Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường Mỹ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài: Hiện nay Việt Nam là một trong 12 nước đứng đầu thế giới cả về diện tích, sản lượng và khối lượng xuất khẩu chè. Xuất khẩu chè đang từng bước trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam, đóng góp một phần đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân. Vì vậy, nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng xuất khẩu chủ lực này dựa trên phát huy hiệu quả lợi thế so sánh của đất nước đang là vấn đề mà Nhà nước, cơ quan các cấp đặc biệt quan tâm Mỹ là một trong

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường Mỹ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những thị trường nhập khẩu chè thuộc diện lớn nhất trên thế giới. Tuy nhiên,sản lường chè của Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Từ đó có thể thấy, sức cạnh tranh của mặt hàng chè Việt Nam trên thị trường Mỹ còn rất hạn chế. Để giải quyết những vấn đề khó khăn mà ngành chè Việt Nam đang gặp phải, đồng thời giúp cho doanh nghiệp có thêm thông tin,giải pháp cụ thể để từ đó nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường thế giới nói chung, thị trường Mỹ nói riêng, em quyết định chọn đề tài: ”Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường Mỹ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” 2.Mục đích nghiên cứu Từ việc phân tích tình hình xuất khẩu chè của nước ta sang thị trường Mỹ và thực trạng sức cạnh tranh của mặt hàng này,ta sẽ chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu so với những đối thủ cạnh tranh khác. Để từ đó ta có những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường Mỹ 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu là mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam - Pham vi nghiên cứu là nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường Mỹ từ năm 2001-nay 4.Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp,phương pháp thống kê, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch để nghiên cứu đề tài. 5.Kết cấu đề tài: Đề tài gồm 3 phần: - Chương 1: Cơ sở lý luận về sức cạnh tranh của hàng hóa và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu - Chương 2: Thực trạng sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu của nước ta trên thị trường Mỹ trong thời gian qua. - Chương 3: Định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu Việt Nam trong thời gian tới. CHƯƠNG 1 Cơ sở lý luận chung về sức cạnh tranh của hàng hóa và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu 1.1 Cơ sở lý luận chung về sức cạnh tranh của hàng hóa 1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh và sức cạnh tranh 1.1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh Khái niệm “cạnh tranh”( được hiểu là cạnh tranh kinh tế ) xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.Cạnh tranh là một trong những quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường. Nó là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng cải tiến hoạt động sản xuất – kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.Vì vậy, cạnh tranh cũng là động lực nâng cao hiệu quả hoạt động của mỗi nền kinh tế. Giáo trình kinh tế học chính trị Mác – Lênin nêu ra định nghĩa : Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất – kinh doanh với nhau nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất – kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận lớn nhất, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh. Theo từ điển kinh tế, cạnh tranh được hiểu là quá trình ganh đua hoặc tranh giành giữa ít nhất hai đối thủ nhằm có được những nguồn lực hoặc ưu thế về sản phẩm hoặc khách hàng về phía mình, đạt được lợi ích tối đa. Các quan niệm trên đây có sự khác biệt trong diễn đạt và phạm vi, nhưng có những nét tương đồng về nội dung. Từ đó, có thể đưa ra một quan niệm tổng quát sau đây về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường : ”Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, khu vực thị trường có lợi nhất.Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích, đối với người sản xuất – kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.” 1.1.1.2 Khái niệm về sức cạnh tranh Cạnh tranh ở đây là nói đến hành vi của chủ thể, vì vậy có hành vi của doanh nghiệp kinh doanh, của cá nhân kinh doanh và của một nền kinh tế không có hành vi của hàng hóa. Trong quá trình các chủ thể cạnh tranh với nhau, để giành lợi thế về phía mình, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị thế của mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một sức mạnh, một khả năng hoặc một năng lực nào đó của chủ thể, được gọi là sức cạnh tranh của chủ thể đó hoặc khả năng cạnh tranh của chủ thể đó. Khi muốn chỉ một sức mạnh, một khả năng duy trì được vị trí của một hàng hóa nào đó trên thị trường ( hàng hóa này phải thuộc một doanh nghiệp nòa đó, một quốc gia nào đó ) thì ta cũng dùng thuật ngữ “sức cạnh tranh của hàng hóa”, đó cũng là chỉ mức độ hấp dẫn của hàng hóa đối với khách hàng. Sức cạnh tranh của hàng hóa có thể hiểu là sự vượt trội so với các sản phẩm cùng loại về chất lượng và giá cả với điều kiện các sản phẩm tham gia cạnh tranh đều đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng. Có nghĩa là, những sản phẩm mang lại giá trị sử dụng cao nhất trên 1 đơn vị giá cả là những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao hơn. 1.1.2 Các cấp độ của sức cạnh tranh Ngày nay khi thị trường hàng hoá càng phát triển thì sự cạnh tranh diễn ra càng gay gắt. Một chủ thể kinh tế khi tham gia vào thị trường bao giờ cũng phải chịu sức ép cạnh tranh từ rất nhiều phía khác nhau của nền kinh tế. Dựa vào những quan sát, các nhà kinh tế học đã phân chia cấp độ của sức cạnh tranh một cách tương đối bao gồm: sức cạnh tranh của quốc gia, sức cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành, sức cạnh tranh của sản phẩm trong cùng 1 ngành. 1.1.2.1 Sức cạnh tranh của quốc gia Theo diễn đàn kinh tế thế giới ( WEF ) năm 1997: ”Năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực của nền kinh tế quốc dân đạt và duy trì mức tăng trưởng cao về kinh tế, thu nhập và việc làm.” Năng lực cạnh tranh quốc gia được cấu thành từ 8 nhóm yếu tố chính (với 155 chỉ tiêu ) bao gồm: độ mở cửa của nền kinh tế, vai trò và hiệu lực của Chính phủ, hệ thống tài chính tiền tệ, trình độ phát triển công nghệ, cơ sỏ hạ tầng, trình độ quản lý của doanh nghiệp, số lượng và chất lượng lao động và trình độ phát triển của thể chế. 1.1.2.2 Sức cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành Sức cạnh tranh của doanh nghiệp theo cách hiểu đơn giản nhất có thể hiểu là “ khả năng nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, vì vậy khi thị phần phát triển lên cho thấy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao ”. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng hãng đã bán được hàng nhanh, nhiều hơn so với đối thủ cạnh tranh trên một thị trường cụ thể về một loại hàng hóa cụ thể. Quan điểm này có thể áp dụng đối với từng doanh nghiệp, cũng như đối với một ngành công nghiệp của một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp ( HLFIC ) của OECD định nghĩa sức cạnh tranh của doanh nghiệp là “ khả năng của các doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia hoặc khu vực tạo ra thu nhập tương đối cao hơn và mức độ sử dụng lao động cao hơn, trong khi vẫn đối mặt với cạnh tranh quốc tế.”.Đây là một cách định nghĩa đã kết hợp cả cấp độ doanh nghiệp, ngành, và cấp độ quốc gia. Xét ở góc độ ngành, một ngành kinh tế được coi là có năng lực cạnh tranh khi các doanh nghiệp trong ngành và sản phẩm chủ đạo của ngành có sức cạnh tranh trên thị trường. Các yếu tố quyết định sức cạnh tranh của một ngành kinh tế bao gồm: lợi thế so sánh của ngành, môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh của ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành và sức cạnh tranh của sản phẩm hoặc dịch vụ đặc thù của ngành. 1.1.2.3 Sức cạnh tranh của hàng hóa Sức cạnh tranh của một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó trên thị trường trong nước và quốc tế là sự thể hiện tính ưu việt hoặc tính hơn hẳn của nó cả định tính và định lượng với các chỉ tiêu như: chất lượng sản phẩm, thương hiệu và mức độ vệ sinh công nghiệp hoặc vệ sinh thực phẩm, khối lượng và sự ổn định chất lượng của sản phẩm, kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm, môi trường thương mại, mức độ giao dịch và uy tín của sản phẩm trên thị trường, sự ổn định về môi trường kinh tế vĩ mô và chính sách thương mại như thuế, tỷ giá tín dụng, đầu tư, mức độ bảo hộ…và cuối cùng là chỉ tiêu về giá thành và giá cả sản xuất. Cùng với quá trình tăng trưởng và phát triển của mỗi nền kinh tế thì các quan hệ thương mại cũng phát triển, theo đó diễn ra sự mở rộng thị trường trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Mỗi sản phẩm do từng nhà sản xuất đưa ra thị trường sẽ được người tiêu dùng phản ứng với các mức độ cao thấp khác nhau. Sự phản ứng của người tiêu dùng thể hiện qua việc mua hoặc không mua sản phẩm, đó là biểu hiện tổng quát cuối cùng về sức cạnh tranh của sản phẩm đó. Nói cách khác, cạnh tranh giữa các sản phẩm trên một thị trường là quá trình thể hiện khả năng hấp dẫn tiêu dùng của các sản phẩm đối với khách hàng trên một thị trường cụ thể và trong một thời gian nhất định. 1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Sức cạnh tranh của sản phẩm trong thương mại quốc tế là tổng hòa sức cạnh tranh của doanh nghiệp, ngành và quốc gia. Như vậy có thể nói các yếu tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm trong thương mại quốc tế bao hàm các yếu tố từ phạm vi doanh nghiệp, ngành đến phạm vi quốc gia.Nhìn chung, các yếu tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm trong thương mại quốc tế có thể được tập hợp thành 4 nhóm cơ bản: Nhóm các yếu tố thuộc về lợi thế so sánh, nhóm các yếu tố thuộc về khả năng tăng trưởng kinh tế đất nước, nhóm các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, nhóm các yếu tố thuộc về hoạt động của doanh nghiệp. 