MỤC LỤC
Mở đầu:....................................................................................................................1
Chương 1:Một số vấn đề lý luận chung về năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của doanh nghiệp nhỏ và vừa 5
1.1 Khỏi quỏt về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu. 5
Khỏi niệm về cạnh tranh. 5
Khái niệm về năng lực cạnh tranh. 9
Khái niệm về năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu. 11
Khái quát về doanh nghiệp nhỏ và vừa và sự cần thiết phải nâng cao n
113 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1896 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong bối cảnh hội nhập 11
Khỏi quỏt về DNNVV. 11
Hội nhập–sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV. 18
Nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV trong xuất khẩu 20
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DNNVV. 20
Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của doanh nghiệp. 23
Nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVVtrong xuất khẩu 26
1.4. Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNVV một số nước trên thế giới và bài học cho cỏc DNNVV Việt Nam.............................................28
1.4.1. Kinh nghiệm 28
1.4.2. Bài học rỳt ra cho cỏc DNNVV Việt Nam 31
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các DNNVV của Việt Nam. 33
2.1. Vài nột về hoạt động xuất khẩu của các DNNVV. 33
2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu qua một số năm. 33
2.1.2. Thị trường xuất khẩu . 35
2.1.3. Cỏc mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. 37
2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các DNNVV của Việt Nam. 38
2.2.1. Thị phần xuất khẩu của cỏc doanh nghiệp nhỏ và vừa. 38
2.2.2. Thực trạng về mặt hàng và chất lượng sản phẩm xuất khẩu của các DNNVV. 41
2.2.3. Thực trạng năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của DNNVV Việt Nam. 46
2.2.3.1. Thực trạng về năng lực làm việc và trỡnh độ tay nghề của người lao động. 46
2.2.3.2. Công tác nghiên cứu thị trường của các DNNVV Việt Nam. 47
2.2.3.3. Thực trạng công tác quản trị hệ thống phân phối và quảng bá thương hiệu của các DNNVV. 51
2.2.3.4. Thực trạng khả năng khai thác lợi thế và hỡnh thành cỏc liờn kết trong tạo dựng năng lực cạnh tranh của các DNNVV. 55
2.2.3.5. Thực trạng công tác quản trị chất lượng sản phẩm, nghiên cứu và đổi mới mặt hàng tại các DNNVV. 57
2.2.4. Thực trạng phương thức và kỹ năng kinh doanh xuất khẩu của các DNNVV. 60
2.3. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các DNNVV Việt Nam. 62
2.3.1. Về năng lực lónh đạo và quản trị doanh nghiệp. 63
2.3.2. Khả năng khai thác các công cụ cạnh tranh tại các DNNVV. 65
2.3.3. Chất lượng sản phẩm và hỡnh ảnh thương hiệu. 65
2.3.4. Sự liờn kết giữa cỏc doanh nghiệp trong xuất khẩu. 67
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các DNNVV của Việt Nam 69
3.1. Những thách thức và khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế. 69
3.2. Định hướng phát triển các DNNVV của Việt Nam trong thời gian tới. 71
3.2.1. Đổi mới về tư duy. 71
3.2.2. Phát triển DNNVV là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xó hội ở nước ta. 72
3.2.3. Ưu tiên phát triển DNNVV theo hướng CNH- HDH nông nghiệp và nông thôn. 73
3.2.4. Gắn phỏt triển DNNVV với doanh nghiệp lớn. 73
3.2.5. Tăng cường hỗ trợ phát triển các DNNVV đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 74
3.3. Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của cỏc DNNVV của Việt Nam. 75
3.3.1. Cỏc giải phỏp vĩ mụ. 76
3.3.1.1. Cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. 76
3.3.1.2. Hoàn thiện cỏc chớnh sỏch kinh tế - xó hội cú liờn quan. 77
3.3.2. Cỏc giải phỏp thuộc về doanh nghiệp. 80
3.3.2.1. Nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng, đổi mới và hạ giá bán sản phẩm. 80
3.3.2.2. Giải pháp về xâm nhập và phát triển thị trường. 85
3.3.2.3. Hỡnh thành cỏc liờn kết trong xuất khẩu. 88
3.3.2.4. Giải pháp về bồi dưỡng đội ngũ và sử dụng hợp lý nguồn nhõn lực 92
Kết luận. 94
