông thôn.
Xuất phát từ một nền kinh tế kém phát triển, sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay gắn liền với sự đi lên của các DNVVN, một lực lượng kinh tế khá quan trọng và chiếm tỷ trọng rất lớn trong các loại hình doanh nghiệp. Các DNVVN là một nhân tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất và luân chuyển hàng hoá - tiền tệ với đặc thù nhỏ gọn, linh hoạt, dễ dàng đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng; nhanh chóng nắm bắt xu hướng và thị hiếu tiêu dùng, họ đã tạo ra nhiều sản phẩm mới giúp nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Theo thời báo Ngân hàng, DNVVN hiện nay chiếm 96% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động, đóng góp 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, thu hút 26% lực lượng lao động trong cả nước.
Các DNNQD, mà chủ yếu là các DNVVN trong những năm qua đã có những đóng góp to lớn cho đất nước, vai trò của các DNVVN không chỉ thể hiện ở giá trị kinh tế mà các DN này đóng góp mà còn thể hiện ở việc tạo công ăn, việc làm, xoá đói, giảm nghèo và giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng trong cả nước.
- Tạo ra khối lượng hàng hoá - dịch vụ lớn, phong phú về chủng loại và có chất lượng tốt hơn, góp phần thay thế hàng nhập khẩu và tạo ra lượng hàng hoá - dịch vụ lớn để xuất khẩu, đồng thời cải thiện và nâng cao mức tiêu dùng trong nước; đó cũng là những yếu tố giúp giữ vững ổn định và phát triển của nền kinh tế.
- Vai trò tạo công ăn, việc làm: việc làm là một vấn đề cấp bách của Việt Nam hiện nay; tốc độ tăng dân số hàng năm của Việt Nam mặc dù đã giảm song so với khu vực và thế giới vẫn cao, hàng năm có khoảng 1 triệu người đến tuổi lao động và tỷ lệ thất nghiệp là 6%/năm. theo dự báo, từ nay cho đến năm 2010, mặc dù dân số đã tăng chậm nhưng do nguồn lao động vẫn tăng nhanh nên đã tạo ra sức ép rất lớn cho vấn đề giải quyết việc làm. Thực tế cho thấy, toàn bộ DNNN thời gian qua hàng năm chỉ thu hút được khoảng 1,6 triệu lao động trong khi số liệu hàng năm cho thấy, DNVVN cũng tạo ra khoảng 50-80% việc làm trong khu vực công nghiệp - dịch vụ; đặc biệt trong giai đoạn sắp xếp lại các DNNN, lượng công nhân bị sa thải rất lớn thì chính các DNVVN lại là nơi tái tạo lại công việc cho họ bởi việc đầu tư cho một chỗ làm việc ở một DNVVN thấp bằng 3-10% so với các DN lớn. Mặt khác, đây cũng chính là khu vực thu hút số lượng lớn lao động là các sinh viên mới ra trường và giải quyết một trong những vấn đề bức xúc của nước ta, đồng thời góp phần tăng thu nhập cho người lao động, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Sự phát triển của các DNVVN còn giúp tác động tới cơ cấu lao động, tạo sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực.
- Khai thác và tận dụng các nguồn lực xã hội: các DNVVN thu hút lượng lớn nguồn vốn trong dân do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán, do yêu cầu vốn yêu cầu ban đầu không nhiều nên có thể tận dụng vốn của bản thân, bạn bè, gia đình...Mặt khác, các DNVVN ở nông thôn sẽ thu hút nhiều lao động chưa có việc làm, lao động tạm thời nhàn rỗi theo thời vụ vào sản xuất - kinh doanh, rút dần lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp - dịch vụ nhưng vẫn sống ở quê hương mà không di chuyển theo phương châm: “ li nông bất li hương”. Một điều hết sức quan trọng nữa là: các DNVVN cũng là yếu tố chủ đạo giúp phát huy nghề truyền thống, làm thay đổi bộ mặt làng quê; trong các làng nghề truyền thống đã hình thành nhiều DNVVN NQD nhằm tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, tổ chức sản xuất quy mô, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của làng nghề.
- Các DNVVN thường chọn kĩ thuật phù hợp với kĩ thuật thủ công để nhanh chóng tiếp thu và làm chủ, ít sử dụng công nghệ tiên tiến đòi hỏi vốn lớn vì vậy tận dụng kĩ thuật trong nước và thúc đẩy công nghệ, cải tiến kĩ thuật.
Như vậy có thể nói đây là một bộ phận sử dụng rất có hiệu quả và tiết kiệm nguồn lực sẵn có của đất nước để sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, giảm chi ngoại tệ, đồng thời tạo ra hàng hoá xuất khẩu và thu ngoại tệ về cho đất nước, góp phần bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống.
- Một trong những kết quả nữa khá quan trọng đã đạt được trong việc thúc đẩy phát triển DNVVN là chúng ta đã tạo được mối liên kết giữa các DNVVN với các DN lớn, các Tổng công ty của Nhà nước, các Tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia của nước ngoài đang hoạt động tại nước ta. Tuy mối quan hệ này mới chỉ được xác lập bước đầu trong các khâu như: cung ứng nguyên vật liệu, hợp đồng phụ,...(theo nghiên cứu của Phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam thì rất ít khu công nghiệp, cụm công nghiệp đạt được tính liên kết cao giữa các DN trên địa bàn), nhưng đã tạo ra mạng lưới vệ tinh phân phối. Mối quan hệ này đã có những tác động tích cực qua lại, các DN lớn đảm bảo cho các DNVVN về tài chính, công nghệ, thị trường, về tiêu chuẩn kĩ thuật và về kinh nghiệm quản lý; ngược lại, các DNVVN lại đảm bảo cho các DN lớn về công nghiệp bổ trợ, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm rộng khắp trên cả nước; chi phí sản xuất - kinh doanh của các DN lớn có thể giảm đáng kể nếu như họ sử dụng hiệu quả và linh hoạt các DNVVN làm các DN vệ tinh. Sự liên kết này rõ ràng có lợi cho cả hai bên và đặc biệt là làm lợi cho nền kinh tế của đất nước. Tổng giám đốc của một công ty sản xuất ô tô, xe máy lớn của Việt Nam đã khẳng định công ty của ông “sống” được là nhờ 83 DNVVN. Ông Phan Văn Tuất- Viện trưởng Viện chính sách Công nghiệp nhận xét: “DNVVN không đơn thuần chỉ là đóng góp hay góp phần vào sự phát triển của Việt Nam nói chung mà chính là trụ cột phát triển của các ngành phụ trợ”.
Với những đóng góp đáng kể vào sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế trong những năm qua, các DNVVN NQD đã được quan tâm hơn và nhìn nhận bình đẳng hơn; Đảng, Nhà nước đã đánh giá đúng đắn tiềm năng, vai trò và tầm quan trọng của các DNVVN nói chung và DNVVN NQD nói riêng; vì vậy, gần đây đã có nhiều chính sách nhằm khuyến khích và kích thích sự phát triển của các DNVVN NQD như: Nghị định 90/2001/NĐ-CP (ngày 23/11/2001) về việc trợ giúp phát triển DNVVN, Quyết định 12/2003/QĐ-TTg (ngày 17/01/3002) về hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN, ngành Ngân hàng cũng đã đề ra nhiều chính sách thích hợp cho việc tài trợ cho DNVVN. Thống đốc NHNN Việt Nam - ông Lê Đức Thuý đã phát biểu: “Chúng ta đã sống một thời kỳ dài trong cơ chế DNNN được ưu đãi hơn DNNQD; để xoá bỏ bất bình đẳng, về phía NH cần phải tạo ra một cơ chế cạnh tranh thực sự; NH muốn tồn tại thì phải tìm cách đưa vốn đến những DN cần vốn và sử dụng vốn có hiệu quả chứ không phải bằng cơ chế đặc quyền, bao cấp đằng sau, NH tìm đến DN vì DN làm ăn hiệu quả chứ không phải vì nó thuộc thành phần nào cả.”