1.1.3.1 Nhóm các yếu tố thuộc về lợi thế so sánh Các yếu tố này trước hết chính là sự dồi dào về tài nguyên thiên nhiên cũng như nguồn lực con người (lao động) và nguồn vốn.Các yếu tố này được thể hiện qua mức giá bình quân thấp và đó cũng chính là cơ sở căn bản của lợi thế so sánh và sức cạnh tranh.Một yếu tố khác là năng suất lao động của nhà sản xuất được phản ánh bằng các hệ số đầu vào thấp. Lợi thế so sánh sẽ giúp một nước xác định được mặt hàng cần sản xuất và nên sản xuất. Có thể coi lợi thế so sánh là điều kiện cần để có được khả năng cạnh tranh quốc tế về sản phẩm xuất khẩu nhưng đây chưa phải là điều kiện đủ. Lợi thế so sánh không phải là yếu tố tĩnh như nhiều quan điểm vẫn thường đưa ra, mà có thể thay đổi năng động do lợi thế so sánh của một nước không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố tương đối tĩnh như tài nguyên thiên nhiên và đất đai mà nó còn phụ thuộc vào các yếu tố động là lao động và vốn ( công nghệ,máy móc,thiết bị..). Vì vậy lợi thế so sánh có thể thay đổi nhờ vào ứng dụng những công nghệ mới, thêm vào đó phân tích lợi thế so sánh còn cần tính đến khả năng nâng cao trình độ thành thạo của công nhân và thay đổi mô hình sản xuất của các nước. 1.1.3.2 Nhóm các yếu tố thuộc về khả năng tăng trưởng kinh tế đất nước Theo Fargerberg thì sức cạnh tranh quốc tế là khả năng của một đất nước trong việc nhận thức rõ mục đích của chính sách kinh tế tập trung, đặc biệt là đối với tăng trưởng thu nhập và việc làm mà không gặp phải các khó khăn trong cán cân thanh toán. Tăng trưởng kinh tế của một quốc gia được xác định bởi năng suất của nền kinh tế quốc gia đó, trong khi đó năng suất là yếu tố cơ bản tạo thành sức mạnh cạnh tranh quốc tế. Tăng trưởng kinh tế tác động trực tiếp đến sức mua của xã hội, tạo điều kiện để sản phẩm mở rộng quy mô sản xuất. Nhóm các yếu tố thuộc về khả năng tăng trưởng kinh tế đất nước có 3 yếu tố đặc biệt liên quan đến viễn cảnh tăng trưởng kinh tế đất nước và tạo ra khả năng cạnh tranh: Tài trợ và nợ nước ngoài, tiết kiệm và đầu tư, tỷ giá hối đoái. 1.1.3.3 Nhóm các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp * Môi trường kinh doanh vĩ mô ở trong và ngoài nước - Nhóm các yếu tố trong môi trường nội địa Môi trường nội địa bao gồm (1) môi trường luật pháp, chính trị: sự ổn định chính trị, hệ thống pháp luật đầy đủ, nghiêm minh sẽ tạo điều kiện nâng cao vị thế của hàng hóa xuất khẩu trên thị trường quốc tế.Trong đó, hệ thống chính sách điều tiết kinh tế có tác động rõ rệt nhất, như chính sách thương mại có ảnh hưởng đến cơ chế khuyến khích xuất khẩu, rào cản thương mại trong nước và tiếp cận thị trường nước ngoài; chính sách tỷ giá liên quan đến tỷ giá hối đoái thực và tỷ giá hối đoái so sánh thực giữa nước xuất khẩu và nước bạn hàng; (2) môi trường kinh tế: là sự ổn định và phát triển của nền kinh tế trong nước: (3) cấu trúc cạnh tranh: là sự đa dạng nhiều hình thức kinh doanh, sự tham gia của các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước. Nhóm các yếu tố của thị trường nước ngoài Là các yếu tố tương tự như những yếu tố trong môi trường nội địa, ngoài ra còn kèm theo các yếu tố khác: (4) trình độ công nghệ: sự chênh lệch về trình độ và hiệu quả ứng dụng công nghệ; (5) cấu trúc phân phối: là khả năng phân phối có hiệu quả sản phẩm ra thị trường nước ngoài; (6) yếu tố địa lý, cơ sở hạ tầng của nước ngoài; (7) các yếu tố văn hóa: là sự khác biệt về văn hóa, tôn giáo, con người dẫn đến những thói quen tiêu dùng, tập quán kinh doanh khác nhau. *Môi trường kinh doanh vi mô, bao gồm: - Sự cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành Các đối thủ hiện tại trong ngành quyết định tính chất và mức độ tranh đua nhằm giành giật lợi thế trong ngành mà mục đích cuối cùng là giữ vững và phát triển thị phần hiện có, đảm bảo cho mức độ lợi nhuận được cao nhất có thể. Thường thì cạnh tranh trở nên khốc liệt khi ngành đang ở giai đoạn bão hòa, suy thoái hoặc có đông đối thủ cạnh tranh bằng vai phải lứa với các chiến lược kinh doanh đa dạng và do các rào cản kinh tế làm cho các doanh nghiệp khó tự do di chuyển sang ngành khác. - Quyền thương lượng của người mua Đối với các doanh nghiệp bất kỳ thì mọi việc chỉ có ý nghĩa khi tiêu thụ được sản phẩm và có lãi. Chính vì vậy, sự tín nhiệm của khách hàng luôn là tài sản có giá trị quan trọng của doanh nghiệp và doanh nghiệp có được điều đó là do biết cách thỏa mãn tốt hơn các nhu cầu và thị hiếu của khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh khác. Còn về phía người mua luôn muốn trả giá cho sản phẩm thấp vì vậy họ sẽ thực hiện ép giá, gây áp lực đòi hỏi chất lượng cao hơn hoặc được phục vụ nhiều hơn đối với doanh nghiệp khi có điều kiện, điều này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. - Nguy cơ đe dọa từ các sản phẩm thay thế Các sản phẩm thay thế luôn có tác động lớn đến mức lợi nhuận tiềm năng của ngành, nhất là những sản phẩm có chu kỳ sống ngắn. Vì phần lớn các sản phẩm thay thế là kết quả của việc đổi mới công nghệ nên thường có ưu thế về chất lượng và giá thành sản phẩm, mặc dù giá thành ban đầu có thể cao so với các sản phẩm hiện có bán trên thị trường. Biện pháp chủ yếu được sử dụng để hạn chế sự tác động của sản phẩm thay thế là tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý….nhằm giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc tăng cường tính độc đáo khác biệt của sản phẩm trên thị trường. 1.1.3.4 Nhóm các yếu tố thuộc về hoạt động của doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu *Vốn của doanh nghiệp: Nhân tố vốn hay tư bản bao gồm tiền và tài sản dùng để mua trang thiết bị, vật tư, công nghệ, lao động và các nhu cầu khác cho sản xuất Trong nhân tố này cũng cần các tri thức về quản lý tư bản sao cho việc sử dụng có hiệu quả. Mặt khác trong kinh doanh luôn tồn tại nhu cầu về vốn. Doanh nghiệp nào tìm được biện pháp có thể giải quyết hữu hiệu vấn đề vốn sẽ có thuận lợi lớn trong hoạt động kinh doanh của mình và dễ dàng chiếm ưu thế trong cuộc cạnh tranh với đối thủ. *Nhân sự Ngày nay tất cả các doanh nghiệp dù là mới thành lập,hay hoạt động lâu năm, dù có xuất khẩu hay không xuất khẩu hàng hóa thì nhân sự vẫn là vấn đề then chốt đối với sự tồn tại của doanh nghiệp.Một doanh nghiệp muốn có những chiến lược cạnh tranh tốt thì họ cần một đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn, năng lực quản lý bởi họ chính là những người sẽ định hướng cho sự phát triển của doanh nghiệp. Nhân sự có thể coi là tài nguyên của doanh nghiệp, tuy nhiên để có thể quản lý tốt được nhân sự là một vấn đề không hề đơn giản, điều đó đòi hỏi nghệ thuật của người lãnh đạo. *Công nghệ sản xuất Công nghệ là yếu tố không kém phần quan trọng đối với sản xuất của các doanh nghiệp trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập. Công nghệ đang dần trở thành nhân tố cạnh tranh đối với các doanh nghiệp xuất khẩu vì chỉ có những công nghệ sản xuất tiên tiến mới có thể tạo ra những sản phẩm có chất lượng đồng thời đảm bảo được năng suất lao động cao. *Thương hiệu của sản phẩm Trong nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, yếu tố thương hiệu ngày càng đóng vai trò quan trọng. Một thương hiệu sản phẩm chứa đựng trong đó nhiều hơn một cái tên, một logo….vì nó chính là sự thể hiện năng lực, uy tín, tiềm năng của doanh nghiệp cũng như sức cạnh tranh của sản phẩm. Có thể nói thương hiệu là sự phản ánh trung thực việc sản phẩm đó đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như thế nào. Chỉ có những sản phẩm có thương hiệu mới đủ sức cạnh tranh trong một môi trường quốc tế với rất nhiều đối thủ từ khắp các khu vực với những lợi thế riêng vốn có của mình. *Các nhân tố khác: Ngoài những nhân tố trên còn có những nhân tố khác như trang thiết bị của doanh nghiệp, vấn đề tài chính…. mỗi yếu tố đều có tác động nhất định đến sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu do doanh nghiệp sản xuất ra. Vì vậy chỉ có một sự kết hợp đồng bộ các nhân tố này sẽ là tiền đề cho sự phát triển bền vững, duy trì sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các quốc gia xuất khẩu khác trong dài hạn. 1.1.4 Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu 1.1.4.1 Các chỉ tiêu định lượng *Sản lượng, mức doanh thu mà mặt hàng xuất khẩu đem lại từng năm Đây là một chỉ tiêu đơn giản, dễ tính toán nhưng rất quan trọng vì nó nhằm đánh giá sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Sản lượng là tổng khối lượng hàng hóa mà doanh nghiệp đã sản xuất ra trong một giai đoạn, một khoảng thời gian nhất định. Nếu sản lượng tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp tăng cao qua các năm, điều đó có nghĩa là thị trường tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp ổn định và doanh nghiệp đã tạo được cho mình một khả năng tốt trong việc duy trì và giữ vững thị phần so với đối thủ cạnh tranh, tình trạng hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng của doanh nghiệp vẫn đang tiến triển thuận lợi. Để có thể đánh giá chính xác hơn sức cạnh tranh của hàng hóa thì bên cạnh chỉ tiêu sản lượng người ta còn sử dụng chỉ tiêu doanh thu.Doanh thu bán hàng là tổng số tiền thực tế doanh nghiệp đã thu được trong một thời kỳ nhất định nhờ bán sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của mình. Nếu doanh thu qua các năm tăng với tốc độ cao, chứng tỏ giá cả hàng hóa được duy trì ổn định, hàng hóa đó đứng vững trong cạnh tranh và được thị trường chấp nhận. Nếu sản lượng tiêu thụ lớn mà doanh thu không cao có nghĩa là giá cả của hàng hóa thấp, trị giá xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp giảm và điều đó thể hiện sức cạnh tranh của hàng hóa giảm. Theo kinh tế học vi mô, doanh thu được xác định bởi công thức sau Doanh thu = giá bán sản phẩm x sản lượng *Thị phần của mặt hàng xuất khẩu Đây là một trong những chỉ tiêu hay sử dụng nhất để đánh giá mức độ chiếm lĩnh thị trường của mình so với đối thủ cạnh tranh. Thị phần của sản phẩm xuất khẩu một nước trong một thời kỳ ( thường được tính trong một năm ) là tỷ lệ phần trăm mà sản phẩm xuất khẩu của một nước đã chiếm được trong thời kỳ đó. Mỗi loại hàng hóa nhất định thường có những khu vực thị trường riêng với số lượng khách hàng nhất định. Khi hàng hóa đảm bảo được các yếu tố bên trong như có chất lượng tốt hơn, giá cả thấp hơn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tốt..v..v…và có được những yếu tố bên ngoài như cơ hội kinh doanh xuất hiện, công tác xúc tiến bán hàng hiệu quả, thương hiệu sản phẩm mạnh, kênh phân phối được mở rộng ..v.v..sẽ làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm và mở rộng được thị trường tiêu thụ, buộc đối thủ cạnh tranh phải nhường lại từng thị phần đã bị chiếm lĩnh. Để có thể duy trì và chiếm lĩnh được thị trường, sự có mặt kịp thời của hàng hóa trên thị trường đáp ứng đòi hỏi của khách hàng và sự khéo léo, tài tình trong việc tổ chức mạng lưới, chi nhánh phân phối để thu hút được khách hàng với quy mô lớn là những nhân tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Thị phần của hàng hóa xuất khẩu trên thị trường thường được tính theo công thức sau: MS = Trong đó: MS là thị phần của hàng hóa. MA là số lượng hàng hóa A được tiêu thụ trên thị trường M là tổng số lượng hàng hóa cùng loại được tiêu thụ trên thị trường. Độ lớn của chỉ tiêu này phản ánh sức cạnh tranh của mặt hàng và vị trí của quốc gia trên thị trường thế giới. Một mặt hàng có thị phần càng lớn trên thị trường thì mặt hàng đó càng có sức cạnh tranh cao, tiềm năng cạnh tranh lớn. Ngược lại, một mặt hàng có thị phần nhỏ hay giảm sút trên thị trường thì mặt hàng đó có sức cạnh tranh yếu, khả năng ảnh hưởng của mặt hàng đối với thị trường là rất kém. *Chí phí sản xuất và giá bán của mặt hàng xuất khẩu - Chí phí sản xuất hàng xuất khẩu Chi phí sản xuất được hiểu là toàn bộ các khoản hao phí vật chất được tính bằng tiền mà doanh nghiệp đã bỏ ra để thực hiên quá trình sản xuất sản phẩm, có đặc điểm là luôn vận động, mang tính đa dạng và phức tạp gắn liền với tính đa dạng và phức tạp của ngành nghề sản xuất, quy trình sản xuất. Cạnh tranh về chi phí sản xuất hàng hóa là xuất phát điểm và là điều kiện cần để một sản phẩm có thể duy trì được ở trên thị trường quốc tế. Nguồn gốc của khả năng cạnh tranh về chi phí của sản phẩm là lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đó. Khả năng cạnh tranh về chi phí của sản phẩm sẽ phụ thuộc vào hiệu quả của tất cả các khâu, bao gồm sản xuất , thu mua, vận chuyển, chế biến, kho bãi, cầu cảng, vận chuyển quốc tế để tạo ra và đưa sản phẩm đó đến thị trường quốc tế. Sự bất cập, không hiệu quả trong bất cứ khâu nào cũng sẽ làm gia tăng chi phí và giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Khả năng cạnh tranh về chi phí chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ đối với việc duy trì và mở rộng thị phần bởi vì sức cạnh tranh của sản phẩm còn phụ thuộc vào khả năng tiếp cận thông tin, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu, năng lực marketing quốc tế, khả năng đối phó với rủi ro...v.v. Giá bán mặt hàng xuất khẩu Trong nền kinh tế thị trường, việc xác định giá của