Giải pháp nhằm mở rộng cho vay các Tổng Công ty tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương Việt Nam

Mục lục mở đầu Mở rộng cho vay, tăng dư nợ lành mạnh và nâng cao thu nhập ngân hàng luôn là một trong những mục tiêu dài hạn của một ngân hàng thương mại (NHTM). Để thực hiện điều đó, các ngân hàng đã sử dụng nhiều biện pháp, nhằm vào nhiều nhóm khách hàng. Sự ra đời và phát triển của các Tổng Công ty Nhà nước theo các Quyết định 90/ TTg và 91/TTg ở nước ta cũng đã được các NHTM tập trung khai thac nhằm vào mục tiêu trên. Là những doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) quy mô lớn, hoạt động theo mô hìn

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1496 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm mở rộng cho vay các Tổng Công ty tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h mới, các Tổng Công ty có những lợi thế căn bản với tư cách là khách hàng của một ngân hàng. Mở rộng cho vay các Tổng Công ty không chỉ có ý nghĩa với việc kinh doanh của ngân hàng, nó còn giúp các Tổng Công ty mau chóng ổn định, phát triển sản xuất - kinh doanh, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế chung. Tuy vậy, điều này hoàn toàn không đơn giản, bởi ngân hàng phải kết hợp giữa mở rộng với nâng cao hiệu quả cho vay, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Hơn nữa các Tổng Công ty được thành lập hướng tới mô hình tập đoàn kinh tế ở nước ta trong những điều kiện riêng và có những đặc điểm riêng mà để mở rộng cho vay cần phải có những giải pháp phù hợp. Qua thời gian thực tập tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam, thực hiện kết hợp lý thuyết với thực tiễn, em chọn đề tài “Giải pháp nhằm mở rộng cho vay các Tổng Công Ty tại Sở giao dịch I - ngân hàng công thương Việt Nam ”. Chuyên đề đi từ những nội dung mang tính lý luận trong hoạt động cho vay đối với các Tổng Công ty của một NHTM, tới các vấn đề thực tiễn trong hoạt động ấy của Sở giao dịch I để rồi đưa ra những giả pháp, kiến nghị cụ thể nhằm mở rộng cho vay với đối tượng trên. Nó là một sự đóng góp vào việc nghiên một vấn đề được đề cập nhiều trên báo chí nhưng vẫn còn ít ỏi dưới quy mô một đề tài nghiên cứu. Để thực hiện đề tài, người viết đã vận dụng các phương pháp lôgic - lịch sử, so sánh - thống kê, chuẩn tắc và thực chứng trong phân tích và đưa ra các kết luận. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm ba chương: - Chương I: Hoạt động cho vay của một NHTM đối với các Tổng Công Ty - Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay các Tổng Công Ty tại Sở giao dịch I - Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay các Tổng Công Ty tại Sở giao dịch I Em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Đăng Khâm cùng các thầy, cô giảng viên khoa Ngân hàng - Tài chính, Đại học KTQD, cô Vũ Ngọc Liên, cán bộ tín dụng và các cô chú anh chị cán bộ tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam dã tận tình giúp dỡ em hoàn thành đề tài. Chương I Hoạt động cho vay của các NHTM với các Tổng Công Ty Chương này trình bày những nội dung cơ bản về hoạt động cho vay (hoạt động cho vay) cuả các NHTM , về mô hình Tổng Công Ty (TCT) và đặc điểm của hoạt động cho vay các TCT cuả các NHTM. Mục tiêu của chương nhằm tạo cơ sở của việc đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng cho vay những khách hàng vay tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt Nam. I - Hoạt động cho vay của các NHTM 1. Khái niệm, vai trò hoạt động cho vay của các NHTM 1. 1. Khái niệm Theo nghĩa thông thường, cho vay là việc chuyển giao một số tiền hay tài sản nhất định cho người khác sử dụng với điều kiện có hoàn trả lại. Khái niệm phổ biến này được dùng rộng rãi trong đời sống thường ngày, từ những món tiền hay tài sản có giá trị lớn cho tới những món tiền lớn hay đồ vật có giá trị nhỏ. Với khái niệm này, hoạt động cho vay hay quan hệ vay mượn nói chung có 2 đặc điểm chính là: - Thứ nhất trong quan hệ ấy, chỉ có sự chuyển giao quyền sử dụng (tiền, tài sản) mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu các tài sản hay số tiền đó. - Thứ hai, người cho vay được hoàn trả lại sau một thời gian nhất định theo sự thoả thuận giữa hai bên người cho vay và người đi vay. Người cho vay có nhận được một khoản lãi nào không cũng phụ thuộc vào sự thoả thuận này, và trong đời sống thường ngày không phải bao giờ người cho vay cũng lấy lãi. Còn đối với các NHTM hay là các tổ chức tín dụng (TCTD) nói chung thì cho vay là một nội dung nghiệp vụ, đó là việc NHTM giao cho khách hàng một khoản tiền nhất định trong một thời gian nhất định với điều kiện là họ phải hoàn trả lại cùng với một khoản tiền vượt trội đóng vai trò là tiền lãi. Như vậy, ngoài hai đặc điểm vừa nêu đối với cho vay nói chung, hoạt động cho vay của các NHTM còn có đặc trưng thứ ba là người cho vay (các NHTM) luôn đòi hỏi một khoản tiền lãi ngoài khoản tiền gốc mà họ đã cho vay. Với một khoản vay mượn thông thường, người cho vay có thể không đòi hỏi một khoản lãi nào, điều này có thể xuất phát từ những mối quan hệ cá nhân, hoặc người cho vay không phải là người kinh doanh tiền,...; song đối với các NHTM, bao giờ họ cũng phải thu lãi, ít nhất là phải đủ để trả lãi cho người gửi tiền vào ngân hàng, bởi vì họ cũng là những người kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. ở Việt Nam, theo Quy chế cho vay ban hành kèm Quyết định 324/2001/ QĐ - NHNN1, thì cho vay là một hình thức cung cấp tín dụng, theo đó TCTD giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Như vậy, ta cũng cần phân biệt giữa cho vay và cấp tín dụng: một ngân hàng có thể cấp cho khách hàng các khoản tín dụng bằng các nghiệp vụ cho vay, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng, tín dụng chứng từ,... Cho vay chỉ là một hình thức cấp tín dụng, song nó lại là một hình thức chủ yếu và quan trọng nhất của các NHTM. Chúng ta sẽ thấy rõ điều đó qua phân tích vai trò của hoạt động cho vay. 1.2. Vai trò Đối với bản thân các NHTM- những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ- cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất. Trước hết, đó là hoạt động đóng góp lớn nhất vào thu nhập, và khoản mục cho vay luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản của một NHTM. ở Mỹ, các khoản cho vay thường chiếm khoảng 60% tổng tài sản của các NHTM và đem về từ 65 - 70% thu nhập. Cũng lưu ý là ở Mỹ cũng như các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì các NHTM thường thực hiện rất nhiều nghiệp vụ, và tỷ trọng thu về dịch vụ thường lớn hơn rất nhiều so với ở các nước kém phát triển khác. Còn ở các nước kém phát triển hơn như Việt Nam ta, hoạt động cho vay còn đóng góp nhiều hơn trong tổng thu nhập của các NHTM, chẳng hạn với Ngân hàng Công thương Việt Nam là hơn 90%, Ngân hàng ngoại thương là khoảng 80%. Mặt khác, nếu nhìn từ góc độ lịch sử, cho vay là một trong những hoạt động khởi thuỷ của các NHTM. Cùng với các nghiệp vụ bảo quản vàng bạc và các đồ vật quý giá, những người thợ vàng, nguồn gốc đầu tiên của các NHTM cũng tiến hành cho vay bằng vàng bạc để kiếm lời bởi họ phát hiện ra rằng ở một thời điểm bất kỳ các biên lai trình để rút vàng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số tiền vàng họ nắm giữ. Nguyên lý này giờ được mang tên của chính những người phát hiện ra nó, nguyên lý “thợ kim hoàn”, và nó còn được các chủ ngân hàng áp dụng. Cho tới ngày nay, dù xã hội đã phát triển với những bước tiến nhảy vọt thì cho vay vẫn cứ là một trong ba hoạt động cơ bản chứng tỏ sự tồn tại của một NHTM, đó là nhận tiền gửi, cho vay và làm dịch vụ thanh toán. Nếu như cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM, thì đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân nó cũng giữ một vị trí thiết yếu không kém. Cùng với hoạt động nhận tiền gửi, các ngân hàng đã “tạo tiền” qua cho vay nền kinh tế. Các lý thuyết đã chỉ ra phần lớn các khoản vay ngân hàng đều tạo ra các khoản tiền gửi ngân hàng khác, và như vậy bằng cách cấp một kho tăng khối tiền tệ ản vay, một khoản tiền gửi mới sẽ được tạo ra ở một ngân hàng nào đó và khối tiền tệ sẽ tăng lên. Quá trình sẽ diễn ra theo chiều ngược lại khi ngân hàng thu nợ. Tất nhiên, khả năng tạo tiền của các nước là không giống nhau do tỷ lệ dự trữ ở các NHTM từ lượng tiền huy động được (gồm cả dự trữ bắt buộc và dự trữ tự nguyện) và tỷ lệ giữa tiền trong dân là khác nhau, song trong một trừng mực nào đó thì khả năng ấy cũng phụ thuộc vào khả năng tăng dư nợ cho vay của họ. Mặt khác, hoạt động cho vay còn làm giảm hệ số giữ tiền mặt trong nền kinh tế, bởi các chủ thể có thể dễ dàng vay ngân hàng cho các nhu cầu chi tiêu, qua đó làm. Các tác động trên của hoạt động cho vay tới mức cung tiền được cho bởi công thức: MS = m. H m = Trong đó: MS là mức cung tiền (M1) H là tiền cơ sở m là số nhân tiền tệ s là tỷ lệ giữa tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi r là tỷ lệ dự trữ thực tiễn hoạt động cho vay của các NHTM do đó góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Lãi suất các món vay thường bám rất sát vào mức lãi suất chiết khấu của ngân hàng Trung ương có tác dụng chi phối lãi suất thị trường tác động tới các chỉ tiêu lạm phát, rồi tới các biến số vĩ mô khác của nền kinh tế. hoạt động cho vay của các NHTM cũng tạo điều kiện thực hiện thành công các chương trình kinh tế lớn của Nhà nước. Như chúng ta đều biết trong nền kinh tế thị trường hiện đại này, bên cạnh yếu tố tự do cuả thị trường, cuả “ bàn tay vô hình” chínhphủ cũng đóng một vai trò tích cực trong các quá trình kinh tế. Một trong những thể hiện của nó là sự khuyến khích đầu tư từ phía chính phủ vào một số lĩnh vực hoặc thành phần được cho là cần thiết, và một trong số các ưu đãi thường được áp dụng là ưu đãi về tín dụng. Ngoài việc trực tiếp cho vay dưới hình thức tín dụng Nhà nước, Chính phủ còn khuyến khích các NHTM đầu tư vào những lĩnh vực , những thành phần kinh tế mong muốn, chẳng hạn việc Ngân hàng Trung ương Đức nhận chiết khấu các loại chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo động lực để các ngân hàng cho vay vốn khách hàng này mạnh hơn nhiều, thực hiện được mục tiêu Nhà nước đặt ra. Đối với nước ta thì điều này càng có ý nghĩa bởi nó còn đáp ứng được yêu cầu của một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với cơ sở kinh tế là vai trò chủ đạo của các DNNN. Các NHTM có khả năng huy động để đầu tư tập trung, trọng điểm, tăng quy mô của các doanh nghiệp, cải thiện kỹ thuật, công nghệ sản xuất đóng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội thông qua việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp, vốn vay ngân hàng là một nguồn quan trọng, góp phần hình thành một cơ cấu vốn tối ưu, qua đó nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ta hiểu ngắn gọn cơ cấu vốn tối đa của một công ty là cơ cấu vốn làm tối đa hoá giá trị thị trường ( hay giá cả cổ phiếu) của công ty đó, và với cơ cấu vốn tối ưu này thì chi phí vốn bình quân được cho bởi công thức sau đây là thấp nhất: WACC = Wd. Kd (1- t) + Wp + WsKs Trong đó - WACC là chi phí vốn bình quân - Wd, Wp, Ws lần lượt là tỷ trọng của nợ vay, vốn huy động từ cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường (hay lợi nhuận giữ lại). Vốn vay có tác dụng khuyếch đại lợi nhuận qua đòn cân nợ: DFL = . Đòn cân nợ DFL chính là thay đổi của thu nhập của mỗi cổ phiếu thường thay đổi 1% của lợi nhuận hoạt động ( EBIT); là lãi suất tiền vay (R) là một loại chi phí hợp lý được trừ ra khỏi lợi nhuận hoạt động khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Do vậy, theo công thức tính chi phí vốn bình quân, doanh nghiệp chỉ phải thực chịu mức lãi suất (1 - t), trong đó Kd là lãi suất tiền vay và t là thuế