Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam

MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU Ngày 7/11/2006- một ngày đặc biệt thành công của Việt Nam khi các vòng đàm phán gia nhập WTO chính thức kết thúc. Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO sau 15 năm đàm phán. Sau những nỗ lực giờ đây Việt Nam đã “mua” được tấm vé gia nhập câu lạc bộ WTO và sẽ được hưởng những quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng với các thành viên khác. Nhưng, nếu ai coi WTO là một con gà đẻ trứng vàng cho Việt Nam thì xin khẳng định đó là một quan niệm sai lầm hoàn toà

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n. Bởi quá trình đàm phán không đề cập đến việc cải thiện điều kiện gia nhập thị trường thế giới cho hàng hoá Việt Nam mà ngược lại đó là quá trình thương thuyết nhằm xác định cái giá mà Việt Nam phải trả cho việc tự do hoá gia nhập thị trường nội địa cho các sản phẩm dịch vụ nước ngoài, để đổi lấy việc được tham gia vào quá trình tự do hoá thị trường toàn cầu cũng như khuôn khổ pháp luật cho thương mại đa phương đã được các nước thành viên WTO liên tục đàm phán kể từ năm 1948. Có thể nói gia nhập WTO không phải để Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam đẩy gánh nặng phát triển kinh tế cho các nước thành viên mà thực chất gia nhập WTO là đưa Việt Nam vào quá trình cạnh tranh không mệt mỏi, cạnh tranh liên tục trên một sân chơi bình đẳng, không còn chính sách bảo hộ hàng hoá như trước. Chính vì vậy, ông Peter Mandelson đã phát biểu: “Vào WTO, được rất lớn nhưng mất cũng rất nhiều”. Dù biết gia nhập WTO Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thách thức nhưng toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế thế giới. Nếu đứng ngoài xu thế chung này, tất yếu Việt Nam sẽ bị đẩy khỏi sân chơi thương mại quốc tế, và tụt hậu là một điều chắc chắn. Khó khăn nhiều nhưng thuận lợi cũng không phải ít. Quá trình hội nhập, toàn cầu hoá kinh tế sẽ mở ra những cơ hội và tạo điều kiện cho chúng ta phát huy lợi thế so sánh cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Phải khẳng định rằng quốc gia nào chiếm được vị trí có lợi trong cạnh tranh thị trường thì quốc gia đó sẽ chiếm được quyền chủ động trong tiến trình toàn cầu hoá kinh tế. Vì vậy vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam là vấn đề thực tiễn nóng bỏng, sôi động được các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý doanh nghiệp và chính phủ quan tâm nghiên cứu. Trong đề án này, xin được trình bày một số vấn đề liên quan đến năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam khi gia nhập WTO. Đề án tập trung vào 3 nội dung chính sau: (1) Một số kinh nghiệm của các nước bạn trong vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. (2) Thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. (3) Các giải pháp chủ yếu nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sau đây xin đi vào nội dung chi tiết của đề án. NỘI DUNG CHÍNH I. Các định nghĩa liên quan đến cạnh tranh Cạnh tranh kinh tế, về mặt lý luận từ lâu đã được các nhà kinh tế học trước Mác và chính các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã đề cập đến. Cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực trong nền kinh tế thị trường. Trong văn kiện đại hội Đảng VIII của Đảng cũng đã ghi rõ “Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh. hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích của đất nước chứ không phải làm phá sản hang loạt, lãng phí các nguồn lực, thôn tính lẫn nhau.” Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi. Nếu ta xét cạnh tranh theo những tiêu thức khác nhau ta sẽ có những loại cạnh tranh khác nhau. Chẳng hạn, khi nói đến tính chất cạnh tranh thì có 2 loại là cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Nếu xét dưới góc độ thị trường, cạnh tranh gồm 2 loại là cạnh tranh hoàn hảo thuần tuý và cạnh tranh không hoàn.Nếu xét dưới góc độ công đoạn sản xuất-kinh doanh, người ta cho rằng có 3 loại cạnh tranh: cạnh trang trước khi bán hàng, trong quá trình bán hàng, và sau khi bán hàng.Còn nếu xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể trong cạnh tranh, có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cuối cùng nếu xét theo phạm vi lãnh thổ, người ta nói tới cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế. Nhưng cạnh tranh quốc tế có thể diễn ra ở ngay thị trường nội địa, đó là cạnh tranh giữa hàng hoá trong nước sản xuất và hàng hoá ngoại nhập nhất là hàng hoá nhập lậu. Đặc biệt khi nước ta gia nhập WTO cạnh tranh quốc tế trong nội địa ngày càng tăng mạnh vì chúng ta phải giảm thuế nhập khẩu cho hàng hoá nước ngoài nên giá cả hàng hoá ngoại sẽ giảm. Do đó nếu sản phẩm của chúng ta không có sức cạnh tranh mạnh mẽ chắc chắn sẽ bị đánh bật, dẫn tới phá sản. Sau đây là một số nhân tố chính cấu thành nên sức mạnh cạnh tranh: _Đó là chất lượng hàng hoá tốt. Đây là nhân tố quan trọng nhất quyết định khả năng cạnh tranh của hàng hoá. _Đó là giá cả thấp. _Và cuối cùng là thời gian và điều kiện dịch vụ. Tức là hàng hoá đưa ra thị trường đúng thời điểm xã hội cần, bán nhanh, thanh toán nhanh. Sau khi tiêu thụ thì có các dịch vụ tốt:bảo hành, sửa chữa, hướng dẫn tiêu dùng… II. Một số kinh nghiệm của các nước bạn trong vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 1. Năng lực cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp: 1.1 .Nhật Bản: Để có nền kinh tế siêu cường như ngày nay, Nhật Bản đã phải trải qua hơn 100 năm phát triển. Trong đó có thể nói thời kì 1955-1973 là thời kì rất đặc biệt. Thời kì này kinh tế mỗi năm tăng trưởng bình quân 10% và thành quả này kéo dài trong thời gian khoảng 20 năm. Các nhà nghiên cứu gọi đây là giai đoạn “thần kì” hoặc “thời đại phát triển cao độ” của Nhật Bản. Nhưng, trước khi bước vào giai đoạn thần kì này, Nhật Bản đứng trước một tình huống quốc tế giống như Việt Nam hiện nay là phải có một chiến lược như thế nào trước trào lưu chung của thế giới là mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới trong khi nền kinh tế nước mình còn non yếu. Nhật Bản là nước nghèo tài nguyên vào loại nhất thế giới nên ngoại thương có vai trò vô cùng quan trọng cho kinh tế phát triển. Rõ ràng việc gia nhập các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới sẽ mang lại cơ hội tiếp cận thị trường thế giới rộng lớn. Song việc đó lại đi kèm theo những nghĩa vụ phải mở cửa thị trường nước mình đối với hàng ngoại và hoạt động đầu tư của các công ty nước ngoài trong khi trình độ phát triển kinh tế của Nhật Bản còn non yếu so với cac nước Âu-Mĩ. Nhưng chỉ có con đường chấp nhận hội nhập, giảm bớt thách thức đồng thời đưa ra các chiến lược phát triển các ngành công nghiệp mà Nhật Bản có tiềm năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Chiến lược mở cửa, hội nhập, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Nhật Bản gồm 3 bộ phân không thể tách rời: Thứ nhất, việc mở cửa như thế nào để hàng nhập không cản trở sự phát triển của các ngành công nghiệp trong nước. Thứ hai,việc mở cửa phải kết hợp với chiến lược, chính sách làm sao cho các ngành công nghiệp ngày càng có sức cạnh tranh trong thị trường trong nước và thế giới. Thứ ba, để hội nhập có hiệu quả, tranh thủ được nhiều cơ hội của thị trường thế giới phải có chiến lược và tổ chức đẩy mạnh xuất khẩu. Sự phát triển thần kì và sự tăng cường sức cạnh tranh quốc tế của một số ngành công nghiệp chủ yếu của Nhật Bản trong thời kì này đã chứng minh sự đúng đắn của chiến lược mở cửa, hội nhập nêu trên. Sau đây là cụ thể chiến lược kinh tế nói trên của Nhật Bản: a. Nhật Bản từng bước thực hiện tự do hoá mậu dịch và bảo hộ sản xuất để tăng dần sức cạnh tranh của các mặt hàng công nghiệp: Vào tháng 2/1955, Nhật Bản gia nhập GATT. Theo quy định của