sản phẩm chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau như chi phí cho sản phẩm, nhu cầu thị trường về sản phẩm, mức độ cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, các quy định của chính phủ về luật pháp và thuế quan, cách tiếp thị và bán sản phẩm..v..v..Không hẳn với một loại sản phẩm cùng loại, sản phẩm nào có giá thấp hơn sẽ có tính cạnh tranh cao hơn. Có những sản phẩm có giá cao rất nhiều nhưng nhờ có thương hiêu, có chất lượng vượt trội hơn hẳn mà vẫn được người tiêu dùng yêu thích và chọn lựa. Tuy nhiên, trong thực tế, cạnh tranh bằng cách đặt giá sản phẩm thấp hơn là một chiến lược mà nhiều doanh nghiệp đã áp dụng và đã thành công. Những doanh nghiệp này sẵn sàng chấp nhận một mức lãi suất thấp nhưng bù lại có được số lượng tiêu thụ sản phẩm lớn,và từ đó nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm với người tiêu dùng. Giá bán một đơn vị sản phẩm có thể tính là tổng của giá thành xuất xưởng,chi phí vận chuyển, chi phí quảng cáo và lợi nhuận dự kiến của một sản phẩm. Công thức: Zxk = Zx + C1 +C2 + Pdk Trong đó: Zxk: Giá bán một sản phẩm xuất khẩu Zx : Giá thành xuất xưởng cho 1 sản phẩm C1 : Chi phí vận chuyển, bảo hiểm cho 1 sản phẩm C2 : Chi phí quảng cáo, tiếp thị cho 1 sản phẩm Pdk: Lợi nhuận dự kiến cho 1 sản phẩm 1.1.4.2 Các chỉ tiêu định tính *Chất lượng của mặt hàng xuất khẩu Chất lượng của hàng hóa thể hiện ở giá trị sử dụng và thời gian sử dụng của sản phẩm. Trong xã hội phát triển, yêu cầu đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp, quốc gia là phải cung ứng những sản phẩm có chất lượng cao để thỏa mãn nhu cầu ngày càng khắt khe của người tiêu dùng. Người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn cho những sản phẩm, dịch vụ cùng loại nhưng có chất lượng cao hơn. Đặc biệt đối với những mặt hàng thực phẩm thì chất lượng hàng hóa được xem như là tiêu chí quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định tới sức cạnh tranh của hàng hóa.Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thế giới, mặt hàng thực phẩm sản xuất ra muốn tiêu thụ được phải đảm bảo được chất lượng theo chuẩn mực và chất lượng vượt trội. Những mặt hàng này phải đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng chuẩn mực theo các tiêu chuẩn ISO quốc tế và phải được các tổ chức quốc tế xét duyệt và cấp chứng chỉ ISO. Chất lượng vượt trội được hiểu là sản phẩm phải luôn được đổi mới, cải tiến để tạo ra sự khác biệt so với các sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh trên thị trường, là yếu tố quyết định sức cạnh tranh của sản phẩm. *Thương hiệu và uy tín của mặt hàng xuất khẩu trên thị trường Thương hiệu và uy tín của hàng hóa chính là sự tổng hợp các thuộc tính của sản phẩm như chất lượng, lợi ích, mẫu mã và dịch vụ của sản phẩm. Thương hiệu không những là dấu hiệu để nhận biết và phân biệt sản phẩm của doanh nghiệp này với sản phẩm của doanh nghiệp khác, mà nó còn là tài sản rất có giá trị của doanh nghiệp, là uy tín và thể hiện niềm tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm. Ngày nay, phần lớn các hàng hóa xuất khẩu trên thị trường quốc tế đều có gắn với thương hiệu. Thương hiệu hàng hóa đã trở thành tài sản vô cùng quý giá và là vũ khí quan trọng trong cạnh tranh. Thương hiệu của một mặt hàng nào đó càng nổi tiếng, càng mạnh thì sức cạnh tranh của hàng hóa đó càng lớn. Điều đó có nghĩa là, nếu một sản phẩm nào đó đã có được uy tín và hình ảnh tốt đối với người tiêu dùng thì sản phẩm đó có một lợi thế cạnh tranh hơn hẳn so với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Đó chính là giá trị vô hình của thương hiệu hàng hóa. *Mức độ vệ sinh công nghiệp, đảm bảo môi trường của mặt hàng xuất khẩu Ngày nay, trên thị trường các nước phát triển, xu hướng cạnh tranh không chỉ bằng chất lượng mà còn gắn với các yếu tố về môi trường và an toàn sản phẩm, đặc biệt đối với mặt hàng lương thực thực phẩm. Để có thể cạnh tranh được trên những thị trường lớn như EU, Mỹ và Nhật Bản, các mặt hàng thực phẩm vừa phải đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, vừa phải thỏa mãn các yêu cầu liên quan đến đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm như dư lượng kháng sinh và chất bảo vệ thực vật trong sản phẩm, các quy định về bảo vệ môi trường, các điều kiện tiêu chuẩn đối với cơ sở chế biến xuất khẩu..v..v..Một sản phẩm xuất khẩu đáp ứng được các yêu cầu về vệ sinh công nghiệp và bảo vệ môi trường chắc chắn sẽ có được cảm tình cao hơn của nước nhập khẩu và người tiêu dùng, và từ đó cũng sẽ có lợi thế cạnh tranh cao hơn. 1.1.5 Các công cụ thường dùng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Có thể hiểu công cụ cạnh tranh là tập hợp các yếu tố, các chính sách, kế hoạch, chiến lược mà doanh nghiệp sử dụng nhằm tạo ưu thế so với đối thủ cạnh tranh. Việc lựa chọn các công cụ và biện pháp nào cho phù hợp để áp dụng trong từng trường hợp cụ thể là cả một nghệ thuật trong cạnh tranh. Nếu sử dụng đúng thì dành thắng lợi và ngược lại, không đúng sẽ nhận lấy thất bại, khi đó không những không duy trì được vị thế mà còn làm cho vị thế đó giảm đi so với trước đó. 1.1.5.1 Cạnh tranh bằng sản phẩm *Cạnh tranh bằng cách đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu Đa dạng hóa sản phẩm thực chất là quá trình mở rộng danh mục hàng hóa, tạo nên một cơ cấu sản phẩm có hiệu quả của doanh nghiệp, của quốc gia. Sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ, cùng với sự phát triển ngày càng cao của nhu cầu thị trường khiến vòng đời của sản phẩm đang ngày càng bị rút ngắn lại. Doanh nghiệp cần có nhiều chủng loại sản phẩm hàng hóa để hỗ trợ cho nhau. Trong quá trình kinh doanh, các doanh nghiệp có thể thực hiện đa dạng hóa sản phẩm với các hình thức khác nhau. Có thể dùng hình thức hoàn thiện và cải tiến các loại sản phẩm đang sản xuất để giữ vững thi trường hiện tại và thâm nhập thị trường mới, có thể đa dạng hóa theo chiều sâu của mỗi loại sản phẩm hoặc đa dạng hóa theo bề rộng nhu cầu các loại sản phẩm, hoặc có thể sản xuất ra những sản phẩm có giá trị sử dụng khác nhau nhưng có chung chủng loại nguyên liệu gốc. *Cạnh tranh bằng chất lượng mặt hàng xuất khẩu Có thể hiểu chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo biểu thị giá trị sử dụng của nó. Chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh lợi hại trên thị trường. Khi nền kinh tế thị trường phát triển, thu nhập của người tiêu dùng ngày càng cao thì chất lượng sản phẩm ngày càng được chú trọng. Đặc biệt, để đưa hàng hóa vào những thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản thì chất lượng hàng hóa cần phải đạt được mức “chất lượng hàng hóa quốc tế” và phải được một số tổ chức có uy tín chứng nhận. Tổ chức tiêu chuẩn hàng hóa quốc tế ISO đưa ra khái niệm: “Chất lượng sản phẩm là tổng thể những chỉ tiêu, những đặc trưng kinh tế kỹ thuật của sản phẩm, thể hiện được sự thỏa mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn”. Nếu theo như khái niệm này thì chất lượng có thể hiểu theo hai nghĩa, chất lượng với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật và chất lượng sản phẩm với sự phù hợp nhu cầu thị trường. Nâng cao chất lượng sản phẩm phải xem xét cả hai khía cạnh trên. 1.1.5.2 Cạnh tranh bằng giá bán của mặt hàng xuất khẩu Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán hay doanh nghiệp dự định có thể nhận được từ người mua qua việc trao đổi sản phẩm trên thị trường. Giá cả có một vai trò rất quan trọng, đối với doanh nghiệp nó là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa, còn đối với người tiêu dùng nó là một trong những yếu tố quyết định đến hành vi mua hàng. Giá cả là dấu hiệu tin cậy phản ánh tình hình biến động thị trường. Thông qua giá cả, doanh nghiệp có thể nắm bắt được sự tồn tại, sức chịu đựng cũng như sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Trong cạnh tranh, giá cả được sử dụng như một công cụ cạnh tranh hữu hiệu thông qua những chính sách đ._.ịnh giá bán, như: Chính sách định giá thấp, chính sách định giá cao, chính sách ổn định giá, chính sách định giá theo thị trường, chính sách giá phân biệt, chính sách bán phá giá. Khi lựa chọn một trong những chính sách định giá này doanh nghiệp cần phải xem xét các vấn đề như: Lượng cầu đối với sản phẩm, chi phí sản xuất và giá thành đơn vị sản phẩm, tuy nhiên, nhiều trường hợp doanh nghiệp phải chấp nhận bán với giá thấp hơn giá thành vì những mục tiêu khác như: để thâm nhập thị trường dễ dàng hơn, chiếm được cảm tình của khách hàng. Điều cuối cùng là phải nhận dạng đúng thị trường cạnh tranh, từ đó có chính sách định giá riêng cho mỗi loại thị trường nhằm đảm bảo sự phù hợp với nhu cầu và giá bán sản phẩm. 1.1.5.3 Cạnh tranh bằng hệ thống kênh phân phối sản phẩm xuất khẩu Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, sản xuất tốt chưa đủ để khẳng định khả năng tồn tại và phát triển của mình, mà còn phải biết tổ chức mạng lưới bán hàng, đó là tập hợp các kênh đưa sản phẩm hàng hoá từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng sản phẩm ấy. Thông thường kênh tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được chia thành: A là kênh trực tiếp ngắn, từ doanh nghiệp đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng, B là kênh trực tiếp dài ( từ DN tới người bán lẻ, sau đó đến tay người tiêu dùng), C là kênh gián tiếp ngắn ( từ DN tới các đại lý, tiếp đó phân tới các người bán lẻ và sau cùng đến tay người tiêu dùng). Bên cạnh đó, để thúc đẩy quá trình bán hàng. doanh nghiệp có thể tiến hành một loạt các hoạt động hỗ trợ như: Tiếp thị, quảng cáo, yểm trợ bán hàng, tổ chức hội nghị khách hàng, tham gia các tổ chức liên kết kinh tế..v…v.. 1.1.6 Kinh nghiệm của một số nước về nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường Mỹ Với mục đích có được định hướng và giải pháp đúng đắn để phát triển mặt hàng chè xuất khẩu sang thị trường Mỹ, dưới đây đề án xin được đề cập đến một số kinh nghiệm của các nước xuất khẩu chè sang thị trường Mỹ đã đạt được thành công trong thời gian qua là Trung Quốc, Ấn Độ và để từ đó rút ra được bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trên con đường phát triển. 1.1.6.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc Trung Quốc là một nước có đất tự nhiên rộng, người đông, nhưng đất canh tác ít (chiếm khoảng 10,9% tổng diện tích đất tự nhiên). Tuy nhiên, sau hơn 20 năm thực hiện cải cách và mở cửa, ngành nông nghiệp Trung Quốc nói chung và ngành chè nói riêng đã có được những bước phát triển mạnh và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Hiện tại, Trung Quốc là một trong 4 quốc gia có sản lượng xuất khẩu chè lớn nhất thế giới (Bảng phụ lục 2), đồng thời chè Trung Quốc cũng là một trong những thương hiệu có uy tín lâu năm trên thị trường. Để có được những thành công như vậy, Chính phủ cũng như ngành chè Trung Quốc đã thực hiện một số biện pháp căn bản sau: Trước hết, Trung Quốc đã hướng vào việc nâng cao giá trị chè xuất khẩu thông qua tăng đầu tư vào khâu bảo quản và chế biến chè bắt đầu từ những năm cải cách và mở cửa nền kinh tế. Trung Quốc đã xây dựng hơn 1000 kho bảo quản chè, trong đó có 78% là các kho có hệ thống điều khiển nhiệt, ẩm hiện đại nhằm mục đích giảm những tổn thất sau thu hoạch. Đối với khâu chế biến: Trung Quốc đã xây dựng và phát triển mô hình xí nghiệp Đầu Rồng về chế biến nông sản, trong đó có mặt hàng chè. Để thúc đẩy xí nghiệp Đầu Rồng phát triển, Nhà nước hỗ trợ về nhiều mặt như các ngân hàng khi xem xét phân bổ vốn cho vay thì phải ưu tiên cho các xí nghiệp Đầu Rồng vay vốn lưu động. Nhà nước miễn toàn bộ thuế sử dụng đất đối với những doanh nghiệp sản xuất chè tái đầu tư để mở rộng sản xuất. Ngoài ra, Nhà nước còn miễn thuế thu nhập công ty cho phần doanh thu có được từ chuyển giao công nghệ, tư vấn và các dịch vụ kỹ thuật. Thứ hai, Trung Quốc rất coi trọng đầu tư và ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ vào phát triển ngành sản xuất chè. Chủ trương của Chính phủ Trung Quốc là lấy khoa học kỹ thuật làm vũ khí, lấy công nghiệp hiện đại làm chỗ dựa. Một trong những chương trình thành công nhất tạo nền tảng tiến bộ khoa học kỹ thuật cho ngành nông nghiệp nói chung, trong đó có ngành sản xuất chè là “Chương trình Đốm Lửa”, bắt đầu thực hiện từ ngày 24/7/1985 và đã được Liên Hiệp Quốc đánh giá cao. Cách thức triển khai chương trình này tự nguyện và từ dưới lên, theo phương châm “Nhà nước và dân cùng làm”. Các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế muốn tham gia chương trình phải tự đề xuất dự án, chứng minh được tính khả thi và hiệu quả của dự án. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã cho xây dựng một số các viện nghiên cứu chè để nghiên cứu tạo ra những giống mới cho chất lượng và năng suất cao cũng như phương thức cạnh tác hiệu quả. Trong thời gian gần đây, Trung Quốc đang chuyển dần sang mô hình trồng chè hữu cơ, áp dụng những công nghệ trồng chè mới để cho sản phẩm sạch và an toàn. Thứ ba, Trung Quốc là một trong những quốc gia rất coi trọng vai trò của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật với triết lý: thiết bị là phần “cứng”, công nghệ là phần “mềm”, nhân lực có trình độ cao là phần “sống”, trong đó phần “sống” đóng vai trò quan trọng, thiếu phần “sống” cả hai phần còn lại đều không thể hoạt động và có hiệu quả được. Để khuyến khích đội ngũ khoa học kỹ thuật thực sự làm việc tận tâm và có hiệu quả, Chính phủ quy định hệ số chênh lệch tiền lương giữa lương khởi điểm của cử nhân trong các cơ quan nghiên cứu và lương tối thiểu của nền kinh tế là 2,7. Ngoài ra, Chính phủ còn rất nhiều khuyến khích khác như: lương cho cán bộ khoa học chuyển về làm việc tại vùng nông thôn, vùng sâu khó khăn được hưởng thêm với hệ số trung bình là 1,5. Các cơ quan được phép ký hợp đồng không hạn chế mức lương với cán bộ nghiên cứu. Cuối cùng là những kinh nghiệm của Trung Quốc trong điều chỉnh chính sách nông nghiệp nói chung cho phù hợp với quy định của WTO. Trong quá trình gia nhập WTO, chính phủ Trung Quốc đã phát triển khuôn khổ pháp lý và sửa đổi các luật lệ, quy định; dỡ bỏ các hạn chế về số lượng đối với hàng xuất khẩu và nhập khẩu; mở rộng quyền trao đổi ngoại thương từ hệ thống phê duyệt đến đăng ký...Bên cạnh đó, chính phủ tiếp tục thực hiện điều chỉnh chính sách nông nghiệp theo hướng thúc đẩy hình thành hệ thống thông tin thị trường, hệ thống tiêu chuẩn, an ninh và chất lượng, điều chỉnh các chính sách bảo hộ và hỗ trợ cho nông nghiệp đang áp dụng cho phù hợp với quy định của WTO, tái cấu trúc nghiên cứu khoa học công nghệ nông nghiệp và hệ thống khuyến nông. Những điều chỉnh chính sách nông nghiệp theo hướng thông thoáng hơn này đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho chè của Trung Quốc xuất khẩu ra thị trường thế giới và có được những lợi thế cạnh tranh nhất định. 1.1.6.2 Kinh nghiệm của Ấn Độ Ấn Độ là một trong 4 nước có sản lượng chè xuất khẩu lớn nhất thế giới. Trong thời gian gần đây, tuy sản xuất được duy trì ở mức ổn định nhưng tốc độ sản xuất chè của Ấn Độ đang giảm dần do nhu cầu tiêu thụ trong nước ngày càng tăng lên. Năm 2004, lượng chè xuất khẩu của Ấn Độ chỉ chiếm 12% tổng lượng chè xuất khẩu của thế giới, giảm 30% so với những năm 90 và 70% so với những năm 50 trước đây. Tuy nhiên, Ấn Độ vẫn là một cường quốc về sản xuất và xuất khẩu chè, những biện pháp nâng cao sức cạnh tranh chè xuất khẩu đã được Ấn Độ áp dụng thành công là: Ấn Độ tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, lấy chất lượng làm nền tảng cạnh tranh với sản phẩm các nước khác. Ấn Độ có truyền thống trồng chè lâu đời với những giống chè cho năng suất cao và kỹ thuật canh tác hiệu quả như kỹ thuật trồng chè ô vuông, cây bóng mát, cây phân xanh…Đồng thời Ấn Độ còn tập trung cho phát triển khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và đã sử dụng rất nhiều công nghệ hiện đại như: máy sấy Sirocco, máy vò Đavidson….Sắp tới, Ấn Độ dự kiến thiết lập một cơ sở dữ liệu địa lý phán đoán từ xa trên diện tích đất không trồng chè, bên cạnh việc trồng cây xem kẽ như các giống cây ngoại lai, gia vị….Trong thời gian vừa qua, Ấn Độ đã đầu tư xây dựng những vùng trồng chè hữu cơ, chè sạch và an toàn nhằm tạo ra những sản phẩm chất lượng cao đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế. Ấn Độ chú trọng công tác xúc tiến thương mại. Uỷ ban chè Ấn Độ và hiệp hội chè Ấn Độ thường xuyên tổ chức các cuộc viếng thăm những quốc gia sản xuất chè khác như Trung Quốc, Việt Nam….để trao đôi, học tập kinh nghiệm. Đồng thời những cuộc khảo sát, tìm kiếm thông tin về thị trường xuất khẩu tiềm năng như Ai Cập, Nga, Mỹ, EU……cũng thường xuyên diễn ra. Hệ thống cung cấp thông tin về thị trường xuất khẩu, tư vấn về môi trường kinh doanh cũng rất được Ấn Độ chú trọng đầu tư phát triển Đầu tư phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn và kỹ thuật cao là chiến lược trọng điểm của Ấn Độ. Không chỉ đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong nước, Ấn Độ còn có những chính sách thu hút người Ấn Độ làm việc ở nước ngoài về nước như: được hưởng quyền lợi như người dân trong nước, ra vào Ấn Độ không cần thị thực, được quyền sở hữu nhà đất tại Ấn Độ, thành lập các thành phố dành riêng cho Ấn kiều với cơ sở hạ tầng hiện đại…Những chính sách này đã thu hút được hàng nghìn Ấn kiều về nước sinh sống và làm việc. 1.1.6.3 Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Từ việc phân tích những kinh nghiệm thực tế của các nước trên thế giới cho thấy sự tăng trưởng của sản xuất và xuất khẩu chè đều xuất phát từ các lợi thế vốn có và biết tạo ra các lợi thế mới trên cơ sở điều chỉnh và đổi mới chính sách, áp dụng khoa học công nghệ, tăng vốn đầu tư vào thị trường. Từ kinh nghiệm của các nước có thể rút ra một số kinh nghiệm đối với ngành chè Việt Nam như sau: Trước hết, ngành sản xuất chè Việt Nam cần tận dung hiệu quả hơn nữa những lợi thế so sánh của mình. Muốn tận dụng hiệu quả những lợi thế so sánh này, trước hết Nhà nước cần hoàn thiện quy hoạch vùng sản xuất chè theo hướng hợp lý, đồng bộ giữa vùng nguyên liệu và sản xuất, tận dụng lợi thế của từng vùng, từ đó xây dựng vùng sản xuất chuyên canh tập trung xuất khẩu quy mô lớn. Thứ hai, các doanh nghiệp sản xuất chè Việt Nam cần tăng cường đầu tư trang thiết bị dây chuyền công nghệ chế biến chè tiên tiến, đảm bảo sự kịp thời, đồng bộ để nâng cao chất lượng sản phẩm chè xuất khẩu, đáp ứng được thị hiếu ngày càng phong phú của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, cần phải đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu chè và tập trung nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Thứ ba, cần phải đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại chè xuất khẩu, tăng cường đổi mới hệ thống tiếp thị phát triển các khâu từ sản xuất, chế biến đến xuất khẩu, coi trọng chữ tín để tạo lập thị trường mới. Đồng thời chú trọng đến công tác đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ có chuyên môn trong trồng và sản xuất chè. Cuối cùng là cần điều chỉnh hệ thống chính sách và quản lý liên quan tới xuất khẩu chè. Trước hết các cơ quan chức năng cần tăng cường hơn nữa những biện pháp kiểm soát sản xuất chè từ khâu trồng, chế biến, bảo quản đến xuất khẩu. Đồng thời, Chính phủ ta cần từng bước xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về chất lượng chè phù hợp với những tiêu chuẩn quốc tế hiện nay. 1.2 Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, đặc biệt sau khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA) được ký kết và chính thức có hiệu lực vào năm 2001, và sự kiện Việt Nam tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới WTO, quan hệ thương mại quốc tế giữa Việt Nam với các nước khác nói chung và Mỹ nói riêng ngày càng được mở rộng. Đồng thời trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt nam, tỷ lệ mặt hàng chè xuất khẩu đang ngày càng gia tăng, đóng góp một phần đáng kể vào tổng KNXK của cả nước, và dần trở thành một trong những ngành phát triển mũi nhọn của nước ta. Đứng trước những cơ hội cũng như những thách thức đó, nâng cao sức cạnh tranh của chè xuất khẩu là một vấn đề rất cấp thiết được cấp Đảng, cấp Bộ, cấp ngành và doanh nghiệp sản xuất chè đặc biệt quan tâm. 1.2.1 Vai trò to lớn của mặt hàng chè xuất khẩu đối với Việt Nam: Thực tế cho thấy, mặt hàng chè xuất khẩu đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam được biểu hiện qua các mặt sau đây Thứ nhất, chè xuất khẩu đang dần trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam. Với những đặc điểm về thời tiết, địa hình nước ta là một trong số hơn 30 quốc gia trên thế giới có những điều kiện phù hợp để nuôi trồng và sản xuất chè. Đồng thời với đặc điểm thuận lợi như thời gian thu hồi vốn nhanh, quy mô vốn đầu tư thấp, đòi hỏi một nguồn lao động dồi dào và giản đơn, ngành chè đang dần trỏ thành một trong những ngành trọng điểm của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tính trong 8 tháng đầu năm 2008, sản lượng chè xuất khẩu của Việt năm đã đạt được 330,4 nghìn tấn với kim ngạch là 161,6 triệu USD. Những con số này đã nói lên sản lượng cũng như quy mô ngày càng tăng của ngành sản xuất chè, xứng đáng là một ngành phát triển mũi nhọn của nước ta. Thứ hai, ngành chè nói chung và xuất khẩu nói riêng đã và đang góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Với đặc trưng riêng của ngành là sử dụng nhiều lao động với quá trình đào tạo nhanh đã có thể đi vào sản xuất. Trong khi Việt Nam lại là nước có nguồn lao động dư thừa rất nhiều và đặc điểm chung là khả năng tiếp thu và học hỏi khá nhanh. Theo ông Nguyễn Kim Phong, chủ tịch Hiệp hội chè Việt nam có trụ sở tại Hà Nội, cho biết hiện nay có khoảng 6 triệu dân sông trong vùng chè và số người sản xuất chè và tham gia những lĩnh vực liên quan cũng tới 2 triệu người, và con số này đang có xu hướng ngày càng tăng khi mà các nhà máy, xí nghiệp nhỏ lẻ sản xuất chè đang gia tăng ngày càng nhiều. Thứ ba, ngành chè xuất khẩu đang góp phần mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế. Kể từ khi nền kinh tế Việt nam mở cửa sau thời kỳ tập trung bao cấp, Nhà nước đã đưa ra mục tiêu mở rộng mối quan hệ với các nước trên thế giới trên mọi lĩnh vực kinh tế- xã hội. Cho đến nay, quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế ngày một trở nên sâu đậm và đạt được những kết quả như mong muốn, và thành tựu lớn nhất chính là việc Việt Nam gia nhập tổ chức WTO. Để có được những thành công đáng kể như thế thì hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu chè nói riêng đã có đóng góp rất lớn trong việc mở rộng hơn, tạo mối quan hệ bền chặt hơn với các nước và các tổ chức khác nhau trên thế giới. Như vậy, nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu là một chủ trương và chính sách rất đúng đắn của Đảng và Chính phủ, phù hợp với tình hình phát triển của Việt Nam trong thời kỳ hiện nay. 1.2.2 Mỹ là một thị trường nhập khẩu chè đầy tiềm năng đối với Việt Nam Mỹ là một nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới với số dân trên 200 triệu người, nhu cầu về hàng hoá hàng năm của Mỹ là rất lớn. Các sản phẩm nhập khẩu đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Mỹ và là thị trường chiến lược lớn đối với nhiều nước xuất khẩu. Mỹ luôn được đánh giá là thị trường