Giải pháp nâng cao vai trò quản lý và hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc

PHẦN MỞ ĐẦU Khi nói đến sản xuất kinh doanh thì cho dù dưới hình thức kinh tế xã hội nào vấn đề được nêu ra trước tiên cũng là hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh là mục tiêu phấn đấu của một nền sản xuất, là thước đo về mọi mặt của nền kinh tế quốc dân cũng như từng đơn vị sản xuất. Lợi nhuận kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là mục tiêu lớn nhất của mọi doanh nghiệp. Để đạt được điều đó mà vẫn đảm bảo chất lượng tốt, gía thành hợp lí, doanh nghiệp vẫn vững vàng trong cạnh tranh thì các doanh

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1471 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao vai trò quản lý và hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh, trong đó quản lí và sử dụng vốn là vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cơ chế bao cấp trước đây vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước hầu hết được Nhà nước tài trợ thông qua cấp phát vốn, đồng thời Nhà nước quản lí về giá cả sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch lãi Nhà nước thu - lỗ Nhà nước bù, do vậy các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không quan tâm đến hiệu quả sử dụng của đồng vốn. Nhiều doanh nghiệp đã không bảo toàn và phát triển được vốn, hiệu quả sử dụng vốn thấp, tình trạng lãi giả lỗ thật ăn mòn vào vốn xảy ra phổ biến trong các doanh nghiệp Nhà nước. Bước sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, nhiều thành phần kinh tế song song tồn tại, cạnh tranh lẫn nhau gay gắt. Bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, đứng vững trong cơ chế mới là những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến phá sản hàng loạt. Trước tình hình đó, Nghị quyết đại hội lần thứ VI BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh " Các xí nghiệp quốc doanh không còn được bao cấp về giá và vốn, phải chủ động kinh doanh, phải bảo đảm tự bù đắp chi phí, nộp đủ thuế và có lãi...". Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải gắn với thị trương, bám sát thị trường, tự chủ về vốn và tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, nhất là trong kinh doanh đường sông không phải là vấn đề mới mẻ. Nó được hình thành ngay sau khi tài chính ra đời, nó là lĩnh vực rất rộng và muốn nghiên cứu một cách toàn diện thì phải có sự đầu tư rất công phu. Trong thời gian thực tập tại Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc, em chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao vai trò quản lí và hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc" làm nội dung nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Hướng nghiên cứu là kết hợp giữa lí luận và thực tiễn. Từ việc khảo sát tình hình thực tế của Tổng Công ty qua các năm, kết hợp với lí luận kinh tế mà cụ thể là lí luận về quản lí, về vốn, về cạnh tranh... để tiến hành phân tích tình hình thực tế của Tổng Công ty, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc. Nội dung chuyên đề tốt nghiệp bao gồm: - Mở đầu. - Chương I: Vai trò và nội dung của quản lí và nâng cao hiệuquả sử dụng vốn ở doanh nghiệp sản xuất. - Chương II: Thực trạng quản lí và sử dụng vốn ở Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc. - Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lí và hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc. Kết luận: Trước sự thay đổi về chất trong hoạt động của các tổng công ty Việt Nam, cùng với việc áp dụng đầy đủ chế độ kế toán mới ở doanh nghiệp, vấn đề quản lí và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã thay đổi sâu sắc cả về phương pháp luận và chỉ tiêu đánh giá. Do đó, tạo nên khó khăn rất lớn trong quá trình nghiên cứu đề tài và những sai sót không thể tránh khỏi. Vì vậy, rất mong sự đóng góp của các thầy, cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thu Thảo và các cô chú cán bộ Tổng công ty Đường sông Miền Bắc đã giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Chương I VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CỦA QUẢN LÝ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN Ở DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT I. VỐN VÀ QUẢN LÍ VỐN TRONG KINH DOANH 1. Khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh Bất cứ một doanh nghiệp nào lúc đầu cũng phải có một lượng tiền vốn nhất định để thực hiện những khoản đầu tư ban đầu cần thiết cho việc xây dựng và khởi động doanh nghiệp. Vốn là yếu tố vật chất cần thiết nhất và cần được sử dụng có hiệu quả. Doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ vật tư, để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, để chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh và được thể hiện ở nhiều hình thái vật chất khác nhau. Do có sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động thì hàng hoá và dịch vụ được tạo ra nhằm tiêu thụ trên thị trường. Sau cùng các hình thái vật chất khác nhau sẽ lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Quá trình trao đổi đó đảm bảo cho sự ra đời, vận hành và phát triển của doanh nghiệp có thể diễn tả như sau: Tài sản thực tế Tiền Tài sản thực tế - Tài sản có tài chính Tiền Tài sản có tài chính Sự thay đổi trên làm thay đổi số dư ban đầu (đầu kỳ) của ngân quỹ và sẽ dẫn đến số dư cuối kỳ lớn hơn số dư đầu kỳ - tạo ra giá trị thặng dư. Điều đó có nghĩa là số tiền thu được do tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ phải đảm bảo bù đắp toàn bộ chi phí và có lãi. Như vậy số tiền đã ứng ra ban đầu không những chỉ được bảo tồn mà còn được tăng thêm do hoạt động kinh doanh đem lại. Toàn bộ giá trị ứng ra cho sản xuất kinh doanh đó được gọi là vốn. Tuy nhiên giá trị ứng trước đó không đơn thuần là vật chất hữu hình, mà một số tài sản không có hình thái vật chất cụ thể nhưng nó chứa đựng một giá trị đầu tư nhất định như: tên doanh nghiệp, nhãn hiệu sản phẩm, lợi thế thương mại, đặc quyền kinh doanh... cũng có giá trị như vốn. Những phân tích khái quát trên đây cho ta quan điểm toàn diện về vốn: "Vốn là một phạm trù kinh tế cơ bản. Trong doanh nghiệp vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả các loại tài sản và các nguồn lực mà doanh nghiệp sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư". Như vậy việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp là hết sức quan trọng, vừa đem lại hiệu quả kinh tế vừa đem lại hiệu quả xã hội. 2. Vốn cố định và vốn lưu động: Có nhiều giác độ khác nhau để xem xét vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đôi khi nó được khắc hoạ trong luật kinh tế như là vốn pháp định và vốn điều lệ. Một số khác theo nhu cầu nghiên cứu đứng trên giác độ hình thành vốn lại thể hiện vốn gồm có vốn đầu tư ban đầu, vốn bổ sung, vốn liên doanh và vốn đi vay. Sở dĩ tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau là xuất phát từ sự khác nhau về triển vọng hay quan điểm sử dụng. Với bài luận văn này, chúng ta sử dụng quan điểm làm quyết định về vốn qua con mắt quản trị vốn ở công ty sản xuất. Với quan điểm đó, vốn được xem xét trên giác độ chu chuyển. Quan tâm đến vấn đề này chúng ta cần chú ý đến vốn cố định và vốn lưu động. 2.1- Vốn cố định: a) Khái niệm và đặc điểm vốn cố định: Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định, đó chính là số vốn doanh nghiệp đầu tư mua sắm, trang bị cơ sở vật chất. Để là tài sản cố định phải đạt được cả hai tiêu chuẩn. Một là, phải đạt được về mặt giá trị đến một mức độ nhất định (ví dụ hiện nay giá trị của nó phải lớn hơn hoặc bằng 5.000.000đồng). Hai là, thời gian sử dụng phải từ trên 1 năm trở lên. Với những tiêu chuẩn như vậy thì hoàn toàn bình thường với đặc điểm hình thái vật chất của tài sản cố định giữ nguyên trong thời gian dài. Tài sản cố định thường được sử dụng nhiều lần, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và chỉ tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm. Qua quá trình sử dụng, tài sản cố định hao mòn dần dưới hai dạng là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình chủ yếu do tiến bộ khoa học công nghệ mới và năng suất lao động xã hội tăng lên quyết định. Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào mức độ sử dụng khẩn trương tài sản cố định và các điều kiện ảnh hưởng tới độ bền lâu của tài sản cố định như chế độ quản lý sử dụng, bảo dưỡng, điều kiện môi trường... Những chỉ dẫn trên đưa ra tới một góc nhìn về đặc tính chuyển đổi thành tiền chậm chạp của tài sản cố định. Tuy thế, các tài sản cố định có giá trị cao có thể có giá trị thế chấp đối với ngân hàng khi vay vốn. b) Cơ cấu vốn cố định: Cơ cấu vốn cố định là tỉ lệ phần trăm của từng nhóm vốn cố định chiếm trong tổng số vốn cố định. nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có một ý nghĩa quan trọng là cho phép đánh giá việc đầu tư có đúng đắn hay không và cho phép xác định hướng đầu tư vốn cố định trong thời gian tới. Để đạt được ý nghĩa đúng đắn đó, khi nghiên cứu cơ cấu vốn cố định phải nghiên cứu trên hai giác độ: nội dung cấu thành và mối quan hệ tỉ lệ trong mỗi bộ phận so với toàn bộ. Vấn đề cơ bản trong việc nghiên cứu này phải là xây dựng được một cơ cấu hợp lý phù hợp với trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản xuất, trình độ quản lý, để các nguồn vốn được sử dụng hợp lý và có hiệu quả nhất. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ trọng trong cơ cấu vốn là chỉ tiêu động. Điều này đòi hỏi cán bộ quản lý phải không ngừng nghiên cứu tìm tòi để có được cơ cấu tối ưu. Theo chế độ hiện hành VCĐ của doanh nghiệp được biểu hiện thành hình thái giá trị của các loại tài sản cố định sau đây đang dùng trong quá trình sản xuất: 1) Nhà cửa được xây dựng cho các phân xưởng sản xuất và quản lý 2) Vật kiến trúc để phục vụ sản xuất và quản lý 3) Thiết bị động lực 4) Hệ thống truyền dẫn 5) Máy móc, thiết bị sản xuất 6) Dụng cụ làm việc, đo lường, thí nghiệm 7) Thiết bị và phương tiện vận tải 8) Dụng cụ quản lý 9) Tài sản cố định khác dùng vào sản xuất công nghiệp Trên cơ sở các hình thái giá trị của tài sản cố định như trên chỉ ra rõ ràng cơ cấu vốn cố định chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Quan tâm nhất là đặc điểm về kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp, sự tiến bộ kỹ thuật, mức độ hoàn thiện của tổ chức sản xuất, điều kiện địa lý tự nhiên, sự phân bổ sản xuất. Vì vậy khi nghiên cứu để xây dựng và cải tiến cơ cấu VCĐ hợp lý cần chú ý xem xét tác động ảnh hưởng của các nhân tố này. Trong kết quả của sự phân tích, đặc biệt chú ý tới mối quan hệ giữa các bộ phận VCĐ được biểu hiện bằng máy móc thiết bị và bộ phận VCĐ được biểu hiện bằng nhà xưởng vật kiến trúc phục vụ sản xuất. c) Nguồn vốn cố định Mỗi khoản vốn cố định hay tài sản cố định trong doanh nghiệp không tự nhiên mà có, nó nhất thiết phải được hình thành từ một nguồn đầu tư nhất định. Nguồn vốn cố định chính là nguồn gốc tạo dựng, đầu tư để hình thành nên các tài sản cố định của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp, VCĐ dùng để hoạt động sản xuất, kinh doanh được hình thành từ các nguồn sau: Nguồn vốn pháp định: gồm vốn cố định do ngân sách, do cấp trên cấp phát cho doanh nghiệp, vốn cổ phần do xã viên hợp tác xã và các cổ đông đóng góp bằng tài sản cố định, hoặc vốn pháp định do chủ xí nghiệp bỏ ra ban đầu khi thành lập xí nghiệp tư nhân. Nguồn vốn tự bổ xung: gồm vốn cố định của những tài sản cố định đã được đầu tư hoặc mua sắm bằng quỹ công ty. Nguồn vốn liên doanh: gồm các khoản vốn do các đơn vị tham gia liên kết gặp bằng tài sản cố định và bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành. 2.2 - Vốn lưu động: a) Khái niệm và đặc điểm của vốn lưu động: Vốn lưu động và biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông. Đó