GATT, các nước thành viên phải tiến hành tự do hoá mậu dịch (trade liberalization) nghĩa là không được dung quản lý hạn ngạch hoặc các biện pháp hành chính khác để bảo hộ thị trường trong nước nhưng được dùng thuế quan để bảo hộ. Tuy vậy, Nhật Bản đã xin hoãn thực hiện điều thứ 11 của tổ chức này là các nước thành viên không được hạn chế nhập khẩu vì lí do cán cân thanh toán bị nhập siêu. Phải đến năm 1963, Nhật Bản mới tham gia điều thứ 11 của GATT. Trong khoảng thời gian 8 năm đó, Nhật Bản đã đưa ra một chương trình tự do hoá nhập khẩu rất tỉ mỉ và cẩn thận, bắt đầu từ những ngành đang có lợi thế so sánh hoặc ít bị áp lực xã hội, từng bước đưa thêm các ngành khác vào chương trình tự do hoá. Và chương trình này đã thực sự thành công. Đồng thời, Nhật Bản còn cải cách luật thuế quan vào năm 1961, và tích cực dung thuế quan làm công cụ bảo hộ các ngành công nghiệp còn non trẻ. Ngoài ra, chính phủ Nhật Bản còn áp dụng các chính sách thuế đặc biệt như giảm thuế đối với 1 số công ty đặc biệt, hoàn trả thuế… Bằng những biện pháp trên, Chính phủ Nhật đã khuyến khích các công ty phát triển các ngành công nghiệp mới hoặc hạn chế các ngành công nghiệp không cần thiết. Điều đáng quan tâm là mức thuế quan được tính tuỳ theo khả năng cạnh tranh của từng ngành. Tuy vậy trong từng ngành, biện pháp này chỉ được áp dụng trong thời gian ngắn và chính phủ công bố thời khoá biểu giảm dần mức thuế quan để làm áp lực cho các xí nghiệp trong nước cố gắng vươn lên để có thể cạnh tranh mà không cần bảo hộ. Nhận Bản rất sợ các công ty xuyên quốc gia của phương Tây sẽ chi phối nền kinh tế của mình nếu tự do hoá đầu tư của các xí nghiệp nước ngoài vì vậy Nhật Bản rất dè dặt trong việc tự do hoá tư bản. Trong thời gian từ 1967-1975, Nhật Bản có 5 lần tự do hoá tư bản và bắt đầu từ những ngành trong nước có sức cạnh tranh hoặc những ngành truyền thống mà các công ty nước ngoài hầu như không quan tâm. Song song với việc trì hoãn tự do hoá tư bản, chính phủ Nhật tích cực khuyến khích, sắp xếp các công ty trong nước tạo thành các công ty lớn, đủ sức cạnh tranh với các công ty xuyên quốc gia sau khi mở cửa thị trường đầu tư ra nước ngoài. b. Xây dựng chiến lược phát triển và tăng sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp _Thứ nhất,Nhật Bản đã chon các ngành có lợi thế so sánh động-lợi thế so sánh có được trong tương lai- và đưa ra cơ cấu công nghiệp trung và dài hạn. Đó phải là các ngành có khả năng tăng năng suất lao động nhanh, những ngành mà Nhật Bản có khả năng hấp thu công nghệ nhập khẩu một cách có hiệu quả và là những ngành mà nhu cầu sẽ tăng nhanh khi lợi nhuận tăng. Với lực lượng lao động có kĩ năng cao cùng với nhiều yếu tố khác, Nhật đã chọn hầu hết các ngành công nghiệp nặng và ngành có công nghệ cao. _Thứ hai, Nhật Bản đã đưa ra các chính sách nuôi dưỡng ngành công nghiệp chẳng hạn như ban hành các luật hoặc pháp lệnh cho từng ngành đồng thời có biên pháp trợ giúp về giá và về tín dụng… _Thứ ba, các chính sách, chiến lược công nghiệp được chuẩn bị với sự tham gia rộng rãi của nhiều tầng lớp xã hội, đặc biệt là sự liên kết, hợp tác giữa chính phủ với lãnh đạo các doanh nghiệp và học giả kinh tế. c. Xây dựng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp gồm 2 phần: Một là, khả năng tổ chức của các công ty tư nhân. Đó là sự hình thành của các tổng công ty thương mại. Các tổng công ty này có các tính chất cơ bản sau: _Tính tổng hợp: kinh doanh nhiều mặt hàng. _Tính đa dạng: kinh danh xuất nhập khẩu, bán buôn trong nước, bán buôn giữa các nước bên ngoài Nhật Bản. _Tính tổ chức: đóng vai trò tích cực trong việc cung cấp vốn, tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ, giới thiệu công nghệ mới, tìm đối tác và đầu tư trực tiếp trong các liên doanh ở nước ngoài. Hai là, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu của chính phủ: Trong quá trình phát triển các ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu, vai trò của Chính phủ Nhật rất to lớn. Chính phủ Nhật đã áp dụng : _Chính sách ưu đãi cho các xí nghiệp xuất khẩu, chính sách miễn giảm thuế cho các công ty xuất khẩu. _Thiết lập cơ quan, tổ chức hỗ trợ xuất khẩu. Trong lĩnh vực này, Chính phủ Nhật Bản lập ra chế độ thừa nhận xí nghiệp cống hiến xuất khẩu , lập ra ngân hàng xuất khẩu để hỗ trợ tín dụng cho các dự án xuất khẩu có kim nghạch lớn, lập hội nghị tối cao bàn về xuất khẩu gồm đại diện chính phủ và giới kinh doanh,lập chế độ kiểm tra hàng xuất khẩu và cuối cùng lập tổ chức chấn hưng mậu dịch để hỗ trợ về mặt thông tin và tiếp thị. Khả năng tổ chức và nỗ lực của các công ty tư nhân kết hợp với các chính sách hỗ trợ của chính phủ đã làm cho xuất khẩu của Nhật Bản tăng nhanh và chiếm thị phần lớn trên thị trường quốc tế. Như vậy, sự thành công trong phát triển kinh tế và nâng cao sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp Nhật Bản do các yếu tố sau đây tạo nên : *Chiến lược mở cửa hội nhập đã kết hợp được với chiến lược, chính sách làm cho các ngnàh công nghiệp ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và chiến lược tranh thủ nhiều nhất cơ hội của thị trường thế giới thông qua việc tổ chức, đẩy mạnh sản xuất. *Các chiến lược này đưa ra được thực thi cao và có hiệu quả nhờ huy động được sức mạnh tổng hợp thể hiện ở năng lực phẩm chất của công chức nhà nước, của lãnh đạo doanh nghiệp, ở sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ với doanh nghiệp và trí thức trong việc định ra chiến lược, ở sức mạnh của các tập đoàn kinh tế. 1.2. Trung Quốc: Trung Quốc vốn là một nước xã hội chủ nghĩa, trước kia nền kinh tế cũng theo chế độ kế hoạch hoá tập trung. Kể từ sau Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI(1978), Trung Quốc bước vào giai đoạn thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từng bước sang cơ chế thị trường với tiêu chí xây dựng 1 nước xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc. Bằng việc áp dụng nhiều chính sách mới phù hợp, Trung Quốc đã đưa nền kinh tế phát triển vượt bậc.Dưới đây là những kinh nghiệm của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghiệp và ngoại thương được coi là những nguyên nhân trực tiếp tạo nên sức cạnh tranh của hàng công nghiệp Trung Quốc trên thị trương thế giới. Thành công lớn nhất của Trung Quốc trong lĩnh vực hàng công nghiệp xuất khẩu là trong một thời gian không lâu đã đẩy nhanh xuất khẩu khiến cho cán cân thanh toán theo chiều hướng có lợi. Để đạt được nhữnh thành công to lớn như vậy chinh là nhờ Trung Quốc đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa đẩy mạnh sản xuất, đổi mới kĩ thuật trong công nghiệp với những chính sách ngoại thương đúng đắn. _ Trung Quốc đã có rất nhiều biện pháp để hạ giá thành sản phẩm. Đây là những giải pháp “gốc” vì sản phẩm sản xuất ra có giá thành thấp sẽ dễ tiêu thụ trên cả thị trường trong nước và ngoài nước. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy có thể hạ giá thành sản phẩm cần có các biện pháp: Một là, về mặt sản xuất: +Trung Quốc đã tìm nhiều biện pháp đổi mới công nghệ làm cho năng suất của các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước tăng lên, giá thành sản phẩm hạ.Một trong những việc làm tích cực là tìm cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng những c hính sách thông thoáng. +Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng rất chú trọng học tập kinh nghiệm tổ chức và quản lý xí nghiệp của nước ngoài bằng cách hang năm cử rất nhiều người ra nước ngoài tham quan học tập đông thời thông qua việc nhận thầu các công trình và cử người đi lao động ở nước ngoài để học tập +Lựa chọn những mặt hàng là thế mạnh của Trung Quốc như hàng công nghiệp nhẹ (đồ chơi, dệt may, hang ngũ kim, hang mây tre…), hàng sử dụng nhiều lao động… là những hàng hoá có tính truyền thống của Trung Quốc, không