suất thuế thu nhập. Tuy vậy, không phải doanh nghiệp sẽ dùng toàn bộ vốn vay để tài trợ cho hoạt động của mình, bởi thường thì đến một giới hạn nào đó, các ngân hàng sẽ đòi hỏi lãi suất cao hơn để bù đắp mức rủi ro tăng lên mà họ phải gánh chịu; Hơn nữa càng sử dụng nhiều nợ vay thì quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp càng bị ảnh hưởng. Như vậy, các doanh nghiệp sẽ cân nhắc một tỷ lệ vốn vay hợp lý để có một cơ cấu vốn tối ưu, và các NHTM đã giúp các doanh nghiệp tìm ra một cơ cấu vốn có chi phí rẻ nhất. Trong điều kiện một nền kinh tế mà hệ thống thị trường còn chưa hoàn chỉnh như ở Việt Nam ta, việc huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu. trái phiếu rất khó khăn, và hơn nữa phần lớn các doanh nghiệp nước ta hiện nay không phải là công ty cổ phần, thì nguồn vốn vay NHTM lại càng chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng nguồn huy động của doanh nghiệp. Nhưng để được một ngân hàng cho vay, các doanh nghiệp lại phải có những điều kiện nhất định. Một điều kiện thường thấy là các doanh nghiệp phải giải trình tình hình tài chính được thể hiện qua sổ sách kế toán, các báo cáo tài chính, định kỳ chuyển cho ngân hàng các tài liệu thể hiện hoạt động kinh doanh và sử dụng vốn vay. Chính bởi vậy nó tạo ra sức ép đối với các doanh nghiệp trong việc thực hiện hạch toan kinh doanh, góp phần quản lý giám sát nền kinh tế, lành mạnh hoá môi trường kinh doanh. Sự sẵn có của các khoản cho vay khiến các doanh nghiệp an tâm hơn về vốn lưu động, có khả năng đầu tư nhiều hơn vào hàng dự trữ nếu thấy có lợi mà vốn lưu động tự có của họ không đáp ứng nổi. Các khoản cho vay lãi dài hạn của ngân hàng lại tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vào tài sản cố định đầu tư vào sản xuất, cải tiến công nghệ nâng cao năng lực sản xuất. Và dù là cho vay theo hình thức nào thì lãi suất vốn vay cùng sự kiểm tra giám sát ngân hàng thúc đâỷ các doanh nghiệp quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả để có lãi hoàn trả được nợ ngân hàng, tạo uy tín để tiếp tục vay vốn ngân hàng. Nói tóm lại, cho vay là một hoạt động chủ yếu của các NHTM , qua đó các NHTM góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, cung cấp một trong những nguồn vốn chính cho các doanh nghiệp , từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế, thực hiện các chương trình kinh tế của Nhà nước. 2. Phân loại các khoản cho vay: Tuỳ theo các tiêu thức phân loại chúng ta có các loại cho vay khác nhau: 2.1. Theo thời hạn cho vay Theo tiêu thức này, người ta chia các khoản cho vay thành cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Mặc dù hầu hết các nước đều thống nhất về điều này, nhưng thời gian cụ thể được quy định cho từng loại lại không hoàn toàn đồng nhất. ở các nước phương Tây người ta cho vay ngắn hạn có thời hạn nhỏ hơn 1 năm; các khoản cho vay trung hạn có thời hạn từ trên 1 năm tới 7 năm; các món cho vay dài hạn có kỳ hạn dài hơn. Tuy vậy cũng có nhiều khoản cho vay có thời hạn tới 10 năm (như cho vay tiêu dùng) vẫn được coi là cho vay trung hạn. Còn ở Việt Nam hiện nay, theo quy chế cho vay thì cho vay ngắn hạn cũng có thời hạn đến 1 năm; cho vay trung hạn có thể tới 5 năm; cho vay dài hạn có thời gian từ 5 năm trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân, không quá 15 năm với cho vay các dự án phục vụ đời sống. Vậy cũng là một quy định mới vì trước đây (trước khi có quyết định 200/QDNN1 ngày 28/6/2000 ) chúng ta coi cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 - 3 năm, và cho vay dài hạn tới 3- 5 năm. Tất nhiên đây chỉ là sự khác nhau do quy ước, nhưng nó có tác động lớn tới hoạt động cho vay, bởi vì điều đó đi kèm với sự quản lý của NHNN. Phân loại các món vay theo thời hạn là phổ biến của mọi NHTM. Họ sẽ căn cứ vào đối tượng cho vay mà quyết định loại cho vay cho phù hợp (thuộc loại ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn, và thời hạn cụ thể), từ đó mà áp dụng các phương thức kiểm tra, kiểm soát món vay phù hợp. Với cách phân loại này, các ngân hàng sẽ xây dựng một cơ cấu hợp lý các khoản cho vay ngắn, trung và dài hạn, từ đó tạo ra cơ cấu kỳ hạn tối ưu của tài sản, phù hợp với kỳ hạn của nguồn vốn huy động, kết hợp tốt nhất giữa khả năng sinh lời và khả năng thanh khoản. Ngược lại, cũng căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng về các món vay ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn mà ngân hàng lập kế hoạch huy động sao cho thoả mãn những nhu cầu đó. 2.2. Theo lĩnh vực đầu tư Theo cách phân loại này ta có thể chia các khoản cho vay thành: - Cho vay thương mại và công nghiệp - Cho vay bất động sản - Cho vay nông nghiệp - Cho vay cá nhân - Cho vay khác Tuỳ theo điều kiện và yêu cầu quản lý ta có thể chia nhỏ hơn nữa các lĩnh vực trên để được các loại cho vay với lĩnh vực hẹp hơn. Phân loại các món vay theo lĩnh vực rất có ý nghĩa trong việc kết hợp giữa đa dạng hoá để giảm rủi ro với chuyên môn hoá ở mức độ phù hợp. Các NHTM thường dựa vào các lợi thế của mình (lợi thế về vị trí, về trang thiết bị công nghệ, về quy mô. về đội ngũ cán bộ,...) để chuyên môn hoá vào một hay một số lĩnh vực nhằm khai thác triệt để các lợi thế ấy, dự báo tốt về động thái các ngành mình cho vay, khả năng hoàn trả đúng hạn các khoản vay của khách hàng... Tuy vậy xu hướng của thế giới hiện nay vẫn là hướng tới các ngân hàng đa năng, trong đó sự chuyên môn hoá diễn ra ở cấp độ các phòng ban hay bộ phận của ngân hàng. Bằng cách chia các khách hàng vay ra các lĩnh vực khác nhau, ngân hàng có thể theo dõi động thái của nền kinh tế và từng lĩnh vực để mở rộng cho vay vào lĩnh vực này hay rút bớt vốn khỏi lĩnh vực kia. Chẳng hạn khi thị trường bất động sản suy giảm ở các nước Đông Nam á và Việt Nam thì các ngân hàng phải có hướng thu hẹp đầu tư vào đối tượng này để chuyển sang cho vay các đối tượng khác có hiệu quả hơn. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Chính phủ cũng thường có những ưu đãi với những lĩnh vực nhất định. Đây cũng là những mối quan tâm thường xuyên của các NHTM. 2.3. Theo mức độ đảm bảo. Các ngân hàng có thể cho vay có hay không có đảm bảo tuỳ theo tín nhiệm cũng như độ rủi ro của phương án xin vay vốn. Từ đảm bảo của khách hàng ở đây chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba. Các đảm bảo này có mục đích giảm bớt rủi ro mất mát trong trường hợp người vay không trả được nợ hay không muốn trả nợ khi đáo hạn. Các tài sản được đem ra thế chấp thường là các bất động sản trong khi ấy các tài sản được cầm cố lại là những động sản nhỏ chứng khoán và các giấy tờ có giá khác, vật tư, ... Yêu cầu cơ bản đối với các tài sản đem ra cầm cố, thế chấp là chúng phải có tính thị trường, tức là có khả năng thanh lý được. Thường thì các ngân hàng cho vay dưới mức giá trị thanh lý của các tài sản đảm bảo bởi khi mà giá trị các tài sản ấy còn lớn hơn gía trị của món vay thì khách hàng còn có động lực trả nợ. ở Việt Nam các ngân hàng có thể cho vay tới 70 - 75% giá trị tài sản thế chấp hoặc tới 90% giá trị các số tiết kiệm cầm cố. Tuy vậy cũng cần khẳng định mục đích của các đảm bảo trên là tạo động lực buộc khách hàng trả nợ chứ chẳng ngân hàng nào muốn thanh lý những tài sản đảm bảo ấy đẻ bù đắp cho ngững món cho vay không thể thu hồi. Trường hợp khách hàng có tín nhiệm, có tình hình tài chính vững mạnh và lợi nhuận có được từ dự án sẽ cho vay là khả quan thì ngân hàng có thể cho vay không cần đảm bảo, điều mà các sở Việt Nam ta gọi là cho vay tín chấp. Điều đó giải thích tại sao nhiều ngân hàng cấp những khoản cho vay lớn nhất lại không cần đảm bảo. Đó là các khoản cho vay những khách hàng chủ yếu, những công ty có quan hệ thường xuyên với ngân hàng, có tình hình tài chính vững mạnh với lợi nhuận tương đối ổn định bởi hệ thống quản lý có hiệu quả và các sản phẩm dịch vụ được thị trường sẵn sàng chấp nhận. Trường hợp này ít nhiều tương tự việc cho vay các tổng công ty ở nước ta hiện nay. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở các phần sau. Như vậy, để quyết định món vay là có đảm bảo hay không có đảm bảo các ngân hàng phải dựa vào những yếu tố nhất định như đã phân tích. 2.4. Theo phương pháp hoàn trả Các khoản cho vay còn có thể được hoàn trả một lần hay trả góp. Cho vay hoàn trả một lần thì khoản tiền vay được hoàn trả toàn bộ một lần vào thời gian đáo hạn theo hợp đồng tín dụng, lãi suất có thể được trả theo những thời hạn nhất định (chẳng hạn theo tháng, theo quý hay năm). Trong khi ấy, cho vay trả góp đòi hỏi việc hoàn trả theo định kỳ theo nguyên tắc trả dần trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng. các khoản trả nợ có thể bằng nhau (trả theo niên kim cố định) hoặc không bằng nhau tuỳ theo thoả thuận. Thông thường các ngân hàng áp dụng phương thức trả góp với các khoản cho vay trung dài hạn (TDH) để đâùu tư vào các dự án mở rộng sản xuất kinh doanh hay đầu tư mới, hay đầu tư vào bất động sản còn các khoản cho vay hoàn trả một lần lại thường được áp dụng với cho ngắn hạn hơn. theo quy chế cho vay hiện nay, các khoản cho vay ngắn hạn được cấp hai hình thức là cho vay theo món và theo hạn mức tíh dụng. 2.5. Theo thành phần kinh tế Ta cũng có thể phân các khoản cho vay ra thành cho vay DNNN và cho vay ngoài quốc doanh. Đây là cách phân loại không được nhấn mạnh trong các nền kinh tế TBCN nhưng đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta nó lại rất có ý nghĩa thực tiễn. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; nhà nước có chính sách khác nhau với từng khu vực kinh tế chẳng hạn việc quy định các DNNN không cần phải có tài sản thế chấp khi vay vốn tại các NHTMQD, các ưu tiên và hạn chế khác liên quan tới mở rộng hay thu hẹp tín dụng ngân hàng tới các thành phần kinh tế nói chung. Mặt khác mỗi thành phần kinh tế lại có những đặc điểm riêng biệt, và pohải nói một cách công bằng là ngân hàng sẽ có thái độ ứng xử khác nhau trong hoạt động cho vay các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Đây cũng là điều hợp lý. Lưu ý là trong cách phân loại này ta cũng có thể phân chia chi tiết hơn nữa, chẳng hạn đối với cho vay ngoài quốc doanh, cho vay cá nhân; cho vay công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần; cho vay doanh nghiệp tư nhân; cho vay vốn đầu tư nước ngoài. Đối với cho vay DNNN, bao gồm cho vay các DNNN độc lập và cho vay các Tổng công ty và thành viên của chúng. Đề tài này sẽ tập trung vào vấn đề mở rộng cho vay các Tổng công ty, một loại hình DNNN quy mô lớn. Trên đây là một số cách phân loại các khoản cho vay, và chúng còn có thể có nhiều cách phân loại khác nữa theo từng yêu cầu quản lý. Mỗi cách phân loại dựa trên một tiêu thức nhất định do vậy có những ý nghĩa riêng. Các NHTM trên thực tế sẽ thường áp dụng nhiều cách phân loại đồng thời nhằm đạt hiệu quả nhất trong hoạt động cho vay cũng như hoạt động của toàn ngân hàng. Tiếp sau đây ta đi xem xét nội dung chủ yếu trong hoạt động cho vay của các NHTM. 3. Nội dung chủ yếu trong hoạt động cho vay của các NHTM Đối với một NHTM, muốn cho vay nền kinh tế thì trước hết nó phải có một chính sách cho vay nằm trong hệ thống chính sách kinh doanh của nó. Điều này là hết sức cần thiết bởi mặc dù các NHTM hoạt động trong một hành lang hẹp của các quy định quản lý của NHTW và chính phủ, nhưng các luật lệ và quy định ấy vẫn không đảm bảo chắc chắn rằng hoạt động cho vay của ngân hàng là an toàn lành mạnh và có lợi cho ngân hàng. Các quy định ấy cũng không thể chỉ ra các vấn đề cụ thể khi tiến hành cho vay như số tiền, kỳ hạn, phương thức cho vay. . . . mà điều đó được quyết định thế nào phải do chính ngân hàng dựa theo các giới hạn trên. Do vậy cần phải có một chính sách cho vay rõ ràng để xác định phương hướng sử dụng vốn được hình