là số vốn doanh nghiệp đầu tư để dự trữ vật tư, để chi phí cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chi phí cho hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Hoàn toàn khách quan không như vốn cố định, VLĐ tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất kinh doanh, chuyển qua nhiều hình thái giá trị khác nhau như tiền tệ, đối tượng lao động, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm và trở lại hình thái tiền tệ ban đầu sau khi tiêu thụ sản phẩm. Như vậy vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định, quá trình vận động của VLĐ thể hiện dưới hai hình thái: - Hình thái hiện vật: đó là toàn bộ nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm. - Hình thái giá trị: là toàn bộ giá trị bằng tiền của nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm, giá trị tăng thêm do việc sử dụng lao động sống trong quá trình sản xuất và những chi phí bằng tiền trong lĩnh vực lưu thông. Sự lưu thông về mặt hiện vật và giá trị của VLĐ ở các doanh nghiệp sản xuất có thể biểu diễn bằng công thức chung: T - H - SX - H' - T' Trong quá trình vận động, đầu tiên VLĐ biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và khi kết thúc cũng lại bằng hình thức tiền tệ. Một vòng khép kín đó gợi mở cho chúng ta thấy hàng hoá được mua vào để doanh nghiệp sản xuất sau đó đem bán ra, việc bán được hàng tức là được khách hàng chấp nhận và doanh nghiệp nhận được tiền doanh thu bán hàng và dịch vụ cuối cùng. Từ các kết quả đó giúp ta sáng taọ ra một cách thức quản lý vốn lưu động tối ưu và đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. b) Cơ cấu vốn lưu động: Xác định cơ cấu VLĐ hợp lý có ý nghĩa tích cực trong công tác sử dụng hiệu quả vốn lưu động. Nó đáp ứng yêu cầu vốn cho từng khâu, từng bộ phận, đảm bảo việc sử dụng tiết kiệm hợp lý VLĐ. Trên cơ sở đó đáp ứng được phần nào yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong điều kiện thiếu vốn cho sản xuất. Cơ cấu VLĐ là quan hệ tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm đó so với toàn bộ giá trị VLĐ. Tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm trong toàn bộ VLĐ hợp lý thì chỉ hợp lý tại mỗi thời điểm naò đó và tính hợp lý chỉ mang tính nhất thời. Vì vậy trong quản lý phải thường xuyên nghiên cứu xây dựng một cơ cấu hợp lý đảm bảo độ "khoẻ mạnh" đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh từng thời kỳ. Để thuận lợi cho việc quản lý và xây dựng cơ cấu vốn như thế, người ta thường có sự phân loại theo các quan điểm tiếp cận khác nhau: - Tiếp cận theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển, VLĐ chia thành 3 loại: + Vốn trong dự trữ: là bộ phận vốn dùng để mua nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế, dự trữ... chuẩn bị đưa vào sản xuất. + Vốn trong sản xuất: là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản xuất như: sản phẩm dở dang, chi phí phân bổ, bán thành phẩm, tự chế tự dùng. + Vốn trong lưu thông: là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông như tiền mặt, thành phẩm. - Tiếp cận về mặt kế hoạch hoá, VLĐ được chia thành VLĐ không định mức và VLĐ định mức. + VLĐ định mức là số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, nó bao gồm vốn dự trữ vật tư hàng hoá và vốn phi hàng hoá. + VLĐ không định mức là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình kinh doanh và trong sản xuất, dịch vụ phụ thuộc nhưng không đủ căn cứ để tính toán được. c) Nguồn vốn lưu động: Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp gồm có vốn tự có, vốn coi như tự có và vốn đi vay. Từ các nguồn vốn khác nhau này doanh nghiệp có phương cách huy động trên nhiều nguồn, hỗ trợ lẫn nhau đảm bảo cho yêu cầu của doanh nghiệp. - Vốn tự có bao gồm: + Nguồn vốn pháp định: chính là vốn lưu động do ngân sách hoặc cấp trên cấp cho đơn vị thuộc khối nhà nước; nguồn vốn cổ phần nghĩa vụ do xã viên hợp tác xã và các cổ đông đóng góp hoặc vốn pháp định của chủ doanh nghiệp tư nhân. + Nguồn vốn tự bổ sung: Nguồn này hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị thông qua quỹ khuyến khích phát triển sản xuất và các khoản chênh lệch hàng hoá tồn kho theo cơ chế bảo toàn giá trị vốn. + Nguồn vốn lưu động liên doanh: gồm có các khoản vốn của các đơn vị tham gia liên doanh, liên kết góp bằng tiền, hàng hoá, sản phẩm, nguyên vật liệu, công cụ lao động nhỏ v.v... - Vốn coi như tự có: được hình thành do phương pháp kết toán hiện hành, có một số khoản tiền tuy không phải của doanh nghiệp nhưng có thể sử dụng trong thời gian rỗi để bổ sung vốn lưu động. Thuộc khoản này có: tiền thuế, tiền lương, bảo hiểm xã hội, phí trích trước chưa đến hạn phải chi trả có thể sử dụng và các khoản nợ khác. - Vốn đi vay: nhằm đảm bảo nhu cầu thanh toán bức thiết trong khi hàng chưa bán đã mua hoặc sự không khớp trong thanh toán. Nguồn vốn đi vay là nguồn vốn cần thiết, song cần chú ý tới các hình thức vay khác nhau với tỉ lệ lãi suất khác nhau và phải trả kịp thời cả vốn và lãi vay. Bằng cách nghiên cứu các nguồn của cả vốn lưu động và vốn cố định như trên, người kinh doanh có thể đạt được sự tổng hợp về các nguồn vốn theo các chỉ dẫn của kế toán tài chính. Nguồn vốn ở các doanh nghiệp giờ đây trở thành nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu thể hiện ở khoản "có"; nợ phải trả chính là khoản vay, nợ của doanh nghiệp đối với các tổ chức, cá nhân... để đầu tư, hình thành tài sản của doanh nghiệp, được sử dụng trong một thời gian nhất định và sau đó phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi như đã cam kết. Ý nghĩa của việc nghiên cứu này cho ta tạo quan hệ giữa vốn và nguồn vốn về phương diện giá trị đầu tư như sau: Giá trị TSCĐ + Giá trị TSLĐ = Nguồn vốn chủ sở hữu + Nợ phải trả II. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN 1. Nội dung hoạt động quản lý vốn cố định và vốn lưu động: 1.1 - Nội dung hoạt động quản lý vốn cố định: Quản lý vốn cố định (VCĐ) nghĩa là phải đi đến các quyết định. Giống như việc quản lý hoạt động kinh doanh của công ty, việc quản lý VCĐ ảnh hưởng quan trọng đến sự tồn tại và hiệu quả sử dụng vốn. Quản lý VCĐ thành công đòi hỏi các nhà quản lý phải gắn liền sự vận động của VCĐ với các hình thái biểu hiện vật chất của nó. Hơn thế nữa, để quản lý có hiệu quả VCĐ trước hết cần nghiên cứu những tính chất và đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp. Trong khoa học quản lý VCĐ thường đi vào những nội dung cụ thể sau: a) Hao mòn và khấu hao tài sản cố định * Hao mòn tài sản cố định Như đã đề cập sơ lược ở trên, trong quá trình sử dụng cũng như không sử dụng tài sản cố định đều bị hao mòn dưới hai hình thức: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Giống như hai khía cạnh của một vấn đề, cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình đều làm cho giá trị tài sản cố định giảm xuống và chịu ảnh hưởng bởi những nhân tố nào đều thể hiện dưới những dạng khác nhau. Hao mòn hữu hình là sự hao mòn về vật chất, tức là sự tổn thất dần về chất lượng, tính năng kỹ thuật của TSCĐ. Thực chất kinh tế của hao mòn hữu hình là giá trị của tài sản cố định dần dần giảm đi cùng với việc chuyển dần giá trị của nó vào giá trị sản phẩm được sản xuất ra. Khi tài sản cố định không được sử dụng, hao mòn hữu hình được thể hiện ở chỗ tài sản cố định bị mất dần thuộc tính do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, do quá trình xảy ra trong nội tại nguyên liệu cấu thành tài sản cố định đó. Như vậy hao mòn hữu hình có ảnh hưởng quyết định tới độ bền của tài sản cố định và do đó nó chịu ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố. Nhóm một thuộc chất lượng chế tạo như: vật liệu dùng để chế tạo ra tài sản cố định, trình độ kỹ thuật, công nghệ chế tạo, chất lượng xây dựng và lắp đặt. Nhóm hai thuộc quá trình sử dụng: được xem xét về mức độ đảm nhận về thời gian và cường độ sử dụng, tay nghề công nhân, việc chấp hành quy tắc, quy trình kỹ thuật, chế độ bảo dưỡng, sửa chữa. Nhóm ba thuộc các yếu tố tự nhiên như độ ẩm, khí hậu, thời tiết... Hao mòn vô hình là sự hao mòn chủ yếu do năng suất lao động xã hội tăng lên và sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, tổ chức sản xuất. Hệ quả của hai nguyên do này dẫn đến việc người ta sản xuất ra tài sản cố định cùng loại nhưng lại có chất lượng cao hơn mà giá lại rẻ hơn. Và như thế tài sản cố định của ta nghiễm nhiên bị sụt giá. Xuất phát từ việc nghiên cứu hao mòn tài sản cố định cung cấp cho chúng ta những luận cứ cần thiết minh chứng cho việc "bảo vệ" tài sản cố định nhằm giảm tối đa tổn thất hữu hình và hao mòn vô hình. Những biện pháp thường được sử dụng như nâng cao cường độ và thời gian sử dụng, nâng cao chất lượng, hạ giá thành chế tạo và xây lắp tài sản cố định, tổ chức tốt việc bảo quản và sửa chữa máy móc thiết bị, nâng cao ý thức trách nhiệm của công nhân. Một ý nghĩa khác là nó cũng cung cấp cho ta cơ sở tốt để lập nên kế hoạch khấu hao tài sản cố định, kế hoạch bảo toàn và phát triển vốn cố định. * Khấu hao tài sản cố định: Trong quá trình tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, hình thái vật chất của tài sản cố định không thay đổi nhưng giá trị của nó hao mòn dần và chuyển từng phần vào giá thành sản phẩm mới được sản xuất ra. Phần giá trị này được thu hồi dưới hình thức khấu hao và được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Như vậy khấu hao tài sản cố định là một khoản cấu thành phí lưu thông và được bù đắp bằng doanh thu bán hàng. Về thực chất, khấu hao là quá trình giảm giá trị của tài sản cố định. Việc suy giảm giá trị của tài sản cố định cuối cùng sẽ dẫn đến khấu hao hết tài sản cố định, khi đó phải đầu tư để có được tài sản cố định khác. Vậy quá trình này diễn ra trong bao lâu? Sở dĩ đòi hỏi yêu cầu chính xác tương đối về thời gian như vậy bởi hai nguyên nhân: thứ nhất nếu xác định không đúng thời gian sử dụng dẫn đến còn đang sử dụng đã khấu hao hết, thứ hai chưa khấu hao hết đã hỏng. Cả hai nguyên nhân này đều có ảnh hưởng không tốt tới sự vận động của vốn cố định và giá thành sản phẩm làm ra. Để xác định đúng đắn thời hạn sử dụng tài sản cố định chúng ta phải dựa vào cơ sở đã chỉ ra là phải xác định đúng được hao mòn của tài sản cố định hay khấu hao tài sản cố định. Khấu hao tài sản cố định được phân bổ trên hai hình thức là khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn. Khấu hao cơ bản nhằm tái bồi hoàn lại giá trị tài sản cố định đã hao mòn. Khấu hao sửa chữa lớn nhằm bảo vệ duy trì và kéo dài năng lực sử dụng bình thường của TSCĐ. Như vậy hai hình thức khấu hao này có phương thức bù đắp và mục đích khác nhau, do đó tiền trích khấuhao tài sản cố định được chia thành hai bộ phận theo phương pháp xác định tỷ lệ: + _ Tỉ lệ khấu hao cơ bản = Nguyên giá Chi phí thanh lý Giá trị đào thải TSCĐ (ước tính) (ước tính) Nguyên giá TSCĐ x Thời hạn sử dụng TSCĐ Tỉ lệ khấu hao sửa chữa lớn = Phí tổn sửa chữa lớn (ước tính) Nguyên giá TSCĐ x Thời hạn sử dụng TSCĐ Bộ phận thứ nhất của tiền trích khấu hao là tiền trích khấu hao cơ bản, dùng để bù đắp TSCĐ sau khi bị đào thải đã mất giá trị sử dụng. Theo quy định của Nhà nước về chế độ khấu hao cơ bản trong các doanh nghiệp nhà nước, từ ngày 1/1/1995 các doanh nghiệp nhà nước được phép giữ lại toàn bộ khấu hao cơ bản đã trích để đầu tư thay thế, đổi mới tài sản cố định. Còn các doanh nghiệp khác phải lập quỹ khấu hao để duy trì hoạt động của doanh nghiệp, thực hiện yêu cầu tái sản xuất mở rộng. Bộ phận thứ hai là tiền khấu hao sửa chữa lớn nhằm sửa chữa tài sản cố định một cách có hệ thống và kế hoạch để duy trì khả năng sản xuất của tài sản cố định trong suốt thời kỳ sử dụng. Doanh nghiệp trích tiền khấu hao sửa chữa lớn gửi vào một tài khoản riêng ở ngân hàng đầu tư và phát triển