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT:
ASEAN
(Association of Southeast Asian Nations)
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
AFTA (ASEAN Free Trade Area)
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
APEC
(Asia-Pacific Economic Cooperation)
Diễn đàn kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
DNNVV
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
EU (European Union)
Liên minh Châu Âu
OPEC
(Organization of Petroleum Exporting Countries)
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa
WTO (World Trade Organization)
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
A. BẢNG BIỂU:
Bảng 1.1:
Tiêu chí xác định DNNVV của một số nước trên thế giới
Bảng 1.2:
Quy mô trung bình các doanh nghiệp theo hình thức sở hữu
Bảng 2.1:
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam qua một số năm
Bảng 2.2:
Một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam năm 2004
Bảng 2.3:
Mức độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu của các DNNVV
Bảng 2.4:
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của các DNNVV
Bảng 2.5:
Mức độ quan tâm tới vấn đề đổi mới công nghệ của các DNNVV
Bảng 2.6:
Công tác nghiên cứu thị trường và khách hàng của các DNNVV
Bảng 2.7:
Các công cụ xúc tiến thương mại đang được sử dụng tại các DNNVV
Bảng 2.8:
Mức độ quan tâm của DNNVV đến các tiêu chí của bao bì thuỷ sản
Bảng 2.9:
Trình độ giám đốc doanh nghiệp (%)
B. HÌNH VẼ:
Hình 2.1:
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào một số thị trường chính
Hình 2.2:
Gia tăng kim ngạch XK của một số mặt hàng
Hình 2.3:
Khảo sát về thị trường mà các DNNVV đang tiếp cận
Hình 2.4:
Tần suất công tác nghiên cứu đối thủ cạnh tranh của các DNNVV
Hình 2.5:
Các hoạt động nhằm nâng cao năng lực marketing được ưu tiên triển khai tại các DNNVV
Hình 2.6:
Các tiêu chí chủ yếu sử dụng trong quảng cáo tại các DNNVV
Hình 2.7:
Các biện pháp phân phối sản phẩm tại các DNNVV
Hình 2.8:
Đánh giá của các DNNVV về năng lực liên kết trong ngành
Hình 2.9:
Tỷ lệ các DNNVV đã áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng hiện đại
Hình 3.1:
Mô hình liên kết giản đơn trong xuất khẩu hàng hoá
Hình 3.2:
Mô hình liên kết chuỗi trong xuất khẩu hàng hoá
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài :
Trong những năm qua Việt Nam đã từng bước hội nhập kinh tế quốc tế: gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), gia nhập diễn đàn kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) và đỉnh cao là gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2006. Việc hội nhập kinh té quốc tế đã tạo ra cho Việt Nam những cơ hội trong việc phát triển kinh tế đất nước, tuy nhiên cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó hơn 90% là các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì thách thức lớn nhất là năng lực cạnh tranh. Dù hàng hoá của Việt Nam đã có mặt tại gần 200 quốc gia và khu vực thị trường khác nhau, nhưng nếu so sánh một cách tương đối với sản phẩm cùng loại của các nước (ngay cả với các nước lân cận có trình độ phát triển tương đương) thì sức cạnh tranh của sản phẩm và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) vẫn còn thấp hơn rất nhiều. Ngoại trừ một số mặt hàng của Việt Nam có năng suất cao hơn năng suất trung bình trên thế giới (như gạo, cà phê, hồ tiêu) còn nhiều các mặt hàng khác có năng suất, chất lượng thấp và giá cả cao hơn nhiều so với các sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến kim ngạch xuất khẩu và khả năng duy trì, phát triển thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNNVV nói riêng. Chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng số các doanh nghiệp Việt Nam, các DNNVV đang được khuyến khích phát triển, nhưng thực tế chính sách cũng như sự hỗ trợ từ phía chính phủ và các cơ quan quản lý, các địa phương vẫn còn không ít những bất cập. Cùng với đó là năng lực quản lý hạn chế, quy mô nhỏ, trình độ công nghệ và kỹ thuật lạc hậu đã dẫn đến chất lượng sản phẩm làm ra chưa cao trong khi giá thành lại không thấp, làm cho sức cạnh tranh bị hạn chế đi nhiều.