thành từ những cổ đông và người gửi tiền. Chính sách cho vay của ngân hàng sẽ đóng vai trò hướng dẫn đối với cán bộ tín dụng (CBTD), đơn giản hoá và thúc đẩy nhanh quá trình ra quyết định, đồng thời hình thành một mức độ đồng nhất trong hoạt động cho vay. Để làm được điều ấy, chính sách cho vay của ngân hàng sẽ bao gồm các nội dung từ chiến lược của ngân hàng trong hoạt động cho vay (mục tiêu, nguyên tắc ưu tiên,....); chế độ, thể lệ tín dụng; phương pháp thẩm định tín dụng, hồ sơ vay nợ; tổ chức kiểm tra, quản lý việc thực hiện các hợp đồng tín dụng. Thực tiễn đã chỉ ra rủi ro ngân hàng sẽ tăng lên nếu nó không có chính sách cho vay, hoặc nếu có nhưng không triển khai đến toàn bộ những người thực hiện, hoặc nếu chính sách cho vay ấy không đồng bộ. Việc thực hiện cho vay sẽ là việc áp dụng chính sách cho vay vào hoạt động thực tiễn. Dưới đây là các bước mà ngân hàng thường trải qua khi cho vay một khách hàng. (ở đây do yêu cầu của vấn đề nghiên cứu, người viết sẽ nhấn mạnh vào các khách hàng là tổ chức kinh tế (TCKT) ) 3.1 Tìm kiếm và thẩm định Các ngân hàng có thể có được yêu cầu vay vốn do khách hàng đưa tới hoặc chủ động tìm đến với các khách hàng có nhu cầu để đề nghị phục vụ. Khi đã có yêu cầu xin vay vốn, điều đầu tiên CBTD phải làm là hướng dẫn khách hàng về thủ tục và điu kiện được xin vay vốn. Nếu khách hàng đã nhất trí với các điều kiện và thủ tục ấy thì CBTD hướng dẫn họ lập hồ sơ vay vốn để ngân hàng chính thức nghiên cứu, thẩm định. Mục đích của thẩm định tín dụng là xác định khả năng và ý muốn của người vay trong việc hoàn trả tiền vay phù hợp với các điều khoản của hợp đồng tín dụng, (hay là ước lượng rủi ro không hoàn trả), từ đó đưa ra quyết định cho vay hay từ chối, và nếu cho ay thì cho vay bao nhiêu ? Với kỳ hạn và lãi suất nào? Phương thức cho vay. . . . Khi tiến hàngân hàng thẩm định, ngân hàng phải trả lời cho hai loại câu hỏi lớn là phải thẩm định cái gì, thẩm định các yếu tố nào và các nguồn thông tin lấy từ đâu. Chúng ta sẽ đi vào xem xét cách trả lời với mỗi loại câu hỏi trên. Trả lời câu hỏi thẩm định cái gì ? Các ngân hàng lại thường chia ra thành thẩm định các yếu tố về bản thân khách hàng và thẩm định về phương án, dự án xin vay vốn. Khi thẩm định các yếu tố về bản thân khách hàng , các ngân hàng thường vận dụng 5 chữ C của Mỹ hay 5 chữ M của Nhật Bản trong các phân tích. Tựu trung lại chúng bao gồm: Năng lực vay nợ: Các ngân hàng quan tâm trước tiên đến năng lực pháp lý và năng lực hành vi dân sự của khách hàng. Là khách hàng cá nhân họ phải là những công dân đến tuổi trưởng thành nếu không họ phải được cha mẹ hay người giám hộ bảo lãnh và cùng ký vào đơn xin vay tiền. Đối với các TCKT, ngân hàng xem xét xem nó có đủ tư cách pháp nhân không, các giấy tờ xác minh tư cách ấy, tính độc lập và tự chịu trách nhiệm trong đưa ra các quyết định của nó thế nào ? ; ai là người có thẩm quyền đại diện cho công ty trong quan hệ vay mượn ? Đây là những yếu tố mà bắt buộc ngân hàng phải xem xét. Hai là uy tín của khách hàng : Uy tín ở đây không chỉ trong quan hệ của khách hàng với ngân hàng, mà còn trong các quan hệ tín dụng cũng như kinh tế với các ngân hàng và đối tác khác. Lịch sử các mối quan hệ này của khách hàng trong đó có việc thực hiện các hợp đồng tín dụng thường rất có giá trị khi đánh giá uy tín của họ. Tuy nhiên không phải lúc nào ngân hàng cũng nắm được rõ ràng các yếu tố này mà còn phải phán đoán sự sẵn lòng trả nợ cũng như sự cố gắng thực hiện hợp đồng tín dụng. Tất nhiên cũng cần nhận thức rằng không phải bao giờ một khách hàng có uy tín trong việc vay mượn ở quá khứ cùng chắc chắn thực hiện đầy đủ các hợp đồng tín dụng. Có điều là trong trường hợp họ không làm như vậy, uy tín bao lâu gây dựng của họ sẽ bị ảnh hưởng, và đây cũng là một cái gì đó khách hàng cân nhắc. Ba là năng lực tài chính của khách hàng: ở đây, các NHTM sẽ xác định vốn kinh doanh của doanh nghiệp xin vay, và họ sẽ không bao giờ cấp một món vay nào do doanh nghiệp nếu không được đảm bảo bằng vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh là một trong những tiêu chuẩn đo lường sức mạnh tài chính của khách hàng, và cũng là một yếu tố quyết định tới khối lượng tín dụng mà ngân hàng sẵn lòng cung cấp. Các ngân hàng còn phải xem xét khả năng độc lập, tự chủ tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và hoàn trả nợ của người vay. Điều này được thực hiện thông qua phân tích các chỉ tiêu đặc trưng tài chính của doanh nghiệp như tỷ lệ thanh toán nhanh; tỷ lệ thanh toán hiện hành; vốn lưu động thực tế chủ sở hữu; vòng quay vốn lưu động; hệ số tài trợ trong tổng tài sản . . . cũng nhận thấy là năng lực tài chính của doanh nghiệp, trong đó có yếu tố lợi nhuận, chịu tác động của nhiều yếu tố nội tại của doanh nghiệp ấy, đó là khả năng quản lý, khả năng kỹ thuật - công nghệ, sức cạnh tranh. Đây cũng là những đối tượng trong thẩm định của ngân hàng, và tất nhiên họ sẽ đánh giá cao các doanh nghiệp có hệ thống quản lý có hiệu lực, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh tốt trên thị trường. Bốn là thẩm định tài sản thế chấp, cầm cố (nếu có): Về nguyên tắc những tài sản đem cầm cố, thế chấp phải thực quyền sở hữu của người vay, và người vay phải chứng minh được điều đó trước ngân hàng bằng những tài liệu hợp pháp. Không chỉ như vậy, CBTD còn phải thẩm định giá trị những tài sản ấy một cách chính xác theo giá cả thị trường hiện tại và giá trị thanh lý ( thường thấp hơn nhiều giá cả thị trường hiện tại) nếu người vay không trả nợ, sự biến động về giá cả của những tài sản đó. Năm là các điều kiện kinh tế: Đây tuy không phải là yếu tố thuộc về bản thân khách hàng nhưng nó lại tác động tới khả năng trả nợ của khách hàng với vai trò là môi trường hoạt động của cả các doanh nghiệp và ngân hàng. Cũng chính bởi vậy, các điều kiện ấy cũng sẽ tác động tới sự thành công hay thất bại của các phương án, dự án sử dụng vốn vay của khách hàng, do đó chúng ta sẽ được xem xét trong thẩm định phương án, dự án xin vay. ở đây, ta có thể nói chung là CBTD sẽ phải liên tục tổng hợp và phân tích các thông tin về nhịp độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, như tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp, lãi suất chiết khấu của NHTW, cân đối ngân sách, cân đối thanh toán và tỷ giá hối đoái . . . Cụ thể hơn nữa, CBTD phải có và phân tích được các thông tin về lĩnh vực hoạt động của khách hàng. Người ta nói CBTD cũng phải là nhà dự đoán kinh tế cùng chính sách ở điểm này. Tiếp đến là thẩm đinh phương án, dự án xin vay: Nếu xét một cách toàn diện các yếu tố của phương án, dự án xin vay vốn ngân hàng không thể tách rời khỏi các yếu tố thuộc về bản thân khách hàng vừa xét ở trên bởi một lý do đơn giản là phương án xin vay vốn nào cũng phải xuất phát từ những khách hàng cụ thể để thực hiện kế hoạch hay chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh (SXKD) của mình với các điều kiện cụ thể. Bởi vậy, ngân hàng phải xem xem phương án sử dụng vốn vay có phù hợp với kế hoạch SXKD, tiếp đó là điều kiện thị trường hay không; các điều kiện để thực hiện thành công phương án, các định mức kinh t ế - kỹ thuật, các số liệu về thu nhập và chi phí cũng như lợi nhuận dự kiến có hợp lý không? Điều này xuất phát từ mối quan hệ tay ba ngân hàng - doanh nghiệp - thị trường. Đối với những yêu cầu xin vay vốn ngắn hạn bổ sung cho vốn lưu động nguồn trả nợ trực tiếp nhất là doanh thu tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ hình thành từ nguồn vốn vay. Ngân hàng thường thiết lập một tương quan giữa khoản tiền xin vay với doanh thu theo kế hoạch và doanh thu thực hiện của phương án SXKD. Mặc dù tại thời điểm xem xét, doanh thu thực hiện chưa xuất hiện, nhưng ngân hàng lại phải dự đoán được nó căn cứ vào các thông tin đã có và những dự đoán về thị trường, doanh thu ấy phụ thuộc trực tiếp vào tiêu thụ, tức là nhu cầu thị trường và sức cạnh tranh của sản phẩm. Kết hợpvới các yếu tố đã phân tích về bản thân khách hàng, ngân hàng sẽ rút ra kết luận cho mình về số tiền có thể chấp nhận cho vay trong tổng doanh thu đó. Một vấn đề có tính n._.guyên tắc là chỉ những phương án với hiệu quả được tính trong khoảng thời gian một chu kỳ sản xuất hoặc năm dương lịch mới là đối tượng của cho vay vốn lưu động. Đối với các dự án xin vay vốn TDH, thì việc thẩm định sẽ phức tạp hơn, bởi vì các khoản cho vay này chứa đựng nhiều rủi ro hơn. Các ngân hàng thường thẩm định dự án từ nhiều phương tiện kỹ thuật, thị trường và tài chính của dự án, từ đó khẳng định tính khả thi kinh tế - kỹ thuật của dự án, xác định được thời điểm thực hiện dự án, lịch trình giải ngân, trả nợ được trù tính trong dự án, từ đó mà quyết định cho vay hay từ chối. Trước tiên, ngân hàng cũng phải thẩm định về thị trường sản phẩm, dịch vụ và dịch vụ sẽ cung cấp như đối với cho vay ngắn hạn. Đó là nhu cầu của thị trường đối với các loại sản phẩm dịch vụ đó, và liệu chúng có đáp ứng được các nhu cầu đó hay không? Các sản phẩm dịch vụ ấy sẽ cạnh tranh thế nào trước các sản phẩm dịch vụ cạnh tranh hiện hữu và tiềm năng? Sẽ là thuận lợi cho doanh nghiệp cũng như ngân hàng nếu như doanh nghiệp độc quyền cung ứng các sản phẩm dịch vụ ấy, nhưng trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh thường diễn ra rất gay gắt, nó không chỉ là nỗi lo lắng của các giám đốc doanh nghiệp và còn là của các nhà ngân hàng. Thẩm định kỹ thuật dự án cũng quan hệ chặt chẽ tới phương diện thị trường của dự án. ở đây, ngân hàng quan tâm tới qui mô của dự án, xem có phù hợp vói khả năng tiêu thụ sản phẩm và khả năng cung cấp nguyên vật liệu, năng lực quản lý của doanh nghiệp không? Tiếp đó ngân hàng xem xét tới công nghệ và trang thiết bị, xem xem chủ đầu tư đã đưa ra các phương án lựa chọn nào và tại sao lại lựa chọn công nghệ thiết bị hiện tại? Số lượng, công suất, quy cách, chủng loại danh mục thiết bị, tính đồng bộ của dây truyền sản xuất, năng lực hiện có của doanh nghiệp so với quy mô của dự án như thế nào? Địa điểm xây dựng dự án có phù hợp không? Tất cả các yếu tố trên sẽ tào ra đặc tính kỹ thuật của sản phẩm thế nào? Đây cũng là căn cứ xác định chu kỳ sống của sản phẩm, một yếu tố có ý nghĩa khi xem xét đầu tư. Việc thẩm định kỹ thuật có thể được thực hiện bởi các bộ phận chuyên trách hoặc do CBTD tự phụ trách. Tuy nhiên có nhiều trường hợp do trình độ chuyên môn hoá của CBTD còn thấp hoặc tính phức tạp của dự án ngân hàng phải thuê các chuyên gia tư vấn. Về phương diện tài chính, ngân hàng có thể sử dụng các phương pháp khác nhau sử dụng các loại chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án như giá trị hiện tại (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), thời gian hoàn vốn, tỷ suất lợi ích trên chi phí (B/C) . . . . Ta sẽ đi vào một số phương pháp cụ thể. Theo phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV), người ta xác định giá trị hiện tại ròng của dự án theo công thức: NPV = Trong đó n là thời gian hoạt động của dự án ( tính theo năm); t là năm thứ t; i là lãi suất chiết khấu mà ngân hàng cũng như chi phí cơ hội và những rủi ro đặc thù của lĩnh vực đầu tư; Ctt là dòng tiền phát sinh hàng năm, có thể âm (-) hoặc dương (+), để tính được chỉ tiêu này phải lập được bảng dự trù thu nhập và chi phí hàng năm. Điều này cũng có ý nghĩa để ngân hàng phát triển vay và thu nợ. Dự án được coi là có hiệu quả tài chính nếu NPV>0. Phương pháp tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR): IRR chính là mức lãi suất chiết khấu làm cho NPV = 0. Nó đo lường tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của một dự án. Dự án được cho là có hiệu quả tài chính khi IRR > lãi suất chiết khấu i. Phương pháp thời gian thu hồi vốn: Thời gian thu hồi vốn là độ dài thời gian dự tính