để dùng làm nguồn vốn cho kế hoạch sửa chữa lớn TSCĐ. Giờ đây ta có thể thấy mối quan hệ giữa thời hạn sử dụng TSCĐ và tỉ lệ trích khấu hao, do đó có thể chỉ ra ý nghĩa cụ thể ở phần hao mòn đã đề cập đến. Rõ ràng nếu tỉ lệ khấu hao quá thấp hay thời hạn sử dụng quá dài, sẽ không đủ bù đắp hao mòn thực tế của TSCĐ, vì vậy không đảm bảo được công tác bảo toàn và phát triển vốn. Ngược lại nếu tỉ lệ khấu hao quá cao hay thời hạn sử dụng TSCĐ được xác định quá ít, sẽ làm tăng giá thành sản phẩm một cách giả tạo, tạo ra những khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hoá. b) Kế hoạch khấu hao tài sản cố định: Bằng cách lập lên kế hoạch khấu hao tài sản cố định, doanh nghiệp đã có thể định ra được tiến độ và mức trích khấu hao tài sản cố định từng nhóm và toàn bộ doanh nghiệp. Để lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định cần phải xác định được tổng giá trị TSCĐ đầu kỳ, tổng giá trị TSCĐ tăng thêm và giảm đi trong kỳ, mức khấu hao phải trích trong năm và tình hình phân phối sử dụng các quỹ khấu hao. Theo quy định số 517/TTg ngày 21/10/1995 kế hoạch khấu hao TSCĐ bao gồm: - TSCĐ không phải tính khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn (đất đai). - TSCĐ tăng thêm trong năm kế hoạch, nếu tăng vào một ngày nào đó của tháng thì tháng sau mới tính khấu hao. Giá trị bình quân của TSCĐ tăng thêm trong năm KH = Giá trị TSCĐ tăng trong năm x số tháng sử dụng TSCĐ 12 - TSCĐ giảm bớt trong năm kế hoạch, nếu giảm bớt từ một ngày nào đó của tháng thì tháng sau không tính khấu hao. Giá trị bình quân của TSCĐ giảm trong năm KH = Giá trị TSCĐ giảm trong năm x Số tháng không sử dụng TSCĐ 12 - Tổng giá trị bình quân TSCĐ phải tính khấu hao trong năm được xác định theo công thức: Tổng giá trị bình quân TSCĐ phải tính khấu hao trong năm KH == Tổng giá trị TSCĐ có đầu kỳ ++ Tổng giá trị TSCĐ bình quân tăng trong kỳ -- Tổng giá trị TSCĐ bình quân giảm trong kỳ Cùng với các yêu cầu trên, ta còn phải xác định được chỉ tiêu tổng quỹ khấu hao cơ bản và quỹ khấu hao sửa chữa lớn. Sau đó phải xác định được chỉ tiêu quỹ khấu hao cơ bản trích nộp vào quỹ khấu hao của kỳ kế hoạch theo công thức sau: Quỹ khấu hao cơ bản phải trích kỳ kế hoạch == Quỹ khấu hao cơ bản năm trước chuyển sang ++ Tổng giá trị khấu hao cơ bản kỳ kế hoạch -- Quỹ khấu hao cơ bản chuyển sang năm sau Nghiên cứu các chỉ tiêu của kế hoạch khấu hao TSCĐ cho ta một ý nghĩa đáng lưu ý trong việc đề xuất các ý kiến cho quản lý vốn cố định ở doanh nghiệp. Bằng việc xem xét mức độ tăng giảm của các chỉ tiêu và xác định các nguyên nhân tăng giảm đó, người quản lý thấy rõ được phần nào cảnh quan và tình hình TSCĐ của doanh nghiệp để có các biện pháp điều chỉnh hợp lý. Một ý nghĩa khác là cung cấp những thông số cần thiết cho việc lập các kế hoạch, chương trình khác của doanh nghiệp về thị trường, cạnh tranh... c) Bảo toàn và phát triển vốn cố định: Trong quá trình tham gia vào cạnh tranh với các doanh nghiệp khác nhằm phục vụ tốt cho nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp cần có một hậu phương với tiềm lực vững mạnh, đó chính là vốn. Để phát huy được ý nghĩa đó doanh nghiệp không những một mặt phải duy trì và phát triển các hoạt động kinh doanh, mặt khác quan trọng hơn là phải bảo toàn và phát triển được vốn nói chung và vốn cố định nói riêng. Vấn đề đặt ra như trên không có nghĩa rằng việc doanh nghiệp làm ăn có lãi thực thì không phải bảo toàn và phát triển vốn. Ý kiến đó xuất phát từ việc hiểu không đầy đủ về vấn đề bảo toàn vốn. Nếu chúng ta tiếp cận theo quan điểm nhân quả thì thấy rõ vấn đề bảo toàn vốn luôn cần thiết trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của công ty. Được tồn tại trong môi trường kinh tế tự do, hoạt động kinh doanh không tránh khỏi những biến động về giá cả, lạm phát... mà gây tác động không nhỏ tới tiền vốn của công ty. Lạm phát tăng làm cho sức mua của đồng tiền và giá trị của đồng vốn giảm xuống so với thực tế. Mặt khác, bất kỳ một tác động chủ quan nào thể hiện tính vô trách nhiệm, buông lỏng quản lý đều dẫn đến hư hỏng, mất mát tài sản cố định. Tất cả những nguyên nhân đó đưa ta đến kết quả phải bảo toàn và phát triển vốn. Bảo toàn vốn là quá trình thu hồi lại vốn đã bỏ ra ban đầu, phát triển vốn là lấy lợi nhuận để bổ sung vốn kinh doanh làm tăng vốn kinh doanh. Bảo toàn và phát triển vốn được phải thông qua sử dụng có hiệu quả vốn, tức là với một lượng vốn như cũ nhưng tạo ra nhiều lợi nhuận hơn. Như chúng ta đã biết, vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Tài sản cố định có đặc điểm tham gia vào nhiều chu kỹ kinh doanh và thu hồi dần dưới dạng khấu hao. Việc bảo toàn vốn phải lấy cả từ hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình, bất kỳ một sự thiếu sót nào đều có thể mắc lỗi. Về mặt hữu hình: thì doanh nghiệp phải giữ cho TSCĐ không bị loại khỏi sản xuất kinh doanh trước khi hết niên hạn sử dụng, không sử dụng vốn cố định sai mục đích hoặc đi mua bán lại TSCĐ tạo chênh lệnh giá để ăn chia vào vốn, phải duy trì và nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ. Về mặt vô hình: đòi hỏi công ty phải có tỉ lệ khấu hao hợp lý bảo đảm cho tái sản xuất TSCĐ mới. Tuy vậy, chúng ta cần phải xác định được số vốn cố định cần phải bảo toàn đến cuối kỳ theo công thức: Vốn cố định phải bảo toàn == Vốn cố định được giao đầu kỳ -- Khấu hao đã trích trong kỳ X Hệ số điều chỉnh TSCĐ ± Giá trị TSCĐ (tăng, giảm trong kỳ) Những thành công trong công tác bảo toàn VCĐ sẽ tạo cơ sở tốt cho kế hoạch phát triển VCĐ. Phát triển VCĐ được doanh nghiệp trích từ lợi nhuận để lại doanh nghiệp và phần khấu hao cơ bản để lại đầu tư xây dựng cơ bản, thực hiện tái sản xuất mở rộng và mua sắm mới TSCĐ. 1. 2 - Nội dung hoạt động quản lý vốn lưu động: a) Xác định vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch: Xuất phát từ vai trò không thể thiếu của vốn lưu động đòi hỏi chúng ta phải luôn có một lượng vốn lưu động để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của doanh nghiệp. Nhưng lượng vốn lưu động đó là bao nhiêu thì phù hợp bởi nếu VLĐ thừa quá hoặc thiếu quá đều không có lợi, VLĐ thừa quá sẽ gây ứ đọng vốn và ngược lại nếu ít quá sẽ gây cho doanh nghiệp những khó khăn, tác động xấu đến hoạt động kinh doanh. Những khía cạnh đó đòi hỏi chúng ta phải xác định được lượng VLĐ định mức cho kỳ kế hoạch. VLĐ định mức được hiểu là số VLĐ có thể quy định mức tối thiểu, cần thiết thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo chế độ hiện hành, Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc Việt Nam là Tổng công ty nhà nước, VLĐ định mức của Tổng công ty được nhà nước cấp một lần. Trường hợp nhà nước điều chỉnh giá trị thì mức vốn đó được nhà nước xác định và bổ sung kịp thời. Để xác định được VLĐ định mức kỳ kế hoạch, doanh nghiệp phải lần lượt tính toán VLĐ ở từng khâu từ dự trữ, sản xuất, tiêu thụ, đối với từng loại nguyên vật liệu, sau đó tổng hợp lại thành VLĐ định mức kỳ kế hoạch. Thứ nhất, vốn lưu động định mức ở khâu dự trữ. Việc xác định VLĐ định mức ở khâu dự trữ cần phải kết hợp chặt chẽ với kế hoạch thu mua nguyên vật liệu và dự tính chi phí sản xuất của doanh nghiệp. VLĐ định mức ở khâu dự trữ được tính toán căn cứ vào mức luân chuyển kế hoạch hàng ngày và định mức số ngày dự trữ. Mức luân chuyển hàng ngày được tính bằng cách lấy mức luân chuyển chia cho 360 ngày. Còn định mức số ngày dự trữ xác định như sau: - Đối với nguyên vật liệu nhập khẩu (Nhà nước độc quyền quản lý) định mức số ngày dự trữ được cơ quan cấp trên quy định cho doanh nghiệp. - Đối với nguyên vật liệu mua trong nước có thể áp dụng công thức sau: Định mức số ngày dự trữ = Số ngày cách nhau giữa 2 lần mua x Hệ số thu mua xen kẽ + Số ngày vận chuyển + Số ngày chỉnh lý chuẩn bị + Số ngày bảo hiểm Thứ hai, VLĐ định mức ở khâu sản xuất: được xác định riêng cho sản phẩm dở dang, nửa thành phẩm tự chế, chi phí chờ phân bổ. - VLĐ định mức cho sản phẩm dở dang được xác định theo công thức: Định mức VLĐ cho sản phẩm dở dang = Mức luân chuyển cả năm của thành phẩm theo giá thành công xưởng : 360 x Hệ số thành phẩm dở dang x Chu kỳ sản xuất sản phẩm - VLĐ định mức cho nửa thành phẩm tự chế xác định theo công thức: Định mức VLĐ cho nửa thành phẩm tự chế = Mức luân chuyển cả năm của thành phẩm theo giá thành công xưởng : 360 x Định mức ngày dự trữ x Hệ số thành phẩm tự chế Trong đó số ngày dự trữ của nửa thành phẩm phụ thuộc vào mức độ sản xuất có nhịp nhàng không. - VLĐ định ._.mức cho chi phí chờ phân bổ được tính theo công thức: Định mức VLĐ cho chi phí chờ phân bổ = Mức dự trữ đầu năm của chi phí chờ phân bổ + Số phát sinh chi phí chờ phân bổ trong năm - Số phải phân bổ trong năm Thứ ba, VLĐ định mức ở khâu tiêu thụ: bao gồm VLĐ định mức cho thành phẩm và hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm. - VLĐ định mức cho thành phẩm được xác định theo công thức: Vốn lưu động định mức cho thành phẩm = Tổng giá thành công xưởng của số lượng hàng hoá : 360 x Định mức số ngày dự trữ thành phẩm - Đối với hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm (là hàng hoá doanh nghiệp mua rồi tiêu thụ ngay), VLĐ định mức xác định theo công thức: Định mức VLĐ cho hàng hoá mua ngoài tiêu thụ = Tổng giá thành cả năm theo giá mua : 360 x Định mức số ngày dự trữ hàng hoá mua ngoài Trong ba bộ phận trên, tuỳ theo đặc điểm của từng ngành thì mức độ quan trọng của từng bộ phận sẽ khác nhau. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì VLĐ ở khâu sản xuất là quan trọng nhất. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp trong quá trình quản lý và sử dụng vốn phải ưu tiên cho bộ phận này một tỉ lệ hợp lý, không ngừng tăng vốn cho sản xuất, giảm ở mức cho phép với vốn dự trữ và lưu thông. b) Kế hoạch nguồn VLĐ định mức: Như chúng ta đã biết, VLĐ của doanh nghiệp được hình thành từ các 3 nguồn khác nhau như nguồn vốn tự có, vốn coi như tự có và vốn đi vay. Để lập được kế hoạch nguồn VLĐ định mức đòi hỏi tất yếu là phải căn cứ vào tình hình thực tế VLĐ năm trước và nhu cầu về vốn trong năm kế hoạch. c) Bảo toàn và phát triển VLĐ: Một số lý do dẫn đến tất yếu phải bảo toàn vốn nói chung đã được đề cập trong phần bảo toàn và phát triển VCĐ. Song do xuất phát từ đặc trưng của VLĐ là chu chuyển toàn bộ, môt lần vào giá thành sản phẩm và hình thái vật chất VLĐ thường xuyên biến đổi. Do vậy mà trạng thái tài sản lưu động và vốn lưu thông cũng thường xuyên biến đổi. Theo quan điểm tiếp cận như vậy thì các quyết định về bảo toàn và phát triển vốn lưu động phải được thực hiện trên cả hai phương diện là hiện vật và giá trị. Vốn lưu động sẽ được bảo toàn khi và chỉ khi bảo toàn được cả hai mặt này. Bảo toàn về mặt hiện vật: phải bảo đảm cho VLĐ đầu kỳ bằng VLĐ cuối kỳ để thoả mãn đẳng thức: Số VLĐ đầu kỳ = VLĐ cuối kỳ Đơn giá sản phẩm mà doanh nghiệp KD Giá 1 SP kinh doanh tại thời điểm đó Bảo toàn vốn lưu động về mặt giá trị, thực chất không cần thiết số VLĐ đầu kỳ phải bằng số VLĐ cuối kỳ, mà đòi hỏi doanh nghiệp phải giữ được giá trị thực tế hay sức mua của vốn, thể hiện ở khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và tài sản lưu động định mức nói chung, duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Do vậy, trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải thường xuyên thực hiện việc hạch toán đúng giá trị thực tế của vật tư, hàng hoá theo mức diễn biến giá cả trên thị trường nhằm tính đúng, tính đủ chi phí vật tư, hàng hoá vào giá thành sản phẩm, giá vốn hàng hoá và phí lưu thông để thực hiện bảo toàn vốn lưu động. Tuy vậy, chúng ta cần phải xác định được số vốn lưu động cần phải bảo toàn theo công thức sau: Số VLĐ phải bảo toàn đến cuối kỳ = Số VLĐ được giao đầu kỳ x Hệ số trượt giá VLĐ Quan tâm đến công thức này cần