Với điều kiện thuận lợi và những cơ chế ngày càng thông thoáng như hiện nay, các DNVVN đã, đang và sẽ liên tục phát triển, ngày càng khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế quốc dân.
1.2.4. Xu hướng phát triển của các DN NQD
Ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy tiềm năng to lớn của các DNVVN, đặc biệt là DNNQD nên đã có những sự quan tâm đến khu vực này; điều này được thể hiện ở việc năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 133/1999/QĐ-TTg (51/5/1999) "Về việc thành lập tổ nghiên cứu cơ chế chính sách phát triển DNVVN"; tổ này có nhiệm vụ nghiên cứu và đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách, biện pháp tổ chức thực hiện để phát triển DNVVN. Đến nay, sau 5 năm, giai đoạn 2000-2005, các DNVVN đã thể hiện vai trò tích cực của mình và đã những đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước.
Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội X của Đảng đã xác định: “ Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cầu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đăng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế cổ phần ngày càng phát triển, ngày càng trở thành tổ chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất và sở hữu, đặc biệt là xã hội hoá vốn của các nhà đầu tư”. Đồng thời, “tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình kinh tế tư nhân đầu tư phát triển theo quy định của pháp luật, không hạn chế về quy mô, ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn. Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu, thực sự bình đẳng, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN, đặc biệt là các DNVVN, các hộ kinh doanh được tiếp cận với nguồn vốn tại các tổ chức tín dụng của Nhà nước, kể cả Quỹ hỗ trợ phát triển; được đáp ứng thuận lợi nhu cầu sử sụng đất làm mặt bằng sản xuất - kinh doanh”.
Như vậy, có thể nói Đảng và Nhà nước đã có sự nhìn nhận khách quan, đúng đắn hơn về vai trò của DNVVN và DNNQD. Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội X của Đảng đã đề ra mục tiêu là đến năm 2010 nước ta sẽ có 500.000 DNVVN làm ăn có hiệu quả. Thời gian qua, Chính phủ và các Bộ, ngành đã có nhiều chương trình hỗ trợ, trợ giúp cho DNVVN như: Trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới cơ chế tiền vay theo hướng mở rộng cho vay không có bảo đảm bằn tài sản, cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay; các chương trình xúc tiến thương mại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam; chương trình hỗ trợ thông tin; thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng...Tuy nhiên, trong quá trình triển khai các chương trình hỗ trợ còn nhiều bất cập; cụ thể là: Quyết định số 193/2001/QĐ - TTg về việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN ban hành từ năm 2001 song cho đến nay mới chỉ có 3 tỉnh thành lập quỹ này là Trà Vinh, Yên Bái, Tây Ninh. Các chương trình hỗ trợ kỹ thuật, thông tin, xúc tiến thương mại đã được triển khai nhưng số DNVVN tiếp nhận được sự hỗ trợ này không đáng kể. Nguyên nhân của tình trạng này là do một số quy định đưa ra không phù hợp với tình hình DN; các chính sách và biện pháp hỗ trợ DN tại các địa phương không được thực hiện thống nhất, mang nặng tính tự phát, có sự không ăn khớp giữa mục tiêu đề ra và quá trình triển khai ở các địa phương; các thông tin về chính sách hỗ trợ của Nhà nước cũng như của địa phương chưa đảm bảo tình công khai, minh bạch để các DN đều biết, trong khi công tác kiểm tra tình hình thực hiện rất yếu nên việc hỗ trợ DNVVN đạt hiệu quả thấp.
Chúng ta đang đứng trước áp lực lớn và chưa giải quyết thoả đáng bài toán giữa nhu cầu vốn rất lớn, đặc biệt cho các dự án và các công trình trọng điểm cấp bách chung của cả nước với nhu cầu vốn của các DNVVN; nếu cho vay các công trình trọng điểm nhiều thì vốn cho vay DNVVN sẽ ít đi. “Quả thực, 500.000 doanh nghiệp với một miếng bánh nhỏ thì sẽ không thể phát triển được”.
Mặt khác, tuy đã nhìn nhận tích cực hơn về vai trò, tầm quan trọng và những đóng góp to lớn của DNVVN trong sự nghiệp phát triển đất nước trong 20 năm đổi mới và đực biệt trong 5 năm gần đây; đồng thời đã có sự quan tâm hơn tới các DNVVN song trong nhận thức vẫn đề cao vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể. “Phải nhìn nhận công bằng rằng, trong 5 năm qua, chưa nói đến quãng thời gian 20 năm đổi mới, vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước đã thể hiện như thế nào, đã thực sự là lực lượng chủ yếu đem lại sự phát triển mạnh mẽ cho giai đoạn vừa qua chưa? Nếu nói về tỷ trọng vốn đầu tư, tỷ trọng đóng góp vào GDP... thì vẫn là khu vực này có tỷ trọng cao; tuy nhiên tỷ trọng cao đó không tương xứng với vai trò chủ đạo mà chúng ta mong muốn và nhất là tỷ trọng cao đó đồng thời kém theo cái giá phải trả cao của cả nền kinh tế. Nếu như đầu tư của Nhà nước vẫn là lớn nhất và do các DNNN thực hiện thì không dễ tránh khỏi tình trạng lãng phí, thất thoát, tham nhũng rất lớn như thời gian vừa qua”. (Theo lời bà Phạm Chi Lan).
Vậy, chúng ta cần đặt khu vực kinh tế tư nhân vào bản đồ doanh nghiệp Việt Nam, cần đặt đúng tầm lịch sử và đặt đúng tầm vai trò của doanh nhân trong xã hội; thực sự tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ doanh nhân phát triển.
Với sự nhìn nhận ngày càng tích cực của xã hội về tần lớp doanh nhân và vai trò của các DNVVN thì trong tương lai, các DNVVN nói chung và DNVVN NQD nói riêng sẽ ngày càng có những đóng goóp nhiều hơn nữa cho sự phát triển của nước nhà.
Tuy nhiên, để có sự phát triển của các DNVVN thì cần phải có những biện pháp tích cực hơn nữa. Theo Tiến sĩ Hoàng Hải thuộc trung tâm nghiên cứu kinh tế quốc tế thì 6 giải pháp cơ bản cần phải thực thi để phát triển DNVVN của nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đó là:
- Tiếp tục hoàn thiện nhanh hệ thống pháp luật cho phù hợp với quá trình chuyển sang KTTT, bao gồm: xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng cho tất cả các DN thuộc mọi thành phần kinh tế (tiếp cận thông tin, tiếp cận vốn, thị trường lao động, thị trường công nghệ...); minh bạch hoá việc bảo hộ đối với các ngành kinh tế trong nước; cần mở rộng quyền tự chủ cho DN, nghiên cứu xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp để DN có thể tái cơ cấu DN.
- Phát triển thị trường lao động và có chính sách thích hợp đối với thi trường bất động sản, hình thành thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất thông thoáng để dễ dàng chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản.
- Phát triển hơn nữa để hoàn thiện thị trường tài chính và Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho DNVVN, nhất là DN mới thành lập, tuy nhiên chính sách hỗ trợ nên tập trung vào những DN được xác định là cần thiết, mang lại hiệu quả cho quốc kế dân sinh, tránh đầu tư dàn trải.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN thực hiện quyền kinh doanh và khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu, nên thực hiện phương châm Nhà nước không can thiệp trực tiếp; các cấp, các ngành tạo điều kiện hơn nữa để DN tự do đăng ký kinh doanh, tự do chuyển đổi ngành nghề mà pháp luật không cấm.
- Nâng cao hơn nữa vai trò của hiệp hội, tổ chức chuyên môn đối với việc hỗ trợ cho sự phát triển của DNVVN, nhất là Hiệp hội DNVVN.
