Giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ Cổ phần hóa

LỜI NÓI ĐẦU Trong tình hình nước ta hiện nay thì việc cổ phần hoá một bộ phận các Doanh nghiệp Nhà Nước (DNNN) đã và đang là một vấn đề bức xúc . Không riêng gì ở Việt Nam , mà ngay cả ở các nước Tư bản phát triển thì cácDNNN đều sử dụng đồng vốn kémm hiệu quả hơn các doanh khác trong nền kinh tế . Trước năm 1992 ở nước ta có trên 6000 DNNN tồn tại và hoạt động , trong số này có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả : không có lãi và thậm chí thua lỗ. Nếu để các doanh nghiệp này t

doc47 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ Cổ phần hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iếp tục hoạt động thì sẽ có rất nhiều bất lợi cho sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế. Vì thế cần phải tiến hành cải cách các DNNN này. Từ năm 1992 Nhà Nứoc đã có chủ trương cổ phần hoá các DNNN, chuyển một số DNNN sang công ty cổ phần. Đây là một chính sách kinh tế quan trọng trong công cuộc đổi mới ,vừa đáp ứng được nhu cầu trứoc mắt là huy động vốn cho công cuộc xây dựng kinh tế , vừa đáp ứng được lợi ích lâu dài.Phát triển công ty cô phần sẽ như một đòn bẩy kinh tế đồng thời nó cũng là nền tảng cho Thị trường chứng khoán hình thành và phát triển, vì hoạt động của các công ty cổ phần với công cụ là cô phiếu sẽ có khả năng huy động vốn để đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất,kinh doanh. Công ty cổ phần và cổ phiếu luôn gắn liền với nhau, mà cổ phiếu lại là hàng hoá rất quan trọng ( không thể thiếu ) đối với hoạt đông của Thị trường chứng khoán . Việc cổ phần hoá các DNNN một mặt nhằm thúc đẩy quá trình xử lý và khắc phục những tồn tại yếu kém hiện của các doanh nghiệp, mặt khác tạo điều kiện để huy đông vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, giúp người lao động thực sự là chủ doanh nghiệp đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . ngày 29/6/1998 Thủ tướng Chính Phủ đã kí ban hành nghị định số 44/1998/NĐ-CPvề việc chuyển một số DNNN sang cônh ty cổ phần. Tiến độ thực hiện cổ phần hoá các DNNN hiện nay diễn ra chậm chạp số DNNNđã cổ phần hoá còn ít. Vì sao tiến độ cổ phần ở nước lại diễn ra chậm ? Giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá làgì?Đây là vấn đề cần được xemm xét nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp đẩy nhanh tiến độ cổphần ở nước ta. Cổ phần hoá là vấn đề rất được quan tâm, nghiên cứu. Bài viết của em chắc chắn lá không thể tránh được những xai xót, vì thế để hoàn chỉnh bài viết này em mong nhận được sự hướng dẫn chỉ bảo của thầy. PHẦN I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC I.TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HOÁ. 1.Cổ phần hoá là gì ? Cổ phần hoá là sự chuyển đổi các DNNN thành các công ty cổ phần hoạt động theo luật công ty nâưm 1990 trong đó Nhà Nước nắm giữ quyền sở hữu một tỉ lệ nhất định( tất cả hoặc một phần trong tất cả cổ phần). Nói cách khác: cổ phần hoá chính là sự sửa đổi quyền sở hữu( 1 phần hoặc tất cả cổ phần) của Nhà Nước thành sở hữu của tư nhân . Hay có thể nói cổ phần hoá là quá trình chuyển từ hình thức sở hữu Nhà Nước sang sở hữu hỗn hợp. 2. Mục đích cửa việc cổ phần hoá. Việc cổ phàn hoá các DNNN nhằm 4 mục đích sau. - Nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN hay của khu vực Nhà Nước nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. - Xác định lại cơ cấu kinh té với nền tảng là kinh tế Nhà Nước và đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh,tạo ra một môi trường kinh tế tích cực, đảm bảo tính công bằng giữa các thành phần kinh tế, xoá bỏ từng bước hoặc toàn bộ lối kinh doanh độc quyền, của các DNNN. - Điều hoà lợi ích của các lực lượng kinh tế, các nhóm và các tầng lớp nhằm nâng cao vai trò làm chủ thực sự của người lao động, tạo thế ổnđịnh về chính trị,xã hội làm động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh của DNNN có hiệu quả