chú ý đến: số vốn được giao, hệ số trượt giá. Số vốn đã được giao là số vốn lưu động giao lần đầu cho doanh nghiệp đã xác định trong biên bảo giao nhận vốn. Còn khi nói tới hệ số trượt giá VLĐ do cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính xác định cho doanh nghiệp, nó dựa trên cơ sở mức tăng (giảm) giá thực tế cuối năm so với đầu năm của một số vật tư chủ yếu tính theo cơ cấu kế hoạch vốn lưu động định mức của từng doanh nghiệp, phù hợp với đặc điểm, cơ cấu TSLĐ của từng ngành, từng doanh nghiệp. Khi đã có được những kết quả quan trong công tác bảo toàn vốn, doanh nghiệp sẽ rất thuận lợi trong việc thực hiện phát triển vốn. Phát triển VLĐ được lấy từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trích từ lợi nhuận để lại. III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÍ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN 1. Các nhân tố ảnh hưởng: 1.1- Chu kì sản xuất: Đây là một đặc điểm quan trọng gắn trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn. Nếu chu kì ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái tạo, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kì dài doanh nghiệp sẽ có một gánh nặng là ứ đọng vốn và trả lãi các khoản vay hay các khoản phải trả. 1.2 - Kĩ thuật sản xuất: Các đặc điểm riêng có về kĩ thuật tác động liên tục với một số chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định như hệ số đổi máy móc thiết bị, hệ số sử dụng về thời gian, công suất. Nếu kĩ thuật sản xuất đơn giản, doanh nghiệp dễ có điều kiện, máy móc, thiết bị nhưng lại phải luôn đối phó với các đối thủ cạnh tranh và với yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm. Do vậy, doanh nghiệp dễ dàng tăng doanh thu, lợi nhuận trên VCĐ nhưng khó giữ được chỉ tiêu này lâu dài. Nếu kĩ thuật sản xuất phức tạp, trình độ trang bị máy móc thiết bị cao, doanh nghiệp có lợi thế trong cạnh tranh, song đòi hỏi tay nghề công nhân, chất lượng nguyên vật liệu cao sẽ làm giảm lợi nhuận vốn cố định. 1.3 - Đặc điểm về sản xuất: Sản phẩm của doanh nghiệp là nơi chứa đựng chi phí và cũng chứa đựng doanh thu cho doanh nghiệp, qua đó quyết định lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng, nhất là sản phẩm công nghiệp nhẹ như rượu bia... thì sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh và qua đó giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa những máy móc dùng để sản xuất ra những sản phẩm này có giá trị thấp, do vậy dễ có điều kiện đổi mới. Ngược lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài, có giá trị lớn, được sản xuất trên dây chuyền có giá trị lớn như máy thu hình, ôtô, xe máy... sẽ là tác nhân hạn chế doanh thu. 1.4 - Tác động của thị trường: Tuỳ theo mỗi loại thị trường mà doanh nghiệp tham gia sẽ tác động đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh theo những khía cạnh khác nhau. Nếu thị trường đó là cạnh tranh tự do, những sản phẩm của doanh nghiệp đã có uy tín lâu đối với người tiêu dùng thì sẽ là tác nhân tích cực thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng thị trường. Đối với thị trường sản phẩm không ổn định (theo màu, theo thời điểm, thị hiếu) thì hiệu quả sử dụng vốn cũng không ổn định qua việc doanh thu biến động lớn qua các thời điểm này. 1.5 - Trình độ tổ chức quản lí, tổ chức sản xuất, hạch toán nội bộ doanh nghiệp: Để có hiệu quả cao thì bộ máy tổ chức quản lí, tổ chức sản xuất phải gọn nhẹ, trùng khớp nhịp nhàng với nhau, với mỗi phương thức sản xuất và loại hình sản xuất sẽ có những tác động khác nhau tới tiến độ sản xuất, phương pháp và quy định vận hành máy móc, số ca, số tổ sản xuất , số bộ phận phục vụ sản xuất ... Mặt khác, đặc điểm của công tác hạch toán, kế toán nội bộ doanh nghiệp (luôn gắn với tính chất của tổ chức sản xuất và quản lí trong cùng doanh nghiệp) có tác động không nhỏ. Công tác kế toán đã dùng những công cụ của mình để đo hiệu quả sử dụng vốn... Kế toán phải có nhiệm vụ phát hiện những tồn tại trong quá trình sử dụng vốn và đề xuất những biện pháp giải quyết. 1.6 - Trình độ lao động, cơ chế khuyến khích và trách nhiệm vật chất trong doanh nghiệp: Nếu công nhân trong doanh nghiệp có trình độ cao đủ để thích ứng với trình độ công nghệ dây chuyền sản xuất thì các máy móc trong dây chuyền sẽ được sử dụng tốt hơn và năng suất chất lượng sẽ cao hơn. Song trình độ lao động phải được đặt đúng chỗ, đúng lúc... thì hiệu quả công việc mới cao. Để sử dụng tiềm năng lao động có hiệu quả cao nhất doanh nghiệp phải có một cơ chế khuyến khích vật chất cũng như trách nhiệm một cách công bằng. Ngược lại, nếu cơ chế khuyến khích không công bằng, quy định trách nhiệm không rõ ràng, dứt khoát sẽ làm cản trở mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 1.7 - Các nhân tố khác: Các chính sách vĩ mô của Nhà nước tác dụng một phần không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cụ thể hơn, từ cơ chế giao vốn, đánh giá tài sản cố định, thuế vốn, thuế doanh thu... đến chính sách cho vay bảo hộ và khuyến khích một số loại công nghệ nhất định đều có thể làm tăng, giảm hiệu quả sử dụng TSCĐ, TSLĐ của doanh nghiệp. Mặt khác, cơ chế chính sách cũng tác động đến kế hoạch mua sắm nguyên vật liệu của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp được hưởng nguồn nguyên vật liệu, chọn được người cung cấp tốt nhất. Doanh nghiệp phải kết hợp được yêu cầu của chính sách này với yêu cầu của thị trường. Từ đó tác động tới hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động: Bất kỳ hoạt động nào của con người, hoạt động nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng, đều mong muốn đạt được những kết quả hữu ích nào đó. Kết quả đạt được trong kinh doanh mới chỉ đáp ứng được phần nào yêu cầu của cá nhân và xã hội. Tuy nhiên kết quả đó được tạo ở mức nào với giá nào là vấn đề cần được xem xét vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả đó. Mặt khác, nhu cầu của con người bao giờ cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ. Bởi thế, con người cần phải quan tâm đến việc làm sao với khả năng hiện có, có thể làm ra được nhiều sản phẩm nhất. Do đó nảy sinh vấn đề là phải xem xét lựa chọn cách nào để đạt được hiệu quả lớn nhất. Chính vì thế khi đánh giá hoạt động kinh tế người ta thường sử dụng hiệu quả kinh tế cùng với các chỉ tiêu của nó. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội để đạt được kết quả cao nhất với chi phí nguồn lực thấp nhất. Hiệu quả kinh tế có thể tính theo công thức sau: Kết quả đầu vào Hiệu quả kinh tế = Yếu tố đầu ra Xuất phát từ những nguyên lý chung như vậy, trong lĩnh vực vốn kinh doanh định ra hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn chính là quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình kinh doanh, hay cụ thể là quan hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh và toàn bộ chi phí của quá trình kinh doanh đó được xác định bằng thước đo tiền tệ. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn không chỉ thể hiện đơn thuần ở kết quả kinh doanh và chi phí kinh doanh, mà còn thể hiện ở nhiều chỉ tiêu liên quan khác. 2.1 - Một số chỉ tiêu chung về tình hình sử dụng vốn: a) Cơ cấu vốn: Sức mạnh tiềm ẩn của một doanh nghiệp nhiều khi được thể hiện thông qua cơ cấu vốn. Chứng minh cho luận điểm này chúng ta thấy rằng trình độ sử dụng vốn của ban lãnh đạo doanh nghiệp và tình hình sản xuất kinh doanh là những yếu tố quan trọng khắc hoạ nên sức mạnh của doanh nghiệp. Đồng thời chính những yếu tố đó tạo nên một cơ cấu vốn đặc trưng cho doanh nghiệp, không giống các doanh nghiệp cùng loại khác. Như vậy tỉ số cơ cấu vốn không phải là một con số ngẫu nhiên mà là con số thể hiện ý chí của doanh nghiệp. Về mặt giá trị, tỉ số đó cho ta biết trong tổng số vốn ở doanh nghiệp đang sử dụng có bao nhiêu đầu tư vào vốn lưu động, có bao nhiêu đầu tư vào tài sản cố định. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng được cơ cấu vốn khoẻ, hợp lý. Cơ cấu cho từng loại vốn được tính như sau: Tỉ trọng VCĐ (Tỉ trọng TSCĐ) = TSCĐ và đầu tư dài hạn Tổng vốn Tỉ trọng VLĐ (Tỉ trọng TSLĐ và vốn lưu thông) = 1- Tỉ trọng vốn cố định b) Vòng quay toàn bộ vốn: Đây là chỉ tiêu đo lượng hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, nó phản ánh một đồng vốn được doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh doanh mang lại mấy đồng doanh thu Doanh thu thuần Vòng quay toàn bộ vốn = Tổng số vốn c) Kỳ thu tiền trung bình: Trong quá trình tiến hành sản xuất kinh doanh, việc phát sinh các khoản phải thu, phải trả là điều tất yếu. Khi các khoản phải thu càng lớn, chứng tỏ vốn của doanh nghiệp đang bị ứ trong khâu thanh toán. Nhanh chóng thu được vốn bị ứ đọng trong khâu thanh toán là bộphận quan trọng trong công tác tài chính nói chung và công tác quản lý, sử dụng vốn nói riêng. Vì vậy, sẽ không ngạc nhiên khi các nhà quản lý, các nhà kinh doanh, rất quan tâm tới thời gian thu hồi của các khoản phải thu. Để nắm chắc thông tin về khả năng thu hồi vốn và làm cơ sở cho việc dự tính các quyết định của mình, các nhà phân tích đã đưa ra chỉ tiêu "kỳ thu tiền trung bình". Chỉ tiêu này được xác định như sau: Kỳ thu tiền trung bình = Các khoản phải thu = Các khoản phải thu x 360 Doanh thu bình quân ngày Doanh thu năm 2. 2 - Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ: a) Sức sản xuất của TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại mấy đồng giá trị sản lượng (hay doanh thu thuần). Sức sản xuất của tài sản cố định = Tổng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản lượng) Nguyên giá bình quân TSCĐ b) Sức sinh lời của TSCĐ Chỉ tiêu sức sinh lời của TSCĐ cho biết một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp. Sức sinh lợi của tài sản cố định = Lợi nhuận thuần (hay lãi gộp) Nguyên giá bình quân TSCĐ c) Suất hao phí tài sản cố định: Chỉ tiêu này cho thấy để có một đồng doanh thu thuần hoặc lợi nhuận thuần cần có bao nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ Suất hao phí tài sản cố định = Nguyên giá bình quân TSCĐ Giá trị tổng sản lượng (hay doanh thu thuần, lợi nhuận thuần) d) Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Giá trị tổng sản lượng (hay DT thuần, lợi nhuận) Số vốn cố định 2.3 - Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động: a) Sức sản xuất của vốn lưu động: Sức sản xuất của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động đem lại mấy đồng doanh thu thuần (giá trị tổng sản lượng) Sức sản xuất của vốn lưu động = Tổng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản lượng) Vốn lưu động bình quân b) Sức sinh lời của vốn lưu động Sức sinh lời của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp trong kỳ. Sức sinh lời của vốn lưu động = Lợi nhuận thuần (hay lãi gộp) Vốn lưu động bình quân c) Số vòng quay của vốn lưu động (hệ số luân chuyển) Số vòng quay của vốn lưu động = Tổng doanh thu thuần Vốn lưu động bình quân Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược lại. d) Thời gian của một vòng luân chyyển Thời gian một vòng luân chuyển = Thời gian của kỳ phân tích Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ Chỉ tiêu này cho chúng ta biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn. e) Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động: Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân Tổng doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu vốn lưu động bình quân. Trong khi phân tích để tìm ra một kết luận về tính hiệu quả hay không hiệu quả, cần tính ra các chỉ tiêu trên rồi so sánh giữa kỳ phân tích với kỳ gốc. Khi tính các chỉ tiêu cần chú ý các nhân tố sau: + Tổng doanh thu thuần = Tổng doanh thu bán hàng trong kỳ - (Thuế VAT hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu+ chiết khấu hàng bán + giảm giá hàng bán + doanh thu hàng đã bán bị trả lại). + Thời gian của kỳ phân tích: quy định một tháng là 30 ngày, một quý là 90 ngày và một năm là 360 ngày. Tổng vốn lưu động 4 quý + Vốn lưu động bình quân = 4 V1/2 + V2 + V3 ... + Vn/2 Hoặc = n-1 Với V1, V2, V3... là vốn lưu động hiện có vào đầu các tháng, n là số thứ tự các tháng. 