- Cuối cùng là vấn đề đào tạo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp; cần có chính sách phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là tăng cường đào tạo cơ bản cho sinh viên của các trường cao đẳng, đại học không chỉ về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải trang bị cho họ cả về kiến thức quản trị doanh nghiệp hiện đại.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới tín dụng Ngân hàng đối với DNVVN NQD
Không riêng ở Việt Nam, ở nhiều nước, các DNVVN đều kêu khó tiếp cận với nguồn vốn Ngân hàng. Trước đây, khi thị trường ít có sự cạnh tranh, các Ngân hàng ít phải chịu sức ép tìm kiếm khách hàng; nay, trong điều kiện nền kinh tế hội nhập toàn cầu, các Ngân hàng không chỉ chịu sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tài chính và phi tài chính trong nước mà còn phải chịu sự cạnh tranh ngày càng lớn của các tổ chức tài chính quốc tế; vì vậy, các Ngân hàng đang phải giành giật các khách hàng lớn làm ăn có hiệu quả, nhiều Ngân hàng đã nhận ra cần phải tiến công vào khu vực DNVVN hiện đang “đói vốn” và chưa được phục vụ đúng mức.
Theo điều tra của phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tỷ suất nợ/tổng tài sản của doanh nghiệp đặc biệt là DNVVN rất khiêm tốn (trung bình chỉ khoảng 8%), cũng có một nửa số DNVVN được điều tra là có vay nợ song hầu hết là nợ ngắn hạn và vay từ các nguồn khác; điều tra cũng cho thấy, rất ít DN thành công trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức.
Một nghiên cứu khác của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về việc cho DNVVN vay tại các NHTMVN cho thấy: cản trở lớn nhất là Ngân hàng không có đủ thông tin tin cậy từ khách hàng và không có khả năng thu hồi các khoản nợ xấu do hệ thống chế tài chưa hoàn thiện. Đôi khi các DNVVN cũng tiếp cận được nguồn vốn tín dụng Ngân hàng song chủ yếu chỉ là ngắn hạn; 2/3 số Giám đốc các DN cho rằng: Tín dụng dài hạn để đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị, nhà xưởng là rất khó và có đến 80% tổng số các khoản tín dụng là vay ngắn hạn.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng hoạt động cho vay đối với khách hàng là DNVVN trong thời gian qua vẫn chưa thực sự mở rộng được như mong muốn song có thể thấy có 3 nhóm nguyên nhân chủ yếu: nhóm nguyên nhân từ phía Ngân hàng, nhóm nguyên nhân chủ quan từ phía các DNVVN và nhóm các nguyên nhân khách quan. Mặc dù đã có nhiều cuộc hội thảo để tìm cách tháo gỡ khó khăn về vốn cho các DNVVN trong thời gian qua song cả DN và Ngân hàng vẫn vướng trong tấm lưới vốn vay mà “chưa có đường thoát”. Trong cuộc hội thảo “dịch vụ Ngân hàng với DNVVN” được tổ chức tại Hà Nội, các đại biểu đã thống nhất rằng: “thiếu vốn đã, đang và sẽ có thể là căn bệnh muôn thuở của các DNVVN”. Vậy làm thế nào để có thể vượt qua “7 vấn đề trở ngại khi DNVVN vay vốn Ngân hàng”, để Ngân hàng và DNVVN gặp nhau và để Ngân hàng cho vay có hiệu quả?
Bảy vấn đề trở ngại khi DNVVN vay vốn Ngân hàng:
- DN có tài sản song giấy tờ chưa hoàn chỉnh nên không thể thế chấp.
- Việc định giá tài sản theo quy định không sát thực tế nên chỉ có thể vay ít so với nhu cầu và tài sản có.
- Báo cáo tài chính chưa chính xác, chưa đủ độ tin cậy, gây khó khăn cho việc thẩm định dự án, phương án sản xuất - kinh doanh.
- Quy mô và hiệu quả sản xuất chưa cao, vốn tự có thấp.
- Diễn biến thị trường phức tạp, DN có quy mô nhỏ nên khó xoay sở để vượt qua các biến động của thị trường.
- Thông tin hai chiều giữa DN và Ngân hàng còn nhiều hạn chế, do hầu hết DN chưa sử dụng thanh toán qua Ngân hàng.
- Trên thực tế, Ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn khi xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ.
1.3.1. Các nhân tố thuộc về Ngân hàng
1.3.1.1. Chiến lược khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường, cùng với quá trình hội nhập, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, mỗi DN cần xây dựng cho mình một kế hoạch phát triển có tính chất chiến lược lâu dài; trong đó, chiến lược khách hàng là vấn đề hết sức quan trọng vì qua đó có thể thấy được nhóm khách hàng mục tiêu mà DN hướng tới. Ngân hàng cũng là một hình thức DN đặc biệt kinh doanh một loại hàng hóa đặc biệt là tiền tệ và hoạt động của NH có tác động rất lớn đối với nên kinh tế; vì vậy, NH cũng cần xây dựng cho mình một chiến lược khách hàng. Đặc điểm chung của tất cả các Ngân hàng thành đạt là đều có chiến lược kinh doanh rõ ràng và chiến lược này phải được phổ biến tới tất cả nhân viên trong Ngân hàng. Ngày nay, hình thức Ngân hàng chuyên doanh không còn phù hợp, các Ngân hàng cần phải đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư; một mặt chuyên môn hoá nhưng mặt khác cũng cần đa dạng hoá để phân tán rủi ro; một nguyên tắc quan trọng của kinh doanh hiện đại là: "không nên bỏ trứng trong cùng một rỏ".
Có nhiều Ngân hàng nổi tiếng trên thế giới theo đuổi sự khác biệt, xây dựng sự khác biệt hẳn với Ngân hàng khác và tạo lợi thế cạnh tranh bằng sự khác biệt, đặc biệt là về đối tượng khách hàng. Mặc dù mục tiêu của bất cứ Ngân hàng nào cũng là mở rộng thị phần nhằm tìm kiếm lợi nhuận nhưng đê đảm bảo an toàn, các Ngân hàng cần phải biết từ chối những khách hàng không phù hợp (những khách hàng không mang lại lợi nhuận do chi phí cao hoặc tiềm ẩn nhiều rủi ro).
Ngành hàng chiến lược mà NHCT Việt Nam huống tới là các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ phục vụ sản xuất - kinh doanh và tiêu dụng trong nước có vị trí quan trọngtrong nền kinh tế quốc dân như: công nghiệp khai thác tài nguyên, các ngành công nghiệp năng lượng, điện lực, viễn thông, giao thông vận tải,...Trong các khách hàng chiến lược mà NHCT Việt Nam quan tâm có các khách hàng là các DN hoạt động trong lĩnh vực công - thương nghiệp, dịch vụ ở các khu đô thị và các khu công nghiệp; không chỉ tập trung vào các tập đoàn lớn mà NHCT Việt Nam còn hướng tới các DNVVN.
Như vậy. trong chiến lược phát triển khách hàng của mình, NHCT Việt Nam đã quan tâm tới đối tượng khách hàng là các DNVVN. Cùng với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của các DNVVN; trong đó đa số là các DNNQD, NHCT Việt Nam đã xác định cho mình một chiến lược khách hàng trong đó có việc chiếm lĩnh thị trường các DNVVN để khai thác tiềm năng to lớn của khu vực kinh tế này.
Chính chiến lược này của NHCT Việt Nam đã tạo điều kiện cho các chi nhánh đưa ra chiến lược khách hàng cho riêng mình; trong đó có việc tập trung đầu tư mở rộng cho vay đối với các DNVVN nói chung và DNVVN NQD nói riêng.
1.3.1.2. Chính sánh lãi suất
Chính sách lãi suất là một trong những chính sách quan trọng của Ngân hàng bởi lãi suất chính là "giá" của khoản vốn mà khách hàng phải trả để được quyền sử dụng khoản vốn vay của Ngân hàng. Cùng với sự hội nhập và mở cửa, các Ngân hàng không thể tự xác định mức lãi suất hặc dự đoán chính xác xu hướng vận động của lãi suất; Ngân hàng không phải là người "tạo giá" mà chỉ là người "chấp nhận giá" và lập kế hoạch hoạt động trên cơ sở hiện tại của lãi suất và khuynh hướng vận động của lãi suất.
Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều đã chuyển từ chế độ lãi suất cơ bản sang chế độ lãi suất thoả thuận; trong đó Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về lãi suất của các khoản vay cho cả hai bên cùng có lợi. Việt Nam đang từng bước tự do hoá cơ chế lãi suất thích ứng với xắc suất rủi ro cũng như quan hệ cung cầu vốn theo cơ chế thị trường. Tháng 6/2002, với sự ra đời của cơ chế lãi suất thoả thuận, lãi suất cho vay trên thị trường tín dụng Việt Nam đã hoàn toàn được tự do. Với chế độ lãi suất thả nổi, các Ngân hàng có thể cạnh tranh với nhau về "giá"; NHNN vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo và định hướng lãi suất thị trường, phù hợp với quy định của Luật NHNN; đồng thời tạo thế chủ động áp dụng các biên pháp kiểm soát biến động của lãi suất thị trường; đảm bảoyêu cầu và mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ; sự ràng buộc này nhằm tạo ra một sân chơi lành mạnh cho các TCTD và DN vay vốn.
Khi một Ngân hàng nâng cao lãi suất cho vay thì có thể mất khách còn khi Ngân hàng hạ lãi suất thì có thể thu hút thêm khách hàng song lợi nhuận sẽ giảm và gây thiệt hại cho Ngân hàng; mặt khác, việc giảm lãi suất còn phụ thuộc vào lãi suất huy động nên không phải lúc nào Ngân hàng cũng có thể hạ lãi suất cho vay như mong muốn, nhất là trong điều kiện mà lãi suất trên thị trường không có sự khác biệt lớn; vì vậy, bên cạnh sự cạnh tranh về lãi suất thì Ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như chất lượng phục vụ. Như vậy, có thể thấy tác động của lãi suất tới sự mở rộng cho vay đối với các DN.
1.3.1.3. Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng bắt đầu từ khi Ngân hàng tiếp nhận hồ sơ của khách hàng cho đến khi thu nợ (gồm cả gốc và lãi). Quy trình tín dụng gồm nhiều bước, nếu không thực hiện chính xác, nhịp nhàng, khoa học và nhanh chóng thì không chỉ gây phiền hà cho khách hàng, làm cho DN mất đi cơ hội đầu tư, từ đó sẽ tự làm mất khách hàng mà còn có thể gây ra những rủi ro đáng tiếc cho chính bản thân Ngân hàng. Một quy trình tín dụng khoa học, nhanh gọn sẽ giúp tiết kiệm chi phí, thời gian và giảm thiểu rủi ro cho cả Ngân hàng lẫn khách hàng, qua đó sẽ đem lại sự hài lòng cho khách hàng và hiệu quả cho Ngân hàng.
Trong quy trình tín dụng thì vấn đề quan trọng nhất để quyết định tới việc Ngân hàng quyết định có cho vay hay không đó chính là qua trình thẩm định khách hàng, phân tích tín dụng; đồng thời, các quy định về bảo đảm tiền vay cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quyết định cho vay của Ngân hàng.
a. Quá trình phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là một việc không thể thiếu trong quá trình cấp tín dụng của Ngân hàng. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay thì việc phân tích tín dụng không chỉ giúp Ngân hàng xác định uy tín, tư cách pháp lý của khách hàng, đánh giá đúng về sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của khách hàng, hiệu quả của dự án, phương án sản xuất - kinh doanh... từ đó đưa ra quyết định có cho vay hay không, mà còn giúp Ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng; do vậy, đòi hỏi phải thực hiện nghiêm túc, nhanh chóng quá trình phân tích tín dụng, tiết kiệm thời gian, chi phí để có thể giải quyết nhanh chóng nhu cầu vay vốn của khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động t._.ập, sáng tạo nhưng vẫn đảm bảo đúng quy chế, chế độ. Đội ngũ cán bộ, nhân viên của Ngân hàng rất gắn bó với nghề, các phòng - ban đều có sự liên hệ trong công tác chung của Ngân hàng, công tác đoàn kết nội bộ được tăng cường. Ban giám đốc Ngân hàng cùng với các nhân viên trong Ngân hàng đã cố gắng xây dựng một tập thể gắn bó, đoàn kết, cùng vì mục đích chung của Ngân hàng.
Trong khâu tổ chức, bố trí cán bộ đã có những bước đột phá, với mục tiêu trẻ hoá đội ngũ cán bộ, từ cán bộ lãnh đạo cấp trưởng, phó phòng đến các cán bộ nghiệp vụ tại các phòng, Chi nhánh đã mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ, thực sự có năng lực, phẩm chất và bản lĩnh vào những vị trí chủ chốt. Đối với đội ngũ cán bộ nghiệp vụ, tác nghiệp, Chi nhánh đã cử đi đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức thị trường, am hiểu sâu về pháp luật; đồng thời, Chi nhánh đã sắp xếp, bố trí đúng người, đúng việc kịp thời điều chỉnh nguồn nhân lực khi cần thiết.
Tuy nhiên, những hạn chế nêu trên của Chi nhánh một phần bắt nguồn từ chất lượng nguồn nhân lực. Do điều kiện còn hạn chế nên Chi nhánh chưa thể lập một phòng thẩm định riêng; vì vậy, công tác thẩm định vẫn do CBTD thực hiện, chính điều này dẫn tới hiệu quả công tác thẩm định chưa được như mong muốn, đôi khi còn chậm, làm cho công tác phê duyệt gặp khó khăn. Tuy mỗi CBTD đã được phân công theo dõi một số DN song bên cạnh việc cho vay đốivới các DN, mỗi cán bộ còn phải theo dõi các khoản cho vay khác như: cho vay lương đối với CBCNV, cho vay tư nhân, cá thể, hộ gia đình... nên không thể chuyên tâm vào việc theo dõi tình hình hoạt động của DN mà mình theo dõi; đôi khi có cán bộ chỉ quan tâm đến các thông tin do DN cung cấp và một phần thông tin do mình tự tìm hiểu nên không tránh khỏi tình trạng thiếu khách quan, điều này cũng một phần do tình trạng trao đổi thông tin giữa các NH chưa được cập nhật, chất lượng thông tin từ các tổ chức chuyên cung cấp thông tin chưa cao.
Chất lượng cán bộ chưa cao còn thể hiện ở việc đa số CBTD đều thiếu kiến thức về tin học, về ngoại ngữ, có CBTD có trình độ đại học song trình độ tiếng Anh vẫn còn nhiều hạn chế, nên công tác lập hồ sở tín dụng còn chậm, với những khoản vay của các DN có quan hệ làm ăn với nước ngoài (đặc biệt là các khách hàng nằm trong khu công nghiệp Như Quỳnh, có rất nhiều DN có quan hệ xuất - nhập khẩu), thường mất nhiều thời gian để thẩm định dự án.
Mặt khác, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa thực sự được quan tâm; phòng kiểm soát hiện nay đang thiếu cán bộ, khối lượng công việc nhiều; bên cạnh đó có một số cán bộ lại chỉ kiểm soát trên giấy tờ và qua mạng thông tin nội bộ nên không tránh khỏi sự thiếu khách quan và đôi khi còn gâyra sai sót.
2.2.4.3.2. Nguyên nhân khác
a. Nguyên nhân từ phía khách hàng là các DNVVN NQD
Trong quá trình cho vay đối với các DNVVN NQD, Chi nhánh NHCT Hưng Yên gặp không ít khó khăn từ phía các DNVVN NQD.
Khó khăn đầu tiên mà Ngân hàng gặp phải là do sự hạn chế về trình độ xây dựng dự án của các DN; đây cũng là hạn chế chung của các DNVVN NQD nói chunh trên địa bàn cả nước. Chính do trình độ xây dựng dự án của các DN nên các CBTD mất rất nhiều thời gian để hướng dẫn các DN lập lại dự án, do đó thời gian giải quyết cho vay kéo dài; mặc dùcó thể dự án của DN mang tính khả thi và hiệu quả dự tính cao. Ngoài ra, DN còn chưa thông thạo các thủ tục vay vốn mặc dù CBTD đã phải mất thời gian để giải thích cho DN hiểu rằng phải cung cấp những tài liệu gì trong hồ sơ vay vốn và quy trình lập hồ sơ vay vốn đã được Ngân hàng niêm yết rõ ràng.