xuất khẩu tiềm năng số 1 của Việt Nam, đặc biệt là đối với mặt hàng chè xuất khẩu.Cụ thể như sau: 1.2.2.1 Mỹ là một đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam Tính đến trước khi ký Hiệp định thương mại Việt Mỹ năm 2001, so với các quốc gia đang phát triển khác, mô hình thương mại của Việt Nam có sự khác thường trong cơ cấu hàng hoá, với sự tập trung vào các mặt hàng chưa qua chế biến và chủ yếu tập trung vào các thị trường Châu Á và Châu Âu. KNXK vào Mỹ trước năm 2001 thậm chí chưa đạt đến 1 tỷ USD, cụ thể: năm 2000 là 0,8213 tỷ USD, năm 1999 là 0,6084 tỷ USD. Tỷ lệ xuất khẩu vào thị trường Mỹ thấp như vậy là hệ quả của việc Việt Nam không được hưởng Quy chế tối huệ quốc. Ngay sau khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực, Mỹ đã mở cửa thị trường Mỹ cho hàng xuất khẩu Việt Nam như: giảm thuế suất trung bình đối với nhập khẩu từ Việt Nam vào Mỹ giúp cho xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ đạt được mức tăng trưởng vượt bậc chỉ đúng một năm sau khi có Hiệp định thương mại Bảng 1.1 Kim ngạch xuất khẩu 2 chiều giữa Việt Nam và Mỹ từ năm 2001–2004 Năm Việt Nam xuất sang Mỹ Việt Nam nhập từ Mỹ Tổng kim ngạch 2001 1.053,2 460,4 1.513,6 2002 2.394,8 580,0 2.974,8 2003 4.554,9 1.324,4 5.879,3 2004 5.275,8 1.163,4 6.439,2 Và tính đến 7 tháng đầu năm 2008, KNXK của nước ta sang Mỹ đã đạt trên 6,5 tỷ USD. Theo Bộ công thương dự đoán, KNXK đến hết năm 2008 sẽ đạt 13,1 tỷ USD, tức là tăng 28% so với năm 2007 ( KNXK là 10,3 tỷ USD), và tăng 39% so với năm 2006 ( KNXK là 9 tỷ USD). Như vậy, kể từ ngày hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (12/7/1995) cho đến nay, quan hệ kinh tế nói chung và thương mại nói riêng giữa hai nước ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, thể hiện qua KNXK ngày càng tăng, và một loạt những Hiệp định sau Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết, như: Hiệp định Dệt may (2003), Hiệp định Hàng không (2003), Thư Thỏa thuận về Sáng kiến cạnh tranh Việt Nam..v..v..Với những tiềm năng lớn và sự thuận lợi trong quan hệ thương mại như vậy, đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng chè của Việt Nam sang thị trường Mỹ đã và đang trở thành mục tiêu và mối quan tâm của các đơn vị, tổ chức của Việt Nam. 1.2.2.2 Xu hướng nhập khẩu chè đang tăng lên ở Mỹ Xu hướng nhập khẩu này xuất phát từ chính xu hướng uống chè đang ngày càng gia tăng trên đất Mỹ. Mỹ hiện nay là nước tiêu thụ chè lớn thứ 8 trên thế giới, với cơ cấu 84% là chè đen, còn lại là chè xanh và các loại chè khác. Số quán chè trên toàn nước Mỹ hiện đã lên tới khoảng 2000 quán, cách đây một thập kỷ thì con số này chỉ ở mức 200. Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến kết quả này là người dân Mỹ ngày càng nhận thấy những tác dụng có lợi cho sức khoẻ của chè. Các nghiên cứu khoa học mới đây cho thấy chè, nhất là chè xanh, có chứa các chất chống ôxy hoá giúp ngăn ngừa các bệnh về tim mạch, ung thư và làm chậm quá trình lão hoá. Với tiềm năng tiêu dùng lớn như vậy, Mỹ hoàn toàn là một thị trường đầy hứa hẹn đối với chè Việt Nam. Vậy nguyên nhân do đâu mà hiện nay chè Việt nam vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng sản lượng nhập khẩu của Mỹ (khoảng 2 % )? Điều này sẽ được phân tích sâu hơn ở phần sau, nhưng nguyên nhân rõ nhất mà ta có thể nhìn thấy ngay đó chính là chất lượng chè xuất khẩu của Việt Nam còn thấp, không thể vượt qua những rào cản thương mại về chất lượng của Mỹ. 1.2.3 Những cơ hội và thách thức đối với mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ trong điều kiện hội nhập WTO Sau năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Những cơ hội và thách thức đã được mở ra đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và cũng ảnh hưởng đến mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam nói riêng, đặc biệt là trên thị trường Mỹ. 1.2.3.1 Những cơ hội đối với mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam Hội nhập WTO giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có động lực thúc đẩy phát triển, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm và tạo điều kiện tiếp cận với nhiều thị trường lớn, điển hình là Mỹ, EU, Nhật Bản. Trong đó, đối với Mỹ, ngay từ sau BTA, thuế nhập khẩu đối với đa số các mặt hàng của Việt Nam đều giảm từ 40% xuống còn 3% hoặc 5%, tương đương với mức thuế suất thông thường mà Mỹ áp dụng với các nước khác, đồng thời các biện pháp phi thuế quan cũng được yêu cầu loại bỏ và hạn chế áp dụng. Tất cả những quy định nay đều phù hợp với yêu cầu của WTO. Ngoài ra, cơ hội lớn khi Việt Nam gia nhập WTO là việc thay đổi chính sách quản lý, điều hành nền kinh tế theo hướng rõ ràng hơn, giảm dần sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Bên cạnh đó, với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh Việt Nam ngày càng được cải thiện, thúc đẩy tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có tiền đề tốt để thực hiện hoạt động xuất khẩu có hiệu quả. Cuối cùng, tham gia Tổ chức thương mại thế giới WTO còn đem lại cơ hội hợp tác và học tập kinh nghiệm cho Việt Nam từ nhiều nước trên thế giới về các mặt như: kinh nghiệm quản lý, khoa học công nghệ hiện đại, cách thức nâng cao chất lượng sản phẩm, cách thức tận dụng tối đa lợi thế so sánh của đất nước mình..v..v.. 1.2.3.2 Những thách thức đối với mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam Thách thức đầu tiên đối với mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế đó là chất lượng và uy tín còn thấp, và có thể nói là chè chưa có tên tuổi. Chè Việt Nam thường được các nước nhập khẩu đấu trộn với cốt các loại chè khác hoặc để chiết xuất rồi đóng gói thành phẩm bán ra với một thương hiệu khác. Chè Việt Nam thường yếu ở khâu bảo quản (độ ẩm cao), lẫn loại, không đen, kém xoăn và nước không sánh, chè thường nhiều vụn và lẫn tạp chất. Những yếu kém về chất lượng này chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam không có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ, một thị trường mà mặt hàng chè xuất khẩu được coi là khó nhập khẩu và chất lượng bị kiểm soát chặt chẽ bởi Cơ quan quản lý an toàn thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA). Theo luật Mỹ, chè không đủ độ tinh khiêt, không đạt chất lượng và không phù hợp cho tiêu dùng theo các tiêu chuẩn thống nhất sẽ không đuợc phép nhập khẩu. Xuất phát từ chất lượng và uy tín thấp như vậy nên giá cả mặt hàng chè xuất khẩu của Việt nam rất thấp so với giá chè trung bình của thế giới (bằng 1-2% giá chè thế giới). Vì vậy nên mặc dù sản lượng chè xuất khẩu hàng năm của ta rất cao và tăng qua từng năm, nhưng khi quy đổi ra giá trị xuất khẩu lại thấp và có khi giá trị lại thấp hơn mặc dù sản lượng năm sau cao hơn năm trước. Hiện tượng này đã cho thấy sự không ổn định về giá của chè Việt Nam, suy rộng ra nó thể hiện sự phát triển thiếu bền vững của ngành chè. Ngoài nhân tố chất lượng, các nhân tố ảnh hưởng đến giá chè xuất khẩu còn là: do tình hình thế giới, do sự biến động rất lớn của cung cầu về chè trên thị trường..v…v.. Thách thức tiếp theo là việc đầu tư cho phát triển và quản lý quá trình sản xuất chè ở Việt Nam còn rất thấp. Đầu tư cho việc nhập khẩu các giống tốt của nước ngoài và cho nghiên cứu phát triển các giống mới còn thấp, đồng thời khâu chọn giống tiến hành còn chậm và chưa có quy hoạch cụ thể, đây chính là những nguyên nhân căn bản dẫn đến chè Việt Nam kém chất lượng. Mặt khác, nguồn nguyên liệu đầu vào chưa được sàng lọc, chưa được tiêu chuẩn hoá và thiếu ổn định. Hiện nay, có một vấn đề đang đặt ra cho ngành chè Việt Nam là dư lượng thuốc trừ sâu trong chè nguyên liệu còn rất cao, một trong những cản trở khiến chè Việt Nam không thể tăng khối lượng xuất khẩu vào những thị trường khó tính và có những yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm cao như: Mỹ và EU. Những vấn đề và thách thức đặt ra này đã cho thấy sự yếu kém ngay từ khâu quản lý của các cơ quan Nhà nước, của ngành chè đối với những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất chè, đồng thời cũng thể hiện nhận thức, hiểu biết về yêu cầu chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm ở người sản xuất chè còn thấp. * * * Tóm lại, chương 1 đã hệ thống hoá và phân tích những lý luận cơ bản về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hoá. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá là cơ sở để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế quốc gia. Để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá cần phải dựa vào các tiêu chí như sản lượng và doanh thu, chí phí sản xuất, thị phần, giá cả, chất lượng, thương hiệu và uy tín của hàng hoá đó so với các đối thủ cạnh tranh. Xét trong lĩnh vực thương mại quốc tế, xuất khẩu chè đang được coi là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn, góp phần giải quyết công ăn việc làm, đồng thời thúc đẩy quan hệ hợp tác của Việt Nam với các nước trên thế giới. Thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam đang ngày càng mở rộng và Mỹ chính là một thị trường đầy tiềm năng mà Việt Nam đang hường đến hiện nay. Ngành chè Việt Nam cần tăng cường xuất khẩu chè vào thị trường Mỹ là do: (i) Mỹ là một đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam; (ii) Mỹ là thị trường tiêu thụ chè lớn thứ 8 thế giới với xu hướng uống chè đang tăng lên..... Những bài học chủ yếu rút ra cho Việt Nam sau khi nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc và Ấn Độ là Nhà nước cần phải quan tâm hơn nữa cho ngành chè xuất khẩu trên cơ sở tận dụng hiệu quả hơn lợi thế so sánh của đất nước; cần đầu tư cho công tác nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học công nghệ mới trong sản xuất chè; cần phải đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, chú trọng đào tạo cán bộ có chuyên môn.....Toàn bộ những lý luận cơ bản về cạnh tranh, sức cạnh tranh của hàng hoá và bài học kinh nghiệm rút ra từ những đối thủ cạnh tranh là cơ sở quan trọng để phân tích và đánh giá trong chương 2. CHƯƠNG 2 Thực trạng sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ trong thời gian qua 2.1 Những đặc điểm và quy định của thị trường Mỹ đối với mặt hàng chè xuất khẩu 2.1.1 Đặc điểm thị trường Mỹ 2.1.1.1 Thị hiếu người tiêu dùng Nước Mỹ nằm phía Tây bán cầu, hiện nay gồm 50 bang và một quận (đặc khu Columbia). Về dân số, nước Mỹ là nước đông dân thứ 3 trên thế giới sau Trung Quốc và Ấn Độ. Trong đó, bộ phận dân nhập cư chiếm khoảng 30% dân số Mỹ. Chính vì vậy đây là quốc gia đa dân tộc với nền văn hóa rất đa dạng và phong phú, trong đó đại đa số là người da trắng chiếm 77,1% dân số, còn lại là người da đen, người gốc Châu Á, người gốc Latin và thổ dân Mỹ. Do đặc trưng của một quốc gia đa văn hóa, đa sắc tộc, thêm vào đó là ảnh hưởng của lối sống, mức thu nhập nên thị hiếu người tiêu dùng Mỹ là rất khác nhau. Yêu cầu của người tiêu dùng Mỹ với hàng hóa có nhiều loại từ hàng hóa có phẩm cấp thấp cho tới hàng hóa có phẩm cấp cao. Thông thường hàng hóa của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ được đánh giá là hàng hóa có phẩm cấp thấp và trung bình. Đối với những hàng hóa có phẩm cấp thấp và trung bình, người tiêu dùng Mỹ ưa chuộng những mặt hàng có mẫu mã đơn giản, tiện dụng, không quá cầu kỳ như thị hiếu của người tiêu dùng Châu Âu. Đặc biệt người Mỹ rất ưa thích những sản phẩm mới lạ và độc đáo. Trên thị trường Mỹ, đôi khi yếu tố giá cả có sức cạnh tranh cao hơn cả chất lượng sản phẩm. Người tiêu dùng Mỹ thường không muốn trả tiền theo giá niêm yết. Hàng hóa bán ở Mỹ phải kèm theo các dịch vụ sau bán hàng. Số lượng và chất lượng của dịch vụ này là điểm mấu