cần thiết để các luồng tiền vòng của dự án bù đắp được chi phí của nó. Công thức tính. Dự án có thời gian thu hồi vốn càng ngắn nghĩa là tính thanh khoản của nó càng cao, và càng được ưu thích hơn. Đây là một thước đo đánh giá mức độ rủi ro của dự án đầu tư; đồng thời nó còn là căn cứ quan trọng để ngân hàng xác định thời hạn cho vay (hay thời gian thu hồi nợ vay). Khi thẩm định dự án đầu tư để cho vay trung dài hạn, ngân hàng thường vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp trong đó coi mỗi chỉ tiêu là một con số thể hiện một mặt của dự án. Người ta còn có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nữa, như chỉ tiêu tỷ lệ lợi ích trên chi phí (B/C), chỉ số doanh lợi PI (PI = , PV là thu nhập ròng hiện tại, P là vốn đầu tư và PV = NPV + P), ... Qua thẩm định tín dụng với dự án xin vay vốn trung dài hạn, ngân hàng không chỉ xác định tính hiệu quả tài chính của dự án mà còn xác định khối lượng vốn ngân hàng nên cho vay, thời gian giải ngân thu nợ nếu cho vay. Như vậy, chúng ta đã xem xét các yếu tố mà ngân hàng cần thẩm định khi quyết định cho vay. Để thẩm định được các yếu tố đó (về bản thân khách hàng và về phương án/ dự án xin vay vốn) ngân hàng phải có đủ thông tin được thu thập từ các nguồn khác nhau bằng nhiều phương tiện khác nhau. Thông qua phỏng vấn trực tiếp người xin vay, cán bộ tín dụng có thể đánh giá được phần nào năng lực, tư cách đạo đức của khách hàng, cũng như để giải thích những điều chưa rõ trong hồ sơ tín dụng. Nguồn thứ hai là hệ thống sổ sách của ngân hàng, với nhiều thông tin tín dụng, thanh toán có giá trị có thể cho biết về uy tín của khách hàng trong việc hoàn trả các món vay, số dư trên các tài khoản, tình hình thanh toán công nợ... Ba là các nguồn thông tin bên ngoài, chẳng hạn việc ngân hàng thuê các Công ty chuyên nghiệp điều tra thu thập thông tin về khách hàng, hay nhờ các ngân hàng bạn hay bạn hàng của khách hàng để xác định uy tín của anh ta. Một số nước còn có hệ thống thông tin tín dụng chung do ngân hàng Trung ương hay hiệp hội các ngân hàng điều hành (CIC ở Việt Nam là một ví dụ về hình thức này). Bốn là các chuyến viếng thăm khách hàng, qua đó CBTD có thể thu thập những thông tin rất khách quan về tình hình hoạt động của họ. Năm là những thông tin do khách hàng cung cấp từ các hồ sơ vay vốn và sổ sách kế toán. Đây là nguồn thông tin chính thức mà khách hàng phải trình lên ngân hàng khi xin vay. Trong nguồn này các báo cáo tài chính giữ một vị trí quan trọng, và ngân hàng thường phân tích các báo cáo này với những chỉ tiêu đặc trưng tài chính trong một số năm trước thời điểm xin vay. Tóm lại bằng cách kết hợp nhiều nguồn thông tin, sử dụng nhiều công cụ và phương pháp khác nhau, ngân hàng thẩm định những yếu tố tín dụng về khách hàng và phương án, dự án xin vay vốn. Từ đó ngân hàng đi tới quyết định cho vay hay từ chối và nếu cho vay thì đồng thời phải quyết định quy mô, thời hạn, lãi suất món vay; cách giải ngân, thu nợ; các biện pháp đảm bảo tín dụng nếu cần thiết cùng các vấn đề liên quan khác. ở một ngân hàng thường có sự phân cấp uỷ quyền trong việc quyết định cho vay. Điều này càng thấy rõ ở mức phán quyết mà chi nhánh của NHTM (ở ngân hàng có chi nhánh) có thể quyết định cho vay. Nhiều khi một hội đồng gồm nhiều thành viên được thành lập để thẩm định và quyết định cho vay đối với các dự án lớn, có tính phức tạp cao. 3.2. Giải ngân, quản lý món vay và thu nợ. Đây lần lượt là những bước tiếp theo quyết định cho vay của ngân hàng, thực hiện quá trình kiểm tra trong và sau khi cho vay (việc kiểm tra trước khi cho vay đã được thực hiện ở khâu thẩm định tín dụng) Mục đích của toàn bộ ba hoạt động này nhằm vào phát triển vay đúng tiến độ, đúng đối tượng, kiểm soát và quản lý chặt chẽ món vay để đảm bảo khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, thực hiện được kế hoạch trả nợ, đồng thời có thể phát hiện sớm nhất những khó khăn phát sinh để có biện pháp xử lý nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro đối với ngân hàng. Các công việc cụ thể là: Khi phát tiền vay, cán bộ tín dụng tuân thủ nguyên tắc phải có vật tư, tài sản tương đương là đối tượng ghi trong hợp đồng tín dụng kết hợp với các phương thức thanh toán, ngân hàng có thể thanh toán trực tiếp với người cung cấp của khách hàng mà không qua trung gian. Sau khi phát tiền vay, cán bộ tín dụng vẫn thường xuyên quản lý kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Ngoài việc liên tục theo dõi sự vận động của vốn, ngân hàng còn chú ý cả tới tình hình kinh doanh chung của khách hàng và tình hình thị trường giá cả... bằng nhiều nguồn thông tin khác nhau. Nhiều công việc đã được tiến hành trong bước thẩm định tín dụng, nhưng cùng với thời gian các yếu tố xem xét có thể thay đổi. Phát hiện sớm nhất những dấu hiệu của khoản cho vay có vấn đề, ngân hàng có thể có biện pháp thích hợp. Ngân hàng có thể thu hồi khoản vay trước hạn, nếu khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. Ngân hàng cũng có thể yêu cầu thêm tài sản thế chấp, cầm cố khi giá trị thị trường của các tài sản này giảm ngoài dự kiến... Đối với những khó khăn mang tính khách quan, ngân hàng sẽ cùng khách hàng cùng nhau tháo gỡ. Cán bộ tín dụng có thể cho doanh nghiệp có lời khuyên hay cố vấn cho họ về các vấn đề sản xuất kinh doanh; ngân hàng tìm cách giúp doanh nghiệp thu hồi các hoá đơn chậm trả, thanh toán hàng tồn kho hay giảm bớt dự trữ quá mức; sắp xếp, cấu trúc lại các khoản vay bằng định lại kỳ hạn nợ hay rút bớt mức chi trả định kỳ trong một thời gian ... Để việc thu nợ diễn ra thuận lợi. Cán bộ tín dụng có các biện pháp nhắc nhở đôn đốc (từ nhẹ tới nặng); định kỳ tổng kết việc thực hiện kế hoạch trả nợ của khách hàng. Với các khoản nợ có vấn đề, ngân hàng xử lý theo hai hướng: biện pháp khai thác và biện pháp thanh lý. Bởi nhiều lý do, ngân hàng thường thích biện pháp thứ nhất hơn, tất nhiên còn phải dựa vào nhiều yếu tố như nguyên nhân của khó khăn trong chi trả, thái độ của người vay đối với các khoản nợ, khả năng chi trả của họ (dù cần phải có thời gian), các chi phí cho việc thu hồi cùng như thái độ của các chủ nợ khác. Các việc làm cụ thể của biện pháp này đã nêu ở trên. Tóm lại, ngân hàng giải ngân đúng đối tượng và tiến độ sản xuất kinh doanh, quản lý và giám sát chặt chẽ món vay sẽ tăng hiệu quả hoạt động cho vay, giảm tới mức thấp nhất rủi ro có thể có với các khoản vay. 3.3. Thanh lý hợp đồng tín dụng và lưu giữ hồ sơ khách hàng. Sau khi thu nợ đầy đủ hoặc giải quyết các tồn tại về khoản vay, ngân hàng và khách hàng tiến hành thanh lý hợp đồng tín dụng. Về phía mình ngân hàng sẽ tổng kết và đánh giá toàn bộ quá trình cho vay, rút ra kinh nghiệm, bài học cần thiết, đồng thời đưa ra các yêu cầu mới. Các ngân hàng cũng lưu trữ hồ sơ khách hàng rất cẩn thận, dù họ còn quan hệ với ngân hàng nữa hay không. Nhiều NHTM ở các nước tiên tiến có hẳn bộ phận chuyên trách, và công việc này được thực hiện bằng nhiều phương tiện hiện đại như máy tính, các phần mềm quản lý khách hàng. ở nước ta, công việc trên do mỗi cán bộ tín dụng đảm nhận, và cũng có thể đưa vào phòng quản lý khách hàng; các lưu trữ vẫn chủ yếu dưới dạng hồ sơ giấy tờ mà thôi. Như vậy, chúng ta vừa xem xét quá trình từ khi ngân hàng xây dựng chính sách cho vay tới việc vận dụng nó và thực tiễn. Công việc đó bắt đầu bằng tìm kiếm khách hàng và dự án, phương án, thẩm định tín dụng để đi tới quyết định cho vay, và kết quả là một hợp đồng tín dụng được ký kết giữa khách hàng và ngân hàng; tiếp đó là giải ngân và quản lý, kiểm soát món vay để nó phát huy hiệu quả và thu nợ hoặc giải quyết những tồn tại: cuối cùng là thanh lý hợp đồng tín dụng và lưu trữ hồ sơ khách hàng. Đây là một quá trình liên tục trong cho vay một khách hàng, nhưng là một quá trình riêng lẻ nếu xem xét tới hoạt động cho vay của ngân hàng tới toàn bộ nền kinh tế. Và dư nợ của từng khách hàng riêng lẻ sẽ quyết định tổng dư nợ của ngân hàng. Bây giờ, nhìn từ giác độ chung, ta thử xem các yếu tố nào tác động đến quy mô cho vay của ngân hàng. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô cho vay của một NHTM. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quy mô cho vay của ngân hàng. Các nhân tố ấy có thể tác động từ hai phía là phía cung và phía cầu đối vớ các khoản cho vay của ngân hàng ấy. Đó là: Thứ nhất là các nhân tố nội tại (các nhân tố bên trong) của một ngân hàng, trong đó trước hết phải kể đến khả năng cho vay của ngân hàng. Quy mô, cơ cấu, tính ổn định của nguồn vốn ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô các khoản cho vay mà ngân hàng cung cấp, bởi vì họ là người “đi vay để cho vay” Với các nguồn ký thác lớn và ổn định, ngân hàng có thể an tâm giành phần lớn hơn vốn này để cho vay, chỉ cần giữ lại tỷ lệ dự trữ tự nguyện nhỏ mà vẫn đáp ứng được các nhu cầu thanh khoản; với tỷ lệ ký thác trung dài hạn càng cao, ngân hàng càng có khả năng cho vay trung dài hạn. Vốn tự có cũng là yếu tố tác động đáng kể, một ngân hàng có vốn tự có lớn có thể cho vay với kỳ hạn dài hơn, rủi ro cao hơn, bởi vậy quy mô loại này có thể lớn hơn. Ngoài ra khả năng cho vay của ngân hàng còn chịu sự chi phối của các tỷ lệ giới hạn (nếu có) của ngân hàng Trung ương, chẳng hạn theo luật tài chính tín dụng ở nước ta, dư nợ cao nhất của tài chính tín dụng với một khách hàng không quá 15% vốn tự có của tài chính tín dụng đó. Cùng thuộc về các nhân tố nội tại của ngân hàng, đội ngũ nhân viên tác động mạnh tới quy mô cho vay bởi họ chính là người thực hiện hoạt động cho vay, họ cũng là người làm Marketing ngân hàng, tạo ra hình ảnh một ngân hàng trong tâm trí khách hàng. Tiếp đó, phải kể tới lãi suất, chất lượng và địa bàn phục vụ. Ngân hàng với lãi suất hấp dẫn so với các đối thủ cạnh tranh có khả năng mở rộng quy mô cho vay, nâng cao dư nợ. Nhưng trên thị trường hiện nay, giá cả rẻ hay đắt phải đặt trong mối quan hệ với chất lượng hàng hoá dịch vụ. Bởi vậy để toàn diện ta nói lãi suất cho vay rẻ so với chất lượng phục vụ có tác dụng tốt với tăng dư nợ. Địa bàn của ngân hàng lại ảnh hưởng tới quy mô cho vay trên ký thác cao hơn ở các vùng nông thôn. Nhân tố vị trí cũng gắn liền với các môi trường hoạt động khác nhau của các ngân hàng. Thứ hai là tính cạnh tranh trong môi trường hoạt động của ngân hàng. Đối với hoạt động cho vay, cạnh tranh diễn ra trên hai giác độ, đó là giữa các ngân hàng với nhau và giữa ngân hàng với các nguồn thay thế đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Để tăng dư nợ trong điều kiện phải cạnh tranh với nhiều ngân hàng khác là điều không đơn giản, ngược lại họ rất dễ bị mất khách hàng do các biện pháp lôi kéo của các đối thủ. Với chính ngân hàng để mở rộng cho vay, họ phải cung cấp các điều kiện vay vốn hấp dẫn để không những giữ vững khách hàng hiện có mà còn lôi kéo các khách hàng mới. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có thể vay từ ngân hàng, từ phát hành chứng khoán... Do vậy mà một nước có thị trường chứng khoán phát triển cao, vai trò đáp ứng vốn của ngân hàng với các khách hàng Công ty giảm đi. Thứ ba các chính sách kinh tế vĩ mô, Trong đó có chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Nếu ngân hàng Trung ương nới lỏng chính sách tiền tệ bằng nhiều biện pháp, các ngân hàng có thể gia tăng quy mô cho vay của họ. Các ngân hàng chuyên môn hoá về một số lĩnh vực có thể tăng nhanh dư nợ khi những lĩnh vực hay khách hàng đó được ưu đãi từ Chính phủ. Khi quyết định tăng mức chi tiêu của mình thì Chính phủ đã làm tăng nhu cầu tín dụng ngân hàng. Chính phủ cũng có thể đầu tư trực tiếp, hay bảo lãnh để các dự án được vay vốn ngân hàng. Sự điều chỉnh các sắc thuế tác động tới sự mở rộng hay thu hẹp các lĩnh vực kinh doanh, đem lại kết quả tương ứng với quy mô cho vay của các ngân hàng. Ngoài chi tiêu và các sắc thuế, Chính phủ còn có thể có nhiều ưu đãi hay hạn chế với lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, khu vực này hay khu vực khác của nền kinh tế. Tác động tới nhu cầu vay vốn ngân hàng của các doanh nghiệp. Thứ tư là môi trường kinh tế Sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế các kỳ vọng vào tương lai của các nhà kinh doanh khuyến khích họ vay vốn ngân hàng, mở rộng sản xuất kinh doanh. Cũng trong điều kiện ấy, ngân hàng mới an tâm mở rộng cho vay, nhất là các món vay có kỳ hạn dài. Các nhân tố thuộc về môi trường kinh tế tác động tới hoạt động cho vay của ngân hàng cả từ phía cung và phía cầu. Thứ năm là các yếu tố thuộc về chủ quan của khách hàng, nhất là các khách hàng thường xuyên của ngân hàng. Có thể nói, nhu cầu vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp cũgn là một loại phản ứng của chủ doanh nghiệp toíư các điều kiện khách quan. ở đây nhấn mạnh nhóm khách hàng truyền thống và tiềm năng bởi nhu cầu vay vốn ngân hàng của họ tác động trực tiếp tới khả năng mở rộng cho vay của ngân hàng hơn là nhóm khách hàng khác. Các yếu tố này là tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, kế hoạch và chiến lược kinh doanh, nhu cầu thị trường với loại sản phẩm dịch vụ doanh nghiệp đang hoặc sẽ cung cấp... Trên đây là một số nhân tố tác động tới quy mô cho vay của một ngân hàng. Từ các nhân tố ấy, các ngân hàng có thể đề ra các biện pháp nhằm mở rộng cho vay, tăng dư nợ dựa vào các điều kiện mình có, và thích hợp với môi trường kinh doanh. Đó cũng là ý nghĩa của mục này đối với đề tài nghiên cứu nhằm vào mở rộng cho vay các Tổng Công ty tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương. Đây cũng là mục kết thúc phần trình bày những nội dung cơ bản trong hoạt động cho vay của các NHTM. Tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu về Tổng Công ty và hoạt động cho vay của NHTM với nhóm khách hàng này. II - Tổng Công ty và hoạt động cho vay của NHTM đối với các Tổng Công ty. 1. Tổng Công ty - mô hình DNNN mới ở Việt Nam Để đáp ứng tốt nhu cầu của một nhóm khách hàng mục tiêu, một doanh nghiệp phải có những hiểu biết chung về nhóm khách hàng ấy. Cũng như vậy, để mở rộng cho vay các Tổng Công ty, trước hết NHTM phải có những hiểu biết nhất định về đặc điểm chung của nhóm khách hàng này. Đây chính là nhiệm vụ của phần này. 1.1. Hoàn cảnh ra đời của Tổng Công ty ở nước ta. Trong nền kinh tế thị trường, dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật tích tụ và tập trung sản xuất... diễn ra một xu hướng cơ bản là sự tập trung sản xuất kinh doanh để hình thành các tập đoàn kinh doanh dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Trong kinh tế chính trị học chúng ta đã từng biết đến các dạng tập đoàn kinh doanh như các-ten (cartel), xanhđica (syndicate), côngxoocxiom(consortium), tơ-rớt (trust) hay công-glô-mêra (conglometra) và xu hướng tập đoàn hoá vẫn ngày càng diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Một tập đoàn kinh doanh có thể hình thành bằng nhiều cách, nhiều hình thức: đó có thể là quá trình một công ty làm ăn phát đạt, mở rộng đầu tư, thành lập các công ty trực thuộc, các chi nhánh. Nó có thể kêu gọi đầu tư từ các công ty khác. Đây là hệ quả trực tiếp nhất của quá trình tập trung và tích tụ tư bản. Đó có thể là quá trình thôn tính theo kiểu cá lớn nuốt cá bé, khi một công ty mua được một lượng đủ lớn cổ phần của một hoặc nhiều công ty khác, đủ để nắm quyền kiểm soát công ty này ở hội đồng quản trị, từ đó, nó đặt các công ty này đi theo quỹ đạo của nó. ở hai hình thức này xuất hiện kiểu quan hệ Công ty mẹ (holding company hay parent company) - Công ty con (son company), quan hệ trụ sở - chi nhánh... Tập đoàn kinh doanh cũng có thể được hình thành từ quá trình đàm phán, tự nguyện liên kết với nhau giữa các Công ty, trong đó thường có một công ty mạnh nhất đứng ra dàn xếp. Các tập đoàn kinh doanh như trên (xanh-đi-ca, cac- ten...) là những dạng của hình thức này. Các công ty này thường giữ cổ phần của nhau và do lợi ích chung của mình, chúng sẽ liên kết chặt chẽ với nhau. Nếu nhìn từ giác độ lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các tập đoàn kinh doanh được hình thành bằng nhiều mô hình liên kết: Liên kết dọc diễn ra giữa các doanh nghiệp tham gia vào các công đoạn khác nhau của việc sản xuất kinh doanh một loại sản phẩm, dịch vụ, từ việc cung ưnmgs các đầu vào cho tới sản xuất và tiêu thu đầu ra. Liên kêt ngang diễn ra giữa các doanh nghiệp cùng ngành hoạt động để tạo ra một quy mô sản xuất kinh doanh lớn hơn. Liên kêt thành khối lại diễn ra giữa các công ty sản xuất kinh doanh trong những lĩnh vực khác nhau, ít có mối liên hệ ngang - dọc như trên. Hiện nay, các tập đoàn kinh doanh có vai trò chi phối nhiều nền kinh tế trên thế giới như các cheabol ở Hàn Quốc, các tập đoàn kinh doanh của Mỹ, Nhật. Các Công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia cũng là những dạng tập đoàn kinh doanh. Ngay ở các nước láng giềng với Việt Nam ta, nhiều tập đoàn kinh doanh đã hình thành và phát triển, đóng vai trò lớn trong nền kinh tế quốc dân (Thái Lan, Malaysia). Trong tình trạng nền kinh tế thế giới có nhiều biến động mạnh vừa qua, xu hướng sáp nhập, hợp nhất các Công ty đã diễn ra càng phổ biến và mạnh mẽ. ở Việt Nam, từ những năm 1960 ở miền Bắc đã hình thành và phát triển các liên hiệp xí nghiệp và Tổng Công ty trong hệ thống các DNNN, và đặc biệt bùng nổ vào cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 trên phạm vi toàn quốc. Cho đến năm 1994, đã tồn tại khoảng 150 Tổng Công ty và liên hiệp xí nghiệp được tổ chức hoạt động theo cơ chế tập trung bao cấp kèm theo một số chức năng quản lý Nhà nước. Sự lẫn lộn giữa chức năng quản lý Nhà nước và chức năng hoạt động kinh doanh đã biến các mô hình này thành một cấp hành chính trung gian, khiến quá trình tích tụ và tập trung hoá không được thực hiện tốt. Tất nhiên các mô hình này đã có những đóng góp lớn trong thời kỳ chiến tranh, nhưng sau này, nhất là khi nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị trường, các Tổng Công ty và liên hiệp xí nghiệp theo mô hình ấy ngày càng tỏ ra không phù hợp, không còn lý do để tồn tại. Các quyết định 217 và nghị định 388 ra đời đã tăng cường tính độc lập, tự chủ trong kinh doanh của các DNNN, mang lại nhiều tác dụng tích cực, đồng thời càng làm lu mờ vai trò của các liên hiệp xí nghiệp và Tổng Công ty như trên. Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động. Hệ thống DNNN lại bộc lộ những nhược điểm lớn. Đó là: sản xuất còn manh mún, phân tán, chồng chéo và trùng lắp về các chức năng kinh doanh; khả năng tái đầu tư qua tích tụ rất hạn chế do quy mô nhỏ; kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, hiệu quả sản xuất thấp. Hậu quả là khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này thấp, đặc biệt là trong cạnh tranh quốc tế; mặt khác, nhiều DNNN cạnh tranh bừa bãi, gây tổn hại cho nền kinh tế nội địa hạn chế vai trò chủ đạo của hệ thống kinh tế quốc doanh. Để khắc phục các nhược điểm trên, ngày 7/3/1997, thủ tướng Chính phủ đã ra các quyết định 90/TTg và 91/ TTg về sắp xếp lại các DNNN, đồng thời cho phép thành lập các Tổng Công ty Nhà nước. Mục đích của việc này là: tạo ra điều kiện để thúc đẩy tích tụ, tập trung và tái đầu tư; nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống DNNN trên thị trường trong và ngoài nước; thực hiện chủ trương xoá bỏ dần chế độ bộ chủ quản và cấp hành chính chủ quản, sự phân biệt giữa các doanh nghiệp Trung ương và địa phương. Việc thành lập các Tổng Công ty Nhà nước là một bộ phận của quá trình đổi mới, tổ chức và sắp xếp lại các DNNN, hình thành các tập đoàn kinh doanh mạnh của Nhà nước. Khác với các nền kinh tế thị trường tự do, đây là quá trình diễn ra theo ý chí của Nhà nước. Xuất phát của điều này là: thứ nhất nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nên phải củng cố và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ thống DNNN; thứ hai, thị trường ở nước ta mới ở giai đoạn đầu, còn chưa đồng bộ, cộng thêm các khó khăn khác nên nếu để các tập đoàn kinh doanh hình thành một cách tự nhiên thì sẽ mất rất nhiều thời gian. Thứ ba, nền kinh tế của ta đã tạo ra một số điều kiện ban đầu cho quá trình tập đoàn hoá, đó là nhu cầu liên kết các doanh nghiệp có tính đặc thù của ngành kinh tế - kỹ thuật (như Bưu chính - viễn thông, điện lực, hàng không...) nhu cầu tập trung để tạo thế mạnh trước các đối tác nước ngoài... Đến nay trên toàn quốc có 17 TCT91, 74TCT90 với 1750 đơn vị thành viên hạch toán độc lập Thương mại, số 28/2002 , chiếm 72% tổng số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, 67% lao động tạo ra 50% tổng doanh thu và hơn 83% lợi nhuận của toàn hệ thống DNNN Thời báo ngân hàng, số 21/ 2002 . Sau những năm đầu hoạt động, các Tổng Công ty đã phát huy nhiều tác dụng tích cực: Tập hợp được sức mạnh toàn Tổng Công ty trong tham gia đấu thầu, bảo lãnh vay vốn tín dụng thực hiện chiến lược đầu tư phát triển và đổi mới công nghệ (rõ nhất là các TCT 91), xây dựng và mở rộng thị trường, giảm thiểu sự cạnh tranh hỗn loạn giữa các DNNN với nhau trên thị trường trong nước, bình ổn giá cả. Nhưng việc thành lập Tổng Công ty mang tính chủ quan lại bộc lộ một số nhược điểm một loạt Tổng Công ty được thành lập trên cơ sở gom các doanh nghiệp cùng chức năng lại thành một Tổng Công ty, vốn giao cho Tổng Công ty là tổng vốn các thành viên nắm giữ, dẫn tới tình trạng Tổng Công ty chỉ nắm vai trò quản lý hành chính; tình trạng độc quyền trong kinh doanh tăng lên đặc biệt đối với các Tổng Công ty 91; quan hệ giữa Tổng Công ty - thành viên còn nhiều trục trặc, ... Trong giới hạn đề tài, ta sẽ không đi sâu vào những nội dung này, mà để cho vay các Tổng Công ty, ngân hàng phải căn cứ vào các điều kiện thực tế của nó, đồng thời các văn bản pháp lý liên quan. 1.2. Địa vị pháp lý và tổ chức một Tổng Công ty. Các Tổng Công ty ra đời trực tiếp từ các quyết định 90/TTg, 91/TTg ngày 7/3/1997 của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài việc chịu chi phối bởi các văn bản pháp quy như đối với các DNNN, các Tổng Công ty còn có các văn bản quy định, hướng dẫn như Nghị định 39/CP ngày 27/6/1998 ban hành điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của Tổng Công ty Nhà nước; Quyết định 838 tài chính/QĐ/TCDN ngày 28/8/1999 ban hành quy chế tài chính mẫu Tổng Công ty Nhà nước; Quy chế Công ty tài chính trong Tổng Công ty Nhà nước chỉ tị 135/TTg ngày 4/3/2000 về xây dựng Quy chế hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát trong Tổng Công ty và một số văn bản khác. Với một Tổng Công ty cụ thể thì địa vị và tổ chức của Tổng Công ty được quy định cụ thể ở Điều lệ “và” quy chế tài chính của nó. ở đây chúng ta chỉ xem xét các điểm cơ bản. Tổng Công ty Nhà nước là những DNNN có tư cách pháp nhân Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập (đối với các Tổng Công ty quan trọng - Tổng Công ty 91); do Bộ trưởng Bộ quản lý ngành kinh tế kỹ thuật hoặc tương đương, UBND tỉnh hoặc tương đương thành lập (TCT 90) theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ. Tổng Công ty có vốn và tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm với các khoản nợ trong phạm vi số vốn do Tổng Công ty quản lý. Tổng Công ty có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo quy định hiện hành, mối quan hệ giữa Tổng Công ty với các cơ quan (Thủ tướng Chính phủ, Bộ tài chính, các bộ và UBND thành lập ... ) là rất phức tạp, nhiều quy định còn thiếu cụ thể. Điều này khiến nhiều cơ quan Nhà nước can thiệp vào hoạt động của các Tổng Công ty hay gây ảnh hưởng trong việc ra các quyết định. Về tổ chức, Tổng Công ty được quản lý bởi Hội đồng quản trị và điều hành bởi Tổng giám đốc (TGĐ). Hội đồng quản trị có 5 hoặc 7 thành viên do thủ tướng cơ quan ra quyết định thành lập Tổng Công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm theo nhiệm kỳ 5 năm. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng Công ty theo nhiệm vụ Nhà nước giao; có quyền nhận vốn do Nhà nước giao cho Tổng Công ty; xem xét phê duyệt phương án do Tổng Giám đốc đề nghị về giao vốn cho các đơn vị thành viên và phương án điều hoà vốn và các nguồn lực giữa các thành viên đó. Hội đồng Quản trị thành lập Ban kiểm soát để giúp mình thực hiện kiểm tra, giám sát Tổng Giám đốc, bộ máy giúp việc và các thành viên Tổng Công ty. Tổng Công ty do thủ trưởng cơ quan quyết định thành lập Tổng Công ty bổ nhiệm, miễn nhiệm theo để nghị của Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của Tổng Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước người bổ nhiệm mình và pháp luật về điều hành hoạt động của Tổng Công ty. Tổng Giám đốc cùng Chủ tịch Hội đồng quản trị ký nhận vốn và các nguồn lực khác của Nhà nước để quản lý sử dụng theo mục tiêu nhiệm vụ Nhà nước giao cho Tổng Công ty; giao hoặc điều hoà vốn giữa các thành viên Tổng Công ty theo phương án đã được Hội đồng quản trị phê duyệt; điều hành Tổng Công ty theo các nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị. Tổng Công ty gồm các đơn vị thành viên là những DNNN hạch toán độc lập, hạch toán phụ thuộc hay đơn vị hành chính sự nghiệp. Các thành viên hạch toán độc lập có quyền tự chủ kinh doanh, chịu trách nhiệm về các khoản nợ và cam kết của mình trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý, sử dụng. Các doanh nghiệp này có tư cách pháp nhân hạn chế, bởi nó chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi với Tổng Công ty theo quy định tại Điều lệ Tổng Công ty và của đơn vị. Các thành viên hạch toán phụ thuộc không có tư cách pháp nhân. Nó có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của Tổng Công ty, Tổng Công ty chịu trách nhiệm cuối cùng về nghĩa vụ tài chính phát sinh do sự cam kết của các đơn vị này. Các thành viên là đơn vị sự nghiệp hoạt động theo nguyên tắc lấy thu bù chi, được Tổng Công ty hỗ trợ nếu thiếu hụt ngân sách hoạt động. Giữa Tổng Công ty và đơn vị thành viên có các mối quan hệ về tổ chức, về sản xuất kinh doanh và tài chính. Về mặt sản xuất kinh doanh, các thành viên phụ thuộc chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Tổng Công ty. Đối với thành viên độc lập, thực hiện kế hoạch của mình trên cơ sở bảo đảm các mục tiêu, chỉ tiêu, các cân đối lớn, các định mức kinh tế kỹ thuật chủ yếu phù hợp với kế hoạch chung của toàn Tổng Công ty; đồng thời mở rộng kinh doanh để khai thác tối ưu có nguồn lực mình có, đáp ứng nhu cầu thị trường. Tổng Công ty lựa chọn thị trường thống nhất và phân công giữa các đơn vị thành viên. Về quan hệ tài chính, ta trình bày ở mục sau, về chế độ tài chính của Tổng Công ty. 1.3. Chế độ tài chính Tổng Công ty Đây là vấn đề rất được các ngân hàng quan tâm khi cho vay các Tổng Công ty. Ta xét một số nội dung sau: a. Đối với Tổng Công ty: Tổng Công ty được quyền thay đổi cơ cấu vốn và tài sản phục vụ cho kinh doanh; được điều hoà vốn giữa các thành viên cho tương ứng với nhiệm vụ kinh doanh; có thể huy động khấu hao của các thành viên hạch toán độc lập để phục vụ nhu cầu đầu tư tập trung dưới hai hình thức là vay - trả với lãi suất nội bộ hoặc có thể được ghi giảm vốn của đơn vị bị huy động trong trường hợp đặc biệt; Tổng Công ty được vay vốn và các quỹ nhàn rỗi của các thành viên độc lập cũng như cho vay lại các thành viên khác theo lãi suất nội bộ. Tổng Công ty cũng có thể huy động vốn dưới nhiều hình thác khác như vay ngân hàng, được bảo lãnh cho thành viên vay vốn trong và ngoài nước. Đối với quản lý doanh thu, chi phí kinh doanh: Doanh thu của Tổng Công ty gồm doanh thu của các doanh nghiệp thành viên, chi ph._.h hàng tiếp tục vay vốn tại Sở giao dịch. Đây là một xu hướng mà Sở giao dịch cũng như các NHTM khác phải tuân theo và để phù hợp với xu hướng đó. Sở giao dịch cần xây dựng các tiền đề cần thiết cả về vật chất và con người. Tăng cường trang thiết bị và từng bước hiện đại hoá công nghệ ngân hàng tại Sở giao dịch tạo khả năng đáp ứng cung cấp các dịch vụ gắn liền với thị trường chứng khoán như lưu ký, bảo quản chứng khoán các dịch vụ thanh toán, tài khoản chứng khoán, Sở giao dịch cũng phải có kế hoạch về nhân sự, có hướng đào tạo lại cán bộ Sở giao dịch về nghiệp vụ trên. Mặt khác có hướng xác định quy mô hình thức kinh doanh về các nghiệp vụ trên. Các công việc này tuy chưa thật cần thiết vào hiện tại, nhưng chuẩn bị các tiền đề này sẽ tạo khả năng cho Sở giao dịch hoà nhập ngay được vào các điều kiện mới của môi trường kinh doanh như đã chỉ ra, phục vụ tốt các khách hàng Tổng Công ty, tăng cường quan hệ nhiều mặt và lâu dài với khách hàng này. Đây chính là một biện pháp mang tính chất “lo xa” dài hạn của Sở giao dịch. Như vậy, các biện pháp cụ thể trên góp phần tăng cường quan hệ của Sở giao dịch với các Tổng Công ty, thực hiện một chiến lược khách hàng hướng vào các Tổng Công ty, đó là một giải pháp trước tiên và cơ bản để mở rộng cho vay với nhóm khách hàng này. Nói gần hơn, thì điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho Sở giao dịch tiếp cận các phương án, dự án đầu tư của các Tổng Công ty để có thể thẩm định, cho vay. Đó cũng là một nội dung của giải pháp tiếp theo. 2. Chủ động tiếp cận các phương án, dự án của các Tổng Công ty để cho vay. Sở giao dịch cần tập trung khai thác tối đa các dự án và phương án vay vốn của các Tổng Công ty để phục vụ, từ cả ba nguồn: - Do các Tổng Công ty và thành viên đến Sở giao dịch đề nghị được vay vốn - Do ngân hàng Công thương Việt Nam đưa xuống. - Do cán bộ tín dụng tự tìm kiếm Hai nguồn trên vẫn đang đóng vai trò chủ yếu ở Sở giao dịch, và chúng có thể được khai thác tốt hơn bằng phát triển các mối quan hệ với khách hàng, cũng như đối với ngân hàng Công thương Việt Nam. Riêng đối với nguồn thứ ba, thời gian qua Sở giao dịch mới chỉ tự tìm kiếm được một số khiêm jtốn các dự án, phương án vay vốn của các Tổng Công ty. Để khai thác tốt nguồn này cần khắc phục triệt để tâm lý “ngồi chờ khách hàng” vốn đã tồn tại rất lâu từ cơ chế cũ, một mặt phát huy tính năng nổ nhiệt tình của cán bộ tín dụng, biến cán bộ tín dụng thành “nhân viên marketing ngân hàng” của Sở giao dịch. Sở giao dịch có thể nghiên cứu phương án chuyên môn hoá phần công viẹc này cho một số cán bộ tín dụng năng động, chịu đi lại, có khả năng thuyết phục. Nói như vậy không có nghĩa là các cán bộ tín dụng còn lại sẽ hoàn toàn không quan tâm đến việc này, mà đây là một sự tập trung tương đối, bởi vì thông tin có thể đến từ nhiều nguồn, nhiều người, mỗi cán bộ Sở giao dịch nói chung, cán bộ tín dụng nói riêng đều là tai mắt của Sở giao dịch. Các nguồn thông tin có thể là chính thức, không chính thức từ các mối quan hệ cá nhân, quan hệ với các cơ quan Bộ, UBND thành phố các cấp chủ quản khác, các chủ dự án. Qua đó Sở giao dịch có thể nắm bắt kịp thời danh mục các dự án, sơ bộ thẩm định và đề nghị giao Sở giao dịch phục vụ. Đặc biệt chú ý tới các dự án đầu tư theo chỉ định hay theo kế hoạch của Chính phủ. Đây là một căn cú khi đưa ra giải pháp phát triển các quan hệ với các cơ quan quản lý ở phần sau. Để làm được các điều trên, cán bộ tín dụng cần chịu lặn lội hơn nữa, không ngại xa ngại khó để mở rộng địa bàn hoạt động cũng như tầm ảnh hưởng của Sở giao dịch. Trong khi cố gắng tiếp cận các dự án và khách hàng Tổng Công ty cần phải xác định rõ dự án đó của Tổng Công ty quen thuộc hay của các khách hàng mới. Cần đặc biệt lưu ý lựa chọn ngay từ đầu nhằm giảm nhẹ cho công việc thẩm định sau này, trong đó phải tự đặt ra và trả lời các câu hỏi như Tổng Công ty đã quan hệ vay mượn với ngân hàng nào ? tại sao lại chuyển tới vay tại Sở giao dịch ? có phải chỉ do sức hấp dẫn của các ưu đãi mà Sở giao dịch áp dụng... Ngoài việc tiếp cận được với khách hàng và dự án, xem xét các vấn đề trên còn cho Sở giao dịch thấy được các bất cập trong cho vay các Tổng Công ty của các ngân hàng khác, từ đó mà phát huy lợi thế so sánh của mình. Trong điều kiện hiện nay khi ngân hàng Công thương Việt Nam đã có quan hệ với hầu hết các Tổng Công ty 91 và phần lớn các Tổng Công ty 90, thì giải pháp trước mắt đối với Sở giao dịch vẫn là giữ vững được các Tổng Công ty và thành viên đang có, mở rộng cho vay trước hết với các đối tượng này, đi đôi với tìm kiếm những khách hàng mới, chủ yếu là các đơn vị thành viên và các Tổng Công ty chưa có quan hệ tín dụng với hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam. Đặc biệt chú ý tới các đơn vị thành viên chưa có quan hệ vay mượn ngân hàng Công thương, nhưng Tổng Công ty mẹ của chúng lại có quan hệ với Sở giao dịch. Hiểu biết về các Tổng Công ty ở đây là rất cần thiết, bên cạnh nghệ thuật mời chào lôi kéo khách hàng. 3. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng và kiểm soát khoản vay. Như đã đề cập, xét một cách dài hạn để mở rộng cho vay các Tổng Công ty thì phải nâng cao hiệu quả của món vay đối với các Tổng Công ty đó. Hiệu quả được hiểu là từ cả hai phía Sở giao dịch và khách hàng, và để nâng cao hiệu quả thì một giải pháp hết sức quan trọng là nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng và quản lý khoản vay với các Tổng Công ty. Một số mặt cụ thể là: Thứ nhất cần thẩm định cụ thể hơn nữa về thị trường và sự cần thiết của dự án, hoặc phương án xin vay vốn. Nếu chỉ nói là dự án là cần thiết thì cũng có rất nhiều các dự án phương án khác cũng cần thiết. Điều quan trọng phải thẩm định được ở đây là dự án hoặc phương án đó cần thiết so với cái gì (kế hoạch, chiến lược sản xuất kinh doanh ...), cần thiết đối với ai (nhóm người tiêu dùng nào ?) mức độ cấp thiết của nó như thế nào ? tác dụng hỗ trợ của nó với các hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty ra sao... Về phương diện thị trường cần đặc biệt lưu ý tính cạnh tranh, bởi vì hiện nay một số Tổng Công ty đã mất tính độc quyền đối với toàn ngành trước đây nó có (ví dụng Tổng Công ty bưu chính viễn thông). Xem xét xem dự án đầu tư có bị cạnh tranh bởi các đối thủ ngoài Tổng Công ty không là điều có ý nghĩa. Thứ hai về thẩm định kỹ thuật có thể thuê, nhờ chuyên gia về lĩnh vực đó làm giúp, bởi vì hiện nay phần lớn đội ngũ cán bộ tín dụng chưa đủ khả năng để làm điều này. Cũng có thể tổ chức đào tạo, huấn luyện cho một số nhân viên Sở giao dịch để chuyên làm công việc này, nhưng hiệu quả sẽ không cao. Hiện nay ở nước ta chưa phát triển các hình thức Công ty tư vấn về kỹ thuật nhưng trong tương lai không xa nó sẽ phổ biến, còn trước mặt Sở giao dịch có thể thuê, nhờ các chuyên gia theo danh nghĩa cá nhân hoặc nhóm chuyên gia để thẩm định giúp về mặt kỹ thuật, điều cơ bản trong quá trình này là làm sao để việc thẩm định mang tính khách quan, chứ chỉ theo các báo cáo của các Tổng Công ty thì phần nào tính khách quan sẽ không được đảm bảo. Quá trình này nên được đi kèm với nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ tín dụng của Sở giao dịch. Thứ ba, đối với thẩm định tài chính, khi Tổng Công ty đứng lên vay nhưng lại giao cho một hay một số thành viên sử dụng, thì ngoài các báo cáo tài chính của toàn Tổng Công ty, Sở giao dịch cần yêu cầu báo cáo tài chính cả các thành viên này, bởi họ mới chính là những người trực tiếp sử dụng vốn, quyết định tính hiệu quả của món vay, mặt khác vì các báo cáo tổng hợp đã san sẻ giữa các thành viên làm ăn có hoặc không có hiệu quả. Trường hợp đơn vị thành viên vay vốn Sở giao dịch dưới sự bảo lãnh của Tổng Công ty, thì Sở giao dịch cũng phải yêu cầu báo cáo tài chính của Tổng Công ty đó. Cố