Giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng Công ty chè Việt Nam

Lời nói đầu Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy cho phát triển kinh tế. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển cơ sở hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại nói chung và của doanh nghiệp thực hiện hoạt động xuất khẩu nói riêng. Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các nghành kinh tế hướng theo xuất khẩu

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1349 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng Công ty chè Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước Tại Đại Hội VIII, Đảng ta đã nhấn mạnh “Kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của đất nước cũng như của từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức mạnh cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường khu vực, thị trường thế giới". Là một trong những mặt hàng mũi nhọn trong xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam, Chè không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà ngày càng có giá trị xuất khẩu cao. Việc đẩy mạnh xuất khẩu chè sẽ là cơ sở thúc đẩy sự phát triển ngành chè Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, phát triển kinh tế Trung du - miền núi Xuất phát từ vai trò rất quan trọng của hoạt động xuất khẩu, cụ thể hơn là hoạt động xuất khẩu chè, em xin được chọn đề tài “ Giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng công ty chè Việt Nam”. Trong phạm vi rất rộng của hoạt động xuất khẩu đế tài này chỉ đi sâu nghiên cứu hoạt động xuất khẩu chè tại Tổng công ty chè Việt Nam đồng thời đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè của Tổng công ty. Ngoài lời mở đầu và kết luận chuyên đề gồm ba phần Phần thứ nhất: những luận cứ khoa học về xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm của công ty. Phần thứ hai: Phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh và xuất khẩu của Tổng công ty chè Việt Nam trong thời gian qua. Phần thứ ba: Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng công ty chè Việt Nam trong thời gian tới. Phần thứ nhất: Những luận cứ khoa học về xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm của công ty. I. Quan niệm về xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm. 1. Xuất khẩu là gì? Kinh doanh xuất nhập khẩu là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia khác nhau trên thế giới. Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có được đầy đủ mọi loại hàng hoá, vì vậy kinh doanh xuất nhập khẩu có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, doanh nghiệp và mỗi cá nhân. Theo giáo trình kinh doanh quốc tế (Trường ĐHKTQD) thì xuất khẩu là một hình thức kinh doanh quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp, tạo ra nguồn thu chủ yếu của một nước khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh quốc tế. Đó là việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ của một quốc gia hoặc là đối với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, dưới nhiều hình thức khác nhau, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị, công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục đích đem lại lợi ích cho quốc gia tham gia. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi phạm vi rộng cả về điều kiện không gian lẫn thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, song cũng có thể kéo dài đến hàng năm, có thể tiến hành trên phạm vi toàn lãnh thổ hai hay nhiều quốc gia. 2. Thế nào là thúc đẩy xuất khẩu ? Thúc đẩy xuất khẩu không chỉ hàm ý một cách đơn giản việc sử dụng các công cụ chính sách như trợ cấp xuất khẩu. Theo quan niệm phổ biến hiện nay, thuật ngữ thúc đẩy xuất khẩu được gắn với các chính sách có tính tập trung đối với thương mại. Chính sách thương mại được coi là khuyến khích xuất khẩu khi không có sự thiên vị hay mức độ hỗ trợ đối với cả thay thế nhập khẩu lẫn xuất khẩu. Chẳng hạn, nếu mức trợ cấp xuất khẩu không đủ để bù đắp cho các tác động tiêu cực của thuế quan nhập khẩu. Trong trường hợp mức thiên vị đối với thay thế nhập khẩu và xuất khẩu là như nhau nghĩa là thương mại đuực tự do hoá, hoặc khi trợ cấp cho xuất khẩu vừa đủ bù đắp cho các tác động tiêu cực của các công cụ hạn chế nhập khẩu thì các chính sách đang thực thi được coi là thuộc diện thúc đẩy xuất khẩu. còn nếu như xuất khẩu được thiên vị hơn trong tương quan với nhập khẩu thì tồn tại cái gọi là chính sách thúc đẩy xuất khẩu “cực đoan”. Các công trình nghiên cứu cho thấy chính sách thương mại của những nước như Singapo, Đài loan, Hồng công và Hàn Quốc trên thực tế đã tiến hành gần tới tính trung lập hơn là tạo ra sự thiên vị đối với xuất khẩu. Hơn nữa, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá các quốc gia hầu như đều theo đuổi chiến lược thay thế nhập khẩu, do đó chiến lược thúc đẩy xuất khẩu thường được hiểu như là quá trình chuyển từ thay thế nhập khẩu sang một chiến lược phát triển có tính trung lập hơn, trong đó sự thiên vị đối với thay thế nhập khẩu( hoặc thiên hướng chống lại xuất khẩu) do các công cụ hạn chế nhập khẩu tạo ra được giảm dần (và tiến tới bị thủ tiêu). Theo cách hiểu này, việc theo đuổi một chiến lược thúc đẩy xuất khẩu không có nghĩa là loại trừ hoàn toàn ngay lập tức các hoạt động thay thế nhập khẩu. Do vậy, đôi khi chiến lược thúc đẩy xuất khẩu, xét về mặt ngắn hạn, là một sự kết hợp giứa các chính sách đẩy mạnh xuất khẩu và bảo hộ mậu dịch có lựa chọn. II. Mục đích của xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm. Có thể nói hoạt động xuất nhập khẩu là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội với các mục đích cơ bản sau: Tạo vốn và kĩ thuật cho quá trình sản xuất Thay đổi cơ cấu vật chất của sản phẩm có lợi cho quá trình tái sản xuất. Tăng hiệu quả sản xuất, tạo nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia và cho doanh nghiệp. Trong thế giới hiện đại, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa của mình lại phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước. Muốn phát triển nhanh chóng mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng các thành tựu kinh tế, khoa học kĩ thuật trên thế giới để phát triển. Hoạt động xuất khẩu sẽ mở ra hướng phát triển mới tạo điều kiện khai thác lợi thế, tiềm năng sẵn có trong nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất. Đối với những nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố được coi là tiềm năng như: tài nguyên thiên nhiên và lao động hiện nay đang mất đần lợi thế, còn những yếu tố thiếu hụt là: vốn, kĩ thuật, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược hướng vào xuất khẩu về thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước giàu. Đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động, góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội. III. ý nghĩa của xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu 1. ý nghĩa của xuất khẩu đối với nền kinh tế thế giới. Xuất khẩu là một nội dung chính của hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Do những điều kiện khác nhau nên mỗi quốc gia đều có thế mạnh về lĩnh vực này nhưng lại yếu về những lĩnh vực khác. Để có thể khai thác được những lợi thế, giảm thiểu bất lợi, tạo ra sự cân bằng trong quá trình phát triển, các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau, bán những sản phẩm mà mình sản xuất thuận lợi và mua những sản phẩm mà mình sản xuất khó khăn. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu không nhất thiết phải diễn ra giữa các nước có lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Một quốc gia thua thiệt về tất cả các lĩnh vực tài nguyên thiên nhiên, nhân công, tiềm năng kinh tế … thông qua hoạt động xuất khẩu cũng sẽ có điều kiện phát triển kinh tế nội địa. Cũng theo quy luật lợi thế so sánh của D. Ricardo, một quốc gia dù ở một tình huống bất lợi vẫn có thể tìm ra điểm có lợi để khai thác. Bằng việc khai thác các lợi thế này các quốc gia tập trung vào sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối) và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá không có lợi thế tương đối). Sự chuyên môn hoá trong sản xuất này làm cho mỗi quốc gia khai thác được lợi thế tương đối của mình một cách tốt nhất để tiết kiệm được những nguồn nhân lực như : vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên … Trong quá trình sản xuất hàng hoá. Và vì vậy trên quy mô toàn thế giới thì tổng sản phẩm cũng sẽ được gia tăng. 2. ý nghĩa của xuất khẩu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia. Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nuớc. Vai trò của xuất khẩu thể hiện trên các mặt sau: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho NK phục vụ cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có một số vốn rất lớn nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật tiên tiến. Thực tiễn cho thấy nguồn vốn nhập khẩu một nước (đặc biệt là nước đang phát triển như Việt Nam), có thể huy động từ các nguồn vốn chính sau : Đầu tư nước ngoài, các hình thức liên doanh liên kết. Vay nợ, viện trợ, tài trợ. Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ thì không ai có thể phủ nhận được, song việc huy động vốn này không phải là dễ dàng. Sử dụng các nguồn vốn này các nước đi vay cần phải chấp nhận những thiệt thòi nhất định và dù bằng cách này hay cách khác thì cũng sẽ phải hoàn lại vốn. Bởi vậy, nguồn vốn quan trọng nhất mà mỗi nước có thể trông chờ vào là nguồn vốn thu từ hoạt động xuất khẩu, quyết định đến quy mô và và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Xuất khẩu đóng góp vào quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sẽ giúp các nước kém phát trển chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ tiêu thụ những sản phẩm thừa ra so với nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra ” của nền sản xuất thì xuất khẩu chỉ ở quy mô nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Hai là, coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, điều này thể hiện : Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Chẳng hạn, khi phát triển sản phẩm hàng may mặc xuất khẩu sẽ tạo cơ hội mở rộng các ngành có liên quan như : bông, vải, sợi … Sự phát triển của công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu (dầu thực vật, chè …) kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo thiết bị. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất. Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn, thu hút kỹ thuật công nghệ mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nội địa, tăng năng lực sản xuất trong nước. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của nước ta sẽ tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng, cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức sản xuất, hình thức cơ cấu sản xuất thích nghi được với thị trường quốc tế. Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia, khoa học công nghệ càng phát triển thì phân công lao động càng sâu sắc. Ngày nay đã có những sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở các nước khác nhau. Để hoàn thiện được sản phẩm đó, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp ráp. Hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan trọng vì nó tạo điều kiện mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn giới hạn khả năng sản xuất. Đối với một đất nước không nhất thiết sản xuất tạo đủ hàng hoá mà mình cần. Thông qua xuất khẩu, họ có thể tập trung vào sản xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế sau đó trao đổi những thứ mà mình cần. Xuất khẩu có tác dụng tích cực giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. ở nước ta, tình trạng không có việc làm hoặc có việc làm không đầy đủ chiếm trên 20% lực lượng lao động, giải quyết việc làm cho dân chúng là nhiệm vụ hết sức khó khăn. Kinh nghiệm thời kỳ vừa qua chỉ ra rằng sự phát triển của nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong nước, nếu không có ngoại thương hỗ trợ đắc lực thì không thu hút được thêm nhiều lao động. Đưa lao động tham gia vào lao động quốc tế là lối thoát lớn nhất giải quyết nạn thất nghiệp của nước ta hiện nay. Sản xuất hàng hoá xuất khẩu sẽ thu hút hàng triệu lao động vào làm việc, tạo ra thu nhập ổn định, đồng thời tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của nhân dân. Xuất khẩu là cơ sở mở rộng, để thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại ở nước ta. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế.Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại, có thể hoạt động xuất khẩu xẩy ra sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ đối ngoại phát triển.Chẳng hạn, xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư , vận tải quốc tế … Đến lượt nó chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Tóm lại , đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước 3. ý nghĩa của xuất khẩu đối với doanh nghiệp Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng.Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh. Đồng thời có ngoại tệ để đầu tư lại quá trình sản xuất không những về chiều rộng mà còn về chiều sâu. Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm việc, tạo ra thu nhập ổn định, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng, vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi nhuận. Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở lợi ích của cả hai bên. Như vậy, đứng trên bất kỳ góc độ nào ta cũng thấy sự thúc đẩy xuất khẩu là rất quan trọng. Vì vậy thúc đẩy xuất khẩu là cần thiết và mang tính thực tiễn cao. 4. ý nghĩa của đẩy mạnh xuất khẩu. Nói chung, đứng trên bất kỳ góc độ nào ta cũng thấy đẩy mạnh xuất khẩu là rất quan trọng, từ những ý nghĩa đã nêu của xuất khẩu ta có thể thấy rằng. Đối với nền kinh tế thế giới, việc đẩy mạnh xuất khẩu giúp cho các quốc gia khai thác triệt dể lợi thế của mình, giảm thiểu bất lợi, tạo ra nhiều hàng hóa hơn cho người tiêu dùng thế giới đồng thời hạn chế được sự phát triển chênh lệch giữa các quốc gia, giúp cho quá trình phân công lao động quốc tế diễn ra thuận lợi, tạo sự phát triển bền vững cho nền kinh tế thế giới. Đối với một quốc gia, việc đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hóa đất nước, giúp cho mỗi quốc gia tự khẳng định được tên tuổi và vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Việc đẩy mạnh xuất khẩu góp phần phát triển sản xuất trong nước, tạo sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh. Đối với doang nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu quyết định đến sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp thực hiện hoạt động xuất khẩu trong xu hướng hội nhập toàn cầu hiện nay. Đẩy mạnh xuất khẩu giúp các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường thế giới và từng bước khẳng định uy tín của mình với người tiêu dùng trên các quốc gia khác nhau. IV. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu. 1. Các nhân tố về kinh tế. Những điều kiện kinh tế có tác động rất mạnh đến khối lượng buôn bán đầu tư… hàng năm. Song, sự gia tăng buôn bán, đầu tư luôn có xu hướng biến đổi nhanh hơn sự thay đổi của nền kinh tế. Sự thay đổi về mức giàu có trên thế giới đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ giá trị hàng hoá lưu chuyển quốc tế. Tỉ lệ mậu dịch quốc tế đang có xu hướng tăng nhanh hơn tỉ lệ tổng sản phẩm thế giới ở một thời kì dài. Điều này có nghĩa là sự tương quan so sánh giữa kinh doanh và sản xuất không cố định mà luôn thay đổi qua các thời kì. Mức độ gia tăng khối lượng và giá trị hàng hoá kinh doanh tuỳ thuộc rất lớn vào mức độ can thiệp của chính phủ. Thông qua các chính sách, công cụ kinh tế vĩ mô mà nhà nước thực hiện sự điều tiết khối lượng hàng hoá từ nước ngoài vào và đặc biệt họ sẽ giảm bớt nhập khẩu khi nền kinh tế đang bị trì trệ. Còn các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế chỉ mở rộng kinh doanh ở nước ngoài khi nhu cầu ở nước ngoài vẫn gia tăng đều đặn trong một thời kì dài. Ngày nay, trong buôn bán quốc tế, nhóm các mặt hàng lương thực, thực phẩm, đồ uống, mặt hàng truyền thống giảm nhanh về tỷ trọng. Trong khi đó tỷ trọng buôn bán các mặt hàng chế biến, mặt hàng mới, đang có xu hướng tăng rất nhanh. Điều này tác động rất lớn đối với lĩnh vực kinh doanh quốc tế nói chung, thương mại và đầu tư nói riêng. Chính vì vậy, việc đa dạng hoá các hình thức và mặt hàng kinh doanh và quyết định lựa chọn mặt hàng kinh doanh nào, mặt hàng nào, lĩnh vực nào… có ý nghĩa cực kì quan trọng. Nó góp phần tăng cơ hội, giảm thách thức, hạn chế rủi ro đối với hoạt dộng kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Các nhân tố về khoa học và công nghệ. Sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng kỹ thuật trước kia, cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang thúc đẩy mạnh mẽ tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế ở từng quốc gia, làm cho nhiều quốc gia có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Chính sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ trong thế kỷ này đã làm xuất hiện nhưng sản phẩm mới thay thế nhưng sản phẩm cũ và thay đổi vị trí của từng quốc gia, từng doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Nhiều sản phẩm mới như máy tính , hàng điện tử, máy bay đang chiếm phần lớn trong hoạt động kinh doanh quốc tế của từng doanh nghiệp. Hiện nay , hầu hết những kỹ thuật, công nghệ mới, hiện đại dều xuất phát từ các quốc gia tiên tiến đã công nghiệp hoá. Vì vậy các doanh nghiệp từ các quốc gia này đang nắm giữ phần mậu dịch và đầu tư lớn hơn trong lĩnh vực chế biến, dây là khu vực kinh tế tăng trưởng nhanh. Tình hình này đang là một sức ép lớn đối với các quốc gia nghèo và các doanh nghiệp có thị phần ít hơn và khả năng cạnh tranh kém hơn. 3. Các nhân tố về chính trị, xã hội và quân sự Sự ổn định này bất ổn về chính trị, xã hội cũng là những nhân tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống chính trị và các quan điểm về chính trị, xã hội suy đến cùng tác động trực tiếp đến phạm vi, lĩnh vực, mặt hàng, đối tác kinh doanh. Trong những năm của thập kỷ 90, tình hình chính trị, xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới đã có nhiều biến động lớn theo chiều hướng bất ổn đối vơí quan hệ song phương và đa phương giữa các quốc gia. Điều này đã dẫn đến thiệt hại và rủi ro lớn cho nhiều công ty và quốc gia trên thế giới. Các cuộc xung đột lớn hay nhỏ về quân sự trong nội bộ quốc gia đã dẫn đến sự thay đổi lớn về các mặt hàng sản xuất. Cụ thể là xung đột quân sự đã làm phá vỡ những quan hệ kinh doanh truyền thống, làm thay đổi hệ thống vận tải và chuyển hướng sản xuất phục vụ tiêu dùng dân cư sang phục vụ chiến tranh. Chính việc chuyển sản xuất sản phẩm tiêu dùng sang sản xuất sản phẩm phục vụ mục đích quân sự đã làm cho kinh doanh thay đổi, đầu tư bị gián đoạn, quan hệ giữa các quốc gia bị sấu đi và đần tạo lập nên những hàng dào “vô hình” ngăn cản hoạt động kinh doanh quốc tế. 4.Sự hình thành các liên minh, liên kết về kinh tế, chính trị và quân sự Việc hình thành các khối liên kết về kinh tế, chính trị, quân sự đã góp phần làm tăng hoạt động kinh doanh buôn bán và đầu tư giữa các quốc gia thành viên (trong khối), làm giảm tỷ lệ mậu dịch với các nước không phải là thành viên. Để khắc phục hạn chế này, các quốc gia thành viên trong khối thường ký kết với với các quốc gia ngoài khối những hiệp định, những thoả ước đẻ từng bước nới lỏng hàng rào “vô hình” tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh quốc tế phát triển. Bên cạnh các hiệp định song phương và đa phương giữa các quốc gia đã và đang dược ký kết, các tổ chức kinh tế quốc tế đắc biệt là Ngân hàng thế giới (WB) Ngân hàng phát triển châu á (ADB) có vai trò cực kỳ quan trọng đồi với kinh doanh quốc tế. Chính các tổ chức này đã cung cấp vốn cho những chương trình xã hội và phát triển cơ sở hạ tầng như nhà ở, đường giao thông, bến cảng,… Việc cho vay của các tổ chức này đã kích thích mậu dịch và đầu tư trực tiếp của các doang nghiệp. Thông qua đó, các quốc gia, doanh nghiệp kinh doanh có thể mua được những máy móc thiết bị cần thiết từ nước ngoài và xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng và do đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế có hiệu quả. V. Nội dung chủ yếu của hoạt động xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu. Điều quan trọng của việc tổ chức hoạt động kinh doanh xuất khẩu là nhà doanh nghiệp phải am hiểu môi trường kinh doanh. Người quản lí giỏi có thể không phải là chuyên gia trong tất cả các khâu, các bước kinh doanh của hoạt động xuất khẩu, nhưng người quản lí giỏi không thể không nắm được cặn kẽ các khâu trong quá trình tổ chức hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Thông thường hoạt động xuất khẩu bao gồm những nội dung sau. 1.Nghiên cứu tiếp cận thị trường. Nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết đầu tiên với bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tham ra vào thị trường thế giới. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, nghiên cứu thị trường thế giới phải trả lời được câu hỏi: xuất khẩu cái gì? dung lượng thị trường đó là bao nhiêu? người trong giao dịch là ai? Sử dụng phương thức nào? Chiến lược kinh doanh trong từng giai đoạn ? 1.1.Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu Để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu trước tiên cần dựa vào nhu cầu sản xuất, tiêu dùng về quy cách, chất lượng, chủng loại, giá cả, thời vụ và thị hiếu cũng như tập quán của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó tiến hành xem xét các khía cạnh của hàng hoá thế giới: Về khía cạnh thương phẩm: phải hiểu rõ giá trị, công dụng, đặc tính, quy cách phẩm chất của mẫu mã … Nắm bắt đầy đủ giá cả hàng hoá ứng với điều kiện cơ sở giao hàng (CIF, CFR, FOB …) và phẩm chất hàng hoá. Khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của công ty cạnh tranh, hoạt động dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng, hướng dẫn sử dụng … Ngoài ra để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu cũng cần phải nắm vững tỷ suất ngoại tệ của các mặt hàng xuất khẩu. Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu là số lượng nội tệ bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại tệ. Nếu tỷ suất ngoại tệ tính ra thấp hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc xuất khẩu có hiệu quả. Việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu không những chỉ dựa vào tính toán hay ước tính mà còn phải dựa vào kinh nghiệm của những người nghiên cứu thị trường để dự đoán xu hướng biến động của giá cả thị trường trong nước cũng như ngoài nước, dự đoán được các khả năng có thể xảy ra. 1.2.Nghiên cứu dung lượng thị trường. Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi một thị trường nhất định trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Nghiên cứu dung lượng thị trường thì cần xác định nhu cầu thực của khách hàng, kể cả dự đoán, xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm. Cộng với việc nắm bắt nhu cầu là nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường. Một vấn đề nữa là xem xét tính chất thời vụ của sản xuất và tiêu dùng hàng hoá trên thị trường để có biện pháp thích hợp trong từng giai đoạn. Dung lượng thị trường không ổn định, nó thay đổi tuỳ theo tác động của từng nhân tố đó là : Nhân tố làm dung lượng thị trường biến động có tính chất chu kỳ như lạm phát. Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động của thị trường như : những tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp chính sách của nhà nước, thị hiếu tiêu dùng … Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường như : Hiện tượng đầu cơ, các yếu tố khí hậu, yếu tố chính trị – xã hội … 1.3.Lựa chọn đối tác kinh doanh. Việc lựa chọn đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động xuất khẩu. Người ta thường dựa trên cơ sở nghiên cứu sau: Một là, tình hình sản xuất kinh doanh của đối tác. Hai là, khả năng về vốn cơ sở vật chất kỹ thuật của bên đối tác. Ba là, thái độ và quan điểm kinh doanh của đối tác. Tóm lại, công tác nghiên cứu tiếp cận thị trường là nhằm thực hiện phương châm hành động: chỉ bán cái thị trường cần chứ không bán cái mình có sẵn. 2.Công tác tạo nguồn cho hoạt động xuất khẩu. Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một doanh nghiệp, một địa phương hay một vùng có khả năng sản xuất được. Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là một hệ thống nghiệp vụ trong kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu, là toàn bộ hoạt động từ đầu tư, sản xuất kinh doanh, đến các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, ký kết hợp đồng, vận chuyển bảo quản, sơ chế, phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu. Phần lớn các hoạt động nghiệp vụ này chỉ làm tăng chi phí thuộc chi phí lưu động chứ không làm tăng giá trị sử dụng của hàng hoá. Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu bao gồm hệ thống các công việc sau: 2.1.Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu. Đây là việc nghiên cứu khả năng cung cấp hàng xuất khẩu trên thị trường, được xác định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. Trong đó, nguồn hàng thực tế là nguồn hàng đã có và đang sẵn sàng đưa vào lưu thông. Nguồn hàng tiềm năng là nguồn hàng chưa xuất hiện, nó có thể hoặc không xuất hiện trên thị trường. 2.2.Tổ chức hệ thống thu mua. Xây dựng một hệ thống thu mua thông qua các đại lý và chi nhánh của mình, Doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua, nâng cao năng xuất và hiệu quả thu mua. Tổ chức đầu tư và hướng dẫn kỹ thuật thu mua, phân loại bảo quản hàng hoá cho các chân hàng là việc làm hết sức cần thiết trong công tác tạo nguồn hàng của các doanh nghiệp ngoại thương. Ngoài ra, lựa chọn và sử dụng nhiều cách thu mua, kết hợp nhiều hình thức thu mua, là cơ sở để tạo nguồn hàng ổn định và hạn chế những rủi ro trong thu mua hàng hoá xuất khẩu. 2.3.Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa các Doanh nghiệp ngoại thương với các nhà sản xuất hoặc các chân hàng được thông qua hợp đồng thu mua, đổi hàng, gia công…Dựa trên những thoả thuận và tự nguyện, các bên ký kết hợp đồng làm cơ sở vững chắc để đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp diễn ra một cách bình thường. Đây chính là một hợp đồng kinh tế, là cơ sở pháp lý cho mối quan hệ giữa Doanh nghiệp và người cung cấp hàng. 2.4.Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu. Sau khi ký kết hợp đồng với các chủ hàng và các đơn vị sản xuất, Doanh nghiệp ngoại thương phải lập được kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận làm việc theo kế hoạch.Cụ thể: Đưa hệ thống các kênh phân phối đã được thiết lập vào hoạt động. Chuẩn bị đầy đủ các thủ tục giấy tờ giao nhận hàng theo hợp đồng đã ký. Tổ chức hệ thống kho tàng tại điểm nút của các kênh. Tổ chức vận chuyển hàng hoá theo các địa điểm đã qui định. 2.5.Tiếp nhận bảo quản hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp phải có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ hàng hoá xuất khẩu cả về số lượng và chất lượng. Đồng thời, đảm bảo hàng hoá không bị giảm giá trị cho tới khi giao tận tay cho khách hàng theo quy định ghi trong hợp đồng. 3. Xây dựng kế hoạch và lập phương án giao dịch. Sau khi đã thu thập được những thông tin cần thiết về những nhân tố ảnh hưởng đến giao dịch. Doanh nghiệp phải lập phương án giao dịch, trong đó có các điểm sau: Lựa chọn mặt hàng kinh doanh. Xác định số lượng xuất khẩu. Lựa chọn thị trường , khách hàng, phương thức giao dịch. Lựa chọn thời điểm, thời gian giao dịch… Các biện pháp để đạt được mục tiêu như: Mời khách, quảng cáo… 4. Giao dịch đàm phán trước ký kết. Các hình thức đàm phán. Đàm phán bằng thư tín, điện tín,… Đàm phán bằng điện thoại Đàm phán bằng trực tiếp gặp gỡ : Hình thức này thường được áp dụng khi có hợp đồng lớn, cần trao đổi cặn kẽ, chi phí nhiều nhưng hiệu quả công việc cao hơn. Các bước đàm phán. Chào hàng: Là đề nghị của một bên (người bán hoặc người mua) gửi cho bên kia, biểu thị muốn bán hoặc mua một hoặc một số hàng nhất định theo những điều kiện nhất định về giá cả, thời gian giao hàng, phương tiện thanh toán… Trong thư chào hàng cần giới thiệu hoạt động của công ty mình, khả năng mua bán kinh doanh về mặt hàng gì và uy tín của công ty để người mua hoặc người bán có hiểu biết nhất định về đối tác kinh doanh. Từ đó mở ra khả năng giao dịch buôn bán cao hơn. Trong thư chào hàng, cần xác định giá giao dịch hợp lý bao gồm tất cả các chi phí phát sinh cùng với các điều kiện khác: Quy cách, phẩm chất, điều kiện cơ sở giao hàng, điều kiện thanh toán, … Hoàn giá (mặc cả): Trong trường hợp người nhận được thư chào hàng không chấp nhận hoàn toàn với các điều kiện trong chào hàng đó mà đưa ra đề nghị mới thì đề nghị mới gọi là hoàn giá. Chấp nhận: Là sự đồng ý tất cả các điều kiện của chào hàng hoặc tất cả các điều kiện khi đã hoàn giá, do hai phía cùng chấp nhận. Xác nhận: Là sự khẳng định sự thoả thuận mua bán bằng văn bản xác nhận của bên mua hoặc bên bán hoặc của cả hai bên. 5. Ký kết hợp đồng xuất khẩu. Việc giao dịch đàm phán nếu c._.ó kết quả sẽ dẫn đến việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. Nội dung hợp đồng phải thể hiện đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia ký kết. Hình thức văn bản của hợp đồng là bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu của ta trong quan hệ với nước ngoài. Hợp đồng mua bán quốc tế còn gọi là hợp đồng xuất nhập khẩu hoặc hợp đồng mua bán ngoại thương là sự thoả thuận giữa các đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (bên bán) có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của bên khác gọi là bên nhập khẩu (bên mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá ; bên mua có nghĩa vụ phải nhận hàng và trả tiền hàng. Đặc trưng quan trọng của yếu tố quốc tế ở đây là các bên có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau. Một hợp đồng mua bán quốc tế thường gồm hai phần : Những điều trình bày và các điều khoản & điều kiện. Trong phần những điều trình bày, người ta ghi rõ : Số hiệu hợp đồng. Địa điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng Tên và địa chỉ của các đương sự Những định nghĩa dùng trong hợp đồng. Những định nghĩa này có rầt nhiều, ví dụ “ Hàng hoá ” có nghĩa là …, “thiết kế ” có nghĩa là …chí ít người ta cũng đưa ra định nghĩa sau đây:“Công ty ABC, địa chỉ …, điện thoại …, đại diện bởi Ông …, dưới đây được gọi là bên bán”. Cơ sở pháp lý để ký kết hợp đồng: Đây có thể là hiệp định của Chính phủ ký kết ngày tháng …, cũng có thể là nghị định thư ký kết giữa Bộ… nước…với Bộ… nước… Chí ít người ta cũng nêu ra sự tự nguyện của hai bên khi ký kết hợp đồng. Trong phần các điều khoản & điều kiện, người ta thường ghi rõ các điều khoản sau : Điều khoản tên hàng. Điều khoản phẩm chất. Điều khoản số lượng. Điều khoản về bao bì. Điều khoản về cơ sở giao hàng. Điều khoản về giá cả. Điều khoản về giao hàng. Điều khoản về thanh toán. Điều khoản khiếu nại. Điều khoản về trường hợp miễn trách. Điều khoản về trọng tài. 6. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Sau khi hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu với tư cách là một bên ký kết phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một công việc rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời đảm bảo được quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc, để thực hiện hợp đồng, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu phải cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, phải nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ giao dịch. ở nước ta, theo nghị định 57/CP ngày 31/7/98, kể từ ngày 1/9/98 “thương nhân được xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Điều 3)” và kèm theo nghị định 57/CP các phụ lục 1 và 2 danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu và hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện. Như vậy là, ngoài những mặt hàng cấm xuất, xuất theo hạn ngạch, xuất phải có giấy phép đã được quy định, doanh nghiệp được tự do tham gia hoạt động xuất khẩu theo giấy phép đăng ký kinh doanh và mã số đã khai báo với Hải quan. Để tiến hành một hoạt động xuất khẩu, Doanh nghiệp phải tiến hành các khâu công việc sau : Kiểm tra L/C (nếu có). Chuẩn bị hàng xuất khẩu. Hiện nay, ở nước ta không chỉ có các doanh nghiệp thương mại làm công tác xuất nhập khẩu, mà có rất nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh làm công tác xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài. Đối với hai loại hình doanh nghiệp này công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu có một số điểm khác biệt, cụ thể : Đối với doanh nghiệp ngoại thương kinh doanh xuất nhập khẩu. Công việc chuẩn bị hàng hoá gồm ba công đoạn sau : Thu gom, tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu, trên cơ sở hợp đồng ký kết với các chủ hàng Bao bì đóng gói hàng : Việc đóng gói bao bì là căn cứ theo yêu cầu trong hợp đồng đã ký kết, bên cạnh đó công việc này còn có ý nghĩa nhất định với quá trình kinh doanh, bao bì vừa phải bảo đảm được phẩm chất hàng hoá vừa tạo thuận lợi cho quá trình vận chuyển, bốc xếp hàng hoá. Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu : ký mã hiệu bằng số hay chữ, hình vẽ được ghi ở mặt ngoài bao bì để thông báo những thông tin cần thiết cho việc nhận biết giao nhận, bốc dỡ và bảo quản hàng hoá. Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Không phải làm việc thu gom hàng. Để có hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải nghiên cứu thị trường nước ngoài cần loại hàng gì, số lượng là bao nhiêu, tiến hành các bước giao dịch với khách hàng nước ngoài, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng giống như các doanh nghiệp kinh doanh ngoại thương. Thuê tàu: Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá, việc thuê tàu chở hàng dựa vào các căn cứ sau : Những điều khoản của hợp đồng xuất khẩu hàng hoá. Đặc điểm của hàng hoá xuất khẩu. Điều kiện vận tải. Theo incoterm 1990 quy định, trách nhiệm thuê phương tiện vận tải để chuyên chở hàng hoá từ nước xuất khẩu về nước nhập khẩu của người bán trong các điều kiện sau : CFR (Cost and Freight), CiR (Cost, insurance and Freght), CPT (Carriage Paid to), CiP (Carriage and insurance paid to), DDU (Delivered Duty Unpaid), DDP (Delivered Duty Paid), DES (Delivered Ex Ship), DEQ (Delivered Ex Quay), DAF (Delivered at Frontier). Như vậy là, trong trường hợp nếu điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng xuất khẩu CFR, CiF , DES, DEQ thì đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải thuê tàu biển để giao hàng. Việc thuê tàu, lưu cước đòi hỏi phải có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin thị trường về tình hình thuê tàu … Vì vậy, trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp xuất khẩu nhập khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu cho một công ty vận tải nào đó. Kiểm nghiệm hàng hoá: Đây là công việc cần thiết đảm bảo quyền lợi cho khách hàng, ngăn chặn kịp thời những hậu quả xấu. Công tác kiểm tra hàng xuất khẩu được tiến hành ngay sau khi hàng chuẩn bị đóng gói xuất khẩu tại cơ sở sản xuất, về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, chất lượng, bao bì hàng hoá. Làm thủ tục hải quan. Đây là quy định bắt buộc đối với bất cứ một loại hàng hoá nào, công tác này được tiến hành qua 3 bước. Khai báo hải quan. Xuất trình hàng hoá và nộp thuế. Thực hiện các quyết định của hải quan. Giao hàng lên tàu: Hàng hoá xuất khẩu của ta được giao, về cơ bản bằng đường biển và đường sắt. Mua bảo hiểm: Việc chuyên chở bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất, bởi vậy trong kinh doanh quốc tế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm đó là hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng chuyến. Các chủ hàng xuất nhập khẩu của ta, khi cần mua bảo hiểm đều mua tại công ty Việt Nam. Đối với bảo hiểm bao, chủ hàng ký kết hợp đồng từ đầu năm, đến khi giao hàng xong xuống tàu chỉ cần gửi thông báo “giấy báo bắt đầu vận chuyển” đến công ty bảo hiểm “giấy yêu cầu bảo hiểm”, trên cơ sở này, chủ hàng và công ty bảo hiểm đàm phán ký kết hợp đồng. Có ba điều kiện bảo hiểm chính: Bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện A). Bảo hiểm có tổn thất riêng (điều kiện B). Bảo hiểm miễn tổn thất riêng(điều kiện C). Ngoài ra còn một số điều kiện phụ (như: vỡ, rò, rỉ, …) và bảo hiểm đặc biệt (như : chiến tranh, đình công, …). Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm dựa trên bốn căn cứ sau : Điều khoản hợp đồng. Tính chất hàng hoá Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng. Loại tàu chuyên chở. Thanh toán hợp đồng: Có thể nói thanh toán là khâu trọng tâm và kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch trong kinh doanh quốc tế. Thông thường có hai phương thức thanh toán chủ yếu dưới đây: Thanh toán bằng thư tín dụng: Thư tín dụng L/C là loại giấy mà ngân hàng đảm bảo hoặc hứa sẽ trả tiền, phương thức thanh toán bằng L/C sẽ bảo đảm hợp lý, an toàn, hạn chế được rủi ro cho cả hai bên. Khi có L/C người xuất khẩu tiến hành làm các công việc thực hiện hợp đồng. Sau khi giao hàng người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của thư tín dụng thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở thư tín dụng xin thanh toán. Thanh toán bằng phương thức nhờ thu: Nếu hợp đồng xuất khẩu qui định thanh toán bằng phương thức nhờ thu, thì ngay sau khi giao hàng, bên xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ và xuất trình cho ngân hàng để uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền. Chứng từ thanh toán phải hợp lệ, chính xác và nhanh chóng cho ngân hàng nhằm thu lại vốn. Giải quyết tranh chấp: Trong quá trình thực hiện hợp đồng , khi hàng hoá có tổn thất hoặc mất mát …dẫn đến tranh chấp về kinh tế thì hai bên căn cứ vào điều khoản tranh chấp trong hợp đồng để đưa ra cánh giải quyết hợp lý, đỡ tốn kém. 7. Đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. Kết quả kinh doanh xuất khẩu được xác định bằng lợi nhuận đem lại. Lợi nhuận được tính toán trên cơ sở chi phí và doanh thu. Doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà nó thu được qua việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Chi phí của một doanh nghiệp là những phí tổn cần thiết phải bỏ ra trong qúa trình sản xuất kinh doanh hàng hoá hoặc dịch vụ trong thời kỳ đó. Lợi nhuận là phần dôi ra của doanh thu so với chi phí, hay còn gọi là lãi, chi phí càng thấp thì lợi nhuận càng cao. Lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí Tuy nhiên, nếu chỉ tính chỉ tiêu lợi nhuận không thì chưa phản ánh hết được kết quả của hoạt động kinh doanh. Trong thực tế người ta còn phải xác định chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi ngoại thương. Tỷ suất doanh lợi ngoại thương phản ánh kết quả tài chính của hoạt động ngoại thương thông qua việc đánh giá kết quả thu được từ một đồng chi phí thực tế bỏ ra. Cụ thể: LX Dx = --------- x 100 % CX Trong đó: Dx: tỷ suất doanh lợi. Lx : là lợi nhuận về bán hàng xuất khẩu tính theo ngoại tệ được chuyển đổi ra tiền Việt Nam theo giá được công bố của ngân hàng Nhà nước. Cx: là tổng chi phí thực hiện hoạt động xuất khẩu. So sánh tỷ suất xuất khẩu và tỷ giá hối đoái. Tỷ suất xuất khẩu > tỷ giá hối đoái : tức là chi nhiều hơn thu, điều đó cho thấy hoạt động kinh doanh xuất khẩu không có hiệu qủa. Tỷ suất xuất khẩu < tỷ giá hối đoái : tức là chi ít hơn thu, cho thấy hoạt động kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả. Phần thứ hai Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và xuất khẩu củaTổng công ty chè Việt Nam trong thời gian qua (1999-2001). I. Nguồn gốc của cây chè và vai trò của nó đối với đời sống nhân dân. Những ai quan tâm đến nghề sản xuất chè và thú uống trà, hẳn cũng có lúc đặt ra câu hỏi: trà gắn bó thủa nào với đời sống tinh thần với tâm hồn con người việt nam? Câu trả lời cũng thật đa dạng, nào là trà “quốc thuỷ”, nào là trà là một phần của nền văn minh lúa nước, nào là trà là một thứ văn hoá rất bình dân… và nói gì thì nói, trà là một bộ phận của văn hoá tinh thần việt nam. Cây chè từ bao đời đã cùng chia sẻ gian lao, ngọt bùi với người làm chè trên đất nước ta. Những phẩm chất của cây chè được kết tinh từ tinh hoa của đất trời, đã được những người làm chè nhận biết, đó là sức chịu đựng trong những điều kiện khắc nghiệt với núi cao, rừng sâu. Điều kiện sống càng khắc nghiệt càng hun đúc nên giá trị cao. Ngày nay, khi mà các thứ nước giải khát chen lấn vào nhau, trà vẫn được người đương thời tôn vinh. Viện sĩ viện sinh hoá Bakh thuộc viện hàn lâm khoa học Liên xô K.M Djemakơze đã từng dùng một hình ảnh sinh động để mô tả lợi thế của chè Việt nam đó là: ở Việt nam nhắm mắt chấm tay lên bản đồ, chỗ nào cũng tìm được chè. Cây chè bình dị, không kiêu xa, cây chè như có tình có nghĩa, càng được chăm sóc nâng niu, trau chuốt càng cho giá trị tuyệt vời! Nhờ đó cây chè được coi là cây “xoá đói, giảm nghèo”, bảo vệ môi trường sinh thái, là cây chủ lực ở trung du, miền núi và vùng Bảo lộc Lâm Đồng. Giá trị của chè không chỉ ở hương vị tự nhiên ngọt ngào, thơm mát mà còn ở những giá trị tiềm ẩn, càng tìm càng phát hiện ra những giá trị mới, chè có giá trị bồi bổ sức khoẻ, nâng đỡ tinh thần, chữa trị bệnh tật, ngăn ngừa một số bệnh hiểm nghèo như ung thư, nhiễm phóng xạ. Người Việt nam uống trà bất cứ lúc nào, khi vui, khi buồn, trong lễ cưới, đám tang. Trà có mặt khắp mọi nơi từ các quán bình dân đến các hội nghị cao cấp, uống trà để biểu đạt một triết lý, một cách sống thanh lịch, cao quý trân trọng, một biểu hiện kết giao, xoá bỏ mặc cảm hận thù… Về mặt kinh tế, chè có một thang giá trị rất rộng, nhờ lao động sáng tạo của người làm chè mà một cân chè có giá trị từ vài trục nghìn đến hàng triệu đồng. Thật khó tìm thấy một sản phẩm nông nghiệp nào lại có một thang giá trị lớn như vậy, chính những phẩm chất cao quý và giá trị tuyệt vời của chè được tích luỹ qua năm tháng đã tạo ra những điêù kỳ diệu đó. Cũng có một câu hỏi được đặt ra hiện nay đó là: có phải trà “tây” như Lipton, Dihmal đã lấn át trà “ta”? Câu trả lời đó là chúng ta hoan nghênh mọi sự đa dạng, có điều trà Việt nam phải phấn đấu để đa dạng hoá, đáp ứng nhu cầu đa dạng khắt khe của người tiêu dùng, nhất là giới trẻ. Ai cũng biết rằng, cho đến nay Việt nam đã có cả một nghành công nghiệp chế biến chè, hàng năm sản lượng đứng thứ 8 và xuất khẩu đứng thứ 9 trên thế giới. Từ nguyên liệu búp tươi chính hiệu của ta, chúng ta đã sản xuất và xuất khẩu hầu hết các mặt hàng chè “tây” có mặt trên thế giới. Giữ gìn, phát huy những phẩm chất, những giá trị của chè, của người làm chè làm cho nó sống mãi với thời gian, đó là nguồn sức mạnh to lớn góp phần tạo nên nền văn hoá trà của Việt nam. II. Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty chè Việt Nam. 1. Quá trình hình thành Tổng công ty chè Việt Nam. Đại hội VI là sự kiện quan trọng đánh dấu bước ngoặt của nền kinh tế nước ta từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Mô hình kinh doanh và sản xuất mới đòi hỏi một mô hình tổ chức và quản lý mới phù hợp thích ứng với cơ chế quản lý mới của nhà nước và sự biến động của môi trường xã hội. Liên hiệp các xí nghiệp công nông nghiệp chè Việt Nam luôn chú trọng tới việc cải tổ, thay đổi xắp xếp lại bộ máy quản lí của mình. Tổ chức đó là cần thiết và phải là một pháp nhân. Đồng thời căn cứ vào: Quyết định số 90/TT ngày 7/3/1994 của thủ tướng chính phủ và uỷ quyền của thủ tướng chính phủ tại văn bản số 5826/ĐMDN ngày 13/10/1995. Thông báo số 10/NN-TCCB ngày 13/10/1995 của Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm về việc tổ chức và xắp xếp lại DNNN(trong đó có Tổng công ty chè Việt Nam ). Ngày 29/12/1995 Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ra quyết định thành lập “Tổng công ty chè Việt Nam”. Tổng công ty chè Việt Nam được thành lập trên cơ sở xắp xếp lại Liên hiệp các xí nghiệp công nông nghiệp che Việt nam thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tổng công ty chè Việt Nam có tên giao dịch quốc tế: VIET NAM NATIONAL TEA CORPORATION. Tên viết tắt: Vinatea corp Trụ sở đặt tại: 46 Tăng Bạt Hổ. Có 38 đơn vị thành viên. Vốn pháp định: 101.867,5 triệu đồng. Vốn kinh doanh: 101.867,5 triệu đồng Đến tháng 6/1996 Tổng công ty chè Việt Nam chính thức đi vào hoạt dộng. Tổng công ty chè Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có con rấu riêng, được mở tài khoản tại các ngân hàng theo quy định của nhà nước được tổ chức hoạt động theo Điều lệ mẫu về tổ chức hoạt động của Tổng công ty nhà nước ban hành kèm theo nghị định số 39/CP ngày 27/6/1995 của chính phủ và điều lệ của Tổng công ty chè Việt Nam do Hội đồng quản trị của Tổng công ty xây dựng và trình Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành. 1.1.Nhiệm vụ, mục tiêu kinh doanh chủ yếu của Tổng công ty chè Việt Nam được quy định như sau: 1.1.1. Tham gia xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng sản xuất chè chuyên canh và thâm canh có năng suất và chất lượng cao. 1.1.2. Nghành nghề kinh doanh chủ yếu: Trồng trọt, sản xuất chè, chăn nuôi gia súc và các lâm sản khác. Công nghiệp chế biến thực phẩm: Các sản phẩm chè các loại đồ uống, nước giải khát… Sản xuất gạch ngói vật liệu xây dựng, sản xuất phân bón các loại phục vụ vùng nguyên liệu. Sản xuất bao bì các loại. Chế tạo các sản phẩm cơ khí, phụ tùng, mái móc, thiết bị phục vụ chuyên nghành chè và đồ gia dụng. Dịch vụ kĩ thuật đầu tư phát triển vùng nguyên liệu và công nghiệp chế biến chè. Xây dựng cơ bản và tư vấn đầu tư, xây lắp phát triển nghành chè, dân dụng. Dịch vụ du lịch, khách sạn nhà hàng. Bán buôn bán lẻ, bán đại lý các sản phẩm của ngành nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm; vật tư, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống. Kinh doanh và dịch vụ các ngành nghề khác theo pháp luật nhà nước. Xuất nhập khẩu: Xuất khẩu trực tiếp: các sản phẩm chè (xanh, đen …) và các mặt hàng nông lâm sản, thủ công mĩ nghệ … Nhập khẩu trực tiếp: Nguyên vật liệu, vật tư máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải và hàng tiêu dùng. 1.1.3. Thực hiện nghiên cứu khoa học và công nghệ về những vấn đề có liên quan đến công nghiệp hoá và hiện đại hoá phát triển nghành sản xuất chè đạt tiêu chuẩn quốc tế, tìm và nhân các loại chè tốt phù hợp với thị trường quốc tế để phục vụ sản xuất. 1.1.4. Tham gia đào tạo công nhân kỹ thuật. 