chốt cho sự tín nhiệm đối với người bán hàng. Tuy người Mỹ luôn thích những sản phẩm mới lạ, độc đáo nhưng họ cũng rất mau chán, vì thế nhà sản xuất phải liên tục sáng tạo và nhanh chóng thay đổi sản phẩm của mình, thậm chí phải có “phản ứng trước”. Đối với đồ uống, bên cạnh những sản phẩm đã được tiêu dùng từ rất lâu tại Mỹ và có rất nhiều thương hiệu nổi tiếng như: rượu, cà phê, nước có ga thì trong thời gian gần đây trà cũng là loại đồ uống đang rất được ưa chuộng tại Mỹ do những ích lợi về sức khỏe của nó. Người Mỹ không đòi hỏi quá cao sự tinh tế về độ ngon, hương vị của trà như người Trung Quốc và Nhật Bản nhưng chất lượng và an toàn sức khỏe thì lại đòi hỏi rất cao. Nếu sản phẩm chè của Việt Nam muốn cạnh tranh với những thương hiệu chè hiện đang nổi tiếng trên thị trường Mỹ cũng như các loại đồ uống khác thì cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng chè, phương thức phân phối, quảng cáo và tiếp thị sản phẩm chè đến người dân Mỹ. 2.1.1.2 Hệ thống kênh phân phối Hệ thống tiêu thụ thực phẩm của Mỹ rất tiện lợi, trong đó có các hệ thống cung ứng nhà hàng, hệ thống cung ứng cho các cơ sở ăn uống công cộng, các chợ và các hộ gia đình Hệ thống bán lẻ ở Mỹ bao gồm: hệ thống các siêu thị; hệ thống các nhà hàng, cửa hàng tổng hợp, nhà ăn công cộng, và phục vụ ăn nhanh; hệ thống các chợ, các cửa hàng câu lạc bộ. Trong đó, doanh số bán qua hệ thống các nhà hàng, cửa hàng, nhà ăn công cộng và phục vụ ăn nhanh có xu hướng tăng lên do sự eo hẹp trong thời gian của người Mỹ. Hệ thống kênh bán buôn bao gồm các nhà phân phối trên khắp cả nước Mỹ và các công ty chuyên kinh doanh thực phẩm hàng đầu Mỹ. Như vậy, các sản phẩm nhập khẩu vào thị trường Mỹ sẽ được nhà xuất khẩu phân phối cho các nhà nhập khẩu và các đại lý của hãng xuất khẩu, rồi tiếp tục đến tay các nhà phân phối vè hệ thống bán lẻ. Sản phẩm chè nhập khẩu vào thị trường Mỹ đầu tiên sẽ thông qua những kênh bán buôn, sau đó trực tiếp đến tay người tiêu dùng thông qua hệ thống kênh bán lẻ, mà chủ yếu là hệ thống các cửa hàng chuyên cung cấp trà và các siêu thị. Tính đến năm 2006, hệ thống các cửa hàng phục vụ đồ uống trà đã lên tới 2000 quán. Theo Hiệp hội Chè Mỹ, doanh số bán chè đã đạt 6,2 tỷ USD năm 2005, cao gấp 4 lần so với đầu thập niên 1990. Hiện nay thị trường Mỹ có rất nhiều hãng cung cấp chè nổi tiếng với mô hình cửa hàng đa dạng, từ phong cách hiện đại phương Tây cho đến những cửa hàng theo phong cách truyền thống phương Đông. Hiện nay ít nhất có hai mô hình cửa hàng kinh doanh về mặt hàng chè đang nổi lên ở Mỹ: mô hình cửa hàng tâp trung vào tầng lớp khách hàng cao cấp của các hãng chè nổi tiếng và mô hình tập trung vào nhóm khách hàng bình dân như hệ thống cửa hàng Tempest của vợ chồng bác sĩ Brian và Jody Rudman. Nhìn chung, những hệ thống cửa hàng chè-cà phê này được người dân Mỹ rất yêu thích bởi sự thích hợp của nó với đời sống bận rộn của người Mỹ. 2.1.1.3 Các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng Mỹ có rất nhiều luật để bảo vệ người tiêu dùng. Những luật này được áp dụng cho gần như mọi sản phẩm sản xuất, phân phối hay bán trên thị trường này. Các doanh nghiệp xuất khẩu chè của Việt Nam cần nắm được điều này để hiểu rõ trách nhiệm của mình đối với sản phẩm hay dịch vụ cung cấp và tránh các rắc rối pháp lý. a,Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm Theo thông luật bảo vệ người tiêu dùng (Common Law Consumer Protection) hay còn gọi là Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm (Products Liability Law), cơ quan luật pháp Hoa Kỳ yêu cầu các nhà sản xuất, phân phối và bán lẻ phải có trách nhiệm đối với thương tật và thiệt hại do những khuyết tật của sản phẩm gây ra cho người sử dụng hoặc những người ở gần sản phẩm đó. Trách nhiệm sản phẩm thường dựa trên các nguyên tắc pháp lý về sự bất cẩn, vi phạm bảo hành hoặc trách nhiệm tuyệt đối.   Hàng hóa sản xuất ._.ản ánh được hết tiềm năng và thực lực của đất nước. Trên cơ sở phân tích những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường thế giới nói chung, đặc biệt trên thị trường Mỹ, đề án đã đưa ra những quan điểm mang tính chất định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng chè xuất khẩu trong điều kiện hội nhập KTQT ở chương 3. CHƯƠNG 3 Định hướng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ trong thời gian tới 3.1 Định hướng phát triển xuất khẩu mặt hàng chè của Việt Nam Theo quy hoạch phát triển ngành chè, dự kiến đạt sản lượng chè xuất khẩu là 110.000 tấn và đạt kim ngạch khoảng 200 triệu USD vào năm 2010. Mở rộng diện tích trồng chè ở các vùng có điều kiện, ưu tiên phát triển chè ở vùng trung du, miền núi phía bắc đạt năng suất cao ổn định ở mức 104.000 ha. Hình thành các vùng sản xuất chè với quy mô lớn, thâm canh để đạt năng suất, chất lượng cao, gắn với cơ sở chế biến chủ yếu phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Cải tạo và thay thế toàn bộ giống chè cũ năng suất thấp bằng các loại giống chè mới cho năng suất và chất lượng cao, sản xuất với quy trình công nghệ sạch. Đầu tư khuyến khích trồng các loại giống tốt có hương vị đặc chủng mới như giống lai LDP1, LDP2, Tô Hiệu, 1A.v.v.. Mục tiêu vẫn là giữ vững thị trường hiện có và mở rộng thị trường xuất khẩu mới. Hướng thị trường xuất khẩu mục tiêu trong giai đoạn tới là các nước châu Âu như Anh, Pháp, Đức và các nước châu á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và Singapore và các nước Trung Đông. Tiếp tục mở rộng thị trường Trung Cận Đông (20-25 ngàn tấn/năm), thị trường châu Âu (10-15 ngàn tấn/năm), thị trường châu á (10-15 ngàn tấn/năm), thị trường châu Mỹ-châu Phi (5-8 ngàn tấn/năm). Về mục tiêu dài hạn, ngành chè phấn đấu tổng KNXK là 650-700 triệu USD (gần bằng thu nhập về chè hiện nay của Sri Lanka là 750 triệu USD). Tổng doanh thu chè, các sản phẩm phát sinh từ chè và doanh thu từ hoạt động kinh doanh đa dạng là 1.000 triệu USD (trong đó phấn đấu trở thành nhà phân phối chè chủ yếu cho thị trường Asean cùng với Indonesia). Đồng thời sẽ cải biến căn bản các hoạt động của Hiệp hội chè Việt Nam trên cơ sở đồng thuận, chuyên nghiệp hóa, phát triển các lĩnh vực mới của các tổ chức phi Cính phủ là Hiệp hội kinh tế- doanh nghiệp ngành hàng: tư vấn chuyên nghiệp, phản biện xã hội, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, phát triển thương hiệu, truyền thông và thông tin, kiện toàn và đổi mới phương thức hoạt động của hội viên. Mở rộng đối ngoại và hợp tác quốc tế với cộng đồng chè thế giới. (Theo nguồn thông tin từ Tạp chí thế giới chè, số Xuân 2007 ). 3.2 Một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ 3.2.1 Giải pháp từ phía Nhà nước 3.2.1.1 Giải pháp về hoàn thiện, đổi mới cơ chế và quản lý của Nhà nước Nhà nước cần tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách theo hướng minh bạch, đồng bộ và phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chính phủ Việt Nam đang đẩy nhanh cải cách thể chế nhằm cải thiện khung pháp lý cần thiết cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập khu vực và thế giới. Trong bối cảnh đó, hoạt động thương mại cần tiếp tục đổi mới ở cấp độ quản lý Nhà nước và hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên quá trình điều chỉnh chính sách cần phải đảm bảo không chỉ tạo ra một môi trường thuận lợi để khuyến khích sản xuất và kinh doanh xuất khẩu mặt hàng chè cho mọi thành phần kinh tế trong nước mà còn cả các nhà đầu tư nước ngoài. Nhà nước cần giúp đỡ các doanh nghiệp thông qua quỹ hỗ trợ phát triển với lãi suất ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp có thể tự lực phát triển nội lực của mình phục vụ cho việc xuất khẩu chè. Đồng thời đi đôi với đó là các biện pháp đảm bảo các khoản vay này sử dụng một cách đúng mục đích và có hiệu quả. Các cơ quan chuyên trách như Bộ NN & PTNN, Bộ thương mại, Hiệp hội chè cũng như Tổng công ty chè Việt Nam cũng phải giám sát, giúp đỡ các doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn trong việc sản xuất chè. Trong quá trình các công ty sản xuất chè đang tiến hành cổ phần hóa sâu rộng, Nhà nước cần phải đẩy mạnh và tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến về chủ trương đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, các kết quả, kinh nghiệm của Tổng công ty, của doanh nghiệp làm tốt cổ phần hóa. Đồng thời, Nhà nước nên giảm sự chi phối của mình trong những doanh nghiệp cổ phần hóa, nên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự do kinh doanh, tìm kiếm bạn hàng cũng như hoạt đông xuất khẩu chè của mình. Một mặt có thể cạnh tranh và cọ xát được với các doanh nghiệp khác, mặt khác phát huy được những nội lực của mỗi doanh nghiệp nói riêng. 3.2.1.2 Giải pháp quy hoạch và phát triển vùng chè Nhà nước cần nâng cao chất lượng công tác quy hoạch tổng thể trên cơ sở tiếp tục chỉ đạo triển khai việc rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành sản xuất chè trên phạm vi cả nước và từng tỉnh để có một quy hoạch về diện tích trồng ổn định lâu dài, phù hợp với điều kiện, lợi thế của từng vùng, tiểu vùng và cung cầu trên thị trường thế giới. Việc rà soát và xây dựng quy hoạch này phải đảm bảo sự cân đối giữa phát triển vùng nguyên liệu chè và công nghiệp chế biến chè. Để có thể phát triển tốt các vùng chè trên cả nước Nhà nước cần có các cơ quan chuyên trách điều tra về tiềm năng cây chè Việt Nam trên khía cạnh nông học để xác định mức độ chất lượng của các chủng loại chè trên thực tế. Dựa vào đặc điểm khí hậu của từng vùng, từng khu vực trên cả nước để có những hướng đi đúng đắn phù hợp cho từng vùng tạo năng suất cao nhất. Nhà nước sẽ quy hoạch cho từng vùng nguyên liệu phù hợp với những kết quả đã khảo sát theo hướng tránh lãng phí nguồn lực và thiếu hụt nguyên liệu do thừa công suất. Quy hoạch vùng chè có tác dụng to lớn trong việc tạo ra một vùng nguyên liệu ổn định từ đó đẩy mạnh công tác sản xuất, chế biến chè, tạo ra giải pháp nhằm nâng cao năng suất cũng như chất lượng sản phẩm phục vụ cho hoạt động xuất khẩu chè của Việt Nam. Muốn xâm nhập sâu hơn vào thị trường Mỹ đòi hỏi ngành chè phải không ngừng nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm. Muốn nâng cao chất lượng trước hết phải có nguyên liệu chất lượng cao. Vì thế quy hoạch vùng chè có chất lượng cao, an toàn là đòi hỏi cấp bách. Nhà nước cần mở rộng diện tích các giống chè mới cho năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, kể cả trồng mới và trồng thay thế giống cũ theo phương thức cuốn chiếu. Bố trí các vùng theo 3 hướng chủ yếu: vùng sản xuất chè sạch, chè hữu cơ; vùng phát triển chè chất lượng cao và an toàn ; vùng chè năng suất cao và an toàn. Đối với các trang trại và hộ trồng chè nằm trong vùng quy hoạch phát triển chè dài hạn, cần thực hiện các chính sách nâng cao năng lực canh tác chè dài hạn (cho vay tín dụng để đầu tư dài hạn, nâng cao năng lực ký hợp đồng với các cơ sở chế biến...) Cuối cùng, Nhà nước cần tăng cường các biện pháp kiểm soát mặt hàng chè từ khâu trồng, thu hoạch, chế biến đến xuất khẩu. Nhà nước cần tiến hành tuyên truyền, phổ biến về tính tất yếu phải nâng cao chất lượng sản phẩm trong điều kiện hội nhập KTQT đến người trồng chè, các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ thông qua các buổi hội thảo, các phương tiện truyền thông như ti vi, báo, đài, loa phóng thanh.....Nhà nước cần kết hợp tốt với chính quyền địa phương kiểm tra, giám sát những cơ sở trồng chè trong công tác chọn giống, kỹ thuật canh tác, thu hái. Đối với những cơ sỏ sản xuất chè vừa và nhỏ cần tiến hành kiểm tra, thay thế dần những thiết bị, máy móc lạc hậu, đồng thời kiểm soát chặt chẽ khâu chế biến và bảo quản chè theo