hơn trên cơ sở đó thúc đẩy phát triển kinh tế. - Giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà Nước, huy động một khối lượng vốn nhất định trong nước và tạo cơ hội vay mượn tín dụng quốc tế. 3.Vấn đề sở hữu trong cổ phần hoá. Trước đây trong thời kì bao cấp, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn trong các DNNN đều tập chung vào các cơ quan quản lý Nhà Nước được điều hành theo cơ chế tập chung hành chính mệnh lệnh. Đây là nguyên nhân chủ yếu làm cho giói quản lý và người lao động thờ ơ với vốn và tài sản trong các DNNN. Từ sau quyết định số 217/1987/QĐ-HĐBT về sự đồng nhất quyền sở với quyền quản lý sử dụng của tập thể công nhân viên chức đã làm cho vốn và tài sản trong doanh nghiệp trở nên “ vô chủ”. Sự tuyệt đối hoá quyền tự chủ của các DNNN đưa đến tình trạng không kiển soát vốn và tài sản trong doanh nghiệp, donah nghiệp vừa sản xuất, kinh doanh vừa làm chức năng sở hữu từ đó dễ nảy sinh tiêu cực:tệ nạn tham nhũng, tình trạng quan liêu ở những người lãnh đạo ngày càng phát triển, họ muốn biến tài sản của toàn dân thành của riêng dưới mọi hình thức. Để khắc phục những hạn chế trên thì Hội Đồng Bộ Trưởng đã ban hành quyết định số 143 quy định Nhà Nước với chức năng quản lý kinh tế của mình,thực hiện việc hướng dẫn,kiểm soát mọi hoạt động kinh tế nói chung và các DNNN nói riêng nhằm bảo toàn và tăng trưởng vốn cho các DNNN . Nhà Nước thành lập doanh nghiệp , xác định mục tiêu định hướng cho các doanh nghiệp phát triển , bổ nhiệm bãi miễn các chức năng chủ chốt…nhưng thực ra trong cơ chế này ”Ai” là chủ sở hữu đích thực về số vốn và tài sản là không rõ và liệu doanh nghiệp có tự chủ trong kinh doanh nữu hay không? Tất cả các cải cách và hoàn thiện trên đều không giải quyết được triệt để, nếu không làm rỗ vấn đề về quyền sở hữu và lợi ích trong các DNNN. Để giải quyết được vấn đề này Nhà Nước ta đã có chủ trương cổ phần hoá các DNNN từ năm 1992, nhằm đánh giá lại vốn và tài sản của doanh nghiệp, chuyển đổi quyền sở hữu đối với các loại vốn và tài sản đó. Để thực hiện chủ trương này , Chính Phủ đã ban hành một số văn bản pháp lý : Nhgị định số 28/96/NĐ-CP ngày 7/5/1996 , sau đó là Nghị định số 44/1998/NĐ-CP của Thủ Tướng Chính Phủ kí ngày 29/6/1998 , nhằm chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần cũng có nghĩa là chuyển một phần dụng vốn và tài sản của Nhà Nước thành của tư nhân , của người lao đông trong công ty thông qua việc mua cổ phiếu của công ty . Người nắm giữ cổ phiếu của công ty cổ phần là một trong những chủ sở hữu của công ty trong phạm vi phần vốn góp mà mình đã bỏ ra để mua cổ phiếu đó . Họ sẽ có trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ đối công ty của họ hơn. Vấn đề về sở hữu vốn,tài sản rất rõ ràng. Người lao động cũng phải tham gia vào quyền sở hữu với tư cách là người góp vốnvà sẽ được hưởng một phần đối với lợi nhuận giữ lại , lợi nhuận đem chia hay để tái đầu tư , nhưng đồng thời họ cũng phải chịu những rủi ro về hậu quả do hoạt động sản xuất , kinh doanh gây ra trong phạm vi phần vốn góp của mình. Đối với nguồn vốn tài nguyên chủ sở hữu luôn luôn là Nhà Nước và không hề thay đổi . Đó chính là quyền Nhà Nước tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào quản lý , định hướng phát triển doanh nghiệp và hiệu quả do lợi ích của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mang lại. Đó chính là ba loại vốn cùng ba loại chủ sở hữu trong các DNNN mà Nhà Nước cầm phải nghiên cứu khi tiến hành cổ phần hoá. 4. Một số khái niệm liên quan đến cổ phần hoá. 4.1 Công ty cổ phần. Công ty cổ phần là một loại doanh nghiệp trong đó có các cổ đông cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp của mình. Theo điều 51 chương 4Luật doanh nghiệp về công ty cổ phần. “ 1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó a. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhauđược gọi là cổ phần. b. Cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi vốn góp của mình c.Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho ngưòi khác d. Công ty cổ phần có số lượng cổ đông tối thiểu là 3 2.Công ty cổ phần có quyền phát hành Chứnh Khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về Chứng Khoán. 3. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh 4.2 Cổ phần. Cổ phần là số vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau. Trước đây theo Luật công ty năm 1990 chỉ có một loại cổ phần nghĩa là Mọi cổ đông đều cố quyền và nghĩa vụ đối với công ty như nhau. Đến năm 1999 Luật doanh nghiệp của Việt Nam đã có những thay đổi và cổ phần được chia thanh nhiều loại khác nhau. a.Cổ phần phổ thông. Người sở hữu cổ phần phổ thông được gọi là cô đong phổ thông. b.Cổ phần ưu đãi. b.1 Cổ phần ưu đãi biểu quyết: không được chuyển nhượng cho người khác. b.2 Cổ phần ưu đãi cổ tức; là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ phần phổ thông. Các cổ đông sở hữu cổ phần này không có quyền tham gia đại hội đồng cổ đông. b.3 Cổ phần ưu đãi hoàn lại: Cổ đông được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ lúc nào theo yêu cầu của cô đông hoặc theo các điều kiện ghi trong cổ phiếu hoặc cổ phần ưu đãi hoàn lại. 4.3 Cổ phiếu. Cổ phiếu là loại chứng chỉ có giá do các công ty cổ phần hay các công ty tài chính phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty hay tổ chức đó. Cổ phiếu thường (cổ phiếu không ghi tên) : được bán cho tất cả mọi người. b. Cổ phiếu ưu đãi(cổ phiếu ghi tên): giành cho những người có công sáng lập công ty 4.4 Trái phiếu. Trái phiếu là loại chứng chỉ có giá do Nhà Nước hay các pháp nhân phát hành, xác nhận quyền chủ nợ của người nắm giữ trong việc nhậnh vốn gốc và lãi suất được ghi trên trái phiếu , lời hứa của người phát hành và các cam kết khác, cũng như ngày trả vốn gốc và ngày đáo hạn . Trái phiếu công ty là một loại chứng chỉ có giá do công ty phát hành, xác nhận quyền chủ nợ của sở hữu nó theo điều lệ công ty. 4.5 Thị trường Chứng Khoán và mối quan hệ với công ty cổ phần. Thị trương Chứng Khoán là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều khiển, đó là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi các loại chứng thư như:trái phiếu, cổ phiếu, kì phiếu. Qua đó giá của nó được hình thành theo cung cầu trên thị trường. Thị trường Chứng Khoán là cầu nối giữa người cần vốn với người có vốn và muốn đầu tư. *Mối liên hệ giữa thị trường Chứng Khoán với công ty cổ phần. Khi tiến hành cổ phần hoá chuyển DNNN thành công ty cổ phần sẽ phát hành cổ phiếuvà bán cho cán bộ và công nhân lao động trong công ty. Công cụ để huy động vốn của công ty cổ phần chính là cổ phiếu nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh . Công ty cổ phần và cổ phiếu là gắn liền với nhau. Các cổ đông khi đã mua cổ phần của công ty thì đồng vốn sẽ nằm lại trong công ty, khi cần tiền họ sẽ làm gì để có được số tiền mà họ đã đầu tư? Lí do thứ 2 là việc bán cổ phiếu không linh động, những nhà đầu tư muón mua cổ phần của công ty nhưng do đã hết thời hạn phát hành cổ phiếu mà lại chưa tới đợt phát hành mớithì làm thế nào? Vì thế cần phải có một nơi để mua đi bán lại, chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty của công ty cổ phần một cách dễ dàng, để đáp ứng kịp thời nhu cầu của những người cần vốn và người có vốn. Nơi đó chính là Thị trường Chứng Khoán. Nhưng để thúc đẩy sự hình thành tồn tại và phát triển của Thị trường Chứng Khoán thì cần đẩy mạnh tiến độ cổ phần hoá các DNNN nhằm làm tăng số lượng hàng hoá trên Thị trường Chứng Khoán. Đối với các công ty cổ phần thì cần phải khuyến khích họ tham gia niêm yết trên Thị trường Chứng Khoán nhằm thúc đẩy hoạt động của Thị trường Chứng Khoán được linh hoạt và mạnh mẽ hơn. II.QUY TRÌNH TIẾN HÀNH CỔ PHẦN HOÁ DNNN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TIẾN ĐỘ CỔ PHẦN HOÁ CÁC DNNN. A.Quy trình tiến hành cổ phần hoá DNNN. Trên cơ sở các hiện hành về cổ phần hoá DNNN kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn từ công tác cổ phần hoá các DNNN. Quy trình cổ phần hoá gồm các bước sau. 1.Hội đồng quản trị tổng công ty quyết định thành lập “ Ban cổ phần hoá tổng công ty”. Bao gồm các thành phần: - Giám đốc (phó giám đốc): trưởng ban. - Kế toán trưởng ( trưởng phòng tài chính- kế toán): uỷ viên thường trực. - Trưởng (phó )phòng tổ chức: uỷ viên. - Bí thư (phó bí thư) đảng uỷ, chủ tịch( phó chủ tịch) công đoàn:uỷ viên. 2. Lựa chọn hình thức cổ phần hoá DNNN: gồm - Giữ nguyên giá trị hiện có. - Phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. - Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp. - Tách một bộ phận doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá. 3. Tổ chức tập huấn cho ban cổ phần hoá và cán bộ công nhân viên chức của DNNN được cổ phần hoá. 4. Xử lý các tồn tại về tài chính của DNNN trước khi cổ phần hoá. 5. Dự toán chi phí thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệpvà khoá sổ kế toán, lên báo cáo tài chính của doanh nghiệp đến thời điểm cổ phần hoá. 6. Tiến hành đánh giá giá trị của doanh nghiệp. 7. Xây dựng phương án cổ phần hoá. 8. Định mức giá trị cổ phần. 9. Dự kiến phương án về số lượng từng loại cổ phiếu. 10. Báo cáo với bộ chủ quản về kết quả xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. 11. Tổ chức đại hội cán bộ, công nhân viên chức của doanh nghiệp cổ phần hoá. 12. Tiến hành công việc quảng cáo tiếp thị về việc bán cổ phần. 13. Đăng kí các cổ đông và mở sổ theo dõi cổ đông. 14. Hoàn chỉnh bản dự thảo điều lệ công ty cổ phần. 15. Ghi cổ phiếu cho các cổ đông là các pháp nhân và thể nhân. 16. Ban cổ phần hoá bàn giao tài sản, vốn của DNNN được cổ phần hoá sang công ty cổ phần. 17. Ban cổ phần hoá gửi công văn đề nghị cơ quan công an cho phép khắc dấu công ty cổ phần. 18. Ban chỉ đạo cổ phần hoá của bộ có văn bản gửi sở kế hoạch- đầu tư nơi công ty cổ phầnđặt trụ sở để đăng kí kinh doanh. 19. Khai trương hoạt động của công ty cổ phần. B.Những nhân tố ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hoá các DNNN. 1.Cơ chế chính sách. Tiến trình cổ phần hoá diễn ra nhanh hay chậm, theo chiều hướng có lợi hay không có lợi cho nền kinh tế thì phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế chính sách về cổ phần hoá của Nhà Nước. Nó là môi trường của quá trình cổ phần hoá các DNNN. Chính sách có đầy đủ thông thoáng thì mới tạo điều kiện cho công tác cổ phần hoá đạt kết quả cao. Có thể nói cơ chế chính sách là nhân tố quan trọng nhất quyết định tới sự thành công của quá trình cổ phần hoá một số DNNN ở Việt Nam. 2.Sự tham gia của các cán bộ, công nhân viên chức trong các NNN vào quá trình cổ phần hoá. Hiện nay ở nước ta việc cổ phần hầu hết là do sự tự nguyện, tính bắt buộc trong việc cổ phần hoá là không cao, nếu các cán bộ, công nhân viên chức trong doanh nghiệp lại không tham gia hoặc tham gia thiếu tính tích cực thì chắc chắn việc tiến hành cổ phần hoá sẽ gặp rất nhiều khó khăn. 3. Sự ra đời và làm việc kém hiệu quả của Thị trường Chứng Khoán. ở nước ta hiện nay Thị trường Chứng Khoán hoạt động chưa thực sự có hiệu quả, chúng ta chưa có một thị trường vốn theo đúng nghĩa của nó. Số lượng các công ty cổ phần tham gia niêm yết cổ phiếu trên Thị trường Chứng Khoán là quá ít, sự chuyển dịch cổ phiếu thường diễn ra ngầm từ đó làm giảm sự hấp dẫn đối với các công ty cổ phần từ đó cũng làm ảnh hưởng tới tiến độ cổ phần hoá các DNNN. Trên đây chỉ là một số phác hoạ về sự ảnh hưởng của các nhân tố này tới tiến trình cổ phần hoá các DNNNởnước ta. Vấn đề này sẽ còn được đề cập chi tiết hơn ở Phần II. III.MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỔ PHẦN HOÁ Ở CÁC NƯỚC. 1.Một số phương thức tiến hành cổ phần hoá. Trong cơ chế thị trường ngày nay có rất nhiều chương trình cải cách khác nhau, tiến hành cổ phần hoá là một trong số chúng. Các nước trên thế giới nói chung và các nước ở khu vực Châu á và các nước ở