Với lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu :
Trên thực tế có nhiều đề tài nghiên cứu về nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp của Việt Nam nhưng hầu hết chỉ tập trung vào việc nâng cao nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong từng nhóm ngành như :
. Trần Trung Hiếu (2004) với đề tài: ’’Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn Hà Nội’’ luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
. Nguyến Thị Thanh Hà, Nguyễn Văn Tiền (2004) : Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam : những thách thức chủ yếu, Tạp chí nghiên cứu kinh tế (số 5).
. TS Phan Trọng Phức: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội -2007.
. Trần Sửu : Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hoá, Nhà xuất bản lao động.2006
Đề tài : "Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế" tuy có kế thừa nhưng không trùng lắp với những đề tài đã nghiên cứu.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong xuất khẩu hàng hoá.
- Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng sâu rộng.
- Đề xuất những giải pháp cả ở cấp độ doanh nghiệp và cấp độ nhà nước để nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá.
* Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài không nghiên cứu đối với tất cả các DNNVV thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau mà chỉ tập trung nghiên cứu điển hình tại các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu hoặc trực tiếp tham gia xuất khẩu hàng hoá nhấn mạnh vào các mặt hàng xuất khẩu mà Việt Nam đang có những ưu thế nhất định như nông sản, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ, may mặc, giày dép, đồ gỗ, đồ nhựa gia dụng….
Bên cạnh đó, đề tài cũng phân tích các tiêu chí đánh giá nănng lực cạnh tranh để có được những nhận định khách quan về thực tế năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các DNNVV Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
Sử dụng phương pháp thống kê, phân tích để hệ thống các vấn đề liên quan đến thực trạng năng lực cạnh tranh của các DNNVV của Việt Nam. Bên cạnh đó đề tài cũng sử dụng các phương pháp khác như duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
6. Kết cấu của đề tài:
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. Khái quát về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Thực tế có rất nhiều quan niệm khác nhau theo các trường phái khác nhau về cạnh tranh. Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái niệm có rất nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả phạm vi doanh nghiệp, phạm vi ngành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi khu vực liên quốc gia...
Theo Các Mác: Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Từ điển kinh doanh của Anh xuất bản năm 1992 định nghĩa "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình; là hoạt động tranh đua giữa nhiều người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường bị chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất".
Theo hai nhà kinh tế học Mỹ là P.A. Samuelson và W.D. Nordhaus: Cạnh tranh (Competition) là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị trường. Hai tác giả này cho cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo [10,Tr687].
Ở Việt nam, theo Từ điển Bách khoa, thì: "Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa những các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất" [13].
Theo tác giả Nguyễn Vĩnh Thanh [11], có thể tiếp cận về cạnh tranh như sau:
- Cạnh tranh là sự ganh đua nhằm giành lấy phần thắng của nhiều chủ thể cùng tham dự.
- Mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào đó mà các bên đều muốn giành giật (một cơ hội, một sản phẩm...); một loạt điều kiện có lợi (một thị trường, một khách hàng...). Mục đích cuối cùng là kiếm được lợi nhuận cao.
- Cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng buộc chung mà các bên tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị trường, các điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh...
- Các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau như: đặc tính và chất lượng sản phẩm, giá bán sản phẩm, nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm, các dịch vụ bán hàng, hình thức thanh toán...
Từ đó, một khái niệm về cạnh tranh có thể đưa ra là: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi [8].
Phân loại cạnh tranh
Cạnh tranh có thể được phân thành nhiều loại hình khác nhau dựa theo những tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích và đối tượng nghiên cứu.