Quy định số 43/2007/QD-BNN của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về quản lý, chế biến và chứng nhận chè an toàn. Đối với khâu xuất khẩu, Nhà nước cần thành lập hệ thống kiểm dịch kiểm tra nghiêm ngặt chất lượng sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt là khâu vệ sinh an toàn thực phẩm. Kiên quyết không cho phép doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu, không đảm bảo chất lượng sản phẩm Như vậy, công tác quy hoạch và phát triển vùng chè là vấn đề cấp thiết đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục tiến hành trong thời gian tới. Mục tiêu trước mắt là giải quyết sự mất cân đối giữa vùng nguyên liệu chè và công nghiệp chế biến chè, sau đó là phát triển những vùng sản xuất chè sạch và an toàn nhằm nâng cao khả năng xâm nhập và sức cạnh tranh của chè Việt Nam trên những thị trường đòi hỏi cao về chất lượng, đặc biệt là thị trường Mỹ. 3.2.1.4 Giải pháp hỗ trợ nâng cao chất lượng chè xuất khẩu - Nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động của chương trình khuyến nông, khuyến lâm, đầu tư của Nhà nước cho công tác nghiên cứu giống cây chè và quy trình sản xuất chè tiên tiến đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Đây là các biện pháp hỗ trợ nông nghiệp trong nước dạng “hộp xanh” có tác dụng hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu mặt hàng chè nhưng lại không vi phạm quy định của WTO. Đồng thời, cần ưu tiên hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất chè xây dựng và quản lý chất lượng sản phẩm theo ISO, HACCP, tăng cường áp dụng các biện pháp vệ sinh kiểm dịch động thực vật theo Hiệp định SPS. Xây dựng và quản lý chất lượng sản phẩm như vậy sẽ tạo thuận lợi hơn cho chè Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ và được người tiêu dùng Mỹ tin dùng. - Thực hiện các giải pháp hỗ trợ về giống chè – một yếu tố quan trọng hàng đầu và có tính chất quyết định trực tiếp tới chất lượng chè xuất khẩu. Để đẩy mạnh hiệu quả của giống cây chè cần phải đầu tư hơn nữa cho công tác nghiên cứu lai tạo ra và áp dụng những giống cây con có năng suất cao, chất lượng và giá trị kinh tế cao phù hợp với các vùng. Đối với những giống, cây con tốt trên thế giới phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai của Việt Nam và thị hiếu người tiêu dùng mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ thì cần khuyến khích nhập khẩu. Đồng thời tiếp tục có những chương trình giống hỗ trợ các hộ cải tạo các vườn chè đã cũ cho năng suất thấp nhằm xây dựng những vùng nguyên liệu chất lượng cao, đồng đều và ổn định phục vụ chế biến. - Các chính sách và giải pháp của Nhà nước cần có sự hỗ trợ và khuyến khích việc nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ canh tác chè mới hoặc phương thức canh tác hữu cơ bền vững với một quy trình khép kín từ khâu làm đất, trồng, chăm sóc, quản lý các dư lượng có hại đối với sản phẩm chè đến khâu thu hoạch, bảo quản. Về khâu chế biến và bảo quản, Nhà nước cần có những giải pháp hỗ trợ tăng cường nghiên cứu khoa học, công nghệ ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật, kết hợp nhập khẩu các công nghệ cao nhằm đổi mới quy trình sản xuất, thiết bị theo hướng tiên tiến, hiện đại. 3.2.1.5 Giải pháp về hỗ trợ xúc tiến thương mại Trước hết, trong điều kiện hiện nay, giá cả thị trường mặt hàng chè biến động rất khó dự đoán, các nước nhập khẩu mặt hàng chè, trong đó có thị trường Mỹ, thường có sự thay đổi về pháp luật và chính sách thương mại. Để có thể chủ động nắm bắt kịp thời và đối phó với những thay đổi về giá cả chè xuất khẩu, về chính sách của các nước, đặc biệt là các bạn hàng quan trọng như thị trường Mỹ, việc Nhà nước hỗ trợ cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời về các thị trường xuất khẩu chè để giúp cho các doanh nghiệp là rất cần thiết. Thứ hai, Nhà nước cần tiếp tục đàm phán ký kết mới, sửa đổi, bổ sung các Hiệp định thương mại song phương và đa phương, các cam kết quốc tế. Riêng đối với thị trường Mỹ Nhà nước cần tiến hành đàm phán ký kết nhiều hơn nữa các Hiệp định thương mại song phương liên quan đến mặt hàng nông sản để từ đó tạo điều kiện mở cửa thị trường Mỹ cho hàng nông sản Việt Nam nói chung và mặt hàng chè xuất khẩu nói riêng. Thứ ba là tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ và điều hành xúc tiến thương mại nói chung và các hoạt động xúc tiến thương mại chè xuất khẩu nói riêng. Nhà nước cần tiếp tục đổi mới cả về hình thức tổ chức và hệ thống cơ quan tham gia hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng chú trọng khâu tổ chức và cung cấp thông tin thị trường, tăng cường hoạt động xúc tiến thông qua việc hỗ trợ tổ chức các đoàn khảo sát, giảm bớt các chương trình khảo sát thị trường mang tính nhỏ lẻ. Đồng thời các tổ chức xúc tiến thương mại cần tăng cường cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp sản xuất chè như: cung cấp thông tin về các thị trường, đối thủ cạnh tranh, tư vấn pháp lý, giúp giải quyết các vướng mắc trong quan hệ thương mại. Tóm lại, những giải pháp xúc tiến xuất khẩu chè nêu trên sẽ đóng vai trò tiên phong mở cửa, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất chè khi xuất khẩu sản phẩm vào thị trường Mỹ, từ đó có lợi thế cạnh tranh cao hơn. Đồng thời càng hiểu rõ hơn về thị trường Mỹ, những đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó, các nhà sản xuất chè càng sớm có những đối sách thích hợp để mở rộng thị phần sản phẩm chè của mình trên thị trường. 3.2.2 Giải pháp từ phía Hiệp hội Chè Việt Nam Trong xu thế hội nhập hiện nay, khi Nhà nước hầu như không can thiệp vào hoạt động kinh doanh thì vai trò của Hiệp hội Chè Việt Nam ngày càng quan trọng và cần thiết trong việc định hướng sản xuất kinh doanh, phối hợp có hiệu quả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mặt hàng chè trong nước và ngoài nước. Để nâng cao hơn nữa vai trò của Hiệp hội Chè Việt Nam và để có thể tăng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng, Hiệp hội Chè Việt Nam cần phải tập trung thực hiện một số giải pháp sau đây: - Hiệp hội cần có cơ chế quản lý chuyên nghiệp với các quy định về hội viên, tổ chức bộ máy, tài chính và quỹ của Hiệp hội, chức năng quản lý, đàm phán, kiểm tra, giám sát các hội viên. - Nghiên cứu thị trường và đưa ra các thông tin chính xác về thị trường, đối tác cho các doanh nghiệp. Các vấn đề liên quan đến thị hiếu tiêu dùng, các qui định nghiêm ngặt, các tiêu chuẩn chất lượng. … Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng rất cần những thông tin liên quan đến đối thủ cạnh tranh để từ đó đưa ra được các chiến lược phát triển đúng đắn cho công ty. Việc cung cấp thông tin có thể được thực hiện thông qua các trang web, các trung tâm tư vấn, và cả những đường dây điện thoại nóng… - Hiệp hội Chè Việt Nam cần tổ chức các hoạt động xây dựng hình ảnh tốt đẹp về ngành chè Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm. Đồng thời xúc tiến xây dựng một số thương hiệu nổi tiếng mang tính quốc gia tại các thị trường xuất khẩu, tổ chức các hoạt động xâm nhập mạng lưới bán lẻ tại thị trường nước ngoài, đề xuất các chế độ, cơ chế, chính sách tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trong ngành. Cần tăng cường hơn nữa, việc đưa các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các kì triển lãm hội chợ tại thị trường Mỹ, cũng như tại các thị trường khác trên thế giới. - Liên kết, bảo vệ lẫn nhau chống những hành vi độc quyền, tranh chấp thị trường tiêu thụ chè, đầu cơ gây tổn hại đến lợi ích chung. Đồng thời giúp đỡ nhau trong những vấn đề về vốn, đào tạo, môi giới, tư vấn kỹ năng quản lý doanh nghiệp và áp dụng công nghệ mới trong trồng, chăm sóc, bảo quản và chế biến chè. - Hiệp hội cần nâng cao vai trò cầu nối trung gian của mình nhằm tạo sự thống nhất, liên kết giữa các cơ quan Nhà nước ban hành chính sách và các doanh nghiệp Việt Nam. Tham gia với cơ quan Nhà nước trong việc thẩm định các chủ trương chính sách, các văn bản pháp quy có liên quan đến sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu mà hội viên là đối tượng thi hành. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị xuất phát từ thực tiễn sản xuất kinh doanh của cơ sở vì lợi ích chung. 3.2.3 Giải pháp từ phía doanh nghiệp 3.2.3.1 Giải pháp tăng doanh thu cho doanh nghiệp Để tăng tính cạnh tranh bằng doanh thu, các doanh nghiệp sản xuất chè cần cố gắng giảm giá thành sản phẩm thông qua các biện pháp nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí cố định trong quản lý, giảm tiêu hao năng lượng điện trong sản xuất (ở Việt Nam thường cao hơn 2,4 đến 3,6 lần so với các nước trong khu vực), chia sẻ giữa các doanh nghiệp chi phí tiếp thị, chi phí thông tin thị trường. Trong đó, nâng cao năng suất lao động được coi là vấn đề nổi cộm khi mà nguồn cung cấp nguyên liệu chè của các hộ, các cơ sở trồng chè chỉ đáp ứng được 2/3 công suất sản xuất. Mỗi doanh nghiệp cần phải khoanh vùng được nguồn nguyên liệu chè của mình, ký hợp đồng dài hạn với các nhà trồng chè để đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định. Tóm lại, bằng cách thực hiện các biện pháp cắt giảm giá thành trên, các doanh nghiệp sản xuất chè mới tạo được giá cả sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường và được nhiều người tiêu dùng chấp nhận. 3.2.3.2 Giải pháp nâng cao thị phần Để thâm nhập sâu hơn, doanh nghiệp cần lưu ý nhìn nhận từ góc độ “cầu” của thị trường Mỹ về sức mua, thị hiếu, tính đa dạng cũng như phân khúc thị trường, dân số..., trong đó điều rất quan trọng là nhận thức và khả năng thích ứng. Các doanh nghiệp cần xây dựng những chiến lược và kế hoạch kinh doanh cụ thể bởi chiến lược kinh doanh này sẽ là định hướng có tính lâu dài, dựa trên kết quả của quá trình nghiên cứu thị trường và sự hài hòa hóa các yếu tố nội lực của chính bản thân các doanh nghiệp. Trong chiến lược kinh doanh đó, cần phải coi trọng công tác tiếp thị, quảng cáo. Có tiếp thị và quảng cáo rộng rãi mới có thể dần tạo ấn tượng cho người tiêu dùng Mỹ về sản phẩm chè của Việt Nam Đặc biệt đối với ngành chè bao bì, nhãn mác được khách hàng rất quan tâm nên chúng ta cũng cần chú ý đầu tư kỹ cho khâu này. Tiếp tục phát triển mạng lưới tiêu thụ để chiếm lĩnh thị trường là một giải pháp trọng điểm để nâng cao thị phần của chè Việt Nam trên thị trường Mỹ. Tổng công ty chè Việt Nam (VINATEA) có thể là đầu mối tập hợp các doanh nghiệp sản xuất trong cả nước để hình thành hệ thống cửa hàng kinh doanh chuyên cung cấp mặt hàng chè chất lượng cao của Việt Nam, trước hết mở tại các thành phố lớn để trong một vài năm tới hệ thống cửa hàng này sẽ có mặt hầu hết tại các tỉnh thành, thành phố lớn trong cả nước và lan rộng ra thị trường nhập khẩu. Ngoài ra, các doanh nghiệp lớn cũng có thể tự xây dựng những đại lý phân phối sản phẩm của mình ngày trên thị trường nước nhập khẩu, dùng chính những người bản địa để cung cấp sản phẩm chè của Việt Nam. 3.2.3.3 Giải pháp về nâng cao chất lượng sản phẩm Chất lượng chè giữ vai trò quan trọng trong việc củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè trên thị trường Mỹ. Để có thể vượt qua được hàng rào về chất lượng của thị trường Mỹ, các doanh nghiệp sản xuất phải tiến hành kiểm tra sản phẩm từ giai đoạn đầu đến giai đoạn cuối, đồng thời tiến hành các biện pháp cải thiện chất lượng ở từng khâu. Để thực hiện những giải pháp này cần có sự phối hợp tốt giữa doanh nghiệp xuất khẩu và các nhà trồng chè. Đối với khâu giống, cần phải thay thế dần các giống chè đã thoái hóa bằng các giống chè mới có năng suất cao, chất lượng tốt như các loại giống PH1, 1A, 777, BT95, YA94....và các giống mới như