Một nguyên nhân khác khiến cho Ngân hàng còn e ngại khi cho vay đối với các DNVVN NQD đó là do một số DN không muốn cung cấp các thông tin chính xác cho Ngân hàng, các báo cáo tài chính thường được xây dựng nhằm đối phó với cơ quan thuế, mang tính không chính thức nên đã gây không ít khó khăn cho công tác thẩm định của Ngân hàng. Các DN, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh vẫn luôn ngần ngại cung cấp thông tin tài chính, không thực hiên đúng chế độ thống kê kế toán, hệ thống báo cáo ghi chép và theo dõi hoạt động kinh doanh không có hoặc thiếu, các DN thường bán hàng không có hợp đồng kinh tế, không tuân thủ chế độ phát hành hoá đơn bán hàng, trong khi hoạt động kiểm toán hiện nay còn thiếu và yếu.
Chính những đặc điểm trên đã khiên cho Ngân hàng rất e ngại khi cho vay đối với DNVVN NQD.
b. Môi trường kinh tế - xã hội và pháp luật
Trong những năm gần đây, nhất là trong giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn phát triển vượt bậc của kinh tế Việt Nam, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi để ngành Ngân hàng có những bước phát riển đáng ghi nhận, trong đó có sự đóng góp to lớn cho tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm (trên 8%) với việc đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế những năm gần đây có những biến động rất lớn; điển hình là cuộc khủng hoảng năng lượng khi giá dầu liên tục tăng tới mức giá kỷ lục trong năm 2004 và 2005 do cuộc chiến mà Mỹ phát động ở Irăc, cuộc khủng hoảng chính trị ở một số nước có trữ lượng dầu lơn trên thế giới và là nguồn cung cấp dầu mỏ chính cho thế giới hay cuộc khủng hoảng trong quan hệ giữa Mỹ, Anh... với Triều Tiên, Iran xung quanh việc hai nước này đang làm giàu Uranium...Tất cả các biến động này không chỉ tác động tới các nước trực tiếp tham gia mà còn làm cho các nước khác trên thế giới cũng không tránh khỏi sự ảnh hưởng. Là một nước xuất khẩu dầu mỏ song Việt Nam chỉ xuất khẩu dầu thô và lại phải nhập khẩu các sản phẩm chiết xuất từ dầu mỏ nên giá xăng, gas...trong nước cũng đã tăng trong những năm qua với nhiều lần điều chỉnh lên, sự tăng giá của các loại nguyên liệu này ảnh hưởng tới các ngành kinh tế quan trọng trong nước tế như: giao thông vận tải, điện...Đặc biệt năm 2005 là năm mà Việt Nam phải chịu các biến động bất lợi không nhỏ của thời tiết như: hạn hán, lũ lụt, bão lớn...nên nước ta đã lâm vào tình trạng thiếu điện trầm trọng, điều này đã dẫn tới sự tăng giá của các ngành khác. Ngoài ra, nước ta cũng phải đấu tranh với dịch cúm ở gia cầm và dịch cúm ở người nên cũng gặp không ít khó khăn.
Chính những biến động lớn của tình hình kinh tế - xã hội trên thế giới trong những năm qua đã tác động không nhỏ tới sự ổn định kinh tế của Việt Nam; vì vậy, các DN cũng không dám mạo hiểm trong các dự án đầu tư trong tình hình nền kinh tế có nhiều biến động như vậy, cũng chính vì vậy mà ngành Ngân hàng nói chung và NHCT Hưng Yên nói riêng đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc mở rộng tín dụng đối với các DNVVN.
Mặt khác, với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các NHTM trong khi hệ thống pháp luật còn đang trong quá trình hoàn thiện, còn thiếu tính ổn định và còn nhiều điểm chồng chéo nên gây không ít khó khăn cho các DN khi giao dịch với các cơ quan hành chính và các NHTM khi giải quyết nhu cầu vay vốn (cụ thể như ở Thị xã Hưng Yên hiện nay, khi khách hàng muốn đăng ký GDBĐ thì phải chờ đến ngày thứ 5 hàng tuần nên đôi khi gây sự chậm trễ trong giải quyết nhu cầu vay vốn cho DN, do phòng đăng ký GDBĐ chỉ làm một ngày trong tuần nên khối lượng hồ sơ xin đăng ký trong cả tuần dồn lại dẫn tới việc giải quyết nhu cầu xin đăng ký GDBĐ rất phức tạp).
Đã 3 năm kể từ ngày Chính phủ ra Nghị định 90/NĐ-CP về việc trợ giúp phát triển DNVVN và Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ban hành về quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN song Hưng Yên vẫn chưa thnành lập được; điều này là do sự phối hợp giữa các cấp, các ngành các điạ phương còn chậm chạp, chưa hiệu quả.
Chương III- Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với DNVVN NQD tại chi nhánh NHCT Hưng Yên
3.1. Phương hướng phát triển hoạt động tín dụng của NHCT Hưng Yên trong thời gian tới
3.2. Một số giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với DNVVN NQD tại chi nhánh NHCT Hưng Yên
3.2.1. Tăng cường huy động vốn để mở rộng cho vay
Nhìn lại bảng cân đối vốn kinh doanh của NHCT năm 2005 có thể thấy sự tăng trưởng đáng kể của hoạt động huy động vốn song trên thực tế, nguồn vốn huy động vẫn hạn chế, Chi nhánh vẫn phải nhận nguồn vốn điều hoà từ trụ sở chính nên hạn chế khả năng mở rộng tín dụng, nhất là tín dụng trung và dài hạn; vì vậy, trong năm 2006 này, Ngân hàng cần tăng cường hoạt động huy động vốn bằng cách đa dạng hóa các hình thức huy động như: khuyến khích mở tài khoản cá nhân để hạn chế thói quen để tiền trong nhà, mở rộng à đa dạng hoá các hình thức gửi tiền (tiết kiệm hỗn hợp, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng...), làm tốt các nghiệp vụ thu hộ, kiểm đếm, phát triển hệ thống máy rút tiền tự động, thu hút nguồn tiền gửi của các DN trên địa bàn (đây là nguồn vốn có nhiều ưu điểm là rẻ, khối lượng lớn, có thể thu hút băng cách giảm phí thanh toán cho các DN có tiền gửi tại Chi nhánh hoặc giảm lãi suấtkhi DN vay vốn, thực hiện một số dịch vụ tư vấn miễn phí )...
Ngoài ra, cần triển khai mạnh mẽ hình thức gửi tiền một nơi, rút tiền nhiều nơi, để làm được việc này không chỉ yêu cầu Chi nhánh cần mở mạng lưới kinh doanh mà còn cần có sự tăng cường hợp tác với các NHTM trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó cần mở rộng hoạt động phát hành Giấy tờ có giá (GTCG), nhất là GTCG trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn trong thời gian tới.
3.2.2. Xây dựng chính sách phân loại khách hàng phù hợp
ở Việt Nam, các nhà lãnh đạo Ngân hàng tuy đã bắt đầu quan tâm tới chiến lược khách hàng nhưng tư tưởng này vẫn chưa được thể hiện rõ nét trong chién lược hoạt động kinh doanh.
Trong chiến lược kinh doanh, mỗi Ngân hàng cần theo đuổi một chiến lược khách hàng phù hợp với điều kiện các nguồn lực riêng của mình, đặt trong điều kiện chung của nền kinh tế và môi trường hoạt động của mình. Vì vậy, Ngân hàng cần xác điịnh thị trường cụ thể của mình (tức là tiến hành phân đoạn thị trường - PĐTT); đó là việc xác định: đâu là thị trường phục vụ, đối tượng khách hàng của Ngân hàng (họ là ai, họ cần gì, trong DN ai là người quyết định mua sản phẩm của Ngân hàng, làm thế nào để phục vụ họ tốt nhất). Ngân hàng nên chọn cho mình một đoạn thị trường rõ ràng (tính có thể đo lường và xác định được) và tính khả thi (có thể tiếp cận được và thu được lợi nhuận đáng kể).