Đông Nam A nói riêng thì việc cổ phần hoá các DNNN là nhằm từ đó tiến hành tư nhân hoá . Nói cách khác quá trình cổ phần hoá chỉ là một bước quá độ để tiến tới quá trình tư nhân hoá hoàn chỉnh các DNNN. Trước tiên cần làm rõ 2 khái niệm cổ phần hoá và tư nhân hoá: - Cổ phần hoá thường được dùng để miêu tả sự chuyển một DNNN thành công ty cổ phần hoạt động theo luật công ty trong đó Nhà Nước nắm giữ quyền sở hữu một tỉ lệ nhất định. -Tư nhân hoá là quá trình được tiến hành gồm 2 giai đoạn, trước tiên DNNN được cổ phân hoá sau đó được tư nhân hoá, có nghĩa là doanh nghiệp được bán hoàn toàn cho tư nhân và Nhà Nước chỉ nắm giữ một tỉ lệ cổ phânf nào đó. Vấn đề cổ phần hoá các DNNN thành công ty cổ phần vẫn được nhận thức là một vấn đềcó tính chính trị cực kì nhạy bén và cần phải thúc đẩy. Tuỳ theo đặc điểm của từng quốc gia mà áp dụng một trong những phương pháp cổ phần hóa như sau: Phương pháp 1: Bán các tài sản thuộc sở hữu Nhà Nước, kể cả các DNNN hoặc đất, rừng…thuộc quyền sở hữu Nhà Nước cho tư nhân hoặc người lao động trong DNNN nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ sở để thực hiện phương thức này là trong nền kinh tế thị trường mọi thứ sản phẩm- dịch vụ đều là hàng hoá.Vì vậy các chủ sở hữu phải tìm mọi cách cho hàng hoá sinh lợi. Tuy nhiên đối với các nước phương tây họ không coi đây là giải pháp chính để đổi mới kinh tế. - Phương pháp 2:Tiến hành đổi mới kinh tế nhưng không chấp nhận việc loại bỏ sở hữu Nhà Nước, nó xuất phát từ quan niệm cho rằng Nhà Nước vừa là tác nhân kinh tế điều hành nền kinh tế vừa đóng góp một phần sức mạnh kinh tế cho quốc gia.Thực tế Hàn Quốc và Trung Quốc cho thấy rằng việc cải cách các DNNN theo tình hình trên dễ chấp nhận và mang tính khả thi cao. Trong giai đoạn đầu, ở Trung Quốc việc cho ra đời các công ty cổ phần có đủ điều kiện niêm yết cổ phiếu trên Thị trường Chứng Khoán là rất khó khăn, do cách tiến hành cũng như tiến độ của cổ phần hoá đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của Thị trường Chứng Khoán, làm cho hoạt động của Thị trường Chứng Khoán rất yếu ớtdo có quá ít các công ty cổ phần đủ điều kiện niêm yết cổ phiếu trên Thị trường Chứng Khoán. - Phương pháp 3: Chấp nhận xoá bỏ một phần sở hữu Nhà Nướctại một số ngành thuộc hạ tầng cơ sở hoặc dịch vụmà trươcs đây do những điều kiện đặc thù tư nhân không đầu nên Nhà Nước phải chiu trách nhiệm chính. Việc cổ phần hoá không chỉ bán các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả mà bán cả các doanh nghiệp lầm ăn có lãi. - Phương pháp 4: Chấp nhận xoá bỏ quyền sở hữu Nhà Nước(tiến hành tư nhân hoá các DNNN). Quá trĩnh công nghiệp hoá bỏ quyền sở hữu Nhà Nước đối với DNNN phải thực hiện trên 2 mặt. Một là chuyển hoá toàn bộ khu vực Nhà Nước thành khu vực tư nhân. Cách làm này đến nay chưa quốc gia nào thực hiện được( với một số ngành như năng lượng, hạt nhân thì Nhà Nước vẫn phải đứng ra chịu trách nhiệm chính). Hai là xoá bỏ quyền sở hữu Nhà Nước trong một số DNNN hoặc lĩnh vực cần thiết. Cách làm này còn được rất nhiều nước thực hiện. Bên cạnh 4 phương pháp trên ta có thể tham khảo thêm một quan điểm khác về cổ phần hoá do Ngân hàng Thế giới phổ biến năm 1998 gồm: Bán cổ phần cho tư nhân. Bán cổ phần cho công chúng. Bán các tài sản của Chính Phủ hoặc doanh nghiệp. Đầu tư nhân mới các DNNN. Cho thuê các hợp đồng quản lý. - Đó là một số phương pháp cổ phần hoá tư nhân hoá theo một số quan điểm khác nhau . Việc áp dụng phương pháp nào để tiến hành cổ phần hoá sẽ tuỳ thuộc vào đặc điểm lịch sử , truyền thống và trình độ phát triển của mỗi nước mà vận dụng từ đó định ra cơ chế thích hợp để thực hiện. 2. Một số kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước. 2.1 Quá trình cổ phần hoá ở nước Tư bản phát triển. Trong thập kỉ 80 , các nước Tư bản phát triển, đặc biệt là ở tây Âu, cổ phần hoá được chú ý như là một quá trình làm giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Nhà Nước vào