gắng thu thập các quyết toán hàng năm của các Tổng Công ty càng sớm càng tốt, bởi họ thường phải tổng hợp số liệu từ các thành viên gây chậm trễ đáng kể làm cho tính hữu ích của số liệu giảm đi. Trong thẩm định tài chính dự án đầu tư, cần chuyển nhanh hơn nữa từ phương pháp tài chính giản đơn song phương pháp phân tích tài chính sử dụng giá trị hiện tại của tiền với các chỉ tiêu giá trị hiện tại NPV, tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), thời gian thu hồi vốn... cần nhấn mạnh đến thời gian thu hồ vốn của dự án (có thể được tính theo công thức đã nêu trong mục 3.1, phần I - chương I), coi đó là một căn cứ xác định thời gian thu hồi vốn vay của Sở giao dịch, chứ không nên chỉ coi trọng tới thời gian thu hồi vốn vay thôi. Cùng các Tổng Công ty xác định các chỉ tiêu NPV, IRR... của dự án dựa trên không chỉ chi phí, giá cả hiện tại mà là chi phí, giá cả được điều chỉnh theo những biến động trong tương lai, và lấy các chỉ tiêu đó làm chủ yếu để đo lường hiệu quả của dự án. Thứ tư thành lập hội đồng tín dụng hoạt động theo quy chế hội đồng tín dụng của ngân hàng Trung ương và quy chế cụ thể của ngân hàng Công thương Việt Nam (đang trong giai đoạn dự thảo) tăng cường vai trò hội đồng tín dụng, nhất là đối với các món vay trung dài hạn lớn của các Tổng Công ty, và đặc biệt trong khâu thẩm định tín dụng và quyết định cho vay. Thứ năm, về quản lý kiểm soát khoản vay, Sở giao dịch nên yêu cầu Tổng Công ty và các đơn vị thành viên có quan hệ vay vốn phải thông báo cho Sở giao dịch khi có sự điều chuyển vốn giữa các thành viên, hoặc giữa thành viên lên Tổng Công ty. Về nguyên tắc thì khấu hao của tài sản hình thành bằng vốn vay mà chưa trả hết nợ ngân hàng thì không được phép điều chuyển; tương tự với tài sản lưu động mua bằng vốn vay chưa trả hết nợ; các tài sản thế chấp (theo các quy định trước đây ) cũng sẽ không được đem điều chuyển. Tuy hiện nay các DNNN (gồm cả những thành viên độc lập thuộc các Tổng Công ty) không phải thế chấp khi vay vốn ngân hàng, nhưng Sở giao dịch vẫn phải kiểm soát chặt chẽ các điều chuyển này để đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng. Sở giao dịch cần thoả thuận trước với khách hàng là đơn vị thành viên Tổng Công ty khối lượng vốn tài sản lớn nhất mà nó có thể điều chuyển đi, điều này cũng cần có xác nhận của Tổng Công ty. Sở giao dịch cần cử cán bộ tín dụng xuống cơ sở nhiều hơn và thường xuyên hơn nữa; khắc phục điều kiện địa bàn rộng với những dự án ở xa Hà Nội; chuẩn bị kỹ lưỡng khi xuống cơ sở, kể cả về kinh phí cho cán bộ tín dụng. Làm được điều này, Sở giao dịch không chỉ tăng cường quản lý, kiểm soát việc sử dụng tiền vay, qua đó còn thể hiện sự nhiệt tình vì lợi ích chung tạo điều kiện gặp gỡ trao đổi tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, phát triển mối quan hệ với các Tổng Công ty, gây dựng tiền đề để mở rộng cho vay các Tổng Công ty. Tóm lại, nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng cho phép Sở giao dịch mở rộng cho vay những phương án, dự án có hiệu quả của các Tổng Công ty. Mặt khác cùng với kiểm soát quản lý các khoản cho vay Tổng Công ty chặt chẽ hơn nữa giải pháp này sẽ giúp nâng cao hiệu quả cho vay, trước hết là đối với các Tổng Công ty và tiếp đó là với Sở giao dịch, tạo ra cơ sở lâu dài, bền vững để mở rộgn cho vay. 4. Đảm bảo nguồn huy động đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các Tổng Công ty. Mặc dù hiện nay, Sở giao dịch đang cần đấu toàn hệ thống. Ngân hàng Công thương vẽ thành tích huy động vốn, song đèu là nguồn ngắn hạn trong đó tiền gửi các tài chính kinh tế chiếm tỷ trọng lớn làm tăng tính không ổn định của nguồn; trong khi ấy nhiều Tổng Công ty có nhu cầu vay vốn trung dài hạn cả bằng nội và ngoại tệ và để cạnh trạnh Sở giao dịch còn phải đưa ra lãi suất ưu đãi. Bởi vậy giải pháp này được đặt ra với Sở giao dịch nhằm tạo đủ khả năng đáp ứng nhu cầu các Tổng Công ty trong thời gian tới, chủ động cân đối nguồn vốn, hạn chế phải nhờ sự hỗ trợ từ trên. Đối với tiền gửi của các tài chính kinh tế, áp dụng các biện pháp ưu đãi tăng lãi suất với các khách hàng có số dư lớn, trong đó có các Tổng Công ty như trên đã đề cập. Mặc dù đây là nguồn vốn lớn, có chi phí vốn rẻ nhưng lại rất kém ổn định. Do vậy để hạn chế điều này, Sở giao dịch nên chủ động làm việc với các đơn vị có nguồn tiền gửi lớn thường xuyên như Tổng Công ty bưu chính viễn thông, Tổng Công ty điện lực, ... để có kế hoạch sử dụng vốn chủ động, có hiệu quả. Để thu hút hơn nữa tiền gửi tiết kiệm, nguồn vốn có chi phí cao hơn nhưng lại rất ổn định, Sở giao dịch nên chấn chỉnh lại hoạt động của 5 quỹ tiết kiệm hiện có đảm bảo phục vụ khách hàng chu đáo, an toàn và hiệu quả. Có thể xem xét nâng cấp lên thành phòng giao dịch ở những quỹ tiết kiệm có doanh số lớn, và gồm các khách hàng lớn, đi đôi với mở thêm một số quỹ tiết kiệm ở một số nơi cần thiết. Để đáp ứng nhu cầu vay ngoại tệ của các Tổng Công ty, Sở giao dịch cần tăng cường huy động vốn ngoại tệ thông qua cả các nguồn tiền gửi các tài chính kinh tế, tiền tiết kiệm và tiền gửi các tài chính tín dụng. Cho vay cầm cố các sổ tiết kiệm ngoại tệ gửi tại Sở giao dịch với tỷ lệ vốn cho vay số tiền tiết kiệm cao (từ 90 - 95%, tuỳ theo thời hạn còn lại của sổ) để khuyến khích cá nhân gửi tiết kiệm ngoại tệ. Mặt khác, vận động các đơn vị có hàng xuất khẩu mở tài khoản tiền gửi và chiết khấu bộ chứng từ tại Sở giao dịch. 5. Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa Sở giao dịch với các cơ quan, tổ chức. 5.1. Đối với ngân hàng Công thương Việt Nam và các chi nhánh Ngân hàng Công thương bạn. Tiếp tục duy trì quan hệ chặt chẽ giữa Sở giao dịch với ngân hàng Công thương Việt Nam, chủ động đề nghị ngân hàng Công thương Việt Nam giao cho thực hiện những món cho vay với các Tổng Công ty hợp với khả năng quản lý của Sở giao dịch; cùng phối hợp với Hội sở thẩm định những dự án lớn, phức tạp; thường xuyên trao đổi các thông tin về khách hàng nhận được khi trung ương có yêu cầu hoặc theo chiều ngược lại; cố gắng tới mức cao nhất đạt và vượt kế hoạch do ngân hàng Công thương Việt Nam giao, trong đó có kế hoạch huy động vốn và điều chuyển lên trung ương, bằng cách như vậy, Sở giao dịch mới có thể chứng tỏ được vị trí của mình, có cơ sở để được ngân hàng Công thương Việt Nam giao thực hiện các món cho vay lớn. Đối với các chi nhánh cùng hệ thống nhất là cùng trên địa bàn Hà Nội, quán triệt nguyên tắc phải phối hợp vì lợi ích chung của hệ thống, không có kéo khách hàng của nhau dẫn đến tổn hại uy tín của ngân hàng Công thương Việt Nam. Trên thực tế hiện nay một Tổng Công ty có thể quan hệ với nhiều chi nhánh của ngân hàng Công thương Việt Nam, chẳng hạn như Tổng Công ty than, cơ quan Tổng Công ty đặt quan hệ với chi nhánh ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, trong khi ấy Công ty than nội địa lại có quan hệ với Sở giao dịch; tương tự nhiều Công ty thành viên Tổng Công ty dệt may có quan hệ vay vốn ở nhiều chi nhánh ngân hàng Công thương. Đây chính là cơ sở khách quan của việc phối hợp giữa Sở giao dịch với các chi nhánh khác trong hoạt động cho vay các Tổng Công ty và thành viên, đồng thời điều này còn nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống. Việc phối hợp có thể diễn ra trên các mặt như thông tin, tiếp thị, thẩm định, trao đổi học tập kinh nghiệm lẫn nhau... Đây cũng chính là sự liên kết phối hợp giữa các thành viên một Tổng Công ty, bởi Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng là một Tổng Công ty được thành lập theo mô hình một Tổng Công ty 90. 5.2. Đối với cá ngân hàng khác trên địa bàn. Mối quan hệ này là quan hệ vừa cạnh tranh, vừa hợp tác. Để mở rộng cho vay với nền kinh tế, đặc biệt là với các Tổng Công ty thì Sở giao dịch phải giải quyết tốt mối quan hệ này. Các NHTM quốc doanh hiện nay luôn thủ thế lẫn nhau và với các ngân hàng liên doanh. NHTM CP, ngân hàng nước ngoài trong mối quan hệ với các Tổng Công ty. Trong điều kiện ấy, các quyết định cụ thể về mức ưu đãi trong lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi hay phí dịch vụ Sở giao dịch áp dụng đối với các Tổng Công ty và thành viên không chỉ dựa vào các mức theo hướng dẫn của ngân hàng Công thương, mức chi phí của Sở giao dịch mà còn phải căn cứ cả vào các mức ưu đãi tương ứng của các đối thủ cạnh tranh trên địa bàn, nhằm tạo ra một sự khác biệt hấp dẫn các Tổng Công ty. Mặt khác công tác bảo mật thông tin cần được coi trọng nhất là đối với cho vay các Tổng Công ty để thực hiện các dự án, chương trình của Chính phủ với nguồn trả nợ chắc chắn, độ rủi ro xấp xỉ bằng 0. Tuy vậy, cũng cần xác định một mức độ bảo mật hợp lý, và Sở giao dịch có thể cùng trao đổi thông tin về các Tổng Công ty và thành viên cũng có quan hệ vay vốn ở Sở giao dịch và ngân hàng khác trên nguyên tắc hợp tác cùng có lợi trong các giai đoạn thẩm định lẫn quản lý món vay. Trên nguyên tắc “có đi có lại”, Sở giao dịch có thể thu thập được nhiều thông tin về một Tổng Công ty hay thành viên xin vay vốn mình từ các ngân hàng khác; việc phối hợp cùng kiểm tra giám sát các khoản vay, nhất là đối với vay vốn lưu động sẽ rất hữu ích, nó giúp phân tách rõ ràng tài sản lưu động nào được hình thành từ vốn vay Sở giao dịch phần nào từ các ngân hàng khác, khiến cho khách hàng của Sở giao dịch thật thà hơn. Trên giác độ ấy, sự phối hợp giữa Sở giao dịch với các tài chính tín dụng khác trên địa bàn có tác dụng hạn chế rủi ro tín dụng, tạo điều kiện mở rộng cho vay. Một hình thức hợp tác khác mà Sở giao dịch đã áp dụng là thực hiện cho vay đồng tài trợ, tuy nhiên thời gian qua mới chỉ có một dự án là xây dựng khách sạn Hà Nội, Sở giao dịch cùng đồng tài trợ với Vietcombank Hà Nội, chứ chưa cho vay dự án nào của các Tổng Công ty theo hình thức này. Hiện nay Sở giao dịch đang được Vietcombank mới tham gia đồng tài trợ cho dự án đuôi hỏi Phú Mỹ của Tổng Công ty điện lực. Đây là một hình thức hợp tác trong cho vay với một khách hàng mới được áp dụng vào nước ta, việc thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của các tài chính tín dụng ban hành theo quyết định 154/2001/QĐ - NHNN 14 của Thống đốc NHNN Việt Nam. Cho vay hợp vốn đáp ứng nhu cầu phân tán rủi ro của tài chính tín dụng cũng như giải quyết các khó khăn về nguồn vốn, do vậy Sở giao dịch sẽ có thể cho vay nhiều dự án mà nếu tự mình nó sẽ không dám đầu tư hoặc không có khả năng đầu tư. Sở giao dịch thực hiện cho vay hợp vốn với các tài chính tín dụng khác với một trong hai tư cách. Thứ nhất, Sở giao dịch nhận được yêu cầu xin vay, thấy cần thiết phải áp dụng hình thức này Sở giao dịch báo cho ngân hàng Công thương Việt Nam xin phép mời đồng tài trợ. Nếu ngân hàng Công thương Việt Nam đồng ý, nó có thể uỷ quyền cho Sở giao dịch đứng lên mời đồng tài trợ, lúc đó Sở giao dịch đóng vai trò đầu mối. Thứ hai Sở giao dịch có thể đóng vai trò là một bên đồng tài trợ, khi được các tài chính tín dụng mời tham gia, và được uỷ quyền của ngân hàng Công thương Việt Nam. Đây là phương thức Sở giao dịch có thể áp dụng để mở rộng cho vay với nền kinh tế nói chung, với các Tổng Công ty và thành viên nói riêng. Loại hình này cũng tỏ ra thích hợp với các dự án cần vay trung dài hạn của các Tổng Công ty, với số tiền vay lớn. Thời gian vừa qua, ngân hàng Công thương Việt Nam và Vietcombank đã có ghi nhớ về hợp tác giữa hai ngân hàng, trong đó có hợp tác trong tín dụng dưới dạng cho vay hợp vốn. Thời gian tới Sở giao dịch có thể tìm kiếm các đối tác đáng tin cậy khác từ nhóm các ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài để cho vay đồng tài trợ các dự án, nhất là các nhóm Tổng Công ty. 5.3. Đối với các cơ quan chức năng. Hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động cho vay nói riêng phụ thuộc