1.1.5. Liên doanh, liên kết với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước để phát triển sản xuất và kinh doanh ngành sản xuất chè Việt Nam. 2. Quá trình phát triển của Tổng công ty chè Việt Nam. Tổng công ty chè Việt Nam được hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ lịch sử. Thời kỳ 1974 – 1978: Liên hiệp các xí nghiệp chè Việt Nam được thành lập theo quyết định số 95/CP ngày 19/4/1974 của Hội đồng chính phủ, lấy tên là Liên hiệp các xí nghiệp chè Việt Nam thuộc Bộ lương thực và thực phẩm quản lý. Nhiệm vụ chính của Liên hiệp là thu mua và chế biến chè xuất khẩu. Gồm 11 đơn vị thành viên. Thời kỳ 1979 –1986: Theo quyết định số 75/CP ngày 2/3/1979 của Hội đồng chính phủ, nhà nước cho phép sát nhập Liên hiệp các xí nghiệp chè với công ty chè Trung ương thuộc Bộ nông nghiệp, thành lập Liên hiệp các xí nghiệp công nông nghiệp chè Việt Nam, đồng thời nhà nước cho phép sát nhập phần lớn những nông trường chè của địa phương vào Liên hiệp nhằm gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, gắn quốc doanh với tập thể, để hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh, thực hiện một bước sự thống nhất kinh doanh theo nghành kinh tế kỹ thuật. Quy mô mở rộng hơn trước gồm 39 đơn vị thành viên. Thời kỳ 1987 đến nay: Năm 1987 được sự đồng ý của nhà nước cho các nghành hàng khép kín từ sản xuất nông nghiệp đến chế biến xuất khẩu, Liên hiệp các xí nghiệp công nông nghiệp chè Việt Nam tiếp nhận công ty Xuất nhập khẩu chè Vinalimex tổ chức thành công ty xuất nhập và đầu tư phát triển chè, là đầu mối ký kết các hợp đồng kinh tế xuất khẩu chè và nhập khẩu vật tư, hàng hoá thiết bị phục vụ cho sản xuất chè trong nước, ký kết chương trình hợp tác liên doanh với nước ngoài, nhằm đẩy ngành chè phát triển tăng khối lượng sản phẩm và chất lượng được nâng cao, nên giá bán được nâng lên. Toàn liên hiệp tổ chức thành mô hình công nông nghiệp khép kín, sát nhập nhà máy chế biến chè và nông trường thành một đơn vị sản xuất. Đến cuối năm 1995, Liên hiệp các xí nghiệp chè Việt Nam gồm một văn phòng, 28 đơn vị sản xuất dịch vụ, 7 đơn vị liên doanh với nước ngoài. Tháng 6/1996 Tổng công ty chè Việt Nam chính thức đi vào hoạt động với 25 đơn vị thành viên hạch toán độc lập, 6 đơn vị sự nghiệp và 7 công ty liên doanh. III. Những đặc điểm kinh tế - kĩ thuật chủ yếu có liên quan và ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty chè Việt Nam. 1. Thị trường. 1.1.Thị trường xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu chè của Tổng công ty chè Việt Nam có những biến động khá lớn trong những năm qua. Thời kì những năm trước 1991 thị trường xuất khẩu của Tổng công ty chè Việt Nam (lúc đó là Liên hiệp các xí nghiệp chè Việt Nam) chủ yếu là thị trường truyền thống Liên Xô, Đông Âu, Pháp, Ai Cập, Nhật, Hà Lan, Thuỵ Điển… Cơ cấu xuất khẩu chè ở thập kỷ 80 thì khu vực một (Liên xô, Đông Âu) chiếm 80%, khu vực hai (các thị trường còn lại) chỉ chiếm 20%. Sau chính biến ở Liên Xô 1991 thị trường xuất khẩu chè của Vinatea mất 60,44%. Khu vục thị trường Liên Xô, Đông Âu biến động gây nên sự chuyển hướng thị trường sang khu vực hai. Tới nay, Tổng công ty chè Việt Nam luôn cố gắng duy trì thị trường truyền thống và vươn ra chiếm lĩnh những thị trường mới nhiều tiềm năng như: Mĩ, Đài Loan, Nhật, Singapo, iraq… Thị trường iraq: đây là thị trường có nhu cầu tiêu thụ chè rất lớn (bình quân tiêu thụ 4,5kg chè 1 người/1năm). Xuất khẩu chè sang iraq có nhiều thuận lợi và ưu điểm đặc biệt là thực hiện kế hoạch đổi dầu lấy lương thực của liên hợp quốc giữa Việt Nam và iraq. Đã xuất khẩu sang iraq từ năm 1993 bình quân tới nay là 6500 tấn/ 1 năm với giá 1350 USD/tấn. Thị trường Nga và Đông Âu: đây là thị trường truyền thống lớn nhất của Vinatea từ trước tới nay. Đối với thị trường này không chỉ Việt Nam xuất khẩu chè sang mà còn có nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ số lượng lớn. Sau sự biến động chính trị ở thị trường này, đòi hỏi Vinatea có chính sách khôi phục và chiếm lĩnh thị trường rộng lớn này. Số lượng chè đã xuất khẩu sang Liên Xô bình quân 1000 tấn/năm với giá 1100 USD/tấn. Đài Loan: hiện nay Vinatea có quan hệ mật thiết với thị trường này. Việt Nam xuất khẩu chè sang Đài Loan từ năm 1990 và hiện có rất nhiều chương trình hợp tác, liên doanh, liên kết. Chúng ta cần công nghệ, dây truyền máy móc hiện đại. Anh: đây là thị trường có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường chè thế giới, là trung tâm đấu giá chè thế giới. Nhận thức được tầm quan trọng của thị trường đầy tiềm năng này, Vinatea không ngừng xây dựng chiến lược thâm nhập. Tuy nhiên, đây là thị trường “khó tính” vào bậc nhất thế giới, do đó Vinatea cần không ngừng hoàn thiện về giá cả, mẫu mã, chất lượng chè mà cần có chính sách Marketing hợp lý. Thị trường các nước Châu á: có thể nói Châu á có truyền thống sử dụng trà từ lâu. Tuy vậy, ở các nước này nhu cầu sử dụng chủ yếu là chè xanh chứ không phải là chè đen như các nước Châu Âu và Châu Mỹ. Với ưu thế là Việt nam cũng là một nước Châu á, việc vận chuyển chè sang các nước Châu á có thuận lợi với chi phí lưu thông thấp. Các nước này cũng có công nghệ, dây truyền sản xuất tương đối hiện đại mà Việt Nam rất cần. 1.2. Thị trường trong nước. Chiếm 20-25% lượng sản phẩm. Tổng công ty đang tiếp tục mở ra một số mặt hàng mới, chất lượng cao như chè hoà tan, chè nhúng và một số mặt hàng khác. Những mặt hàng này hiện nay đang cạnh tranh với chè Lipton, Dilmah trên thị trường nội địa. 2. Mặt hàng và số lượng sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Mặt hàng của Tổng công ty và các đơn vị thành viên rất đa rạng và phong phú. Cụ thể có ba loại chính đó là: chè đen, chè xanh, chè nội , mỗi loại này lại có nhiều chủng loại mặt hàng khác nhau: Chè đen gồm có 7 loại: OP, FBOR, P, PS, BPS, F, D, BTP bên cạnh đó còn có PB, HN, HAL, SGON, HLIEN. Chè xanh gồm có 3 loại: PC, OL, Nhật. Chè nội: Chè hộp: Hộp giấy 26 loại trong đó đặc biệt chú ý 5 loại chè mới tung ra thị trường và đã tiêu thu rất mạnh: chè cam, táo, dâu, gừng, đào, ngoài ra chè xanh và chè La hán quả cũng tiêu thụ rất mạnh. 21 mặt hàng truyền thống như Tam thất, Thái sơn, Hoa ngân, Chè xanh phúc lộc thọ, Tùng hạc, Tuyết thế kỷ, Xanh đặc sản… Chè túi nhỏ:- chè xanh loại 7g, 8g, 25g. - chè nhài loại 10g, 20g. Chè nhúng: Sen, Nhài, đen, xanh, hương nhúng. Hộp sắt 100g: Thái nguyên, Linh sơn, Linh sen, Tam đa, Trấn quốc, Tây hồ, Ngọc sơn, Đông đô, Thanh tâm, Thanh hương. Chè gói: Đại Đồng, Hồng Đào, Thanh Hương, Xanh gói, Hương tổng hợp. Chè rời đóng túi: Chè Thái nguyên Chè Tuyết Shan Các loại chè khác Về sản lượng đáp ứng nhu cầu thị trường. Năm 2000 : 21550 tấn. Năm 2001 : 25570 tấn. Năm 2005 (dự kiến) : 57500 tấn. 3. Chất lượng sản phẩm. Sản phẩm của công ty được chia làm 5 loại: tốt, khá, đạt, kém, hỏng. Phương pháp đánh giá: áp dụng phương pháp cho điểm Mức độ quan trọng của chỉ tiêu dùng để đánh giá thể hiện qua hệ số quan trọng. Hệ số quan trọng Bảng 1: Hệ số quan trọng của các chỉ tiêu Tên chỉ tiêu Theo % Bằng số 1. Ngoại hình 25 1,0 2. Mẫu nước pha 15 0,6 3. Mùi 30 1,2 4. Vị 30 1,2 Thang điểm 5, điểm cao nhất 5, điểm thấp nhất 1. Điểm tổng hợp: D = Di: điểm trung bình của cả hội đồng cho một chỉ tiêu thứ i. Ki: Hệ số quan trọng của chỉ tiêu tương ứng. Sản phẩm đạt yêu cầu khi: tổng điểm đạt 11,2 điểm trở lên, 3 trong 4 chỉ tiêu không thấp hơn 2,8 điểm. Bảng 2: Điểm đánh giá chất lượng Thứ tự Xếp hạng chất lượng Điểm 1 Tốt 18,2 – 20 2 Khá 15,2 – 18,1 3 Đạt 11,3 – 15,1 4 Kém 7,2 – 11,2 5 Hỏng 0 – 7,2 4. Nguyên vật liệu chủ yếu mà doanh nghiệp đang sử dụng Nguyên liệu nếu chia theo nguồn gốc thì tổng công ty hiện có 2 nguồn: Nguyên liệu tự sản xuất chủ yếu là búp tươi. Nguyên liệu thu mua ngoài gồm có búp tươi và búp khô Phần nguyên liệu tự sản xuất thu được từ các vườn chè thuộc tổng công ty (của các đơn vị thành viên như công ty chè Mộc Châu, công ty chè Sông Cầu, công ty chè Long Phú, công ty chè Yên Bái … ). Chất lượng và số lượng các loại nguyên liệu này phụ thuộc vào năng lực của từng vườn chè, chế độ thâm canh và thu hái hợp lý, chế độ nuôi dưỡng và khai thác cân đối. Phân loại nguyên liệu được chia ra làm 4 loại: chè loại 1, chè loại 2, chè loại 3, chè loại 4. Tình hình hiện tại nguyên liệu thu mua chất lượng thấp, chủ yếu là loại 2 và loại 3, một ít loại bún trong đó chè loại 3 chiếm tỷ lệ rất cao. Giá thu mua trung bình là 2000 đồng/kg nhằm khuyến khích người sản xuất. 5. Công nghệ và thiết bị máy móc Trong 75 cơ sở chế biến công nghiệp của cả nước, tổng công ty chè quản lý 28 cơ sở với công xuất 598 tấn tươi/ngày. Chế biến chè đen xuất khẩu: Chế biến theo công nghệ orthodox và CTC. Thiết bị orthodox nhập từ Liên Xô cũ vào những năm 1957 - 1977 đến nay đều đã cũ, sửu chữa thay thế bằng các phụ tùng trong nước nhiều lần, tuy vẫn hoạt động nhưng đã bộc lộ nhược điểm ở các khâu: Lên men, sấy, hút bụi phòng sàng … nên ảnh hưởng xấu đến chất lượng sản phẩm. Trong năm 1998 đã nhập 4 dây chuyền thiết bị đồng bộ, hiện đại của ấn Độ, chế biến chè đen orthodox. Những năm 1980 nhập của ấn Độ gồm 6 dây chuyền thiết bị chế biến chè đen CTC nhưng nhìn chung sản xuất không hiệu quả do thiết bị nhập thiếu đồng bộ nên tiêu hao nguyên nhiên liệu và năng lượng cao. Năm 1996 nhập 2 dây chuyền công nghệ song đôi của ấn Độ khá hiện đại nhưng chỉ có dây chuyền ở Long Phú là hoạt động. Năm 1997 liên doanh chè Phú Bền nhập 3 dây chuyền CTC của ấn Độ ở Phú Thọ với công xuất 60 tấn/ngày và năm 1998 nhập thêm dây chuyền ở Hạ Hoà tổng công xuất 30 tấn/ngày. Những dây chuyền này thiết bị hiện đại, đồng bộ, hoạt động tốt. Chế biến chè xanh: Chè xanh nội tiêu được chế biến chủ yếu theo phương pháp cổ chuyền và 1 phần theo công nghệ Trung Quốc, Đài Loan. Các cơ sở sản xuất chè xanh nội tiêu phần lớn được trang bị công nghệ của Trung Quốc quy mô 8 tấn tươi/ngày trở xuống và nhỏ nhất là các lò chế biến đáp ứng được về mặt số lượng chè tiêu dùng của nhân dân nhìn chung là chất lượng không cao. Mấy năm gần đây bằng các liên doanh và hợp tác với nước ngoài ta đã có được các dây chuyền thiết bị và công nghệ chế biến chè xanh có công xuất vừa, hiện đại của Nhật Bản và Đài Loan, đặc biệt có sản phẩm bán 80.000 đồng/kg được người tiêu dùng trong nước chấp nhận. 6. Tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp và đội ngũ lao động Tổng số lao động của Tổng công ty hiện có là 13750 người trong đó doanh nghiệp nhà nước có 6970 người, cổ phần có 2650 người, liên doanh có 3980 người và các đơn vị sự nghiệp có 150 người. Trong đó số lao động có trình độ đại học 543 người, trên đại học 27 người, trung cấp 970 người, công nhân kĩ thuật bậc cao 2680 người. Tỷ lệ lao động gián tiếp = 770/13750 < 10%, cơ cấu lao động như vậy là hợp lý. Bộ máy quản lý, điều hành của Tổng công ty chè Việt Nam bao gồm: 6.1. Hội đồng quản trị: Có từ 5-7 thành viên do Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn bổ nhiệm, miễn nhiệm. Trong đó có một chủ tịch hội đoòng quản trị, một thành viên kiêm tổng giám đốc, một thành viên kiêm trưởng ban kiểm soát. Hội đồng quản trị có một số chuyên viên chuyên trách giúp việc cho chủ tịch hội đồng ra quyết định. Chủ tịch hội đồng quản trị không kiêm tổng giám đốc. Nhiệm kì của thành viên hội đồng quản trị là 5 năm, thành viên của hội đồng quản trị có thể được bổ nhiệm lại. Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lý hoạt động của Tổng công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng công ty theo nhiệm vụ nhà nước giao. 6.2. Ban kiểm soát: Ban kiểm soát có 5 thành viên, trong đó có một thành viên hội đồng quản trị làm trưởng ban theo sự phân công của Hội đồng quản trị và 4 thành viên khác do Hội đồng quản trị quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỉ luật; Gồm 1 thành viên là chuyên viên kế toán, 1 thành viên do Đại hội đại biểu công nhân viên chức Tổng công ty giới thiệu, 1 thành viên do Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn giới thiệu và 1 thành viên do Tổng cục trưởng Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doang nghiệp giới thiệu. Thành viên ban kiểm soát là người không phải là vợ, chồng, bố, mẹ, anh, chị, em ruột của chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, Kế toán trưởng Tổng công ty và không được kiêm nhiệm bất cứ nhiệm vụ nào trong bộ máy điều khiển của Tổng công ty hoặc giữ bất kì chức vụ quan trọng nào trong các doanh nghiệp khác cùng nghành kinh tế, kĩ thuật với Tổng công ty. 6.3. Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc. Tổng giám đốc do Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật theo đề nghị của Hội đồng quản trị. Tổmg giám đốc là đại diện pháp nhân của Tổng công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, trước pháp luật về sự điều hành hoạt động của Tổng công ty. Tổng giám đốc là người có quyền hành cao nhất trong tổng công ty. Phó tổng giám đốc là người giúp việc cho Tổng giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của Tổng công ty theo sự phân công của Tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được Tổng giám đốc phân công thực hiện. Kế toán trưởng giúp Tổng giám đốc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê của Tổng._. năng suất và chất lượng chè, cần lưu ý rằng sâu bệnh có thể làm giảm sản lượng từ 10-12%. Cần sử dụng các biện pháp phòng trừ sâu bệnh theo phương pháp IPM không để lại dư độc chất trong sản phẩm. Làm tốt các khâu trong quy trình sản xuất: Trồng chè – thu hái – chế biến – sàng lọc. áp dụng phương pháp quản lý chất lượng đồng bộ, phương châm làm đúng ngay từ đầu, lấy tiêu chuẩn ISO 9000 làm công cụ để quản lý chất lượng. Chỉ đạo chặt chẽ việc cải tạo các vườn chè ở từng khu vực có đặc điểm thổ nhưỡng khác nhau để đưa giống mới thích hợp vào sản xuất. Những người trồng chè cần được trang bị kiến thức, để căm sóc đất chè không bị bạc màu mà lại giàu về dinh dưỡng và chủ động về thuỷ lợi. Đầu tư thiết bị hái chè để giảm 2/3 sức lao động, tăng năng suất, thay thế 3 máy lên men của Liên Xô cũ bằng của Nhật và ấn Độ, đầu tư thay hai máy sấy của Nhật. Trang bị thêm máy hút bụi, lọc tách sơ cẫng, loại bỏ tạp chất sắt, trang bị thiết bị bẻ chè kiểu Nhật cho phòng sàng. Tuyệt đối không thu mua và chế biến chè búp tươi còn dư lượng thuốc trừ sâu, chè bị ôi ngốt, dập nát. Thu mua và chế biến mặt hàng chè OP và P dài hơn và theo đúng tiêu chuẩn Việt Nam , tỷ lệ 3 mặt hàng (OP, FBOP, P) không quá 60%, thuỷ phần nhập kho không quá 7%, không nhập kho chè bị lẫn loại. Nội chất không có chie tiêu nào dưới 2,5 điểm. 2.3. Về mặt hiệu quả: Khi những giải pháp này được thực hiện chắc chắn sẽ nâng cao được chất lượng chè thành phẩm. Đưa tổng diện tích vườn ươm đạt 120 ha đủ cung cấp giống cho trồng mới 5.000 ha/năm. Sản lượng tiêu thụ của Tổng công ty tăng lên khoảng 3.000 tấn chè thành phẩm. Giá chè tăng khoảng 21,9% (tương đương 0,24 USD/kg). Dẫn đến doanh thu tăng mỗi năm là 4.040.000 USD tương đương với 60.525.000.000 đồng. Lợi nhuận sẽ tăng mỗi năm là 840 triệu đồng, thị phần xuất khẩu tăng từ 2,3% năm 2001 lên 4 – 5% vào năm 2005. Bí quyết chất lượng là: Kỷ luật chế biến nghiêm túc, kiểm soát chất lượng càng chặt chẽ thì rủi ro trên thị trường quốc tế cũng như nội địa càng thấp. Chỉ có chất lượng tốt ta mới giữ vững và mở rộng được thị trường, kiếm được khách hàng ổn định lâu dài. 2.4. Điều kiện thực hiện giải pháp. Huy động đầy đủ nguồn vốn đầu tư cho canh tác và phát triển cây chè từ nhiều nguồn khác nhau. Kiểm tra thường xuyên và hướng dẫn kịp thời các biện pháp, kỹ thuật canh tác cho người trồng chè. Viện nghiên cứu chè làm trọng tâm trong việc nghiên cứu, phát triển, cung cấp các giống chè mới có năng suất và chất lượng cao cho người trồng chè. Kiểm tra chặt chẽ, thống nhất quản lý chất lượng ở tất cả các đơn vị tham gia sản xuất chế biến chè xuất khẩu. Chuẩn bị vốn cho đầu tư đổi mới các thiết bị, công nghệ cần thiết. Tăng cường nhận thức cho các thành viên trong Tổng công ty về vai trò của chất lượng đối với sự phát triển lâu dài của Tổng công ty. 3. Đa dạng hoá sản phẩm. 3.1. Lý luận và thực tiễn của giải pháp. Muốn tăng trưởng vững chắc cả về giá trị xuất khẩu cũng như mở rộng thị trường, thì một trong những giải pháp quan trọng là đa dạng hoá sản phẩm chè, chứ không thể dựa vào các mặt hàng truyền thống vốn rất nghèo nàn. Hiện nay, việc tạo ra sản phẩm mới làm được quá ít, trong khi có sản phẩm mới thì mới có khả năng đa dạng hoá mặt hàng, đa dạng hoá thị trường. Do đó, vấn đề đặt ra là phải cải tiến các mặt hàng truyền thống, tổ chức nghiên cứu hệ thống và đầu tư thích ứng cho sự phát triển các mặt hàng mới, cải tiến mẫu mã, công nghệ bao bì có đẳng cấp quốc tế. Cần chú ý là với đồ uống, việc tạo ra sản phẩm tương tự ở đây được hiểu là sản phẩm mới, phải có chất lượng tương đương nào đó. Khi xã hội ngày càng phát triển thì yêu cầu đối với mẫu mã và bao bì phải thích ứng với môi trường hiện đại, điều này có nghĩa là bao bì hoặc có thể sử dụng lại sau khi dùng, hoặc chúng không làm hại tới môi trường sau khi đã thành chất thải, bao bì dễ sử dụng, mẫu mã có tính hướng dẫn tiêu dùng. Các sản phẩm mới cũng bao gồm các sản phẩm cao cấp và sản phẩm tiện cho hệ thống phân phối. Để thực hiện mục tiêu đa dạng hoá sản phẩm Tổng công ty đã trình Chính phủ xây dựng khu công nghiệp liên hiệp tại Kim Anh (Hà Nội) và hiện bước đầu kế hoạch đang triển khai vào đầu năm 2002 bao gồm: Chế tạo phụ tùng và thiết bị chế biến chè với công suất 300 tấn/năm, nhằm phục vụ cho các nhà máy chè hiện có và tiến tới không phải nhập thiết bị đơn giản từ nước ngoài. Trung tâm tinh chế - đấu trộn – sản xuất bao bì - đóng gói chè thành phẩm, công suất tinh chế - đấu trộn 5.000 tấn/năm, chè bao gói thành phẩm 3.000 tấn/năm, sản xuất bao bì chè công suất 5.000 tấn/năm, cho ra các loại sản phẩm chè đa dạng, chè đen và chè xanh đấu trộn theo nhu cầu mẫu mã từng thị trường, chè bao gói từ 200 – 1.000 gr, các loại chè Sen, Nhài, Hương tổng hợp, Ngâu, Tùng Hạc, Thanh Long, Hương hoa quả đến các loại chè hữu cơ, chè thực phẩm, chè Thảo mộc và chữa bệnh… Mở rộng và trang bị thêm thiết bị cho nhà máy chè túi lọc công suất 300 tấn/năm tại Hà Nội. Xây dựng nhà máy chè đóng gói công suất 300 tấn/năm và trung tâm đấu trộn chè tại Thành phố Hồ Chí Minh, công suất 300 tấn/năm. Đầu tư mở rộng các xưởng chế biến phân hữu cơ vi sinh, phân lân… với tổng công suất 4 vạn tấn/năm dùng cho chè và các loại cây khác. Tổ chức hệ thống cơ khí chè để có thể tiến hành hợp tác với nước ngoài và các nhà máy cơ khí trong nước làm nhiệm vụ chế tạo, lắp ráp thiết bị, phụ tùng thay thế, phù hợp với sự phát triển và hiện đại hoá của ngành chè Phát triển lĩnh vực xây lắp và vật tư kỹ thuật để đảm bảo việc xây dựng các nhà máy của ngành chè, đủ khả năng để tổ chức thi công các công trình yêu cầu kỹ thuật cao. Mở rộng mạng lưới xây dựng ra cả nước để có doanh thu 30 tỷ/năm. Công ty có thể đảm nhiệm thêm các nhiệm vụ khác như: Cải tạo đất, cải tạo mạng lưới giao thông, cải tạo các nhà máy trong và ngoài ngành chè. Tổng công ty đã mở nhiều đợt nghiên cứu thị trường và rút ra được nhu cầu về các loại chè của một số thị trường chính được trình bày ở bảng sau: Bảng 17. Loại chè ở một số thị trường chính. Tên nước Loại chè 1. Iraq Loại chè trung bình 2. Iran Loại chè cao cấp 3. Đài Loan Chè đen cấp thấp, chè xanh đặc sản và chè ướp hương 4. Anh Chè đen ORTHODOX và chè cấp thấp như Dust, Faning 5. Nga Chè đen chủng loại ORTHODOX và CTC 6. Nhật Bản Chè xanh dẹt công nghệ Nhật và chè đen 7. Trung Quốc Chè xanh các loại Qua bảng trên ta có thể thấy được các loại chè mà một số thị trường chính yêu cầu. Nhưng chúng ta sẽ không dừng ở đó và sẽ tiếp tục nghiên cứu, cung cấp các loại sản phẩm mới đáp ứng thị hiếu đa dạng của người tiêu dùng ở nhiều thị trường khác nhau bằng việc đa dạng hoá sản phẩm. 3.2. Nội dung của giải pháp. Muốn đa dạng hoá sản phẩm phải giải quyết hai vấn đề cơ bản là giống và kỹ thuật chế biến. Trước hết, phải cung cấp cho vùng nguyên liệu các giống cây chè mới, có hương vị mới, đồng thời có năng suất cao, chất lượng tốt, giá cả hợp lý, đẻ tạo ra nguồn chè nguyên liệu ổn định và có khả năng chế biến đa dạng sản phẩm. Vừa qua, một số đơn vị đã đầu tư trồng giống chè Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản, bước đầu đã mở ra những triển vọng tốt, từ các giống chè này có thể chế biến ra nhiều loại chè xuất khẩu cao cấp. Kỹ thuật chế biến đóng vai trò quyết định để đa dạng hoá sản phẩm. Trong đó, đòi hỏi phải có đội ngũ kĩ thuật giỏi và tâm huyết với nghề, có khả năng sáng tạo, để tạo ra các sản phẩm đáp ứng yêu cầu của khách hàng, đồng thời tạo ra những sản phẩm mới có tính khai phá thị trường. Nghệ thuật chế biến chè không chỉ đảm bảo các yêu cầu chất lượng sản phẩm về mặt cảm quan, màu sắc, hương vị, hình dáng, thành phần, thuỷ phần… Mà cả tính toán giá thành phù hợp để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Chè nguyên liệu ở mỗi vùng có những đặc trưng riêng, ví dụ như cũng là chè Bạch Mao nhưng chè Hà Giang có mùi vị khác chè Lâm Đồng; Chè Thái Nguyên có hình dáng, mùi vị đặc trưng…Vì vậy phải có qui trình sản xuất khác nhau. Giỏi về kĩ thuật là phải nắm vững toàn diện về tổ chức sản xuất, kể cả nắm rõ giá và đặc tính nguyên liệu từng vùng, cho đến cách phân loại sơ chế nguyên liệu, xây dựng thành từng công đoạn để tìm ra giải pháp sản xuất hợp lí nhất. ở từng xí nghiệp chế biến, nguyên liệu phải được phân loại rất kĩ thành nhiều loại để tận dụng tối đa nguyên liệu, từ đó thành công hay không là do khâu xử lý pha chế, đấu trộn các loại để đáp ứng yêu cầu của từng thị trường, tạo ra nhiều cấp sản phẩm khác nhau, từ cấp thấp đến cấp cao, với các loại chè ướp hương của các loại hoa thiên nhiên (lài,sen…) ở nồng độ khác nhau 20%,30%…làm đa dạng mặt hàng, mỗi loại có giá bán khác nhau, phục vụ nhiều đối tượng khác nhau. Đây là điểm then chốt để nâng cao hiệu quả kinh tế. Có thể nói, sự sáng tạo là yếu tố quyết định thành công trong làm chè xuất khẩu, bên cạnh đó còn phải biết lắng nghe khách hàng. Việc đa dạng hoá sản phẩm cũng đòi hỏi người quản lí đồng thời vừa phải có trình độ tổ chức sản xuất tốt, vừa phải nắm vững kĩ thuật mới để có thể linh hoạt nắm bắt yêu cầu và có quyết định kịp thời khi đàm phán với khách hàng. 3.3. Về mặt hiệu quả kinh tế: Nếu giải pháp đa dạng hoá sản phẩm được áp dụng thì đến 2005 doanh thu của tổng công ty sẽ tăng lên từ 1.800 tỉ đồng đến 2.000 tỉ đồng, trong đó 70% doanh thu từ chè. Tổng công ty sẽ có một cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hợp lí, đáp ứng tốt nhất nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng ở nhiều thị trường khác nhau, mặt hàng chè của Tổng công ty sẽ có mặt ở trên 40 nước trên thế giới và sản lượng xuất khẩu đạt 45.000 tấn vào năm 2005. 