Với các khách hàng là DN thì Ngân hàng nên tập trung vào các khách hàng là các DNVVN vì các DN này đã, đang và sẽ ngày phát triển và phát sinh những nhu cầu đa dạng, nếu Ngân hàng có thể thu hút được đối tượng này, không chỉ đáp ứng các nhu cầu vay vốn mà còn đáp ứng nhu cầu về các dịch vụ tư vấn tài chính cho các DN thì thu nhập sẽ ngày càng cao, không chỉ qua việc thu lãi từ các khoản cho vay mà còn tăng các khoản thu từ phí dịch vụ, qua đó chuyển đổi cơ cấu thu nhập theo hướng hiện đại.
Ngoài ra, trong các DNVVN NQD, đa số là các DN thuộc lĩnh vực dệt may, cơ khí - điện tử, chế biến lương thực - thực phẩm; vì vậy, Chi nhánh cần chú trọng hơn tới các DN này, cần xây dựng một chiến lược khách hàng phù hợp trong đó đặc biệt chú ý tới nhóm khách hàng chiến lược này vì trong thời gian tới, các lĩnh vực này sẽ ngày càng phát triển và các DN thuộc các lĩnh vực này sẽ rất cần vốn để thực hiện tái đầu tư, mở rộng sản xuất - kinh doanh.
3.2.3. Xây dựng chính sách lãi suất linh hoạt
Một mức lãi suất hợp lý cho phép DN tính toán được lợi nhuận thu về từ các dự án khả thi, nắm bắt các cơ hội kinh doanh, đồng thời DN sẽ có lợi nhuận sau khi đã trừ đi chi phí lãi vay, do đó sẽ kích thích DN đầu tư mở rộng sản xuất.
- Một mức lãi suất cho vay quá cao đến mức bất hợp lý sẽ làm cho DN không muốn vay Ngân hàng, nhiều dự án hiệu quả không được thực hiện, nhiều cơ hội kinh doanh bị bỏ lỡ và Ngân hàng thì bị ứ đọng vốn dẫn tới lợi nhuận giảm, thậm chí thua lỗ.
- Một mức lãi suất quá thấp thì DN sẽ vay vốn dễ dàng, thậm chí sử dụng không đúng mục đích, sử dụng lãng phí, không hiệu quả và rủi ro của DN sẽ là tiền đề dẫn tới rủi ro của Ngân hàng và ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển nói chung của nền kinh tế. Mặt khác, đôi khi sự mở rộng tín dụng do giảm lãi suất cho vay không đủ để bù đắp chi phí mà Ngân hàng bỏ ra.
Vì vậy, một mức lãi suất hợp lý đối với Ngân hàng cần phải đảm bảo duy trì sự hoạt động và phát triển của Ngân hàng, đồng thời bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh, không nên có một bảng lãi suất cho vay cố định cho tất cả các khách hàng bởi tuy điều này giúp giản tiện cho việc cho vay song không thu hút được những khách hàng làm ăn hiệu quả. Một khách hàng làm ăn hiệu quả sẽ mang lại cho Ngân hàng những khoản lợi nhuận lớn nên có thể được áp dụng mức lãi suất cho vay thấp hơn những khách hàng khác, còn những khách hàng làm ăn kém thì phải chịu mức lãi suất cao hơn để hạn chế và ngăn ngừa rủi ro.
Trong thời gian tới, Ngân hàng cần xây dựng một chính sách lãi suất linh hoạt. Có rất nhiều phương pháp xác định lãi suất của các khoản cho vay,như: xác định lãi suất cho vay theo phương pháp tổng hợp chi phí - thu nhập, phương pháp xác định lãi dựa trên lãi suất cơ bản...Tuỳ từng đối tượng khách hàng mà ngân hàng chọn các phương pháp tính lãi khác nhau, vừa giúp cho DN có thể tiếp cận với nguồn vốn của Ngân hàng, vừa đủ để Ngân hàng có lợi nhuận. Với các DNVVN, Ngân hàng nên áp dụng mức lãi suất cho vay cho từng đối tượng khách hàng (phương pháp định giá cá biệt), với các DN là khách hàng truyền thống, có quan hệ tín dụng tốt trong thời gian qua thì nên áp dụng mức lãi suất ưu đãi vì đối với các DN này, Ngân hàng giảm được chi phí thẩm định và giảm thiểu rủi ro do thường xuyên nắm các thông tin về DN qua các khoản cho vay trước đó; bên cạnh đó, Ngân hàng có thể có những tư vấn giúp khách hàng thực hiện tốt hơn dự án của mình, qua đó sẽ nhanh chóng thu hồi vốn để trả nợ Ngân hàng, đồng thời tạo mối quan hệ gắn bó giữa Ngân hàng và DN; để thực hiện được điều này đòi hỏi Ngân hàng phải thường xuyên nắm bắt, cập nhất thông tin về các DNVVN hoạt động trên địa bàn.
3.2.4. Đổi mới, cải tiến quy chế cho vay, xây dựng chính sách tín dụng hợp lý
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, không chỉ là sự cạnh tranh giữa các NHTM mà còn có sự cạnh tranh của các tố chức tài chính phi Ngân hàng và của thị trường phi tài chính thì sự khẳng định về uy tín, chất lượng phục vụ có tầm quan trọng rất lớn; vì vậy, đổi mới, cải tiến quy chế cho vay là một yêu cầu cần thiết trong thời gian tới, cần đơn giản hoá thủ tục cho vay sao cho vừa bảo đảm yêu cầu hạn chế rủi ro, vừa có thể giữ được khách hàng truyền thống đồng thời thu hút thêm những khách hàng mới.
Trong phạm vi hoạt động, chi nhánh có thể thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay, thẩm định dự án, lập quy trình kinh doanh “một cửa”: Một trong những yếu tố quyết định sự thu hút khách hàng đến giao dịch là sự hoàn thiện dần quy trình kinh doanh “một cửa”, đặc biệt đối với khách hàng là DNVVN NQD, nếu quy trình càng phức tạp, nhiều cửa thì càng khó thu hút khách hàng và càng khó cạnh tranh với các Ngân hàng khác trên địa bàn. Khách hàng là DN nói chung và DNVVN NQD nói riêng luôn mong muốn được giải quyết đề nghị vay vốn một cách nhanh chóng vì các dự án, phương án sản xuất - kinh doanh thường yêu cầu tính thời điểm rất cao, nếu không đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời thì sẽ bỏ lỡ cơ hội kinh doanh; vì vậy, từng bộ phận của chi nhánh cần xây dựng một quy trình giao dịch “một cửa”, nếu không đồng ý cho vay thì cần giải thích thoả đáng cho khách hàng lý do và để khách hàng dù không vay được vẫn thấy thoải mái; mặt khác, nếu thấy dự án, phương án sản xuất - kinh doanh mà khách hàng xây dựng chưa hợp lý nhưng dự án, phương án ấy có tính khả thi cao thì nên tư vấn, hướng dẫn khách hàng xây dựng lại cho hợp lý hơn.
Tại chi nhánh đã có một quy trình thống nhất được ban hành song cần nghiên cứu để xây dựng một quy trình có tính cụ thể, sát với thực tế khách hàng hơn nữa; trong đó cần chú trọng đến việc hướng dẫn cụ thể, chi tiết các chế độ, thể lệ tín dụng cho khách.
Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của Ngân hàng; với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng, chính sách này được xây dựng và hoàn thiện trong nhiều năm. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một Ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và cho toàn thể nhân viên Ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Chính sách tín dụng của NHCT Việt Nam bao gồm hệ thống các quan điểm, chủ trương, định hướng, quy định chỉ đạo hoạt động tín dụng và đầu tư, do Hội đồng quản trị NHCT Việt Nam ban hành phù hợp với chiến lược phát triển của NHCT Việt Nam và những quy định pháp lý hiện hành.