2. 4 - Phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán: a) Phân tích tình hình thanh toán: Như chúng ta đã biết, các giao dịch kinh tế tài chính trong kinh doanh ở mọi doanh nghiệp thường xuyên phát sinh các khoản phải thu, phải trả và cần một thời gian nhất định mới thanh toán được. Các quan hệ nợ nần lẫn nhau giữa các doanh nghiệp về các khoản tiền mua bán hàng, giữa các doanh nghiệp với ngân sách về các khoản phải nộp thuế theo luật định, giữa doanh nghiệp với người lao động về tiền lương... là các quan hệ tất yếu khách quan. Tuy nhiên, trong kinh doanh các doanh nghiệp phải ngăn ngừa và giảm tối đa các khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn vẫn chưa trả được hoặc chưa đòi được. Bởi vì, sự chiếm dụng vốn quá hạn của khách hàng, một mặt gây khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, mặt khác do thiếu vốn, thiếu tiền mặt để thanh toán các khoản phải trả, doanh nghiệp sẽ phải đi vay, chịu lãi suất tín dụng, điều đó làm giảm tỉ suất lợi nhuận, làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. Chính vì vậy, phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp trở lên tối cần thiết nhằm xem xét mức biến động của các khoản phải thu, phải trả, tìm ra nguyên nhân của các khoản nợ đến hạn chưa đòi được hoặc nguyên nhân của việc tăng các khỏan nợ đến hạn chưa trả được. b. Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp :Khả năng thanh toán phản ánh tình trạng tài chính tốt hay xấu của doanh nghiệp và có ảnh hưởng đến tình hình thanh toán. Khả năng thanh toán xác định như sau: Số tiền có thể dùng để thanh toán K = Các khoản nợ phải trả Trong đó: - K là hệ số khả năng thanh toán - Số tiền có thể dùng thanh toán bao gồm toàn bộ số vốn bằng tiền và những tài sản có thể chuyển hoá thành tiền một cách nhanh chóng. - Các khoản nợ phải trả gồm phải trả người bán, người mua, nộp ngân sách trả cho cán bộ CNV, vay ngắn hạn ngân hàng, phải trả khác. Khi đã có được kết quả hệ số thanh toán. - Nếu K ³ 1, chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán và tình trạng tài chính của doanh nghiệp bình thường hoặc tốt. - Nếu K < 1, chứng tỏ doanh nghiệp không có khả năng thanh toán công nợ và tình trạng tài chính ở mức không bình thường hoặc xấu. 2. 5 - Mức độ bảo toàn và phát triển vốn: Chỉ tiêu mức độ bảo toàn vốn sử dụng trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, giá cả biến động lớn nhằm quy định trách nhiệm của doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp phải quan tâm đến việc phản ánh đúng giá trị các loại vốn sản xuất kinh doanh , tính đúng, tính đủ các chi phí vào giá thành sản phẩm để bảo toàn được vốn. Khi phân tích chỉ tiêu này cần so sánh giữa số vốn phải bảo toàn, đến cuối năm và số vốn thực tế bảo toàn được trong năm để xác định mức độ bảo toàn vốn của doanh nghiệp là bảo toàn cao hơn hay chưa bảo toàn đủ. Khi bảo toàn được cao hơn có nghĩa doanh nghiệp đã có thành tích trong quản lý và sử dụng vốn. Với kết quả khả quan này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có vốn để dùng vào sản xuất kinh doanh, phát triển được vốn. Ngược lại, chưa bảo toàn đủ so với số vốn phải bảo toàn phản ánh sự yếu kém của doanh nghiệp trong việc quản lý, sử dụng vốn. IV. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM QUẢN LÝ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN Các giải pháp nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thường là các công cụ quản lý, các phương pháp, biện pháp tập trung vào các lĩnh vực như nguồn vốn hiện có, các tiềm năng về kỹ thuật , công nghệ, lao động và các lợi thế khác của doanh nghiệp nhằm sử dụng một cách tiết kiệm nhất các nguồn tiềm năng đó mà đem lại được hiệu quả kinh tế cao nhất. Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu. 1. Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm Nền tảng căn bản cho sự tồn tại của doanh nghiệp, sự cạnh tranh với doanh nghiệp khác, cho sử dụng vốn có hiệu quả là doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra sản phẩm và được người tiêu thụ chấp nhận sản phẩm đó. Do vậy hoàn toàn bình thường khi thấy rằng bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến việc sản xuất cái gì, bao nhiêu , tiêu thụ ở đâu, với giá nào để huy động được mọi nguồn lực vào hoạt động, có được nhiều thu nhập. Khẳng định như thế có nghĩa là việc lựa chọn phương án kinh doanh như thế nào, phương án sản phẩm ra sao sẽ có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả kinh doanh nói chung cũng như việc quản lý và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Biết được vai trò quan trọng như vậy thì phương án kinh doanh, phương án sản phẩm phải được xây dựng như thế nào? Đáp số của bài toán đã chỉ rõ sản phẩm làm ra phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường , được thị trường chấp nhận. Do vậy các phương án kinh doanh , phương án sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn, suy cho cùng, phải thể hiện được ý chí đó. Nói cách khác, doanh nghiệp phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường để quyết định quy mô, chủng loại, mẫu mã, chất lượng và giá bán sản phẩm . Làm tốt được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu biết và vận dụng tốt phương pháp Marketing. Sự phân tích trên chỉ ra cho chúng ta ý nghĩa rằng không chỉ lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm tốt (với tư cách là biểu hiện của marketing) đem lại hiệu quả trong quản lý và sử dụng vốn mà sự tác động ngược trở lại cũng trở lên có ý nghĩa. 2. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn lực: Trong quá trình sản xuất kinh doanh , bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần huy động những nguồn vốn bổ sung nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường, đồng thời đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô hay đầu tư chiều sâu. Như đã biết, các nguồn huy động thì có rất nhiều, việc lựa chọn nguồn vốn nào rất quan trọng và phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế . Nếu nhu cầu đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng thì trước hết cần huy động nguồn vốn tự bổ sung từ lợi nhuận để lại, từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất , phần còn lại có thể vay tín dụng, vay ngân hàng thu hút vốn liên doanh, liên kết... Nếu nhu cầu bổ sung vốn lưu động thì trước hết doanh nghiệp cần sử dụng linh hoạt các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các quỹ trích lập theo quy định (NĐ 59 và TT70) nhưng chưa sử dụng, lợi nhuận chưa phân phối, các khoản phải trả nhưng chưa đến hạn trả, phần còn lại có thể vay ngân hàng hoặc các đối tượng khác. Việc đi vay đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự cân nhắc, lựa chọn và đặc biệt là có một quan điểm rõ ràng trong chính sách nguồn tài trợ của doanh nghiệp, bởi vì việc phải chịu lãi từ các khoản vay có thể gây trở ngại cho phát huy hiệu quả đồng vốn. Ngược lại, đối với doanh nghiệp thừa vốn thì tuỳ từng điều kiện cụ thể để lựa chọn khả năng sử dụng. Nếu đưa đi liên doanh, liên kết hoặc cho vay thì cận phải thận trọng, thẩm tra kỹ các dự án liên doanh, kiểm tra tư cách khách hàng nhằm đảm bảo liên doanh có hiệu quả kinh tế, cho vay không bị chiếm dụng vốn do quá hạn chưa trả hoặc mất vốn do khách hàng không có khả năng thanh toán, 3. Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh . Nhu cầu thị trường tồn tại khách quan, luôn luôn biến động và phát triển Xét một cách toàn diện, quy mô, trình độ của quá trình sản xuất là do thị trường quy định. Để đáp ứng được những yêu cầu khách quan của thị trường , một mặt đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho nội trình đó được tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu dự trữ, sản xuất, tiêu thụ, đảm bảo sự phối hợp ăn khớp, chặt chẽ giữa các bộ phận, đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp; mặt khác cũng đòi hỏi doanh nghiệp đảm bảo các yếu tố mang tính tĩnh đó vận động phù hợp với sự biến động, phát triển liên tục của thị trường. Kết quả tốt của việc điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh là hạn chế tối đa tình trạng ngừng làm việc của máy móc, thiết bị, ứ đọng vật tư dự trữ, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được do chất lượng không đảm bảo, gây lãng phí, làm giảm tốc độ chu chuyển của vốn . Để đạt được các mục tiêu trên, các doanh nghiệp phải tăng cường quản lý từng yếu tố của quá trình sản xuất . Đối với quản lý TSCĐ, vốn cố định: đòi hỏi doanh nghiệp phải có một hệ thống các biện pháp. Một là phải bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý , khai thác hết công suất thiết kế và nâng cao hiệu suất công tác của máy móc, thiết bị, sử dụng triệt để diện tích sản xuất, giảm chi phí khấu hao trong giá thành phẩm. Hai là , xử lý dứt điểm những TSCĐ không cần dùng, hư hỏng chờ thanh lý nhằm thu hồi vốn cố định chưa sử dụng vào luân chuyển, bổ sung thêm vốn cho sản xuất kinh doanh . Ba là quy định rõ trách nhiệm vật chất, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong quản lý, sử dụng, bảo dưỡng, sửa chữa TSCĐ. Bốn là có sự quan tâm thường xuyên đến bảo toàn vốn cố định. Đối với quản lý TSCĐ, vốn lưu động thì nguyên tắc chung là phải sử dụng tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Để quán triệt nguyên lý đó doanh nghiệp nên tăng cường các biện pháp quản lý. Một là xác định đúng nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho từng kỳ sản xuất, kinh doanh nhằm huy động hợp lý các nguồn vốn bổ sung. Hai là tổ chức tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư nhằm đảm bảo hạ giá thành thu mua vật tư, hạn chế tình trạng ứ đọng vật tư dự trữ, dẫn đến kém hoặc mất phẩm chất vật tư, gây ứ đọng vốn lưu động. Ba là quản lý chặt chẽ việc tiêu dùng vật tư theo định mức nhằm giảm chi phí nguyên, nhiên, vật liệu trong giá thành sản phẩm. Bốn là tổ chức hợp lý quá trình lao động, tăng cường kỷ luật sản xuất và các quy trình về kiểm tra, nghiệm thu số lượng, chất lượng sản phẩm nhằm hạn chế đến mức tối đa sản phẩm xấu, sai quy cách bằng các hình thức kích thích vật chất thông qua tiền lương, thưởng , kích thích tinh thần. Năm là tổ chức đa dạng các hình thức tiêu thụ sản phẩm nhằm tiêu thụ nhanh, số lượng nhiều. Sáu là xây dựng quan hệ bạn hàng tốt với các khách hàng nhằm củng cố uy tín trên thương trường, chú ý đến thanh toán, tránh giảm các khoản nợ đến hạn. Bảy là tiết kiệm các yếu tố chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lưu thông nhằm góp phần giảm chi phí sản xuất tăng lợi nhuận. 4. Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh Mặc dù tính ưu việt của sản phẩm phần nào bị xoá nhoà bởi sự bùng nổ của khoa học, công nghệ. Nhưng ở một nơi nào đấy, với tiến bộ khoa học kỹ thuật ở một giai đoạn nào đó, doanh nghiệp vẫn có thể phát huy được những lợi thế về sản phẩm đưa lại. Kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại nói chung là điều kiện vật chất để doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm mới, hợp thị hiếu, chất lượng cao, đồng thời có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm , giảm tiêu hao nguyên vật liệu hoặc sử dụng loại vật tư thay thế nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm vật tư , hạ giá thành sản phẩm . Chính vì vậy, trong điều kiện công nghệ ở đa số các doanh nghiệp của nước ta hiện nay rất lạc hậu, các doanh nghiệp cần mạnh dạn đầu tư đổi mới TSCĐ cũ, lạc hậu bằng TSCĐ mới, hiện đại, thay đổi công nghệ sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cả về chất lượng, kiểu dáng và giá bán. Đạt được quá trình này có thể làm cho tỉ trọng vốn cố định trên tổng vốn sản xuất kinh doanh tăng lên, tổng chi phí khấu hao cũng như chi phí về khấu hao TSCĐ trong giá thành đơn vị sản phẩm tăng lên, nhưng đồng thời các chi phí khác về vật liệu, lương công nhân sản xuất... giảm đáng kể. Kết quả cuối cùng là sản xuất và tiêu thụ được nhiều sản phẩm chất lượng cao, tăng lợi nhuận thu được và tăng hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh . 5. Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động kinh tế Qua số liệu kế toán như các báo tài chính, bảng tổng kết tài sản, kết quả kinh doanh , chi phí sản xuất theo yếu tố, bản giải trình về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh... doanh nghiệp có thể thường xuyên nắm được số vốn hiện có cả về mặt giá trị và hiện vật, nguồn hình thành và các biến động tăng giảm trong kỳ, mức độ bảo đảm vốn lưu động, tình hình và khả năng thanh toán,... nhờ đó doanh nghiệp nắm chắc tình hình tài chính. Tuy nhiên số liệu kế toán, tự nó chưa thể chỉ ra những biện pháp cần thiết để tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, mà đòi hỏi phải thực hiện phân tích hoạt động kinh tế , trong đó chú ý đến phân tích tình hình tài chính và hiệu quả sử dụng vốn. Thông qua phân tích, đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, tìm ra nguyên nhân yếu kém để có biện pháp khắc phục, thành tích để có biện pháp phát huy. Tóm lại, các giải pháp tập trung đi sâu vào một số yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quản lý và hiệu quả sử dụng vốn. Hơn thế nữa, hệ thống kinh doanh là một hệ thống biến đổi, do vậy để các giải pháp phát huy ưu thế của mình cần phải có kế hoạch cụ thể, tiến hành thường xuyên và có hệ thống. Chương II PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN Ở TỔNG CÔNG TY ĐƯỜNG SÔNG MIỀN BẮC I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỔNG CÔNG TY ĐƯỜNG SÔNG MIỀN BẮC 1. Lịch sử hình thành Tổng Công ty đường sông miền Bắc là doanh nghiệp Nhà nước được thành lập theo quyết định số 2125/TCCB – LĐ ngày 13/8/1999 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Tổng Công ty đường sông miền Bắc bao gồm: các thành viên là doanh nghiệp hạch toán độc lập, các đơn vị hạch toán nội bộ có quan hệ gắn bó với nhau về: lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, cung ứng dịch vụ thông tin nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, xây dựng các công trình đường thuỷ. Trụ sở của Tổng Công ty đường sông miền Bắc đặt tại 158 Nguyễn Văn Cừ - Gia Lâm - Hà Nội. 2. Nhiệm vụ chủ yếu của Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc 1. Vận chuyển hàng hoá bằng đường thủy trong và ngoài nước. Mã số 05 – 04; 05 – 03. 2. Xếp dỡ và kinh doanh kho bãi cảng đường sông. 3. kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hoá Đường sông và vận tải đa phương thức. 4. Sửa chữa đóng mới phương tiện vận tải thuỷ. 5. Sản xuất, kinh doanh, khai thác vật liệu xây dựng. 6. Xuất nhập khẩu trực tiếp vật tư, thiết bị, phụ tùng, phương tiện vận tải chuyên ngành; mã số: 07 – 03. 7. Vận tải hành khách bằng đường thuỷ nội địa, dịch vụ vận chuyển hành khách du lịch trên sông, trên vịnh, trên hồ. 8. Vận tải hàng hoá bằng đường bộ. 9. Xây dựng các công trình giao thông, công nghiệp, dân dụng khác. 3. Cơ cấu tổ chức của Tổng Công ty Đường sông Miền Bắc * Tổng công ty đường sông Miền Bắc có 14 đơn vị trực thuộc, hạch toán độc lập với Tổng công ty, đó là: 1. Công ty vận tải thuỷ 1 - có trụ sở đóng tại Hà Nội. 2. Công ty vận tải thuỷ 2 - có trụ sở đóng tại Ninh Bình. 3. Công ty vận tải thuỷ 3 - có trụ sở đóng tại Hải Phòng. 4. Công ty vận tải thuỷ 4 - có trụ sở đóng tại Hải Phòng. 5. Công ty cổ phần vận tải thuỷ Thái Bình - có trụ sở tại Thái Bình. 6. Công ty vận tải và cơ khí thuỷ - có trụ sở tại Quảng Ninh. 7. Công ty sông biển Nam Định - có trụ sở tại Nam Định. 8. Cảng Hà Nội - có trụ sở tại Hà Nội. 9. Cảng Hoà Bình - có trụ sở tại Hoà Bình. 10. Cảng Việt Trì - có tụ sở tại Phú Thọ. 11. Cảng Hà Bắc - có trụ sở tại Bắc Ninh. 12. Cảng Nam Định -có trụ sở tại 43 đường Bờ sông - thành phố Nam Định. 13. Công ty vật tư kỹ thuật và xây dựng công trình thuỷ - có trụ sở tại Hà Nội 14. Công ty cơ khí 75 - có trụ sở tại Hà Nội * Về văn phòng Tổng Công ty gồm có các phòng nghiệp vụ và 3 trung tâm hạch toán phụ thuộc Tổng Công ty, đó là: - Chủ tịch HĐQT - Tổng Giám đốc - Trưởng ban kiểm soát - 2._.g tính khái quát, cho phép nhanh chóng xác lập kế hoạch để huy động vốn kịp thời. Song thực tế không tính được vốn định mức cho từng khâu, điều này làm cho kế hoạch xác định vốn lưu động sai lệch, không phù hợp với thực tế. Bốn là, cả trong cơ cấu vốn lưu động và vốn cố định, tỉ lệ vốn chiếm dụng đã giữ tỉ phần quan trọng. Điều này làm giảm khả năng tài chính của doanh nghiệp, gây ảnh hưởng đến quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả và kết quả kinh doanh của Tổng công ty. Năm là, việc bảo toàn vốn ở Tổng công ty chưa được tốt, trong khi vốn cố định bảo toàn thiếu 22.072 triệu VND thì vốn cố định cũng góp phần không nhỏ với việc bảo toàn thiếu 14.783 triệu VND. Những kết quả này vừa thể hiện ảnh hưởng khách quan của nền kinh tế đến Tổng công ty, vừa thể hiện kết quả quản lý và sử dụng vốn cố định cũng như vốn lưu động chưa phát huy hết khả năng, chưa huy động được tổng lực tổng công ty . Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến tính chân thực, đến các kết qủa kinh doanh khác của doanh nghiệp. Sáu là, trong cơ cấu vốn lưu động thực tế đã ấn định lượng tiền mặt và khoản phải thu chiếm tỉ lệ khá lớn. Kết quả này chứng tỏ việc quản lý tiền mặt và khoản phải thu là chưa hợp lý. 4.3. Nguyên nhân của những tồn tại ở Tổng công ty Đường sông Miền Bắc Hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Đường sông Miền Bắc chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố ảnh hưởng. Việc phát huy tốt hay không công tác quản lý và sử dụng vốn phụ thuộc nhiều, thậm chí đến mức quyết định bởi ảnh hưởng của chính các nhân tố đó. Các nhân tố này bao gồm cả những nhân tố khách quan lẫn nhân tố chủ quan, nguyên nhân thì bắt nguồn từ những nhân tố khách quan, chủ quan có tác động tiêu cực. Trước hết là những nguyên nhân chủ quan: Xuất phát từ nguyên tắc "tôn trọng tối đa quyền tự chủ về kinh doanh, tự chủ về tài chính của các doanh nghiệp thành viên, Tổng công ty không trực tiếp can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên" và "Tổng công ty giữ vai trò giám sát,chỉ đạo chuyên môn và hỗ trợ nhằm đáp giúp các doanh nghiệp thành viên kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn và phát triển được nguồn lực do Nhà nước giao cho, phù hợp với pháp luật và điều lệ", như vậy mọi quyền quyết định về quản lý và sử dụng vốn là do các doanh nghiệp thành viên, tức là hạch toán độc lập. Do vậy khi từng chủ thể trong Tổng công ty không phát huy được hiệu quả đồng vốn của mình không những sẽ gây ảnh hưởng đến kết quả chung của Tổng công ty, mà còn rất khó cho Tổng công ty trong vai trò trợ giúp vốn đã hạn chế của mình. Tiếp theo là những nguyên nhân khách quan: khó khăn nhìn thấy đầu tiên là tình hình suy thoái kinh tế trong khu vực và ảnh hưởng của đất nước. Do vậy việc tìm kiếm nguồn vốn trong thời kỳ đang khát vốn lại càng trở lên khó khăn. Bên cạnh đó, nhà nước vẫn duy trì duy trì nhiều quyết định về chế độ thu thuế, lệ phí, quản lý đầu tư, bảo vệ thị trường không còn phù hợp với điều kiện thị trường và tính đặc thù riêng của các hoạt động Đường sông Miền Bắc, cũng chưa có một chính sách bảo vệ hợp lý như nhiều nước khác trong khu vực, tạo điều kiện b ảo vệ thị trường Đường sông Miền Bắc trong nước chống lại sức ép ngày càng tăng của các hãng nước ngoài và giúp các doanh nghiệp Đường sông Việt nam tái đầu tư phát triển sản xuất. Chương III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN Ở TỔNG CÔNG TY ĐƯỜNG SÔNG MIỀN BẮC Xuất phát từ những phân tích và đánh giá ở trên, Tổng công ty Đường sông Miền Bắc có thể áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn. Mỗi giải pháp tập trung vào một khía cạnh cụ thể và đều có thể phát huy được vai trò tích cực của mình, tuy nhiên nên áp dụng các biện pháp một cách đồng bộ, có hệ thống để cộng hưởng kết quả của chúng. Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu. I/ NHỮNG GIẢI PHÁP CHO TỔNG CÔNG TY ĐƯỜNG SÔNG MIỀN BẮC 1. Phát huy cơ chế điều hoà vốn trong Tổng công ty. Điều dám khẳng định đầu tiên là vốn là yếu tố cực kỳ quan trọng trong sản xuất kinh doanh, không có vốn thì Tổng công ty không thể hoạt động nhưng quan trọng hơn cả khi đã liên kết hình thành tổng công ty là vấn đề điều hoà vốn. Điều hoà vốn là yêu cầu hết sức khách quan, trong quá trình điều hành sản xuất kinh doanh luôn phải bố trí sắp xếp điều chỉnh lại tài sản, máy móc, thiết bị, vật tư, tiền vốn, lao động... giữa các đơn vị thành viên của Tổng công ty cho phù hợp với tình hình ở trong từng thời điểm cụ thể nhằm thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ đặt ra cho Tổng công ty.Toàn bộ quá trình sắp xếp nêu trên suy cho cùnglà sắp xếp về vốn. như vậy muốn điều chỉnh máy móc thiết bị, hay lao động vật tư từ đơn vị này sang đơn vị khác thì cơ chế vốn phải cho phép điều hoà thì kế hoạch điều phối tài sản, vật tư, lao động mới có thể thực hiện được. Muốn vậy, Tổng công ty phải thực hiện vai trò điều hoà vốn, không có cơ chế điều hoà vốn thì vai trò quan trọng trước hết nêu trên của Tổng công ty sẽ trở lên vô hiệu. Như thế, nếu Tổng công ty không phát huy vai trò điều hoà vốn của mình, không giúp đỡ được các đơn vị thành viên và chính mình thì sẽ đi ngược lại logic tự nhiên. Rõ ràng là Tổng công ty nhận vốn của Nhà nước, do đó Tổng công ty phải chịu trách nhiệm trước nhà nước về hiệu quả sử dụng vốn. Trong trường hợp quản lý và sử dụng vốn kém hiệu quả, hoặc bị mất mát hao hụt thì người phải giải thích trước nhà nước về vấn đề này, đầu tiên phải là Tổng công ty chứ không phải là các công ty thành viên. Tổng công ty không thể nói: xin hãy làm việc với các đơn vị thành viên còn Tổng công ty chỉ chịu trách nhiệm liên đới một phần. Tổng công ty đứng ra nhận vốn của nhà nước, chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn. Việc phân công, phân cấp cụ thể trong công tác quản lý vốn được giao là chuyện nội bộ của Tổng công ty, do Tổng công quyết định. Trong việc phân cấp quản lý này, mức độ phân cấp cho các đơn vị thành viên nhiều hay ít là tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể. Tuy nhiên Tổng công ty phải giữ quyền quyết định những vấn đề then chốt. Do vậy, nếu công ty chỉ thực hiện vay quỹ phát triển sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên mà thôi (tức là phải trả cả gốc và lãi) chứ không thực hiện điều hoà, không phát huy vai trò điều hoà thì Tổng công ty cần xem xét lại, bởi lẽ xét đến cùng quỹ phát triển sản xuất của các đơn vị thành viên chính là bộ phận tích luỹ chung mới được làm ra của Tổng công ty, tại sao Tổng công ty "Hội đồng quản trị và ban giám đốc" lại không phải là người trước hết trong Tổng công ty có quyền quyết định sử dụng số tích lũy này vào những việc gì. Do vậy giải pháp hợp lý ở đây là: các doanh nghiệp thành viên chỉ được giữ laị một số phần quỹ phát triển sản xuất, một phần phải đựơc tập trung về Tổng công ty. Điều này hoàn toàn phù hợp với chủ trương phân định rõ ranh giới giữa quản lý Nhà nước và quản lý kinh doanh mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra từ nhiều năm nay. Một vấn đề khác liên quan đến điều hoà vốn là doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập trong Tổng công ty Đường sông Miền Bắc phải khác so vói doanh nghiệp