NT95, VX95....Bên cạnh đó, cần trồng thêm các loại chè đặc sản như chè Shan Tuyết, BP95, LDP1-2, 777, VX95, YA94. Các doanh nghiệp cũng cần phối hợp với các cơ sở nghiên cứu giống của Nhà nước để tìm ra những giống chè mới cho năng suất cao và phù hợp với khí hậu, địa hình từng vùng. Đối với khâu chăm sóc, cần thực hiện đồng bộ quy trình kỹ thuật công nghệ tiên tiến trong sản xuất nguyên liệu và bảo quản chế biến. Do đó, cần thực hiện tốt quy trình thâm canh tổng hợp trong đó có các khâu rất cơ bản là: quy vùng sản xuất thích hợp cho các giống chè với các sản phẩm tương ứng, bón phân cân đối hợp lý, hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc trừ sâu, hóa học trên cây chè, tăng cường áp dụng phương pháp dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây chè. Đối với vườn chè trồng mới và trồng thay thế, cần áp dụng đúng quy trình thiết kế nương đồi, làm đất bằng cơ giới, đảm bảo mật độ phù hợp với điều kiện địa hình, đặc điểm giống chè, bón đủ phân hữu cơ, trồng cây cải tạo đất, chống xói mòn. Đối với vườn chè kinh doanh, cần áp dụng quy trình hái dãn lứa, sửa tán và bón phân đủ. Riêng những nương chè cằn cỗi, phải tăng cường bón bổ sung phân hữu cơ vi sinh, phân bón lá để chè nhanh phục hồi và sinh trưởng tốt. Đối với chè hữu cơ, chỉ sản xuất loại chè này khi xác định được nhu cầu đầu ra của sản phẩm theo các đơn đặt hàng. Cần kiểm soát việc áp dụng quy trình sản xuất chè hữu cơ một cách nghiêm ngặt theo nguyên tắc không sử dụng phân bón hóa học và các loại hóa chất bảo vệ thực vật. Đối với khâu chế biến và bảo quản, các doanh nghiệp nên ưu tiên sử dụng những công nghệ hiện đại, công nghệ sạch trong khâu này, đảm bảo an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời từng bước loại bỏ những dây chuyền công nghệ chế biến đã lỗi thời, có chất lượng sản phẩm chế biến thấp. Về vấn đề bố trí nhà máy sản xuất, các doanh nghiệp cần quan tâm đến việc xây dựng quy mô nhà máy sao cho phù hợp với vùng nguyên liệu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần tiếp tục tiến hành đa dạng hóa sản phẩm như chè ướp hương hoa quả, chế các loại thuốc chè, chè nhúng, chè hòa tan chất lượng cao, chế biến các loại chè đặc sản, độc đáo mang phong cách riêng của chè Việt Nam. Mặt khác, cần tiếp tục nâng cấp hệ thống kho tàng phục vụ cho việc cất giữ. Hiên nay số lượng kho tương đối nhiều nhưng lại mắc phải tình trạng xuống cấp, các điều kiện bảo quản không đủ tiêu chuẩn gây ảnh hưởng đến chất lượng hàng hóa. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần chú ý đến việc đầu tư xây dựng các hệ thống bảo quản sao cho tránh được hiện tượng ẩm mốc, nhiễm khuẩn cho sản phẩm, ảnh hưởng đến chất lượng chè khi đem ra ngoài xuất khẩu. Đối với khâu xuất khẩu, các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm chỉnh khâu kiểm tra chất lượng trước khi giao, đảm bảo hàng xuất đúng với yêu cầu đã ký kết trong hợp đồng và cao hơn nữa là đáp ứng được với các tiêu chuẩn về chất lượng của quốc tế. Trước đó, các doanh nghiệp cũng phải không ngừng ý thức tính cần thiết của vấn đề sản xuất đúng quy trình chất lượng cho đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp và các nhà trồng chè. Cần luôn nêu rõ chủ trương không vì lợi nhuận hay tính thời vụ mà quên đi chất lượng hàng hóa. 3.2.3.4 Giải pháp về thương hiệu Trong số các doanh nghiệp sản xuất chè hiện nay, chỉ có một bộ phận nhỏ các doanh nghiệp có thương hiệu được gắn biểu tượng chè Viêt Nam chất lượng cao và được người tiêu dùng đánh giá cao như: Rồng phương đông, chè Shan tuyết Mộc Châu, Tùng Hạc, Long Vân.... Tuy nhiên những sản phẩm này chỉ có tiếng tăm trong nước hoặc một số nước lân cận chứ chưa có danh tiếng trên thị trường Mỹ. Như vậy, muốn sản phẩm có một chỗ đứng trên thị trường nhập khẩu, đặc biệt trên thị trường đầy cạnh tranh như Mỹ, công tác xây dựng thương hiệu của các doanh nghiệp xuất khẩu chè là vô cùng quan trọng. Các giải pháp mà doanh nghiệp có thể tiến hành là: - Cần phải xúc tiến nhanh các hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu sản phẩm chè hướng ra thị trường thế giới. Việc xây dựng thương hiệu cần một chiến lược đồng bộ của tất cả các khâu từ việc chọn lựa giống cây, trồng trọt và chăm sóc, thu hoạch, bảo quản và chế biến. Cần có chiến lược xây dựng thương hiệu trong chiến lược Marketing tổng thể của doanh nghiệp, để từ đó nỗ lực xây dựng và phát triển thương hiệu trở thành nỗ lực chung và đi vào mọi chương trình khinh doanh cụ thể. - Xây dựng bộ phận chuyên trách về thương hiệu trong doanh nghiệp để việc nhận thức và tư duy về thương hiệu mang tính chuyên môn và chuyên nghiệp hơn. Nguồn nhân lực trong lĩnh vực thương hiệu đó cần được đầu tư theo các chương trình đào tạo và tuyển dụng lâu dài mang tính khoa học, tránh sử dụng đào tạo như một phương thức giải quyết những vướng mắc tạm thời của doanh nghiệp, thiếu tầm nhìn dài hạn mang tính chiến lược. - Khi đã có thương hiệu, cần coi trọng việc bảo vệ, gìn giữ, quảng cáo và phát triển thương hiệu một cách bền vững. Cần đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, mác sản phẩm, thương hiệu ở trong nước và cũng như trên thị trường Mỹ để người tiêu dùng Mỹ từng bước làm quen với nhãn mác, thương hiệu và chất lượng mặt hàng chè của từng doanh nghiệp. Cần phải có những phương thức quảng cáo, khuyến mãi, xúc tiến thương mại đặc trưng riêng để tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng người tiêu dùng Mỹ đối với sản phẩm chè của các doanh nghiệp Việt Nam. - Vấn đề mấu chốt để đảm bảo giữ gìn và phát triển thương hiệu một cách bền vững, chính là không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển mạng lưới bán hàng, đưa thương hiệu của doanh nghiệp và sản phẩm đến quảng đại người tiêu dùng. Đồng thời, không ngừng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, tạo sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Tóm lại, từ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản , từ thực tiễn nước ta và kinh nghiệm một số nước trên thế giới, Chương 3 đã phân tích triển vọng và mục tiêu phát triển xuất khẩu chè Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn dài hạn. Đồng thời chương 3 đã đưa ra hệ thống các giải pháp mang tính quyết định đến thành công trong việc nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu. Đó là các giải pháp từ phía Nhà nước trong việc quy hoạch và phát triển vùng chè, cải thiện công tác xúc tiến thương mại, hỗ trợ nâng cao chất lượng chè xuất khẩu. Đó là sự nâng cao hơn nữa vai trò của Hiệp hội Chè trong việc phối hợp các doanh nghiệp sản xuất chè và thúc đẩy xuất khẩu. Cuối cùng là các giải pháp xuất phát từ chính những doanh nghiệp xuất khẩu chè trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao thị phần, uy tín và thương hiệu trên thị trường thế giới. Thực hiện được những giải pháp này sẽ giúp cho sức cạnh tranh của chè Việt Nam ngày càng nâng cao trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng, từ đó đưa xuất khẩu chè trở thành một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam. KẾT LUẬN Việc phân tích đánh giá đúng thực trạng, tìm ra nguyên nhân để từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng chè xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Mỹ là vấn đề rất quan trọng không những chỉ về mặt nhận thức, lý luận mà còn ý nghĩa về mặt thực tiễn trong điều kiện hội nhập KTQT, đặc biệt khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO. Xuất phát từ quan điểm này, đề án đã tập trung giải quyết những vấn đề sau: Đề án đã hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hoá. Đề án đã đưa ra những tiêu chí cơ bản để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá như sản lượng và doanh thu, thị phần, chi phí sản xuất và giá cả, chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, thương hiệu và uy tín sản phẩm. Đề án cũng đã khẳng định sự cần thiết khách quan phải nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ trong điều kiện hội nhập KTQT do vai trò to lớn của xuất khẩu chè đối với Việt Nam và tiềm năng tiêu thụ của thị trường Mỹ rộng lớn. Thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng các giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh chè xuất khẩu của một số nước có nền sản xuất chè phát triển và có điều kiện kinh tế xã hội tương tự ở Việt Nam như Trung Quốc và Ấn Độ, đề án đã rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam, như: đầu tư công nghệ chế biến, chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học….. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, đề án đã sử dụng những cơ sở lý luận để phân tích và đánh giá đúng thực trạng sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường Mỹ. Đề án đã chỉ ra rằng sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu đã được nâng lên một cách rõ rệt trong những năm qua. Tuy nhiên, sức cạnh tranh của mặt hàng này vẫn còn thấp, điểm mạnh của mặt hàng này mới chỉ ở bề rộng chứ chưa thế hiện ở bề sâu như kim ngạch xuất khẩu tăng nhưng chủ yếu ở dạng thô, tỷ lệ sản phẩm qua chế biến để xuất khẩu còn thấp, chủng loại chưa đa dạng, chất lượng còn kém chưa cạnh tranh được với sản phẩm của nước khác, phần lớn xuất khẩu qua trung gian và thương hiệu nước ngoài nên chưa được người tiêu dùng Mỹ biết đến… Dựa trên cơ sở lý luận khoa học, căn cứ vào phương hướng và mục tiều phát triển xuất khẩu chè trong thời gian tới, đề án đã đưa ra hệ thông các giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu bao gồm các giải pháp từ phía Nhà nước, từ phía Hiệp hội Chè Việt Nam và từ phía doanh nghiệp. Các giải pháp này có tính khả thi cao, vì nó được gắn chặt với những điều kiện cần thiết để thực hiện, phù hợp với xu thế sản xuất và xuất khẩu chè của Việt Nam trong điều kiện hội nhập KTQT. Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp này, phối hợp cả 3 cấp Nhà nước, Hiệp hội và doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất vì chúng có mối liên hệ chặt chẽ và tạo tiền đề cho nhau. TÀI LIỆU THAM KHẢO A.SÁCH, TẠP CHÍ - Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thường Lạng (chủ biên) (2008), Giáo trình kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Lao động xã hội. - Giáo trình:GS.PTS Tô Xuân Dân Chính sách kinh tế đối ngoại, lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế, Nhà xuất bản thống kê - Chu Văn Cấp (2003) Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Vũ Trọng Lâm (2006) Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Bộ NN&PTNT (2006), Thương hiệu và nhãn hiệu hàng nông sản Việt Nam, tài liệu hội thảo ngày 18/8/2006, Hà Nội. - Bộ NN&PTNT (2002), Triển vọng nông sản thế giới thời kỳ 2003-2010, Hà Nội. - Nguyễn Hữu Khải (2005), Cây chè Việt Nam: Năng lực cạnh tranh xuất khẩu và phát triển, Nhà xuất bản Lao động xã hội. - Nguyễn Đình Long, Nguyễn Tiến Mạnh (1999), Phát huy lợi thế, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp. - Võ Đại Lược (2004), Trung Quốc gia nhập tổ chức Thương mại thế giới: thời cơ và thách thức, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. - Đỗ Ngọc Quý, Nguyễn Kim Phong (1997), Cây chè Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. - Tổng công ty chè Việt Nam (2002), Công nghệ chế biến chè: cơ sở lý thuyết và các biện pháp công nghệ chế biến chè cơ bản, Báo cáo tổng hợp. - Tổng công ty chè Việt Nam (2002), Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh chè trên toàn thế giới và viễn cảnh ngành chè trong những năm tới, Báo cáo tổng hợp. B.CÁC TRANG WEB Vietnamnet.vn Vitas.org.vn (Trang web của Hiệp hội chè Việt Nam) Fao.org.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25008.doc