NHCT Việt Nam tiến hành các hoạt động tín dụng và đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở đáp ứng những nhu cầu hợp lý của khách hàng. Các chính sách tín dụng của NHCT Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu cân bằng giữa tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, đảm bảo tăng trưởng tín dụng và đầu tư an toàn, hiệu quả, đúng định hướng và chiến lược của NHCT Việt Nam.
Tuy nhiên, chính sách tín dụng của NHCT Việt Nam quy định:
- Hạn chế cấp tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản.
- NHCT Việt Nam không khuyến khích cấp tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản.
- Hằng năm, Hội đồng tín dụng cơ sở của từng chi nhánh đề xuất cấp mức tín dụng không có bảo đẩm bằng tài sản đối với một khách hàng và tỷ trọng cấp tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản trong tổng cơ cấu tín dụng trình Hội đồng tín dụng trụ sở chính phê duyệt; đề xuất được xây dựng trên nguyên tắc: mức tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản đối với một khách hàng và tổng số cấp tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản của chi nhánh chỉ được chiếm tỷ trọng nhỏ ở mức bảo đảm không có ảnh hướng lớn đến sự ổn định của chi nhánh khi có rủi ro đối với các khoản tín dụng không có tài sản bảo đảm.
Trong hạn mức tín dụng không có tài sản đảm bảo đã được NHCT Việt Nam phê duyệt hằng năm, NHCT Hưng Yên cũng cần có sự chủ động, xây dựng một chính sách mềm dẻo, linh hoạt để không bỏ lỡ những dự án, phương án sản xuất - kinh doanh có khả năng tạo nên lợi nhuận. Trong một số trường hợp, đối với các khách hàng truyền thống, có quan hệ tín dụng tốt từ trước thì Chi nhánh nên tạo điều kiện để DN vay vốn không có tài sản đảm bảo hoặc giảm tỷ lệ tài sản đảm bảo, hoặc cho phép DN dùng tài sản hình thành từ vốn vay làm tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, cần mở rộng tín dụng một cách thận trọng, đảm bảo phát triển bền vững và hiệu quả, đầu tư vào các trọng điểm trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế của địa phương để mở rộng đầu tư vốn đối với mọi thành phần kinh tế; sàng lọc, lựa chọn khách hàng, chỉ đầu tư đối với các khách hàng có đủ điều kiện tín dụng, có phương án, dự án có tính khả thi cao, hạn chế và giảm đầu tư không có tài sản đảm bảo, nhất là đối với DN chưa có uy tín trên thị trường, chưa có quan hệ tín dụng với Chi nhánh và với các TCTD khác.
Đồng thời, đối với các DN thường xuyên có quan hệ tín dụng với Chi nhánh, đặc biệt là các DN được cấp hạn mức tín dụng thì Ngân hàng cần thường xuyên phân tích về năng lực điều hành, tình hình hoạt động sản xuất - kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng, kịp thời nắm bắt các thông tin, đặc biệt là thông tin về những biến động của ngành hàng, giá cả thị trường để có chính sách tín dụng hợp lý.
3.2.5. Đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ ngân hàng
Trong nền kinh tế đang vận động không ngừng thì nhu cầu của khách hàng cũng đang thay đổi tương ứng với trình độ phát triển của nhân loại. Nhu cầu của con người luôn vận động theo trình tự từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Ngày nay, chất lượng cuộc sống đã và đang ngày càng biến đổi mạnh mẽ, nhu cầu và thị hiếu cũng đa dạng hơn rất nhiều; vì vậy, muốn tồn tại và phát triển được trên thị trường thì Ngân hàng phải tiến hành đa dạng hoá các loại hình sản phẩm, dịch vụ với chất lượng ngày một tốt hơn. Triết lý kinh doanh đòi hỏi Ngân hàng phải tìm hiểu về nhu cầu của khách hàng để thoả mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng với phương châm "bán những gì khách hàng cần chứ không phải bán những gì mình có".
Bên cạnh các sản phẩm truyền thống là cho vay, Ngân hàng có thể mở rộng sang các sản phẩm mang tính chất tư vấn cho khách hàng vì đặc điểm chung của các DNVVN NQD là khả năng tiếp cận và cập nhật thông tin kém, kỹ năng lập dự án, phương án đầu tư thấp, khả năng quản lý DN chưa cao; thông qua các dịch vụ tư vấn, Ngân hàng có thể thu được những khoản phí cao.
3.2.6. Tăng cường công tác Marketing
Ngày nay, cùng với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các NHTM, nhất là khi chúng ta đang tiến tới việc gia nhập WTO là sự giảm sút hiệu quả của hoạt động tín dụng đối với DNNN do các DNNN làm ăn hiệu quả ngày càng ít và cũng do một thực tế là không ít DNNN làm ăn thua lỗ, nợ quá hạn của khu vực kinh tế Nhà nước đang chiếm tỷ trọng lớn thì Ngân hàng cần chuyển đổi sang khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong đó DNVVN chiếm tỷ trọng lớn. Một tất yếu hiện nay là các Ngân hàng đang dần chuyển hướng quan tâm của mình tới đối tượng là các DNVVN NQD do các khoản cho vay đối với các DNVVN NQD có những đặc điểm rất thuận lợi:
- Đa số các món vay có quy mô vừa và nhỏ nên độ rủi ro không lớn
- Đây là nghiệp vụ kinh doanh bán lẻ, địa bàn hoạt động của các DN lớn, dàn trải, số lượng khách hàng đông nên phân tán rủi ro
Đẻ có thể thu hút khách hàng là các DNVVN NQD, để các DN tiếp cận dễ hơn đối với tín dụng Ngân hàng, Chi nhánh cần tăng cường công tác Marketing, như:
- Chủ động tìm kiếm khách hàng: để có thể tìm kiếm khách hàng trước hết Ngân hàng cần có thông tin về khách hàng (tức là Ngân hàng chủ động thẩm định khách hàng trước rồi tìm cách kéo khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ của mình; việc chủ động thẩm định khách hàng trước cũng mang lại lợi thế là kết quả thẩm định sẽ đáng tin cậy hơn). Tuy nhiên, với những DNVVN NQD, khi mà họ đã có dự án khả thi thì không chỉ có Ngân hàng mà nhiều Ngân hàng khác cũng muốn họ trở thành khách hàng của mình nên Chi nhánh cần có những ưu đãi cho khách hàng như: giảm bớt thủ tục, giảm bớt thời gian xét duyệt, cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc có phương thức cho vay, phương thức trả nợ phù hợp với điều kiện của khách hàng.
- Quảng cáo về các sản phẩm dịch vụ của chi nhánh: mỗi cán bộ, nhân viên của chi nhánh là một tuyên truyền viên tích cực cho Ngân hàng. Trong quan hệ giao dịch với khách hàng, ngoài việc giúp khách hàng làm các thủ tục cần thiết để vay vốn thì nhân viên cần qua đó giớ thiệu về các sản phẩm khác của Ngân hàng.
- Chính phong cách giao dịch là những điều tuy rất nhỏ song lại có hiệu quả đáng kể để Ngân hàng giới thiệu với khách hàng về mình; vì vậy cần xây dựng tác phong văn minh thương mại trong giao tiếp với khách hàng.
- Ngoài việc quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng thì hàng năm Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức hội nghị khách hàng, đặc biệt là các hội thảo giới thiệu vè các sản phẩm mới; thông qua hội nghị, Ngân hàng cần giải đáp những thắc mắc của khách hàng và cũng qua đó hiểu thêm về những vướng mắc của khách hàng để nghiên cứu hướng giải quyết.