hạch toán độc lập đứng một mình. Một doanh nghiệp hạch toán độc lập đứng một mình chỉ hoạt động theo điều lệ của công ty đó, còn một doanh nghiệp trong tổ chức Tổng công ty không những hoạt động theo điều lệ của công ty mà còn tuân thủ theo điều lệ của Tổng công ty mà nó là thành viên. Mọi sự coi trọng quá mức đến tính độc lập của đơn vị thành viên như một doanh nghiệp hạch toán độc lập đứng một mình đều dẫn đến xem nhẹ vai trò của Tổng công ty, mà đã là doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty thì không còn được hoạt động theo cơ chế như một doanh nghiệp hạch toán độc lập nữa. Có xác định rõ ràng như vậy thì việc thực hiện vai trò điều hoà vốn giữa các công ty thành viên của Tổng công ty mới được phát huy, tập trung được tiềm lực đầu tư vào các lĩnh vực trọng yếu. Nếu không phát huy được vai trò đó, Tổng công ty Đường sông Miền Bắc Việt Nam chỉ còn là hình thức và trung gian. 2. Cải tiến phương pháp khấu hao tài sản cố định Như chúng ta đã biết những năm qua Tổng công ty đã thực hiện trích khấu hao cơ bản theo tỉ lệ quy định của Nhà nước. Với tỉ lệ này Tổng công ty phải mất một thời gian dài mới thực hiện khấu hao hết tài sản cố định và thực hiện đổi mới tài sản cố định. Làm như vậy là không thích hợp, nhất là trong gian đoạn hiện nay khi khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, có nhiều máy móc mới ra đời, tài sản cố định không những dễ bị hao mòn mà còn hao mòn rất nhanh chóng. Do vậy, để đảm bảo có quỹ khấu hao đủ để thực hiện tái đầu tư tài sản cố định, nhanh chóng đổi mới thiết bị, đưa kỹ thuật vào sản xuất thì trong trích khấu hao tài sản cố định cần tính đến các yếu tố như: khoa học kỹ thuật, giá cả, xu hướng thị trường thì Tổng công ty nên theo "phương pháp trích khấu hao theo tỉ lệ giảm dần..." . 2.1. Cơ sở của phương pháp Phương pháp trích khấu hao theo tỉ lệ giảm dần dựa trên các cơ sở : khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, tài sản cố định dễ bị hao mòn vô hình. Để hạn chế hao mòn vô hình trong thời gian sử dụng đòi hỏi phải khấu hao nhanh (trên cơ sở tận dụng tối đa công suất máy móc thiết bị). Nhanh chóng thu hồi vốn để đổi mới trang thiết bị, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Mặt khác, trên thị trường giá cả luôn biến động, tài sản của Tổng công ty cũng chịu sự biến động này và đó chính là nguyên nhân làm giảm giá trị của tài sản cố định. Do vậy cần tiến hành khấu hao nhanh để bảo toàn vốn đã đầu tư vào tài sản cố định, đồng thời cũng phù hợp với thực tế là công suất làm việc của máy móc thiết bị giảm dần theo thời gian. 2.2. Nội dung của phương pháp Theo phương pháp này, trích khấu hao hàng năm dựa vào tỉ lệ khấu hao luỹ thoái giảm dần so với nguyên giá tài sản cố định. Tỉ lệ khấu hao giảm dần đựơc xác định theo công thức: TKt = 2 (T - t + 1) T(T + 1) Trong đó: TKt : tỉ lệ khấu hao năm t T: Tổng thời gian hoạt động máy móc t: Số năm trích khấu hao (t = 1:T) Ví dụ: Một máy có nguyên giá là 42.000.000 VNĐ, thời gian sử dụng là 6 năm, áp dụng công thức trên ta có tỉ lệ trích và mức trích khấu hao trong 6 năm sử dụng như sau: Năm thứ nhất T = 6 , t = 1 , thay vào công thức ta có TK1 = = 2 ( 6 - 1 + 1) 6 6 21 6 ( 6 + 1) 21 Mức trích khấu hao : = x 421.000.000 = 12.000.000 VNĐ Các năm còn lại được thể hiện qua biểu đồ dưới: Biểu 16: Trích khấu hao cơ bản theo tỷ lệ quy định của Nhà nước Số năm trích (t) 1 2 3 4 5 6 Tổng Tỉ lệ khấu hao (TK) 6/21 5/21 4/21 3/21 2/21 1/21 21/21 Mức trích 12.000 10.000 8.000 6.000 4.000 2.000 42.000 2.3. Áp dụng phương pháp này cho Tổng công ty Do việc mua sắm tài sản cố định của Tổng công tại các thời điểm khác nhau có nhiều loại khác nhau, vì thế Tổng công ty cần áp dụng phương pháp khấu hao tỉ lệ giảm dần tính cho từng loại tài sản cố định hoặc tài sản cố định mua cùng một đợt có chức năng tương tự nhau. Nguyên giá của chiếc tàu: 48.036 triệu VNĐ Theo công thức trên thì mức khấu hao trong các năm: 1999, 2000, 2001, của chiếc tàu này: Biểu : Trích khấu hao cơ bản theo tỷ lệ giảm dần Đơn vị : 1.000.000 VNĐ Số năm trích 1 2 3 4 5 6 Tổng Tỉ lệ khấu hao (TK) 6/21 5/21 4/21 3/21 2/21 1/21 21/21 Mức trích 13.725 11.437 9.150 6.863 4.575 2.286 48.036 Như vậy, nếu tính theo cách tính của Tổng công ty đang áp dụng, mức trích khấu hao là 4. 323 triệu VNĐ thì Tổng công ty cần 11 năm mới thu hồi được vốn đầu tư ban đầu. Với phương pháp tính mới, sau 6 năm sử dụng Tổng công ty đã có thể thu hồi được vốn đầu tư cho chiếc tàu trên. Điều này hạn chế được hao mòn vô hình và sự tác động của giá cả tới vốn cố định. Tuy nhiên phương pháp này đã đội chi phí khấu hao trong giá thành sản phẩm tăng hơn so với phương pháp cũ trong năm đầu tiên là=13.725-4.323=9.402 (triệuVNĐ) làm ảnh hưởng đáng kể đến việc định giá. Song theo phương pháp này Tổng công ty có điều kiện thu hồi sớm vốn đầu tư ban đầu, có điều kiện đổi mới, cải tiến thiết bị công nghệ và do vậy có thể cạnh tranh tốt hơn với các hãng tầu nước ngoài. Đặc biệt với quy định an toàn vận tải biến quốc tế thì chỉ có những tàu đạt chuẩn khắt khe mới được hoạt động. 3. Thanh lý, bán bớt một số tàu quá cũ hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Đổi mới để đáp ứng những yêu cầu của khách hàng luôn là vấn đề thường xuyên đối với đội ngũ tàu của Tổng công ty. Trong khi đó, ngoài những chiếc tàu mà Tổng công ty đã vay mua, thuê mua trong 3 năm hoạt động vừa qua thì còn lại là các tàu cao tuổi (có những chiếc tuổi tàu đã vượt quá 27, trong thiết bị lạc hậu, khả năng chuyên dùng thấp, không còn phù hợp với tình hình hiện tại. Tổng quan ra thì bản thân đội tàu của Tổng công ty không có đủ năng lực cạnh tranh cần thiết, đặc biệt mà khi đội tàu này đang bị gần 30 hãng tàu nước ngoài thường xuyên hoạt động trên các tuyến vận tải đến Việt Nam, trong đó có khoảng 17 hãng được cấp giấy phép hoạt động trên tuyến liner cạnh tranh quyết liệt, kể cả trên các tuyến nội địa Việt Nam mà xưa nay vốn là vị trí độc tôn của các hãng tàu trong nước.Tình trạng như vậy xuất pháp từ nhiều nguyên nhân, mà chủ yếu là trong nhiều năm qua chưa xây dựng được một quy hoạch phát triển đội tàu hợp lý ở phạm vi quốc gia, đầu tư manh mún trên một diện rộng và không kịp chủ động thay đổi cơ cấu đội tàu cho phù hợp với xu thế phát triển công nghệ vận tải theo các phương thức mới trên thế giới mà suy cho cùng là xu thế yêu cầu thực tế của khách hàng. Khắc phục tình trạng đó, bước đi chiến lược cơ bản của Tổng công ty là tập trung xây dựng phát triển đội tàu theo hướng đi thẳng lên hiện đại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, từng bước giành lại và tăng thêm thị phần, tiến tới chia sẻ thị phần của khu vực. Để làm được điều này, Tổng công ty cần chủ trương tận dụng cơ hội tạo ra những đột khởi, trước hết phải ưu tiên tìm mọi cách hiện đại hoá ngay đội tàu chuyên dụng container, tàu chở hàng rời cỡ từ 25.000 DWT ¸ 30.000DWT, tàu chở dầu thô bằng các phương thức vay mua, thuê mua và đóng mới. Tuy nhiên, việc cụ thể cần làm ngay là phải thanh lý, bán bớt một số tàu đã quá cũ hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Điều này tự bản thân nó có lý do của nó: Một là, đối với những tàu quá cũ thì chi phí cho hoạt động cao, năng suất lại kém, chi phí sửa chữa cũng quá cao (bình quân một tàu hàng năm chi phí sửa chữa là 1 tỉ đến 1,5 tỉ VNĐ), không đảm bảo an toàn trong qúa trình vận tải, dẫn đến giá thành cao và giá cước cũng tăng theo. Trong khi đó trên thực tế giá cước đang ngày càng có xu hướng giảm do khủng hoảng của ngành Đường sông Miền Bắc trên thế giới. Đây là một điều mà tự bản thân những chiếc tàu thấy cần phải loại bỏ. Hai là, đối với những tàu không còn phù hợp với yêu cầu của khách hàng thì rất khó xác định được nguồn hàng hoặc nguồn hàng không đều khi có khi không. Nếu không bán, thanh lý chúng đi để đầu tư tàu mới thì đồng nghĩa với việc trì trệ trong kinh doanh, dẫn tới tự đào mồ chôn mình. Ba là, việc thanh lý, bán bớt các tàu sẽ làm giảm đáng kể chi phí, đồng thời Tổng công ty có thể tập trung vốn đầu tư nâng cấp các tàu còn lại phù hợp với yêu cầu hiện nay, thuê mua các tàu khác. Tuy nhiên khi thực hiện công việc này, vấn đề về người lao động dôi dư ra từ đó tàu đó sẽ trở thành gánh nặng đối với công việc vận tải biển. Trong số lao động này có: Số lượng lao động dôi dư do tuổi tác, số lượng lao động dôi dư do trình độ chuyên môn không phù hợp với công nghệ mới nhưng lại có nhiều năm cống hiến không nhỏ. Do vậy Tổng công ty có thể giải quyết vấn đề này theo hướng sau: Với những người tuổi tác không phù hợp thì bố trí nghỉ hưu hoặc là bố trí công việc khác. Với những người trình độ chuyên môn tuy không phù hợp nhưng còn trong độ tuổi phù hợp thì cho đi đào tạo lại hoặc đào tạo nâng cao cho phù hợp với tình hình hiện nay. Những công nhân đã đào tạo lại có thể cho đơn vị khác thuê hoặc xuất khẩu lao động. Làm như vậy Tổng công ty vừa đảm bảo việc làm cho người lao động, vừa có những khoản thu từ việc cho thuê này. 4. Hạn chế vốn lưu động bị chiếm dụng nhằm thu hồi vốn nhanh, tăng vòng quay của vốn. Trong điều kiện hiện nay, việc chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp có xu hướng ngày càng gia tăng. Trong tình hình chung đó, số vốn bị chiếm dụng của Tổng công chiếm tỉ lệ không nhỏ trong tổng số vốn lưu động, thể hiện trong năm 2001 như sau: Đầu năm : 272. 139 VNĐ Cuối năm: 284.093 VNĐ Lượng vốn bị chiếm dụng này không những không sinh lãi mà còn làm giảm vòng quay của vốn, hạn chế hiệu quả sử dụng vốn của Tổng công ty. Do vậy cần thực hiện các biện pháp sau để hạn chế vốn bị chiếm dụng trong khâu lưu thông. Thứ nhất: Trước khi ký hợp đồng, Tổng công ty cần nắm tình hình tín dụng của các khách hàng về các mặt sau: - Báo cáo tài chính: Tổng công ty có thể đề nghị khách hàng cung cấp thông tin tài chính như bảng tổng kết tài sản, báo cáo thu nhập, một số tỉ lệ như lợi nhuận vốn, tốc độ chu chuyển vốn lưu động. - Báo cáo tín dụng về tình hình thanh toán của khách hàng với các doanh nghiệp khác để xem xét lịch sử thanh toán của doanh nghiệp với các khách hàng khác, trả tiền đúng hạn hay không, bao nhiêu lần gây rắc rối trong việc trả tiền... - Quan hệ tín dụng với các ngân hàng của doanh nghiệp Thứ hai: là khi ký kết hợp đồng, Tổng công ty cần thoả thuận trong hợp đồng có phần phạt hành chính nếu khách hàng trả tiền chậm tuỳ vào giá trị lô hàng, thời gian khách hàng trả chậm. Làm như vậy sẽ đảm bảo cả hai bên đều có trách nhiệm hơn nữa trong vấn đề thanh toán của mình. Thứ ba: Là khi xảy ra tranh chấp hợp đồng, cả Tổng công ty và khách hàng cần phải nhanh chóng giải quyết dứt điểm không để xảy ra tình trạng chi phí cho việc giải quyết tranh chấp lớn hơn cả giá trị hợp đồng hoặc dễ gây tình trạng ứ đọng vốn lâu, mất uy tín của Tổng công với khách hàng hiện tại cũng như trong tương lai. Nếu cả hai phía không giải quyết được thì có thể đưa ra toà và chi phí này do hai bên chịu. Mặt khác, phía Tổng công ty phải luôn sẵn sàng tạo các điều kiện cần thiết để khi khách hàng yêu cầu đáp ứng ngay và đúng tiến độ trong hợp đồng đã ký kết. Nên chăng Tổng công ty cũng cần mạnh dạn chi phí để khuyến khích khách hàng thực hiện đúng thời hạn trong hợp đồng, nhằm tăng tốc độ tiêu thụ và thu hút khách hàng ngày càng đông. Thứ tư, là mục tiêu kinh doanh của Tổng công ty cũng như tất cả các doanh nghiệp khác là lợi nhuận, không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó Tổng công ty còn có nhiệm vụ là bảo đảm công ăn việc làm cho một số lao động tương đối lớn. Do đó trong những năm qua, đôi lúc Tổng công ty đã phải ký kết những hợp đồng không mấy đem lại hiệu quả kinh tế, thậm chí chấp nhận thua lỗ. Như vậy có nghĩa rằng muốn tạo ra một cơ chế thu hồi nhanh vốn, bảo toàn được vốn, tăng vòng quay vốn đòi hỏi phải m ột hệ thống đồng bộ bởi