- Xét theo tính chất của cạnh tranh, người ta chia ra thành cạnh tranh dọc và cạnh tranh ngang. Theo đó, cạnh tranh dọc là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất khác nhau. Như vậy, để thực hiện cạnh tranh dọc, các doanh nghiệp sẽ phải tìm mọi cách để hạ thấp chi phí bình quân. Cạnh tranh ngang là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất ngang nhau. Giá cả sản phẩm trong trường hợp cạnh tranh ngang về cơ bản sẽ ở mức thấp tối thiểu và vì vậy về lý thuyết sẽ không có doanh nghiệp nào bị loại ra khỏi thị trường, chỉ có người mua hưởng lợi nhiều nhất còn lợi nhuận doanh nghiệp sẽ giảm dần.
- Xét theo hình thái cạnh tranh, người ta chia ra thành cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Cạnh tranh hoàn hảo (hay gọi là cạnh tranh thuần tuý) là tình trạng cạnh tranh diễn ra trên thị trường đồng thời có nhiều người bán và nhiều người mua, họ đều có đầy đủ thông tin về các điều kiện của thị trường, trong đó không người nào có đủ ưu thế để khống chế giá cả trên thị trường. Cạnh tranh không hoàn hảo, là loại hình cạnh tranh chủ yếu nhất trong các ngành sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh giữa những người bán có sản phẩm không đồng nhất với nhau, mỗi sản phẩm đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau. Ở đó, các doanh nghiệp đủ mạnh có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường hoặc từng nơi, từng khu vực cụ thể. Đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
- Xét theo hành vi cạnh tranh, người ta chia ra thành cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh (hay cạnh tranh hợp pháp) là sử dụng một cách hợp pháp các công cụ cạnh tranh để đạt được mục tiêu kinh tế của mình. Ngược lại cạnh tranh không lành mạnh (còn được gọi là cạnh tranh phi pháp) là cạnh tranh bằng những thủ đoạn phi pháp chứ không phải bằng nỗ lực vươn lên của mình.
- Xét theo các chủ thể tham gia thị trường, thì cạnh tranh được chia thành 3 loại: Cạnh tranh giữa người mua và người bán: người bán muốn bán hàng hoá của mình với giá cao nhất, còn người mua muốn mua với giá thấp nhất. Giá cả cuối cùng được hình thành sau quá trình thương lượng giữa hai bên. Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt, giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lên, người mua phải chấp nhận giá cao để mua được hàng hoá mà họ cần. Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: là cuộc cạnh tranh nhằm giành giật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người mua. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối sức, không chịu được sức ép sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ mạnh hơn.
- Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế, có thể chia thành cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển. Cạnh tranh giữa các ngành, là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này, có sự phân bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành, kết quả là việc hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
- Xét theo các công đoạn của quá trình kinh doanh hàng hoá, người ta chia ra thành cạnh tranh trước khi bán hàng, trong khi bán hàng và sau khi bán hàng. Ngày nay, trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, dưới tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh trong quá trình bán hàng mà thực chất sự cạnh tranh diễn ra cả trước và sau bán hàng. Ngoài ra, theo khu vực thị trường, người ta còn chia ra thành cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế.
Theo tiếp cận đề tài này, tác giả không đi sâu tìm hiểu và phân tích các loại hình cạnh tranh theo những nội dung và bản chất của chúng mà chỉ đề cập đến như là một trong những cơ sở để xem xét khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam (đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa) trong điều kiện thị trường ngày càng mở rộng dưới tác động của hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thực tiễn kinh doanh, các doanh nghiệp không chỉ sử dụng duy nhất một hình thức cạnh tranh nào đấy mà thường khai thác và áp dụng đồng thời nhiều hình thức cạnh tranh khác nhau, ngay cả các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh. Điều này gây không ít khó khăn trong việc xác định một cách khách quan về lợi thế và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
1.1.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Xuất phát từ đó, để đo lường khả năng cạnh tranh của một chủ thể nào đấy, các thuật ngữ năng lực cạnh tranh, sức cạnh tranh được hình thành và cũng được tiếp cận theo nhiều cấp độ khác nhau như năng lực cạnh tranh của một quốc gia, một nền kinh tế; năng lực cạnh tranh của một địa phương, một khu vực; năng lực cạnh tranh của các công ty, các doanh nghiệp và thậm chí năng lực cạnh tranh của một sản phẩm. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả của các công trình nghiên cứu khác nhau đều cho rằng, khó có thể đưa ra được một định nghĩa chuẩn và hoàn chỉnh về năng lực cạnh tranh đúng trong mọi trường hợp.