cần vốn lớn lại dễ đổi mới công nghệ. +Hơn nữa Trung Quốc cũng rất chú trọng khoa học-kĩ thuật, coi trọng chất xám. +Trung Quốc còn đưa ra các biện pháp về đổi mới quan hệ sản xuất. Đó là tách rời chức năng chính quyền và xí nghiệp làm tăng tính tự chủ của doanh nghiệp và hạn chế những tiêu cực, trì trệ nảy sinh từ quan hệ này. Đó là tách quyền sở hữu với những quyền sử dụng càng làm tăng thêm một bước quyền tự chủ, chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp. Thứ hai, về các chính sách tài chính và tiền tệ: để giảm giá hàng công nghệ phẩm, bên cạnh những biện pháp tác động vào sản xuất, nhà nước Trung Quốc rất chú trọng vào những giải pháp ngoài sản xuất mà tài chính tiền tệ là một công cụ quan trọng.Việc cho phéphình thành giá cả hàng hoá dựa trên cơ sở giá trị, việc từng bước hình thành thị trường vốn, việc tận dụng quan hệ với người Hoa ở nước ngoài để thu hút vốn đầu tư và công nghệ, việc trợ giá hoặc miễn giảm thuế cho hàng xuất khẩu cũng như việc nhà nước Trung Quốc rút được nhiều kinh nghiệm thành công và thất bại trong việc xử lý các vấn đề lạm phát, giá cả trên thị trường…đã đóng góp nhiều vào việc phát triển sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng công nghệ phẩm trung Quốc trên thị trường khu vực và thế giới. _Hơn nữa để nâng cao sức cạnh tranh của công nghiệp, bên cạnh những biện pháp tác động vào sản xuất, Nhà nước Trung Quốc rất chú trọng xử lý hài hoà các mối quan hệ giữa sản xuất với mậu dịch mà trước hết là ngoại thương. +Luôn gắn sản xuất với thị trường, thể hiện dưới hình thức cho xí nghiệp góp vốn với bên ngoài, hoặc cho xí nghiệp được tìm thị trường xuất khẩu trực tiếp để xí nghiệp có thể mở rộng xuất khẩu. +Thực hiện chiến lược mở cửa, xây dựng các đặc khu kinh tế. Các đặc khu này đóng vai trò “cửa sổ”, “phòng thí nghiệm” để quan sát học tập tiến tới hoà nhập với bên ngoài, thu hút vốn, kĩ thuật, thu thập và cung cấp thông tin, mở ra các kênh xuất khẩu. +Trung Quốc rất coi trọng mở rộng thị trường và sử dụng nhiều biện pháp đồng bộ cho việc mở rộng thị trường.Bên cạnh các điểm nêu trên, nhà nước trung Quốc còn sử dụng nhiều giải pháp khác như: tăng quyền hạn cho các doanh nghiệp chuyên là kinh tế đối ngoại đồng thời với việc xoá bỏ độc quyền ngoại thương của các công ty ngoại thương, để cho các công ty này được xuất nhạp khẩu trực tiếp và làm đại lý cho các xí nghiệp, tăng cường mở rộng. +Nhà nước trung Quốc mở rộng quan hệ đối ngoại để tạo ra môi trường nhằm mở rộng thị trường.Kinh nghiệm sử dụng sự gắn kết giữa chính trị với kinh tế hơn ở đâu hết được Trung Quốc sử dụng một cách nhạy bén từ khi triển khai công cuộc đổi mới và thực tế đã mang lại hiệu quả to lớn. Có thể nói xét từng trường hợp cụ thể, các kinh nghiệm trên không mới, nhưng vấn đề là ở chỗ toàn bộ các kinh nghiệm đó đã được sử dụng đồng bộ, hài hoà với liều lượng vừa đủ nên đã tạo ra thành công vượt bậc cho trung Quốc như vậy. 2. Năng lực cạnh trang của các sản phẩm nông nghiệp: Qua nghiên cứu sản xuất và xuất khẩu nông nghiệp ở một số nước như Mĩ, Trung Quốc, Malaixia, Thái Lan…cho thấy, chính phủ các nước này rất quan tâm tới việc phát triển các ngành nông sản xuất khẩu. Đặc biệt nhiều nước xây dựng những chiến lược riêng đối với từng ngành có lợi thế so sánh để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả. Các nước này trong quá trình phát triển nông nghiệp nói chung và xây dựng các ngành nông sản xuất khẩu nói riêng đều xuất phát từ các lợi thế vốn có và biết tạo ra các lợi thế mới trên cơ sở đổi mới chính sách, khoa học-công nghệ, vốn đầu tư và thị trường. Từ thực tiễn của một số nước chúng ta có thể rút ra một số nhận xét có tính chất kinh nghiệm như sau: Thành công của các nước trước hết là ở chỗ đã xác định đúng vị trí đặc biệt quan trọng của nông nghiệp và tập trung nỗ lực cho phát triển nông nghiệp để tạo đà và đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền nông nghiệp hướng ra xuất khẩu là chủ yếu. Đặc biệt các nước chú trọng phát huy các lợi thế so sánh thực hiện chiến lược sản phẩm, tạo vùng và quy hoạch đầu tư đồng bộ cho các vùng sản xuất chuyên canh tập trung sản xuất hàng hoá. Đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành, phản ứng nhanh nhẹn trước yêu cầu và thị hiếu của thị trường về hình thức, chất lượng của hàng hoá nhằm nâng cao lợi thế trong cạnh tranh.Tăng cường đổi mới hệ thống tiếp thị, phát triển các kênh sản xuất-tiêu thụ-xuất khẩu, coi trọng chữ tín để mở rộng và tạo lập thị trường mới. Đồng thời rất chú ý công tác đào tạo. Đây là một trong những nhân tố quyết định thành công và ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh kinh tế tri thức đang ảnh hưởng sâu rộng tới mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội. Còn nhà nước sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để can thiệp gián tiếp và điều tiết sản xuất nông nghiệp có hiệu quả, tuỳ thuộc từng giai đoạn sẽ có những chính sách và giải pháp đồng bộ để đạt mục tiêu đã đề ra. III. Thực trạng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam: 1. Trước khi gia nhập WTO 1.1. Thành tựu: Sau 20 năm tích cực đổi mới một cách toàn diện, triệt để (1986-2006), kinh tế Việt Nam đã đạt được những thay đổi đáng kể. Từ một nước nghèo đói, bị chiến tranh tàn phá, giờ đây Việt Nam đã lột xác trở thành một bạn hàng đầy tiềm năng và đáng tin cậy với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong những năm qua chúng ta đã đạt được các điểm sáng ấn tượng. Xin lấy một ví dụ năm 2005: Một trong những điểm sáng ấn tượng mang tính nhạy cảm trong trào lưu hội nhập, có thể đơn cử từ thực tế công tác xuất khẩu năm 2005. Kim ngạch cả năm ước đạt 32,233 tỷ USD, tăng 21,6% so với năm 2004. Kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 57% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy xuất khẩu của cả nước. Tổng kim ngạch năm 2005 bằng l04,9% chỉ tiêu kế hoạch của Chính phủ đặt ra từ đầu năm (30,7 tỷ USD). Lượng xuất khẩu và giá xuất khẩu của hàng hóa xuất khẩu đều tăng ở mức trên dưới 9 và l l%, lần lượt đóng góp 42% và 58% vào giá trị gần 5,5 tỷ USD tăng trong năm nay so với năm 2004. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều đạt tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao. Đặc biệt, một số mặt hàng đạt tốc độ tăng kim ngạch ấn tượng như gạo (+49%) (l), rau quả (+36,1%), cao su (+25,2%), dầu thô (+35%), than đá (+80,6%), hàng điện tử, linh kiện máy tính (+36,4%), sản phẩm gỗ (+43, 1%), dây cáp điện (+33, l%). Thị trường xuất khẩu tăng trên tất cả các khu vực trên thế giới trong năm 2005. Trong đó, thị trường Châu Phi có tốc độ tăng cao nhất (+84%), Châu Đại Dương có tốc độ tăng cao thứ hai (+53%), thị trường Châu Mỹ tăng gần 22%, Châu á tăng 2l ,6% (riêng khu vực ASEAN tăng 39,3%), Châu Âu tăng 6,7% (EU tăng 8,1%). Xuất khẩu dịch vụ tiếp tục có những thành công: năm 2005 ước đạt 4 tỷ USD, tăng l4,7% so với năm 2004. Doanh thu từ hoạt động du 1ịch ngày càng tăng (Năm 2005, cả nước đón 3,5 triệu lượt khách quốc tế, tăng khoảng 20% so với năm 2004). Nhiều loài hình dịch vụ khác mang lại ngoại tệ, bổ sung tích cực vào hoạt động xuất khẩu dịch vụ của cả nước như vận tải hàng hoá tăng, viễn thông quốc tế tăng mạnh so với năm 2004. Xuất khẩu dịch vụ năm 2005 đạt 4 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu cả thời kỳ 5 năm dự kiến đạt trên 21 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân l5,7%/năm, bằng khoảng l9% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, xấp xỉ mức bình quân của thế giới (thế giới là 20%). Kết quả xuất khẩu năm 2005 đã góp phần nâng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 2001-2005 đạt khoảng 110,6 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 17,4%, cao hơn so với mục tiêu đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001-2010 là 1,3%. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2005 dự kiến đạt 390 USD/người. Quy mô xuất khẩu 5 năm 2001-2005 gấp hơn hai lần so với 5 năm 1996-2000 (đạt 51,824 tỷ USD). Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao là nhân tố quan trọng góp phần vào kết quả tăng trưởng GDP 8,7% của cả nước. Một số mặt hàng đã vượt qua những thách thức trong và ngoài nước cũng như biến động bất lợi trên thị trường thế giới tiếp tục tốc độ tăng cao (giày dép tăng trên 7%, thủy sản tăng trên 14%). Riêng mặt hàng may mặc, mặc dù phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn trên thị trường thế giới do việc bãi bỏ hạn ngạch dệt may đối với các thành viên WTO nhưng xuất khẩu mặt hàng này đã vượt qua những tháng đầu năm khó khăn, về đích với tốc độ tăng khoảng 10% so với năm 2004. Nếu so với các đối thủ cạnh tranh thì đây là một thành tích đáng nể vì xuất khẩu hàng may mặc của nhiều nước đã giảm so với năng 2004 do ảnh hưởng của việc bãi bỏ hạn ngạch này. Cơ cấu xuất khẩu tiếp tục đạt được những tiến bộ: tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. Chất lượng hàng xuất khẩu từng bước được nâng lên; năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu được cải thiện, thể hiện ở chỗ các doanh nghiệp Việt Nam có thể đáp ứng được các đơn hàng lớn, đồng thời hàng hóa Việt Nam đã vươn tới nhiều thị trường mới. Trong tổng số 20 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam năm 2005, ngoài dầu thô có kim ngạch xuất khẩu trên 7 tỷ USD còn có thêm 6 mặt hàng khác có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là dệt may, thủy sản, giày dép, hàng điện tử, linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ và gạo. Với cơ cấu này, chúng ta đã bước đầu thực hiện được mục tiêu cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định, chất lượng hàng xuất khẩu từng bước được nâng lên; năng lực cạnh tranh được cải thiện. Các mặt hàng gạo, cà phê tiếp tục duy trì thứ 2 trên thế giới, hạt tiêu đứng đầu thế giới, hạt điều đứng thứ 3 thế giới… 1.2. Hạn chế: Những kết quả đạt được trong thời gian qua là rất lớn, rất ý nghĩa, chúng ta có quyền tự hào; nhưng thách thức cũng không nhỏ và còn đang ở phía trước! Cần phải thừa nhận môt điều, cạnh tranh ở nước ta vẫn còn những điều bất cập, in dấu vết của cơ chế cũ. _Thứ nhất, cạnh tranh trong nền kinh tế nước ta còn ở trình độ thấp, tiềm ẩn nhiều nhân tố không lành mạnh, chưa phù hợp với quy luật kinh tế khách quan như: cạnh tranh về chất lượng hàng hoá còn hạn chế, tệ hàng giả, cạnh tranh theo kiểu “chụp giật”, “đánh quả” đang là phổ biến. Chính vì còn tồn tại nhiều doanh nghiệp vẫn đứng ngoài các quy định kinh tế của nhà nước ta và thế giới nên trên thị trường người tiêu dùng trong và ngoài nước rất bát mãn. Đó chính là thực trạng hàng hoá lưu thông tràn lan trên thị trường. Tình trạng hàng giả ngày càng mở rộng về quy mô và địa bàn hoạt động, đa dạng về chủng loại với những thủ đoạn, kĩ thuật làm tinh vi, phức tạp đã gây ảnh hưởng một cách nghiêm trọng đến lợi ích, thậm chí đến tính mạng của người tiêu dùng. Nghiên cứu sự “sôi động” của “thị trường hàng giả” ta có thể nhận diện các thủ đoạn làm hàng giả như sau: hàng nội giả hàng ngoại, hàng nội giả hàng nội, hàng ngoại giả hàng ngoại, hàng ngoại giả hàng nội. Một trong những vấn đề gần đây đang nổi cộm đó là việc tôm xuất khẩu của Việt Nam có vấn đề: Trong thời gian gần đây, phía Nhật Bản liên tục phát hiện nhiều lô hàng tôm của Việt Nam nhiễm dư lượng các chất kháng sinh bị cấm bất chấp những cảnh báo đỏ đã được nước này phát ra. Tỉ lệ vi phạm thậm chí đã vượt ngưỡng cho phép các cơ quan chức năng của Nhật Bản xem xét tiến tới ban hành lệnh cấm nhập khẩu tôm của Việt Nam. Nguy cơ mất thị trường Nhật Bản là có thật. Tình hình nghiêm trọng đến mức Thủ tướng chính phủ mới đây đã phải yêu cầu Bộ Thủy sản và Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) tăng cường chỉ đạo quản lý chất lượng thủy sản xuất khẩu, cương quyết không để tái diễn tình trạng vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm.Tỉ lệ vi phạm Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm Nhật Bản của sản phẩm tôm Việt Nam tiếp tục gia tăng trong tháng 12 và tháng 1/2007, dù đến cuối tháng 11/2006, tỉ lệ này đã ở mức 6,7%. Trong khi đó, nếu phát hiện tỉ lệ vi phạm ở mức 5%, tức là 3 lô trong tổng số 60 lô hàng liên tục được kiểm tra, cơ quan chức năng nước Nhật Bản đã có thể xem xét ban hành lệnh cấm nhập khẩu đối với toàn bộ nhóm hàng bị nhiễm kháng sinh từ nước xuất khẩu, dù 60 lô hàng được kiểm tra đó chỉ xuất phát từ một hoặc một vài doanh nghiệp. Hơn 30 doanh nghiệp vi phạm Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật Bản, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, đã ảnh hưởng tiêu cực tới việc xuất khẩu tôm của hơn 300 doanh nghiệp khác. Mặc dù chưa cấm nhập khẩu hoàn toàn, nhưng từ cuối tháng 10/2006, phía Nhật đã ra lệnh kiểm tra 100% đối với tất cả sản phẩm tôm có xuất xứ từ Việt Nam. Quyết định này khiến các doanh nghiệp "làm ăn nghiêm chỉnh" bị "vạ lây". Ông Trần Thiện Hải, Giám đốc Công ty Cổ phần thuỷ sản Minh Hải, Chủ tịch Uỷ ban tôm cho biết: "Lượng hàng hoá mà các khách hàng mua của chúng ta phải nằm chờ ở các kho hải quan của Nhật Bản để chờ nhập hàng vào. Trước đây, có khi chỉ 3 ngày là thông quan, hiện nay lên tới 3 tuần lễ, thậm chí lên tới một tháng mới lấy được lô hàng vào. Việc đó làm cho chi phí ở cảng tăng lên rất lớn. Do vậy, các doanh nghiệp Nhật Bản có thể mua hàng thay thế của các quốc gia khác, không mua từ Việt Nam nữa". ông Lê Văn Quang, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc Công ty cổ phần thuỷ sản Minh Phú nói: "Tốc độ nhận hàng của phía Nhật giảm đi thì cung sẽ vượt cầu. Cung vượt cầu ảnh hưởng đến giá. Chính ra vào thời điểm trái vụ như thế này, giá tôm phải lên, nhưng trên thực tế nó không lên được, vẫn ở mức bình thường". Nhiều cuộc họp tìm giải pháp cải thiện tình hình đã được Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) tiến hành. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp đã vi phạm lại không nằm trong hiệp hội. Vì thế, giải pháp toàn diện được trông chờ chính là việc thực thi quyết định của Bộ Thuỷ sản về việc đăng kí xuất khẩu và kiểm tra dư lượng hóa chất, dư lượng kháng sinh cấm trong hàng thủy sản xuất khẩu vào Nhật Bản. Ông Trương Đình Hoè, Phó Tổng thư kí Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết: "Đối với doanh nghiệp chưa có sản phẩm bị phát hiện nhiễm, họ phải đăng kí với cơ quan có thẩm quyền là cơ sở của mình phải đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Nhật. Đó là một giải pháp về nhận thức trong vấn đề kháng sinh. Còn các doanh nghiệp đã có trong danh sách có lô hàng bị nhiễm, phải tuân thủ theo yêu cầu kiểm 100%, tức là kiểm bắt buộc trước khi xuất sang Nhật". Quy định của Bộ Thuỷ sản có hiệu lực từ 20/12/2006, nhưng theo VASEP, ngay trong nửa đầu tháng 1/2007, đã lại có thêm 2 doanh nghiệp Việt Nam bị phát hiện xuất hàng có dư lượng kháng sinh cấm sang Nhật Bản. Cảnh báo, kiểm tra 50%, rồi 100% không mang lại hiệu quả, Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản đã thông báo sẽ xem xét việc áp dụng lệnh cấm nhập khẩu đối với sản phẩm tôm của Việt Nam. Đến lúc đó, con tôm Việt Nam có "mọc cánh" cũng không bay được vào thị trường Nhật Bản. Qua những thực trạng như trên, các doanh nghiệp Việt Nam thật sự cần sự thay đổi rất lớn để tránh hiện tượng “con sâu làm rầu nồi canh” làm ảnh hưởng đến đất nước và các doanh nghiệp khác. _Thứ hai, bên cạnh đó, môi trường cạnh tranh hiện nay chưa thông thoáng, thuận lợi cho các chủ thể kinh doanh. Môi trường cạnh tranh được hiểu là những yếu tố,._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35941.doc
Tài liệu liên quan