chúng là các chỉ tiêu mang tính chất tổng hợp. ở đây không những là vấn đề việc làm cho người lao động mà còn rất nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên chúng ta cũng cần thấy rằng không phải lúc nào thu tiền ngay cũng có lợi nhất là đối với các bạn hàng truyền thống hoặc những bạn hàng nằm trong diện ưu tiên. Khi đó Tổng công ty nên cho phép khách hàng trả chậm nhưng vẫn phải đảm bảo thu hồi đúng thời hạn và chi phí cho việc khách hàng thanh toán chậm là nhỏ nhất. 5. Hoàn thiện phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch sát với nhu cầu vốn thực tế của Tổng công ty. 5.1. Sự cần thiết của phương pháp. Trong thời gian qua việc lập kế hoạch vốn lưu động của Tổng công ty đã bộc lộ một số tồn tại chủ yếu sau: - Việc xác định vốn lưu động dựa vào doanh thu kế hoạch và số vòng quay của vốn kế hoạch là chưa khoa học, do đó chưa xác định nhu cầu vốn cho từng khâu, từng bộ phận, điều này dẫn đến Tổng công ty phải đi vay ngắn hạn ngân hàng với tỉ lệ lớn. - Lượng vốn được xác định không sát với thực tế, thấp hơn so với thực tế, duy có nguồn tín dụng sụt giảm. Nguyên nhân chủ yếu là do doanh thu thực tế năm 2001 lớn hơn doanh thu kế hoạch đề ra (kế hoạch là 2.156.000 triệu VNĐ, thực hiện là 2.271.245 triệu VNĐ, tăng 11%) và tình hình suy giảm kinh tế. Căn cứ vào tình hình thực tế Tổng công ty có thể áp dụng phương pháp phần trăm của tài sản nợ và tài s ản có trong bảng cân đối tài sản trên doanh thu thực tế năm trước đó để xác định nhu cầu vốn lưu động định mức. Áp dụng phương pháp này hạn chế được nhược điểm của phương pháp mà Tổng công ty đang áp dụng, giúp cho Tổng công ty xác định một cách chính xác, sát thực tế hơn về nhu cầu vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 5.2. Nội dung của phương pháp. Đây là phương pháp dự đoán ngắn hạn và đơn giản có thể sử dụng để xác định nhu cầu tài chính của doanh nghiệp. Trình tự tiến hành như sau: - Tính số dư trên các tài khoản trong bảng cân đối tài sản trong năm của Tổng công ty. - Chọn những khoản chịu sự biến động trực tiếp và có quan hệ chặt chẽ với doanh thu và tỉ lệ phần trăm trên doanh thu trong năm. - Dùng phần trăm đó ước tính nhu cầu đó của năm cần lập kế hoạch. 5.3. Áp dụng để xác định vốn lưu động định mức cho năm 2001. Năm 2000 doanh thu đạt 1977.551 triệuVNĐ. Xét bên tài sản. Khi doanh thu thì các mục bên tài sản có thể thay đổi tỉ lệ thuận với doanh thu. Tuy nhiên do tính chất và đặc điểm của vốn cố định là không trực tiếp thay đổi tỉ lệ thuận với doanh thu nên ta chỉ xét hai khoản mục đó là: -Tài sản lưu động. - Tài sản trong thanh toán. Ta tính chất chỉ tiêu sau -Tỉ lệ % tài sản lưu động trên doanh thu là: x 100% = x 100% = 17% Tài sản lưu động 2000 330. 743 Doanh thu năm 2000 2000.551 - Tỉ lệ % tài sản trong thanh toán trên doanh thu là x 100% = x 100% = 8% Tài sản trong thanh toán 2000 159.805 Doanh thu năm 2000 1977.551 * Xét bên nguồn vốn. Khi doanh thu tăng thì chỉ có nguồn vốn tín dụng gắn hạn và nguồn vốn trong thanh toán chịu sự biến động trực tiếp, do vậy chỉ xét hai khoản mục này. - Tỉ lệ phần trăm nguồn vốn tín dụng ngắn hạn trên doanh thu là: x 100% = 2,1% x 100% = Tín dụng gắn hạn năm 2000 42.196 Doanh thu năm 2000 2000.551 - Tỉ lệ phần trăm nguồn vốn trong thanh toán trên doanh thu là: x 100% = 6% x 100% = Nguồn vốn trong thanh toán 120.529 Doanh thu năm 2000 2000.551 Qua việc tính toán ta có chênh lệch : (17 + 8) - (2,1 + 6) = 16,9% cho ta biết cứ 100 đồng doanh thu tăng thêm t hì phải tăng 16,9 đồng vốn lưu động. Doanh thu kế hoạch năm 2001 là 2.156.000 triệu VNĐ, do đó nhu cầu vốn lưu động năm 2001 so với năm 2000 tăng: ( 2156.000 - 2000.551) x 0,169 » 26.778 t riệu VNĐ Trong cơ cấu vốn lưu động năm 2000 thì tài sản lưu động chiếm x 100% = 78% 330.743 424.291 Với nhu cầu vốn lưu động định mức xác định lại cho năm 2001 là 330.743 + (26.778 x 0,78) = 351.630 VNĐ - Hiệu quả đem lại so với cách tính cũ là: 357.982 - 351.630 = 6.352 triệu VNĐ Như vậy theo cách tính mới này, Tổng công ty sẽ tiết kiệm được 6.352 triệu VNĐ, đây chính là phần chênh lệch giữa hai cách tính mức vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch. Giả sử với lãi suất ngân hàng là 0,95% /tháng, thì trong 1 năm Tổng công ty có thể giảm chi phí trả lãi suất ngân hàng để bổ sung vào lợi nhuận. 6.352 x 0,95% x 12 = 724,128 triệu VNĐ - Hiệu quả đem lại so với thực tế 394.526 - 351.630 = 42.896 triệu VNĐ Theo cách tính mới này lượng vốn định mức kế hoạch cho năm 2001 thấp hơn thực tế sử dụng là 42.896 triệu VNĐ, đây chính là phần lãng phí do thực hiện căn cứ vào kế hoạch được xác định theo phương pháp cũ. Nếu số tiền này mà vay ngân hàng với lãi suất 0,95%/tháng thì Tổng công ty có thể giảm chi phí lãi suất ngân hàng bổ sung vào lợi nhuận. 42.896 x 0,95% x 12 = 4.890 triệu VNĐ II/ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC Một trong những nguyên nhân không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến việc quản lý và sử dụng vốn của Tổng công ty là Nhà nước có nhiều quy định về chế độ thuế, lệ phí, quản lý đầu tư, bảo vệ thị trường hiện hành không còn phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay và tính chất đặc thù của hoạt động Đường sông Miền Bắc. Thêm vào đó Nhà nước không có vốn đầu tư trực tiếp cho phát triển đội tàu và cũng chưa có một chính sách bảo hộ hợp lý tạo điều kiện bảo vệ thị trường Đường sông Miền Bắc trong nước, chống lại sức ép ngày càng tăng của các hãng tàu nước ngoài và giúp các doanh nghiệp Đường sông Miền Bắc hợp tác đầu tư, phát triển sản xuất. Do vậy, với tư cách đó Nhà nước nên chú ý hơn tới ngành Đường sông Miền Bắc nhằm góp phần cho Tổng công ty Đường sông Miền Bắc quản lý, sử dụng có hiệu quả hơn đồng vốn của mình. Thứ nhất, là trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh Tổng công ty Đường sông Miền Bắc không sử dụng đường bộ, nhưng các doanh nghiệp vận tải sông đang phải chịu lệ phí đường bộ tính trong giá nhiên liệu. Trong khi đó, chi phí nhiên liệu luôn chiếm khoảng gần 60% giá thành vận tải đường sông. Do đó nhà nước cũng cần có những biện pháp, chính sách giúp các doanh nghiệp không phải chịu lộ phí này. Đặc biệt trong giai đoạn khó khăn hiện nay khi mà các doanh nghiệp vận tải đang phải chịu sức ép giảm giá cước do ảnh hưởng suy thoái của ngành đường sông và cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực. Thứ hai, là nhà nước cần thể chế hoá chế độ bảo hộ hợp lý tàu thông qua việc ban hành chế độ thuế mới và thực hiện quản lý thị trường bằng các biện pháp tương tự như trong ngành hàng không, dầu khí, bưu chính. Nhà nước cũng nên áp dụng những biện pháp tài chính hợp lý nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp vận tải sông có điều kiện tái đầu tư khôi phục, phát triển đội tàu sông trong giai đoạn từ 10 - 15 năm tới. KẾT LUẬN Quản lý và nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn ở bất kỳ một Tổng công ty nào suy cho cùng là một công việc vô cùng khó khăn phức tạp, đặc biệt trong tình hình thị trường đầy biến động, rủi ro bất trắc khó lường trước được, trong tình hình khủng hoảng hiện nay. Các nhà lãnh đạo có thể thấm nhuần lý luận khoa học về quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là gì? Các bộ phận tham mưu đã có thể đã rất nhạy cảm với kết quả cũng như khả năng phân tích tình hình vốn? hay việc tổ chức cả một hệ thống các giải pháp để đạt các chỉ số tài chính hấp dẫn cũng như việc đánh giá những điều đã đạt được ra sao? Tuy vậy thực tế lại luôn chứng minh sự đa dạng vốn có của nó, kỳ vọng tạo ra một lợi thế cạnh tranh tiềm ẩn hơn hẳn các chiến lược con người hay chiến lược marketing ở Tổng công ty Đường sông Miền Bắc Việt nam là chưa rõ ràng, hệ thống tài chính còn nhiều bất hợp lý, mặc dù hiệu quả về mặt kinh tế đang được chú trọng hơn nữa nhưng khả năng bảo toànvà phát triển vốn rất hạn chế. Trên những cơ sở đánh giá đó, một số giải pháp hợp lý được đề xuất nhằm giải quyết những điểm yếu và nâng cao khả năng quản lý vốn ở Tổng công ty Đường sông Miền Bắc Việt Nam. Một lần nữa em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành của mình tới Cô giáo TS Nguyễn Thu Thảo và chú Nguyễn Văn Phượng cùng các cô chú trong Tổng công ty Đường sông Miền Bắc đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Thông tư số 57TC/TCDN ngày 12/11/1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý sử dụng vốn và tài sản trong DNNN. Kinh tế thương mại - Khoa Thương mại trường ĐHKTQD. Quản trị doanh nghiệp thương mại. Khoa thương mại trường ĐH KTQD. 4. Quản lý tài chính doanh nghiệp. NXB Thống kê 1994. Sổ tay quản lý vốn trong doanh nghiệp. NXB Thống kê 1994. Tạp chí Tài chính năm 2001. Các tài liệu: Quyết định thành lập, các báo cáo tổng hợp, các đề án phát triển ... của Tổng công ty Đường sông Miền Bắc Việt Nam. MỤC LỤC Phần mở đầu 1 Chương 1: Vai trò và nội dung của quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp sản xuất 3 I- Vốn và quản lý vốn trong kinh doanh 3 1- Khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh 3 2- Vốn cố định và vốn lưu động 4 II- Nội dung của hoạt động quản lý vốn trong kinh doanh 9 1- Nội dung hoạt động quản lý vốn cố định và vốn lưu động 9 III- Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý vốn và hiệu quả sử dụng vốn 18 1- Các nhân tố ảnh hưởng 18 2- Hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động 20 IV- Các giải pháp nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 26 1- Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm 27 2- Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn lực 27 3- Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh 28 4- Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật và sản xuất kinh doanh 29 5- Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động kinh tế 30 Chương II: Phân tích thực trạng quản lý và sử dụng vốn ở Tổng Công ty đường sông Miền Bắc 31 I- Thực trạng quản lý và sử dụng vốn ở Tổng Công ty đường sông Miền Bắc 31 1- Lịch sử hình thành 31 2- Nhiệm vụ chủ yếu của Tổng Công ty đường sông Miền Bắc 32 3- Cơ cấu tổ chức của Tổng Công ty đường sông Miền Bắc 32 II- Kết quả hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty sông Miền Bắc 33 1- Những thuận lợi và khó khăn của Tổng Công ty đường sông Miền Bắc 33 2- Những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Tổng Công ty đường sông Miền Bắc 34 III- Phân tích hoạt động quản lý vốn kinh doanh của Tổng Công ty đường sông Miền Bắc Việt Nam 41 1- Vốn và cách thức huy động của Tổng Công ty 41 2- Phân tích tình hình quản lý vốn cố định 43 3- Tình hình quản lý vốn lưu động 50 III- Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của Tổng Công ty đường sông Miền Bắc 56 1- Tình hình sử dụng vốn ở Tổng Công ty đường sông Miền Bắc qua một số chỉ tiêu cơ bản 56 2- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định 58 3- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Tông Công ty đường sông Miền Bắc 61 4- Đánh giá chung công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty đường sông Miền Bắc Việt Nam. 65 Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty đường sông Miền Bắc 66 I- Những giải pháp cho tổng Công ty đường sông Miền Bắc 66 1- Phát huy cơ chế điều hoà vốn trong Tổng Công ty. 66 2- Cải tiến phương pháp khấu hao tài sản cố định 68 3- Thanh lý, bán bớt một số tàu quá cũ hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của khách hàng 70 4- Hạn chế vốn lưu động bị chiếm dụng nhằm thu hồi vốn nhanh, tăng vòng quay của vốn 72 5- Hoàn thiện phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch sát với nhu cầu vốn thực tế của Tổng Công ty 72 II- Một số kiến nghị với Nhà nước 77 Kết luận 78 Tài liệu tham khảo 79 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37290.doc