rất lớn vào mối quan hệ này. Hơn nữa ở Việt Nam, có rất nhiều dự án được đầu tư theo chỉ định của Chính phủ, và danh mục những dự án này lại nằm trong tay các cơ quan quản lý như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sổ kế hoạch và Đầu tư, Sở công nghiệp, cấp chủ quản chủ đầu tư, ... Bởi vậy, Sở giao dịch nên chủ động tiếp cận các khách hàng tốt, dự án có tính khả thi, liên hệ với các cơ quan liên quan để đề nghị Bộ kế hoạch và Đầu tư, NHNN chuyển dự án cho Sở giao dịch cho vay. Việc quan hệ thường xuyên với các cơ quan trên tạo điều kiện nắm bắt kịp thời danh mục những dự án này lại nằm trong tay các cơ quan quản lý như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sở kế hoạch và đầu tư, Sở công nghiệp, cấp chủ quản chủ đầu tư... Bởi vậy, Sở giao dịch nên chủ động tiếp cận các khách hàng tốt, dự án có tính khả thi, liên hệ với các cơ quan liên quan để đề nghị Bộ Kế hoạch và đầu tư, NHNN chuyển dự án cho Sở giao dịch cho vay. Việc quan hệ thường xuyên với các cơ quan trên tạo điều kiện nắm bắt kịp thời danh mục dự án đồng thời tạo được uy tín với họ và sẽ dễ được giao cho phục vụ các dự án, mà một phần lớn các dự án này được thực hiện thông qua các Tổng Công ty. Mặt khác do tính hành chính - mệnh lệnh trong nền kinh tế nước ta còn cao, nhiều Tổng Công ty và thành viên có quan hệ vay mượn với một ngân hàng nào đó là do sự gợi ý của cấp trên; trong điều kiện ấy nếu Sở giao dịch quan hệ tốt với các cơ quan “cấp trên” này, sẽ góp phần mở rộng cho vay các Tổng Công ty nói riêng, hệ thống DNNN nói chung. Như vậy, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa Sở giao dịch với hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam, với các tài chính tín dụng trên địa bàn và với các cơ quan chức năng sẽ tạo điều kiện vững chắc để Sở giao dịch mở rộng cho vay các Tổng Công ty và thành viên. Đối với hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam, đó là quan hệ phối hợp trong cho vay cũng như quan hệ với các Tổng Công ty về mặt thông tin, tiếp thị thẩm định, tài chính, quản lý; đối với các tài chính tín dụng trên địa bàn là quan hệ vừa cạnh tranh vừa hợp tác; đối với các cơ quan chức năng là quan hệ hỗ trợ. Tóm lại, thực hiện việc mở rộng cho vay các Tổng Công ty đòi hỏi Sở giao dịch áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có 5 giải pháp nêu trên đây là: thứ nhất, thực hiện một chiến lược khách hàng hướng vào các Tổng Công ty, thứ hai, chủ động tiếp cận các dự án của các Tổng Công ty để cho vay; thứ ba, nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng và kiểm soát món vay; thứ tư, đảm bảo nguồn vốn đáp ứng các nhu cầu vay của các Tổng Công ty và thứ năm là giải quyết hài hoà mối quan hệ với các cơ quan tổ chức. Đây là những giải pháp theo người viết có tác dụng nổi bật nhất, ngoài ra còn có các giải pháp thường xuyên khác chẳng hạn như nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ Sở giao dịch. Tuy nhiên, Sở giao dịch hoạt động trong hành lang các điều kiện mà chính phủ, NHNN và ngân hàng Công thương tạo ra, nếu cố định các giải pháp Sở giao dịch áp dụng thì để mở rộng cho vay các Tổng Công ty nó cần có các điều kiện thuận lợi hơn từ phía các cơ quan trên. Đây chính là xuất phát của một số kiến nghị ở phần tiếp theo. Song với tư cách là một doanh nghiệp, Sở giao dịch phải biết chấp nhận các điều kiện môi trường, thực hiện các giải pháp mở rộng cho vay các Tổng Công ty. Đấy là mục tiêu chính của phần này. III - Kiến nghị. Nếu như một NHTM hoạt động trong một hành lang hẹp của các điều kiện và quy định ngân hàng Trung ương và Chính phủ đặt ra, thì hành lang ấy sẽ hẹp hơn nữa với Sở giao dịch, bởi nó là một chi nhánh phụ thuộc của ngân hàng Công thương. Theo ý nghĩa ấy, để mở rộng cho vay các Tổng Công ty tại Sở giao dịch, ngoài việc thực hiện các giải pháp nêu trên tại Sở giao dịch, người viết mạnh dạn nên một số kiến nghị với các cơ quan trên. 1. Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam. Thứ nhất, tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ. Ngân hàng Công ty hiện có một trung tâm đào tạo và thời gian qua đã phát huy tác dụng tích cực, tuy nhiên chưa nhấn mạnh việc đào tạo chuyên môn hoá cho cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ tín dụng nói riêng. Mặt khác, nhiều kiến thức cần thiết (chẳng hạn kiến thức chung về kinh tế thị trường, các lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật cụ thể) thì trung tâm chưa có điều kiện để giảng dạy. Bởi vậy thiết nghĩ trong thời gian tới, ngân hàng Công thương nên tổ chức các lớp đào tạo cán bộ tín dụng theo hướng chuyên môn hoá nữa, nhấn mạnh vào một số hoạt động như marketing ngân hàng (tìm kiếm khách hàng), thẩm định dự án ... hay về các nhóm khách hàng như hoạt động cho vay với các Tổng Công ty. Nên khuyến khích cán bộ tư đào tạo, tạo điều kiện cho họ theo học ở các trường Đại học, chú trong tới nâng cao khả năng sử dụng công nghệ hiện tại của họ. Thứ hai, nhanh chóng ban hành quy chế Hội đồng tín dụng của Ngân hàng Công thương (phù hợp với quy chế của NHNN) nhằm rút ngắn thời gian ra quyết định cho vay, nhất là những khoản vay lớn của các Tổng Công ty và thành viên, nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng. Thứ ba, mạnh dạn giao cho Sở giao dịch thực hiện các khoản cho vay với các Tổng Công ty phù hợp với khả năng quản lý. Phân công, phối hợp với Sở giao dịch, trong công tác tiếp thị đối với các Tổng Công ty, trong đó có việc tổ chức do ngân hàng Công thương tổ chức giành cho tất cả các Tổng Công ty có quan hệ giải quyết các vấn đề chung về chính sách với nhóm khách hàng này (ưu đãi chẳng hạn), còn hội nghị khách hàng do Sở giao dịch tổ chức có quy mô hẹp hơn, đáp ứng những yêu cầu cụ thể (chẳng hạn lãi suất, hay phí dịch vụ ưu đãi chính xác ...). Thứ tư, xem xét áp dụng hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn dài hơn một năm (các kỳ hạn 18 tháng, 24 tháng tỏ ra thích hợp hơn cả) bên cạnh hình thức huy động bằng phát hành kỳ phiếu ngân hàng khi có nhu cầu; nghiên cứu biện pháp thu hút mạnh hơn nữa ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng Công thương. Từ đó hỗ trợ tốt hơn về nguồn vốn với Sở giao dịch cũng như các chi nhánh khác thông qua điều chuyển, đáp ứng nhu cầu của các Tổng Công ty. 2. Đối với NHNN Việt Nam Với vai trò là cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tệ - tín dụng - ngân hàng, để tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng tín dụng với nền kinh tế nói chung, mở rộng cho vay các Tổng Công ty nói riêng, NHNN có thể xem xét: Thứ nhất sửa đổi lại một số điểm của “Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng” để phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn. Nên cho phép các NHTM cho vay để nộp thuế. bởi vì trên thực tế, quy định không cho vay nộp thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng gây khó khăn cho đơn vị phải nhập khẩu những lô hàng lớn về dự trữ và những mặt hàng thuế nhập khẩu chiếm tới 30 - 50%. Thứ hai, ban hành đồng bộ các văn bản pháp quy để hướng dẫn thực hiện luật tài chính tín dụng và luật NHNN Việt Nam. Thứ ba, cải thiện hệ thống thông tin tín dụng với vai trò của trung tâm thông tin tín dụng (CIC) - NHNN. Thông tin về tín dụng là điều kiện không thể thiếu trong mở rộng cho vay. Trung tâm thông tin tín dụng hiện đã được thành lập theo nghị định 88/CP và quyết định 68/2002/QĐ - NH9 ngày 27/02/2002 của Thống đốc NHNN trên cơ sở tổ chức tại trung tâm thông tin tín dụng thuộc vụ tín dụng (cũ). Tuy nhiên khả năng nắm bắt và cung cấp thông tin của nó còn rất giới hạn do lệ thuộc nhiều vào nguồn cung cấp của các tài chính tín dụng, thường không đầy đủ và thiếu tính thời sự - NHNN cần quy định tất cả các tài chính tín dụng tại Việt Nam phải là thành viên của CIC; đồng thời mở rộng các nguồn thu nhập thoả đáng. Hiện đại hoá cơ sở vật chất - kỹ thuật hổng thu thập, xử lý và cung cấp thông tin . 3. Về phía Chính phủ. Các kiến nghị nhằm vào tăng hiệu quả hoạt động của các Tổng Công ty, từ đó tạo điều kiện vững chắc để mở rộng cho vay với các đơn vị này. Đó là: Thứ nhất, đẩy mạnh việc xoá bỏ chế độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản đi đôi với phân công đầu mối quản lý, theo dõi các Tổng Công ty; hạn chế sự can thiệp hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các Tổng Công ty, tăng cường chế độ tự chịu trách nhiệm. Thứ hai, tăng cường trách nhiệm đi đôi với mở rộng chức năng, quyền hạn của Hội Đồng quản trị theo đúng nghĩa là đại diện chủ sở hữu vốn; phân định rõ quan hệ giữa Hội đồng quản trị và Chủ tịch Hội đồng quản trị với Tổng giám đốc. Thứ ba, giải quyết hài hoà mối quan hệ Tổng Công ty - Công ty thành viên theo hướng nâng cao sức gắn kết nhưng lại phát huy tính chủ động sáng tạo của đơn vị thành viên. Có quy chế điều chuyển vốn, tài sản rõ ràng, tránh việc đẩy rủi ro trên về phía ngân hàng. Thúc đẩy thành lập Công ty tài chính trong tất cả các Tổng Công ty. Thứ tư, thí điểm đa dạng hoá sở hữu trong Tổng Công ty, trong đó Nhà nước vẫn là chủ sở hữu chi phối; cho phép các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá vẫn là thành viên Tổng Công ty. Kết luận Qua toàn bộ quá trình nghiên cứu, chúng ta đã xem xét từ những vấn đề chung trong hoạt động cho vay các Tổng Công ty của một NHTM tới thực trạng hoạt động đó ở Sở giao dịch I, từ đó đề ra các giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng cho vay các Tổng Công ty - tại Sở giao dịch I. Để đạt hiệu quả cao, đòi hỏi chi nhánh phải kết hợp đồng bộ các giải pháp. Về phía ngân hàng Công thương Việt Nam, NHNN Việt Nam và Chính phủ, người viết cũng mạnh dạn nếu một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện cho Sở giao dịch I cũng như các NHTM khác mở rộng cho vay các Tổng Công ty một cách có hiệu quả. Toàn bộ chuyên đề cũng đã nêu bật vấn đề mở rộng cho vay với các Tổng Công ty cũng phải đi đôi với hiệu quả cho vay. Đó là một cơ sở bền vững để tiếp tục mở rộng cho vay các Tổng Công ty. Chuyên đề nhằm giải quyết một vấn đề cụ thể tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương, nhưng nó có nhiều ý nghĩa với các NHTM và chi nhánh có điều kiện tương tự. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng đã đề cập tới các vấn đề liên quan (như hoạt động cho vay của NHTM, đặc điểm các Tổng Công ty, và tác động tới hoạt động cho vay của NHTM...) Đây là những vấn đề có thể được tham chiếu khi nền kinh tế nước ta xuất hiện cả những tập đoàn kinh doanh sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Cuối cùng, dù đã giành nhiều thời gian và công sức, chuyên đề còn có thể có nhiều hạn chế, nhiều vấn đề tiếp tục cần làm rõ. Tác giả rất cám ơn sự phê bình, góp ý của các thầy cô và người đọc. Hà Nội, ngày 29 tháng 05 năm 2002 Chu Văn Tài liệu tham khảo 1. NHTM - NXB thành phố Hồ Chí Minh 1996. 2. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại - David Cox - NXB Chính trị quốc gia 2000. 3. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - Fredric S.Miskikin - NXB Khoa học - kỹ thuật 1998. 4. Giáo trình tài chính doanh nghiệp - Lưu thị trường - NXB Giáo dục 5. Quản trị tài chính doanh nghiệp - Vũ Duy Hào, Đàm Văn Huệ - NXB 6. Luật DNNN - ngày 20/4/1998 7. Quyết định 90/TTg, 91/TTg ngày 7/4/1997. 8. Nghị định 388/HĐBT; 39/CP ngày 27/6/1998; 59/CP ngày 3/10/1999. 9. Quyết định 838 - TC/ QĐ/TCDN ngày 28/8/1999 và một số văn bản pháp quy khác. 10. Các tạp chí Ngân hàng, Tài chính, Thương mại, thị trường tài chính - tiền tệ, kinh tế phát triển, phát triển kinh tế một số trong các năm từ 1997 trở lại đây. 11. Một số báo: Thời báo ngân hàng, Thương mại, Thời báo tài chính các số đầu năm 2002. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0049.doc
Tài liệu liên quan