các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế thị trường hỗn hợp. Chính sách cổ phần bao chùm ở các nước này dựa trên quan điểm cho rằng việc tổ chức đời sống kinh tế của xã hội tuân theo các quy luật của thị trường, thương mại hoá sản xuất,cạnh tranh bình đẳng sẽ coa hiệu quả hơn là tuân theo các quan hệ chỉ huy tập chung và thể chế hành chính. Việc cổ phần hoá ở các nước phát triển không phải là để xoá bỏ những chức năng đặc biệt về kinh tế mà chỉ có khu vực kinh tế Nhà Nước mới đảm nhận mà là nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vưcj này. Do đó chính phủ mỗi nước đã lựa chọn phương án cổ phần hoá sao cho không làm suy yếu khu vực kinh tế Nhà Nước, mà trái lại củng cố cho xứng đáng với vị trí quan trọng của nó trong nền kinh tế nhằm thực hiện một loạt các chức năng kinh tế vĩ mô vì lợi ích toàn xã hội. Xét về quy mô, sau khi tiến hành cổ phần hoá, khu vực kinh tế Nhà Nước ở các nước công nghiệp phát triển có sự thu hẹp xét theo các chỉ số về tỉ lệ việc làm, tỉ trọng đồng tư bản cố định và thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, sự suy giảm này không làm thay đổi vai trò của khu vực kinh tế Nhà Nước trong những ngành những lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế, nó vẫn giữ những ảnh hưởng quyết định tới những ngành thuộc cơ sở hạ tầng: năng lượng, giao thông vận tải, bưu điện, truyền hình, viễn thông, công nghiệp nặng( luyện kim đóng tầu, khai thác và chế biến dầu mỏ), các ngành khoa học kĩ thuật cao (hàng không, nhà máy điện nguyên tử). Quá trình cổ phần hoá ở các nước này được thực hiện chủ yếu dưới hình thức bán cổ phiếucủa các công ty quốc doanh hoặc các DNNN qua các sở giao dịch Chứng Khoán,bán đấu giá có giới hạn người mua, hoặc trực tiếp cho những người mua được lựa chọn một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp. Quá trình cổ phần hoá ở các nước phát triển đã mang lại một kết quả hết sức điển hình là hình thành hàng loạt các công ty cổ phần hỗn hợp Nhà Nước- tư nhân,trong đó một số lĩnh vực Nhà Nước giữ cổ phần khống chế,còn một số lĩnh vực khác Nhà Nước chỉ giữ ở mức có thể kiểm soát được hoạt động của chúng. Ví dụ: Chính Phủ Tây Ban Nha bán 38% trong số 94% cổ phần của mình trong công ty “ GASI-ELECTRICSIDAD” do đó vốn Nhà Nước trong công ty chỉ còn 54% Chính Phủ đã dùng số tiền thu được do cổ phần há các công ty quốc doanh không chỉ để giảm thâm hụt ngân sách, mà còn dùng để đầu tư mua cổ phần của các công ty tư nhân trên Thị trường Chứng Khoán, nhằm đảm bảo cho mình nhữnh khoản thu nhập bổ sung, thâm nhập và mở rộng quyền chi phối của mình trong những lĩnh vực cần được kiểm soát và chống độc quyền. Thực hiện chính sách cổ phần hoá đã cho phép Nhà Nước giảm bớt gánh nặng tài trợ ngân sách nhưng vẫn duy trì được khả năng kiểm soát của mình, vì các công ty quốc doanh sau khi cổ phần hoá hình thành dạng công ty cổ phần hỗn hợp đã chuyển sang sử dụng các nguồn vốn khác thay vì nhận từ ngân sách Nhà Nước như trước đây. Các nguồn vốn đó là: các ngân hàng tư nhân, các nhà đầu tư tư nhân, các cơ quan mua cổ phiếu… và Nhà Nước vẫn nắm giữ phần lớn trong các công ty nên Nhà Nước vẫn có khả năng kiểm soát. Nét đặc của quá trình cổ phần hoá ở các nước phát triển là hình thành công ty cổ phần hỗn hợp Nhà Nước- tư nhânhoạt động trên cơ sở thị trường và luật pháp Nhà Nước,cạnh tranh bình đẳng với các khu vực tư nhân để giành vị trí cao chứ không phải có được vị trí độc quyền do Nhà Nước “ ban cho”. Có thể nói thông qua quá trình cổ phần hoá, sự hợp tác và xâm nhập lẫn nhau giữa khu vực kinh tế Nhà Nước và khu vực kinh tế tư nhân kể cả ở các công ty xuyên quốc gia đang hoạt động trên thị trường thế giới là một trong những con đường nhàm nâmg cao hiệu quả của nền kinh tế thị trường ở các nước phát triển hiện nay. 2.2 Quá trình cổ phần hoá ở các nướcđang phát triển. Việc thực hiện cổ phần hoá ở các nước đang phát triển( trong khu vực Châu á cũng như khu vực