3.2.7. Nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực
Khi hoạt động trên thị trường tức là Ngân hàng đã tự nguyện chấp nhận cạnh tranh quyết liệt từ các đối thủ; trong cuộc cạnh tranh đó, ai nhanh nhạy nắm bắt cơ hội và huy động các tiềm năng, có chiến lược đúng đắn sẽ thắng. Hoạt động Ngân hàng mang tính cạnh tranh rất cao do quá trình hội nhập, bất cứ sản phẩm nào mới tung ra thì gần như ngay sau đó đã mất quyền sở hữu riêng để trở thành sản phẩm chung, bất cứ ai cũng có quyền nghiên cứu, cải tiến để hưởng lợi, bất cứ sản phẩm mới nào ra đời nhằm tăng cường ưu thế cạnh tranh đều nhanh chóng bị bắt trước và ưu thế bị triệt tiêu. Vì vậy, nguồn lực để tạo ưu thế cạnh tranh hiện nay hính là xây dựng một đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên nghiệp, lành nghề chuyên khai thác thông tin và đổi mới kịp thời trước đối thủ cạnh tranh.
Để xây dựng một đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ CBTD có đầy đủ phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, có trình độ, năng lực chuyên môn, có kinh nghiệm và có hiểu biết về pháp luật thì Chi nhánh cần quan tâm hơn nữa tới công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ.
Chi nhánh đã phân công mỗi cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm theo dõi một số khách hàng, song do nhiều DN hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề mà khi Việt Nam gia nhập vào WTO thì các DN này sẽ chịu tác động rất lớn, một số CBTD chưa thể theo kịp được với những biến động phức tạp của các lĩnh vực này; (điển hình như các DN thuộc lĩnh vực dệt may, cơ khí - điện tử, khi mà Việt Nam sắp gia nhập WTO thì các DN này vẫn chưa có sự chuẩn bị tích cực, vì vậy khi Việt Nam gia nhập vào WTO sẽ là một thử thách rất lớn đối với các DN này), nếu như các CBTD không tích cực trau dồi các kiến thức pháp luật, đặc biệt là các kiến thức về luật pháp quốc tế thì sẽ không thể tư vấn cho các DN được. Vì vậy, trong thời gian tới, mỗi CBTD phải tự trang bị cho mình những kiến thức pháp luật cần thiết và Chi nhánh cần có sự hỗ trợ đắc lực cho các CBTD; đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo, cần nâng cao hiểu biết để đưa ra những quyết định đúng đắn; cần chú trọng hơn nữa tới công tác quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Đối với NHNN
NHNN Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực tiền tệ và Ngân hàng; một trong những chức năng của NHNN là đảm bảo sự an toàn của toàn hệ thống, vì vậy, NHNN cần nghiên cứu xây dựng các quy ché, quy định hợp lý, vừa chặt chẽ song cũng phải tạo sự thông thoáng cho các Ngân hàng có thể tự chịu trách nhiệm về hoạt động vủa mình.
NHNN cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, xây dựng hệ thống thanh tra, kiểm tra đủ mạnh về cả chất lượng và số lượng; đảm bảo thực hiện hiệu quả công tác kiểm soát độ an toàn của hệ thống.
Đồng thời, NHNN cần tăng cường hơn nữa hiệuquả hoạt động của Trung tâm thông tin Ngân hàng để giúp các Ngân hàng có được những thông tin hữu ích, phục vụ cho công tác thẩm định của Ngân hàng.
3.3.2. Đối với NHCT Việt Nam
Để khai thác hiệu quả hơn nữa tiềm năng của nhóm đối tượng khách hàng là các DNVVN NQD, ngoài nỗ lực của bản thân chi nhánh còn cần có sự giúp đỡ về chuyên môn, nghiệp vụ của Hội sở chính; Hội sở chính cần thường xuyên tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo chuyên sâu đối với công tác thẩm định, đánh giá thực trạng kinh doanh, giúp các chi nhánh có những quyết định đúng đắn trong quá trình thẩm định dự án và không để lỡ cơ hội đầu tư.
3.3.3. Đối với các cơ quan quản lý
a. Đối với cơ quan điều hành vĩ mô
Đại đa số DNVVN NQD có quy mô vốn khá khiêm tốn, tài sản bảo đảm khá nhỏ so với nhu cầu vốn và quy mô phát triển dự án; mặc dù Nhà nước đã cho phép các NH nhận thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay, song DN vẫn gặp nhiều khó khăn do thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm còn khá phiền phức, mất nhiều thời gian; mặt khác, thủ tục cấp quyền sở hữu và quyền sử dụng đất cũng rất phức tạp, trong khi cho vay tín chấp còn gặp nhiều trở ngại đối với DNVVN nói chung và DNVVN NQD nói riêng.
Quy định hiện nay về cho vay tín chấp là: bắt buộc phải có lãi trong 2 năm liên tục, trong khi các DNVVN mới được đầu tư mới hoặc mới mở rộng sản xuất, điều này gây khó khăn cho NH khi quyết định cho vay mặc dù phương án sản xuất kinh doanh khả thi và có khả năng thành công cao. Vì vậy, cần nới rộng và cụ thể các quy định cho vay tín chấp đối với DNVVN theo hướng cho phép các NH được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay tín chấp trên cơ sở xem xét, đánh giá thời gian quan hệ, uy tín trong giao dịch với NH. Nhiều nước, trong đó có Việt Nam đã công nhận thương hiệu là tài sản vô hình và có giá trị bằng tiền; vì vậy, Pháp luật cần quy định rõ ràng, cụ thể về giá trị thương hiệu nhằm hỗ trợ cho NH an tâm đầu tư vào DNVVN.
Cần thúc đẩy sự hình thành và hoạt động của các quý bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN nhằm bổ sung cho mức độ tín chấp của NH.
Cần thúc đẩy sự lành mạnh hoá quan hệ tín dụng, nâng cao trình độ quản trị: các báo cáo quyết toán của các DNVVN thường không đủ độ tin cậy, gây khó khăn cho NH khi thẩm định. Bên cạnh đó, trình độ và năng lực quản lý của DN còn tương đối yếu kém, chưa tương xứng với quy mô hoạt động kinh doanh; để khai thông các kênh đầu tư cho DNVVN, đặc biệt là kênh tín dụng Ngân hàng, Nhà nước cần hoàn thiện các hành lang pháp lý và đưa ra các chính sách nhất quán và cụ thể hoá nhằm khuyến khích các DN này tự giác chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật; cụ thể là cơ quan Tài chính, Thuế nên hướng dẫn và kiểm tra việc chấp hành hoạt động kinh doanh thông qua hoạt động nộp thuế trên tinh thần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các DN.
Với mức rủi ro tín dụng cao khi đầu tư cho các DNVVN NQD, Nhà nước cần có chính sách cụ thể, rõ ràng nhằm bảo vệ quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của NH, hạn chế hình sự hoá các vụ tranh chấp dân sự giữa Ngân hàng và khách hàng khi có rủi ro xảy ra. Gần đây các phương tiện thông tin đại chúng đã nhắc lại tình trạng hình sự hoá các quy định trong lĩnh vực tín dụng đã tước đi tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của Ngân hàng, để các Ngân hàng thừa vốn mà không thể cho vay. Thực tế, có nhiều phương án kinh doanh, dự án đầu tư chắc chắn, an toàn, có khả năng thu được hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt song do sự chói buộc ngặt nghèo của cơ chế, thể lệ mà các Ngân hàng buộc phải từ chối.
Đây chính là sự mâu thuẫn giữa Ngân hàng và DN mà để giải quyết mâu thuẫn này không chỉ cần tới thiện chí của Ngân hàng và khách hàng mà còn cần tới sự giúp đỡ của các cơ quan hữu quan trong việc tạo sự thông thoáng trong quá trình giải quyết các thủ tục về bảo đảm tiền vay và việc đảm bảo thực hiện đúng quy chế về bảo đảm tiền vay.
b. Đối với cơ quan quản lý của tỉnh
Các cơ quan quản lý của tỉnh cần có sự phối hợp nhịp nhàng để giúp DNVVN NQD tháo gỡ những vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi để các DNVVN NQN phát triển.
Đối với Phòng đăng ký GDBĐ nên nghiên cứu để giải quyết linh hoạt nhu cầu đăng ký GDBĐ cho các DN, nên tăng số ngày giải quyết để DN không phải mất thời gian chờ đợi.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32715.doc