3.4. Điều kiện thực hiện giải pháp. Tổng công ty mà cụ thể là Viện nghiên cứu chè cần tích cực nghiên cứu phát triển và nhập khẩu các giống chè mới thích hợp để thực hiện đa dạng hóa sản phẩm. Có đội ngũ kỹ thuật giỏi và tâm huyết để thực hiện tốt các kỹ thuật chế biến. Xây dựng kế hoạch đào tạo đội ngũ công nhân tay nghề cao. 4. Giải pháp về hiện đại hoá thiết bị và công nghệ chế biến chè. 4.1. Lý luận và thực tiễn của giải pháp. Hiện trạng, trong số 174 cơ sở chế biến công nghiệp của cả nước, Tổng công ty chè quản lí 65 cơ sở với tổng công xuất 1.690 tấn tươi/ngày. Công nghệ chế biến chè xuất khẩu theo công nghệ OTHODOX và CTC. Ngoài một số dây truyền hiện đại mới nhập đồng bộ của ấn Độ là đang hoạt động tốt còn lại phần lớn các dây truyền thiết bị khác đã cũ và lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ, tuy vẫn đang còn hoạt động nhưng đã bộc lộ nhiều nhược điểm ở các khâu: lên men, sấy, hút bụi phòng sàng…nên ảnh hưởng xấu đến chất lượng sản phẩm. Chế biến chè xanh chủ yếu theo phương pháp cổ truyền và một phần theo công nghệ Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản. Các máy móc thíêt bị vừa và nhỏ hoạt động bình thường, nhưng nhìn chung chất lượng sản phẩm sản xuất ra không cao. Do đó việc hiện đại hoá thiết bị và công nghệ chế biến chè là một tất yếu khách quan, một nhu cầu bức thiết của công nghiệp thực phẩm nói chung và của nghành chè nói riêng trên con đường hoà nhập với thị trường thế giới và nâng cao sức cạnh tranh. Vài năm gần đây, nhất là trong các năm 2000-2001 nhiều loại sản phảm mới từ mọi miền đất nước đã liên tiếp xuất hiện, đặc biệt là các sản phẩm chất lượng cao như: Shan Trúc Thanh, các loại chè nhài của công ty Cát Thịnh, chè Mĩ Lâm, sông Lô, Rồng Vàng, một số loại chè Mộc Châu mới, chè Cổ Loa, Bắc Sơn. Đặc biệt là các loại chè nhúng hương hoa quả của Tổng công ty chè Việt Nam khá đa dạng như: Dâu, Ngâu, Sói, Đào, Soài… Trong tổng sản phẩm xuất khẩu năm 2001 với 29.770,659 tấn, phần lớn đã qua xử lý công nghiệp chế biến với các loại hình khác nhau, trong đó có nhiều loại công nghệ tiên tiến trên thế giới hiện nay. Chiến lược phát triển chè ở Việt Nam đến những năm 2010 đã chỉ rõ những đường nét căn bản của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá công nghiệp chế biến trong ngành chè. Nếu làm một phép so sánh, thì đến đầu năm 1999 cả nước có 75 cơ sở chế biến (Tổng công ty quản lý 28 cơ sở) với tổng công suất 1191 tấn búp tươi (chiếm 60% tổng sản lượng búp tươi), thì đến năm 2001 cả nước có 174 cơ sở chế biến có công suất 5 tấn/ngày, tổmg công suất 1690 tấn búp tươi/ngày (chiếm 75% tổng sản lượng búp tươi). Như vậy trung bình mỗi năm, cả nước đã tăng được hơn 160 tấn/ngày, tương đương với khoảng 5.000 tấn nguyên liệu. 4.2. Nội dung của giải pháp. Vấn đề đặt ra là hiện đại hoá thiết bị như thế nào? Giải pháp chung về đầu tư thiết bị cần thiết là: Bổ xung dàn héo tự nhiên, hiện đại hoá bộ phận ép của máy vò, thay đổi động cơ làm giảm vòng quay của máy vò, hiện đại hoá phòng lên men, trang bị hệ thống lên men liên tục và làm mát lá chè theo kiểu Nhật, thay bộ phận phun ẩm bằng phun sương. Mặt khác, hiện đại hoá khâu hút bụi để đảm bảo vệ sinh công nghiệp, thay lò nhiệt đốt than băng đốt dầu để tăng chất lượng chè. Xây dựng kho bảo quản chè bán thành phẩm để đảm bảo không tăng độ ẩm. Kế hoạch 10 năm (1999-2010) là xây dựng thêm 180 nhà máy, công suất 12 tấn/ngày, thiết bị tiêu chuẩn, trong đó 137 nhà máy đảm bảo chế biến 34.000 ha trồng mới và 43 nhà máy đảm bảo chế biến số sản phẩm tăng lên từ các diện tích cũ. Đối với vùng sâu vùng xa, mô hình xưởng chế biến công suất 2-6 tấn/ ngày, thiết bị hiện đại ( như xưởng chè Bắc Sơn thiết bị Đài Loan công suất 4 tấn/ngày) là thích hợp. ở những địa bàn quá phúc tạp, nên trang bị các máy sao, vò cỡ nhỏ 50-200 kg/ngày để phục vụ nội tiêu và cung cấp cho các nhà máy đấu trộn, tinh chế… Về xử lý những xưởng chế biến thủ công mi ni: Đây là vấn đề mà công luận đã lên tiếng nhiều với những quan điểm đôi khi hoàn toàn trái ngược nhau. Công bằng mà nói thì nên xem xét vấn đề này trên hai khía cạnh. Xét về góc độ chất lượng, thì đây là những cơ sở sản xuất thoát khỏi sự kiểm soát về tiêu chuẩn và chất lượng, vì sản phẩm không tuân thủ một loại tiêu chuẩn nào. Về quan điểm kinh tế thi trường thì cạnh tranh là tất yếu khách quan, không thể dùng biện pháp hành chính để xoá bỏ những cơ sở này được. Vấn đề là cần xử lý từ gốc, một mặt khi cấp đăng kí kinh doanh, các cơ quan chức năng cần xem xét đầy đủ các tiêu chuẩn để cho phép loại hình này hoạt động, trong các tiêu chuẩn thiết bị, chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm… Mặt khác, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng địa phương, các tổ chức tiêu chuẩn và ngành chè trong việc kiểm tra giám sát hoạt động của các xưởng không đủ tiêu chuẩn hoạt động. Mặt quan trọng khác là ngành chè cần tổ chức bình tuyển, chọn mẫu, thiết kế chế tạo các dây truyền thiết bị quy mô nhỏ trang bị đến hộ, liên hộ, tích cực giảm giá thành, nâng cao chất lượng chế tạo phụ tùng thiết bị lẻ để người làm chè, nhất là các doanh nhân có ý chế biến chè quy mô nhỏ, có thiết bị thích hợp thay thế các xưởng, lò chế biến mi ni này. Một giải pháp khác để hiện đại hoá công nghệ và thiết bị đó chính là con đường liên doanh liên kết và chuyển giao công nghệ, với các hình thức này chúng ta sẽ có được công nghệ tiến hiện đại, thích hợp với điều kiện hiện nay của Tổng công ty. Trong chương trình chế tạo công nghệ thiết bị chè, Tổng công ty cần lựa chọn thiết bị công nghệ phù hợp với đặc thù của Việt Nam trong số thiết bị hiện có như Nga, ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. Cải tạo một số thiết bị đang sử dụng và tiến tới sản xuất các máy lên men liên tục để trang bị cho các nhà máy chè. Đồng bộ hoá và thống nhất trong khâu sàng phân loại để tạo men liên tục, để tạo ra mặt đồng đều giữa các nhà máy. Hiện đại hoá toàn bộ khâu hái chè nhằm tạo hương thơm cho chè thành phẩm. Lắp đặt thiết bị hút ẩm cho chè thành phẩm để chè vào thùng đạt mức thuỷ phần 5%. 4.3. Về mặt hiệu quả: Nếu các giải về hiện đại hoá thiết bị và công nghệ được áp dụng thì lợi ích đầu tiên đó là chất lượng sản phẩm được cải thiện rõ rệt. Chè loại 1: từ 2,3% lên 20%. Chè loại 2: từ 44,8% lên 60%. Chè loại 3: từ 48,2% xuống 19%. Chè loại 4: từ 4,7% xuống 1%. Từ đó nâng giá bán của chè xuất khẩu lên ngang mức giá trung bình của thé giới 2,018 USD/kg, chứ không như hiện nay chỉ bằng 70-80% giá trung bình của thế giới. Sản phẩm chè của Tổng công ty sẽ có mặt ở những thị trường đòi hỏi chất lượng cao như Anh, Iran, Nhật Bản… Với hệ thống máy móc thiết bị đồng bộ sễ giảm được chi phí nguyên nhiên liệu từ 10-15%, kim ngạch xuất khẩu đạt 115 triệu USD vào năm 2010. 4.4. Điều kiện thực hiện giải pháp. Đầu tư đầy đủ cho các chương trình nghiên cứu, chế tạo công nghệ thiết bị chè. Tổng công ty phải có năng lực trong việc đánh giá tính đồng bộ, hiệu quả và sự phù hợp của các thiết bị công nghệ ngoại nhập hiện nay. Cung cấp đầy đủ vốn đầu tư cho xây dựng các nhà máy mới và nhập các dây truyền thiết bị đồng bộ. Giữ mối quan hệ tốt trong liên doanh, liên kết để phát triển các hoạt động liên doanh, liên kết mới sau này. Thực hiện tốt các công tác trước và sau khi liên doanh. 5. Giải pháp về chính sách Marketing xuất khẩu. 5.1. Lý luận và thực tiễn của giải pháp. Cùng với chính sách đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty đã có nhiều thành tựu đáng ghi nhận, sản lượng xuất khẩu liên tục tăng qua các năm đạt mức 29.770,659 tấn vào năm 2001 kim nghạch xuất khẩuđạt 37.838.981,43 USD, đặc biệt trong tình hình nhiều thị trường truyền thống bị đổ vỡ. Tuy nhiên sự phát triển của hoạt động xuất khẩu vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của TCT. Bên cạnh những nguyên nhân gắn liền với yếu tố môi trường quốc tế và môi trường vĩ mô trong nước, một nguyên nhân quan trọng của tình hình trên thuộc về hiệu quả của hoạt động Marketing xuất khẩu của Tổng công ty. Thực tế, Tổng công ty đã thực hiện nhiều hoạt động thương mại nhằm thúc đẩy xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên, những hoạt động này chủ yếu tập trung vào việc xúc tiến xuất khẩu. Hơn nữa các hoạt động này nhiều khi rời rạc, thiếu tính hệ thống và chưa tuân theo các nguyên tác và qui trình Marketing hiện đại. Đó là định hướng thị trường, thoả mãn khách hàng, phối hợp với các chiến lược Marketing và đảm bảo hiệu qủa kinh tế. Chính vì vậy, rất cần thiết phải đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách marketing xuất khẩu của Tổng công ty. Trong xu thế hội nhập quốc tế và cạnh tranh ngày càng tăng, việc thực hiện chính sách Marketing xuất khẩu chắc chắn là một con đường tất yếu, một công cụ quan trọng giúp cho Tổng công ty mở rộng hoạt động xuất khẩu và nâng cao hiệu quả. Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing và quản lí xuất khẩu,Tổng công ty cần phải tập trung vào công tác nghiên cứu thị trường và xác lập Marketing hỗn hợp cho sản phẩm xuất khẩu trên các thị trường mục tiêu. 5.2. Nội dung của giải pháp 5.2.1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường xuất khẩu Nâng cao hiệu quả của việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu. Phương pháp nghiên cứu tài liệu vẫn là phương pháp phổ biến nhất với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Đây là phương pháp đỡ tốn kém nhất và phù hợp với khả năng của các doanh nghiệp xuất khẩu mới tham gia vào thị trường thế giới. Tất nhiên, mức độ tin cậy của phương pháp này không cao như phương pháp nghiên cứu hiện trường. Điều quan trọng là Tổng công ty phải biết tìm kiếm các nguồn tin thứ cấp và khai thác triệt để các nguồn tin đó. Hoàn thiện quá trình lựa chọn thị trường xuất khẩu. Cho đến nay, Tổng công ty vẫn đang áp dụng Marketing xuất khẩu một cách không có kế hoạch và từng phần. Tổng công ty gần như lựa chọn theo cách phản ứng lại với thị trường. Trong tương lai, Tổng công ty phải cố gắng chuyển từ tiếp cận lựa chọn thị trường một cách “phản ứng hay bị động” sang tiếp cận “tích cực” tức là có định hướng Marketing. Một vấn đề quan trọng khác của việc tuyển chọn thị trường xuất khẩu là quyết định liên quan đến số lượng thị trường mà Tổng công ty sẽ thâm nhập. Vấn đề cuối cùng liên quan đến thị trường xuất khẩu là xác định và lựa chọn các thị trường mục tiêu cho hiện tại và tương lai. Trước hết, tiếp tục thực hiện các chính sách đa phương hoá, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước khối EU, Bắc Mỹ, Ôxtralia và khôi phục lại các thị trường truyền thống ở khu vực Đông Âu, Nga và các nước SNG. Thứ hai, đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường các nước ASEAN và Châu á. 5.2.2. Đổi mới phương thức thâm nhập thị trường: từ xuất khẩu gián tiếp sang xuất khẩu trực tiếp. Trong thời gian tới, cùng với việc tích luỹ kinh nghiệm xuất khẩu và nâng cao hơn nữa trình độ, năng lực của cán bộ làm Marketing xuất khẩu, Tổng công ty cần phải thực hiện xuất khẩu trực tiếp sản phẩm sang thị trường nước ngoài. Hơn nữa, thay vì xuất khẩu bị động như hiện nay, cũng cần phải thực hiện xuất khẩu theo định hướng Marketing, tức là xuất phát từ nhu cầu và thị trường, mong muốn của người tiêu dùng nước ngoài, xây dựng chính sách Marketing hỗn hợp thích nghi tốt nhất với điều kiện và đặc điểm của thị trường quốc gia. Đối với Tổng công ty, hiện nay khả năng bán trực tiếp cho khách hàng cuối cùng là rất khó. Chúng ta chưa có đủ khả năng thiết lập mạng phân phối riêng hay tiến hành liên doanh tại nước ngoài. Do đó, những năm trước mắt, hình thức sử dụng trung gian phân phối dường như là giải pháp hợp lý nhất. 5.2.3. Hoàn thiện các chính sách Marketing hỗn hợp trên thị trường xuất khẩu. Chính sách sản phẩm xuất khẩu. Vấn đề đầu tiên, quan trọng nhất là sản phẩm xuất khẩu phải thích nghi và đáp ứng được nhu cầu thị trường nước ngoài về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, bao gói của sản phẩm. Chỉ có những sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao mới có thể đứng vững trên thị trường. Vấn đề thứ hai trong chính sách sản phẩm là Tổng công ty cần thực hiện giải pháp đa dạng hoá sản phẩm nhằm nâng có khả năng đáp ứng các cấp độ nhu cầu khác nhau của khách hàng mục tiêu, tận dụng năng lực hiện có và phân tán rủi ro. Vấn đề thứ ba là phát triển sản phẩm mới nhằm tăng cường khả năng nắm bắt cơ hội thị trường mới và giảm thiểu rủi ro gắn liền với những thay đổi thị trường. Vấn đề thứ tư, đối với sản phẩm xuất khẩu hoặc có chất lượng cao cố găng sử dụng nhãn hiệu của Tổng công ty kết hợp với nhãn hiệu của nhà phân phối (nhập khẩu). Trong trường hợp cho phép cố gắng sử dụng nhãn hiệu thống nhất Vinatea. Chiến lược giá cả. Hiện nay, Tổng công ty áp dụng giá xuất khẩu FOB trên cơ sở thoả thuận với khách hàng nước ngoài. Để tránh tình trạng bị ép giá, cần thiết phải có một khung giá cho từng mặt hàng chè xuất khẩu trên cơ sở nghiên cứu và phân tích chi phí, giá cả thị trường quốc tế và chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Theo vị thế cạnh tranh hiện nay, Tổng công ty có thể cải tiến mức giá bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, nhờ đó tạo ra mối quan hệ giá cả - chất lượng cao hơn, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh về giá của sản phẩm chè. Trong tương lai sẽ phấn đấu xuất khẩu trực tiếp, bán theo giá CIF. Đẩy mạnh truyền tin và xúc tiến hỗn hợp. Trong chính sách xúc tiến hỗn hợp cần đặc biệt quan tâm đến quảng cáo và tuyên truyền, việc tham gia hội chợ quốc tế là rất có ích. Vấn đề quan trọng là phải xác định sản phẩm, mặt hàng tham gia trong mối quan hệ với khả năng cung ứng về lượng và về chất của chúng ta. Khi kết thúc hội chợ, cần phải dành thời gian thích đáng dể củng cố các quan hệ thiết lập hoặc tiếp tục giới thiệu chào bán sản phẩm. 5.3. Về mặt hiệu quả: Nếu các giải pháp trong chính sách Marketing được áp dụng sẽ có thể mở rộng được thị trường xuất khẩu với trên 40 nước, giảm tỷ trọng sản lượng xuất khẩu sang Iraq còn 40 42%, xây dựng được một cơ cấu sản phẩm chè xuất khẩu hợp lí đa dạng từ đó phân tán được rủi ro và bước đầu thiết lập được những thị trường ổn định lâu dài và đưa giá xuất khẩu chè ngang bằng với giá trung bình của thế giới 1.075 USD/tấn, sản phẩm chè của Tổng công ty được người tiêu dùng thế giới công nhận thông qua việc xây dựng được bộ nhãn hiệu riêng và có thể cạnh tranh với các nước khác. 5.4. Điều kiện thực hiện Cần nâng cao nhận thức của các cán bộ nhân viên trong Tổng công ty về vai trò của hoạt động Marketing, hiệu quả của hoạt động Marketing sẽ quyết định đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác thị trường với các kỹ năng Marketing cần thiết. Xây dựng chính sách Marketing phù hợp với từng hoàn cảnh và điều kiện thị trường cụ thể. Có phương thức thâm nhập khác nhau đối với các thị trường khác nhau. Kết luận Luận văn tốt nghiệp " Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè ở tổng công ty chè Việt Nam" gồm 88 trang, và 13 bảng và được chia làm 3 phần ngoài lời mở đầu và kết luận. Phần thứ nhất: Những luận cứ khoa học về xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm của Tổng công ty Phần thứ hai: Phân tích thực trạng sản xuất – kinh doanh và xuất khẩu của Tổng công ty chè Việt Nam trong thời gian qua. Phần thứ ba: Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty chè Việt Nam trong thời gian tới. Để đảm bảo chất lượng và thời hạn hoàn thành chuyên đề em đã cố gắng thực hiện tốt các công tác như: Thu thập, tìm kiếm, sưu tầm, phân tích đánh giá tài liệu số liệu, đọc tài liệu, ghi bút ký, viết bản thảo và tiến hành ghi chính thức. Theo sự nhận xét chủ quan của bản thân em thì Luận văn này, đặc biệt là các giải pháp đề xuất không chỉ có tác dụng là tài liệu tham khảo đối với Tổng công ty và những người quan tâm đến sự phát triển của Tổng công ty mà còn có tác dụng cụ thể hoá những lý luận đã học. Tuy nhiên., sự nhận xét trên đây còn mang tính chủ quan nên Luận văn này chắc chắn sẽ còn những sai sót nhất định. Vì vậy, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cô chú, anh chị trong Tổng công ty của các thầy cô và đặc biệt của thầy giáo hướng dẫn và của các bạn, để một mặt nâng cao chất lượng Luận văn, mặt khác để nâng cao hoàn thiện kiến thức hiểu biết của bản thân em. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị trong Tổng công ty đã nhiệt tình hướng dẫn và cung cấp cho em những tài liệu cần thiết và đặc biệt là thầy giáo trực tiếp hướng dẫn em: PGS – TS. Phạm Hữu Huy đã tận tình, chỉ bảo,giúp đỡ em hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này. Danh mục tài liệu tham khảo. Giáo trình kinh tế quốc tế, GS-TS Tô Xuân Dân, Trường ĐHKTQD. Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, PGS-Nhà giáo ưu tú Vũ Hữu Tửu, NXB Giáo Dục 1998. Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương, PGS-Nhà Giáo ưu tú Đinh Xuân Trình, NXB Giáo Dục 1998. Xu hướng tiêu thụ mới trên thị trường chè và tiến bộ kỹ thuật về công nghệ chè, Trần Tông Mậu, Hội thảo về chè Bắc Kinh. Cây chè Việt Nam, Đỗ Ngọc Quỹ –Nguyễn Kim Phong, NXB Nông nghiệp 1997. Các báo và tạp chí các năm 1998, 1999, 2000, 2001. Các tài liệu báo cáo của Tổng công ty chè Việt Nam. Nghị định 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ. Phân tích cơ hội thị trường và hệ thống phân phói chè xanh Việt Nam Liên hiệp các Hiệp hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam Trung tâm nghiên cứu và đào tạo hỗ trợ phát triển cộng đồng RTCCD Hà nội tháng 10/1998. 10. Dự án đa dạng hóa cây trồng và đẩy mạnh xuất khẩu Tổ chức Nông lương của Liên hợp quốc Trung tâm đầu tư chương trình hợp tác của FAO và ADB tháng 12/1998. Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Phần thứ nhất: những luận cứ khoa học về xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm của Công ty 2 I. Quan điểm về xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm 2 1. Xuất khẩu là gì? 2 2. Thế nào là thúc đẩy xuất khẩu 2 II. Mục đích của xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm 3 III. ý nghĩa của xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu 4 1. ý nghĩa của xuất khẩu đối với nền kinh tế thế giới 4 2. ý nghĩa của xuất khẩu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia 5 3. ý nghĩa của xuất khẩu đối với doanh nghiệp 7 4. ý nghĩa của đẩy mạnh xuất khẩu 8 IV. Những nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu và thúc đẩy xuất khẩu 8 1. Các nhân tố về kinh tế 8 2. Các nhân tố về khoa học và công nghệ 9 3. Các nhân tố về chính trị, xã hội quân sự 10 4. Sự hình thành các liên minh, liên kết về kinh tế, chính trị và quân sự 10 V. Nội dung chủ yếu của hoạt động xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu 11 1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường 11 2. Công tác tạo nguồn cho hoạt động xuất khẩu 13 3. Xây dựng kế hoạch và lập phương án giao dịch 14 4. Giao dịch đàm phán trước ký kết 14 5. Ký kết hợp đồng 15 6. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu 17 7. Đánh giá hiệu quả thực hiện 20 Phần thứ hai: Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và xuất khẩu của tổng Công ty chè Việt Nam trong thời gian qua 1999 - 2001 22 I. Nguồn gốc của cây chè và vai trò của nó với đời sống nhân dân 22 II. Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của tổng công ty chè Việt Nam 23 1. Quá trình hình thành Tổng Công ty chè Việt Nam 23 2. Quá trình phát triển của Tổng Công ty chè Việt Nam 25 III. Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu có liên quan và ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty chè Việt Nam 26 1. Thị trường 26 2. Mặt hàng và số lượng đáp ứng nhu cầu sản phẩm 28 3. Chất lượng sản phẩm 29 4. Nguyên nhân chủ yếu mà doanh nghiệp đang sử dụng 30 5. Công nghệ và thiết bị máy móc 30 6. Tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp và đội ngũ lao động 31 IV. Phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty trong một số năm gần đây 33 1. Tình hình thực hiện kế hoạch năm 1999 33 2. Tình hình thực hiện kế hoạch năm 2000 39 3. Tình hình thực hiện kế hoạch năm 2001 45 V. Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty 50 1. Tổng quan thị trường chè thế giới 50 2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty chè Việt Nam 54 VI. Đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh và xuất khẩu của Tổng Công ty chè Việt Nam trong một số năm gần đây 61 1. Những ưu điểm 61 2. Những tồn tại 63 3. Nguyên nhân của những tồn tại 64 Phần thứ ba: Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè ở tổng Công ty chè Việt Nam trong thời gian tới 66 I. Định hướng phát triển chè Việt Nam trong thời gian tới (2001 - 2010) 66 1. Phát triển với điều kiện thích hợp 66 2. Xác định nhu cầu và khả năng tiêu thụ 67 3. Mục tiêu chung 68 II. Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè ở Tổng Công ty chè Việt Nam 69 1. Giải pháp về thị trường 69 2. Giải pháp về chất lượng sản phẩm 72 3. Đa dạng hoá sản phẩm 76 4. Giải pháp về hiện đại hoá thiết bị và công nghệ chế biến chè 79 5. Giải pháp về chính sách Marketing xuất khẩu 83 Kết luận 87 Danh mục tài liệu tham khảo 88 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34267.doc
Tài liệu liên quan