Đông Nam á) là cổ phần hoá các DNNN trong các ngành nghề thuộc các lĩnh vực mà Nhà Nước xét thấy không cần phải nắm giữ và duy trì sự độc quyền. Vì thé Nhà Nước muốn rút vốn ra và chuyển giao lại khu vực tư nhân nhằm thực sự cạnh tranh công bằng và đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của khu vực kinh tế Nhà Nước. Một mục tiêu nữa đó là cổ phần hoá nhằm phát triển Thị trường Chứng Khoán trong nước, thể hiện đặc biệt nổi bật ở các nước: Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, Thái Lan… Đài Loan với nền kinh tế có thể coi là đã trưởng thành, việc mở rộng sự tự do của nền kinh tế tư nhân đòi hỏi Nhà Nước phải có những chính sách phù hợp. Trong những năm 80 Chính Phủ Đài Loan đã ban hành hàng loạt các chính sách và biện pháp để thực hiện cổ phần hoá một số DNNN làm ăn phi hiệu quả trong nhiều năm. Năm1984 Chính Phủ đã xây dựng chương trình đổi mới quản lý DNNN. Năm 1987, một số DNNN thuộc ngành công nghiệp được cổ phần hoá, đến năm1989 các doanh nghiệp thuộc ngành nông nghiệp cũng được cổ phần hoá và tư nhân hoá. Đi liền với chính sách ổn định giá cả trong nông nghiệp, các chính sách giải quyết vấn đề lao động và việc làm có sự điều tiết của Nhà trong các DNNN được cổ phầm hoácũng được ban hành. Cho đến năm 1995 ở Đài Loan đã có khoảng một phần hai số DNNN được tiến hầnh cổ phần hoá. 3.Kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam. 3.1 Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá. Sự triển khai có tính chất toàn cầu, quá trình này tạo ra một tương quan hợp lý giữa sở hữu Nhà Nước và sở hữu tư nhân, giữa sự điều tiết của Nhà Nước và của thị trường. Do vậy tiến hành cổ phần hoá một số DNNN ở Việt Nam là một vấn đề không thể bỏ qua, một đòi hỏi khách quan để nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước hoạt độnh có hiệu quả hơn và khai thác tối đa các đông lực của thị trường. 3.2 Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá. Đó là sự phản ánh các sắc thái khác nhau về mục tiêu, cách thức tổ chức, bước đi và biện pháp cụ thể do những điều kiện về chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước, cũng như quan niệm về xây dựng và phát triển nền kinh tế của mỗi Chính Phủ quy định. ở nước ta không thể không chú ý đến tính đặc thù về các điều kiện quyết định quá trình nàyđể có sự sàng lọc kinh nghệm của các nước và chuẩn bị kĩ càng các điều kiện vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam. 3.3 Tính chiến lược của quá trình cổ phần hoá. Cổ phần hoá được coi là một bộ phận của quá trình cải cách toàn bộ nền kinh tế. Do đó đòi hỏi phải được suy xét và hành động mang tính chiến lược cao khi xác định mục tiêu về cơ cấu và tương quan giữa các lĩnh vực và khu vực kinh tế để dịch chuyển, phân bổ các nguồn lực và quyền lực cho các nhóm người sở hữu và quản lý khác nhau. ở với quy mô và tính quan trọng của chương trình cổ phần hoá thì Nhà Nước phải suy sét ở tầm chiến lược trong quá trình đổi mới toàn diệnđể phát triển nền kinh tế. Nhà Nước phải thành lập một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo và giải quyết toàn bộ những vấn đề về cổ phần hoá. 3.4 Cổ phần hoá là một quá trình. ở Việt Nam trong hoàn cảnh thiếu rất nhiều điều kiện quan trọng để tiến hành cổ phần hoá thì việc quán triệt quan điểm quá trình trong cổ phần hoálà hết sức cần thiết để chống những tư tưởng và biểu hiện nóng vội, chủ quan duy ý chí, muốn hoàn thành công việc này trong thời gian ngắn. . 3.5 Quá trình cổ phần hoá cần có một môi trường pháp lý cần thiết. Để thực hiện cổ phần hoá thì Nhà Nước phải tạo ra một môi trường pháp lý cần thiết. Đó là một bộ luật quan trọng có ý nghĩa như lànhững điều kiện để ổn định và xác lập Kinh tế Vĩ mô tạo ra những khuôn khổ pháp lý cho sự chuyển đổi và hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hoá. PHẦN II: THỰC TRẠNG TIẾN ĐỘ CỔ PHẦN HOÁ CÁC DNNN Ở VIỆT NAM I.TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC CỔ PHẦN HOÁ CÁC DNNN Ở VIỆT NAM. 1.Tính tất yếu của việc cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam. Trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế, những năm gần đây nền kinh tế kế hoạch tập chung ỏ nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường như một đòi hỏi tất yếu của sự phát triển. Trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các doanh thuộc khu vực kinh tế Nhà Nước đã bộc lộ đầy đủ những yếu kém, lâm vào tình trạng sa sút khủng hoảng. Làm thế nào để cấu trúc lại sở hữu Nhà Nước và cải cách khu vực kinh tế Nhà Nướcnhằm nâng cao hiêụ quả và vai trò của nó theo tinh thần của các nghị quyết Trung Ương 6 và 7 của Đảng. Một trong những giải pháp có tính chiến lược để giải quyết những vấn đề nàylà tiến hành cổ phần hoá một số DNNN nhằm đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đưa yếu tố cạnh tranh làm động lực để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và xác lập mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Đây cũng là một giải pháp có tính phổ biếnđể cải cách khu vực kinh tế Nhà Nước ở hầu hết các nước trên thế giới. Vì thế việc tiến hành cổ phần hoá một số DNNN được coi là một tất yếuđể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh củakhu vực kinh tế Nhà Nước từ đó tạo cơ sở quan trọng để phát triển nền kinh tế. 2.Thực chất của việc cổ phần hoá các DNNN ở nước ta. Về vấn đề này hiện nay có 2 loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng thực chất cổ phần hoá là tư nhân hoá, loại ý kiến thứ hai cho rằng cổ phần hoá thực chất là quá trình xã hội hoá DNNN. Về ý kiến thứ nhất, nhiều nước trên thế giới đã tiến hành cổ phần hoá các DNNN, xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi nước trong từng thời kì khác nhau, những nguyên nhân thường là: + Do thay đổi về chính trị-xã hội dẫn đến sự thay đổi về chế độ sở hữu liệu sản xuất- từ công hữu chuyển sang tư hữu- vì thế cổ phần hoá doanh nghiệp là một bộ phận của chủ trương tư nhân hoá nền kinh tế. + Do khủng, lạm phát, thâm hụt lớn phải cổ phần hoá để thu hồi vốn cho Nhà Nước và thu hút thêm vốn đầu tư hoặc để giảm bớt gánh nặng cho Nhà Nước. + Để thu hút thêm vốn đầu tư, tranh thủ công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến từ các nguồn trong và ngoài nước để xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường. Chủ trương cổ phần hoá ở nước ta lại xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay. Xây dựng nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa(XHCN). Đó là sự chuyển hướng chiến lược kinh tế xã hội của nước ta đó cũng là đặc điểm lớn nhất chi phối, quyết định mục đích, nội dung và phương thức cổ phần hoá các DNNN. Cần thấy rằng thực chất cổ phần hoá ở nước ta(khác hẳn với cổ phần mà các nước trên thế giơi đã tiến hành) là nhằm cơ cấu lại các DNNN cho hợp lývà hiệu quả, còn việcchuyển đổi sở hữu của Nhà Nước thành sở hữu của các cổ đông trong công ty cổ phần chỉ là một trong những phương tiệnquan trọng để thực hiện mục đích trên. Sự khác nhau cơ bản giữa cổ phần hoá các DNNN ở nước ta với qúa trình tư nhân hoá của các nước trên thế giới: - Cổ phần hoá các DNNN ở nước ta, tỉ trọng cổ phiếu phát ra là do Nhà Nước quyết định nên không sợ rằng chủ trương cổ phần hoá rốt cuộc là tư nhân hoátoàn bộ khu vực kinh tế Nhà Nước làm mất định hướng XHCN. - Thực chất việc tư nhân hoá các DNNN là việc bán một phần hoặc toàn bộ tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dâncho tư nhân. Còn cổ phần hoá ở nước ta là bán một phần hoặc toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất trong một số DNNN cho các tổ chức hoặc tư nhân, tức là chuyển từ sở hữu toàn dân sang sở hữu hỗn hợp. - Mục đích của tư nhân hoá là tăng cường khu vực kinh tế tư nhân, cồn cổ phần hoá các DNNN là nhằm bố trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý cho phù hợpvới ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0744.doc
Tài liệu liên quan