Theo từ điển thuật ngữ chính sách thương mại, năng lực cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp hoặc một ngành, thậm chí một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác hoặc nước khác đánh bại về năng lực kinh tế.
Tổ chức UNCTAD thuộc Liên hiệp quốc cho rằng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực của doanh nghiệp trong việc giữ vững hoặc tăng thị phần của mình một cách vững chắc hay năng lực hạ giá thành hoặc cung cấp sản phẩm bền, đẹp và rẻ của doanh nghiệp.
Theo dự án VIE/2005, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước."Để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp cần phải có được các lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được các chi phí sản xuất thấp hơn, hoặc là có khả năng khác biệt hoá sản phẩm để đạt được những mức giá bán cao hơn trung bình. Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần ngày càng đạt được những lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp những hàng hoá hay dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn" [23]. Rõ ràng, vấn đề năng lực cạnh tranh được nhìn nhận một cách tổng hợp từ rất nhiều các yếu tố nhằm tạo ra một sự tăng trưởng và duy trì được lợi thế cạnh tranh liên tục trong một thời gian dài - cạnh tranh bền vững.
Tại Việt Nam, đang xuất hiện đồng thời các thuật ngữ năng lực cạnh tranh, sức cạnh tranh và có người cho rằng đây là các thuật ngữ khác nhau. Các thuật ngữ này đều được hiểu theo nguyên nghĩa trong tiếng Anh từ thuật ngữ Competitive Power, vì thế có thể cho rằng cả sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh đều có cùng một nghĩa và cùng để chỉ khả năng cạnh tranh của một chủ thể nào đấy. Tuy nhiên, ngữ cảnh sử dụng các thuật ngữ này có thể trong những trường hợp không hoàn toàn giống nhau. Sức cạnh tranh là thuật ngữ thường gặp để chỉ đối với sản phẩm, còn năng lực cạnh tranh thường dùng cho doanh nghiệp, cho địa phương hay quốc gia. Từ điển thuật ngữ kinh tế học của Việt Nam, định nghĩa: "Năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh tranh; tiếng Anh - Competitive Power;) là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp" [14.Tr349]. Thực tế, định nghĩa này đã thống nhất các thuật ngữ hiện đang được sử dụng. Trong đề tài này, tôi sử dụng đồng thời cả hai thuật ngữ năng lực cạnh tranh và sức cạnh tranh với cùng một nghĩa là như nhau.
1.1.3. Khái niệm về năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu
Khi nói đến năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các doanh nghiệp là nói đến khả năng các doanh nghiệp của một quốc gia thuộc một ngành hàng nào đó tạo ra được và duy trì được những lợi thế nhất định so với mức trung bình chung của toàn ngành, nghĩa là khả năng khai thác và duy trì những lợi thế nhất định so với doanh nghiệp từ những quốc gia khác và hoặc so với các doanh nghiệp khác của cùng quốc gia, nhằm duy trì và gia tăng thị phần, tạo ra một sự tăng trưởng nhất định. Như vậy, khi xem xét năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu, ngoài việc xem xét khả năng tạo dựng và khai thác lợi thế của doanh nghiệp như sự khác biệt hoá sản phẩm, các yếu tố đầu vào nhằm tạo ra chi phí thấp nhất, chiến lược thị trường và hệ thống kênh, người ta còn xem xét cả các yếu tố thuộc về lợi thế quốc gia, khả năng duy trì những chế độ bảo hộ nhất định của một quốc gia, các quy định, thủ tục trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ...
1.2. Khái quát về doanh nghiệp nhỏ và vừa và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong bối cảnh hội nhập
1.2.1. Khái quát về DNNVV
Việc đưa ra khái niệm chuẩn xác về DNNVV có ý nghĩa rất lớn, chính vì vậy hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại DNNVV. Tuy nhiên, không có tiêu thức thống nhất để phân loại DNNVV cho tất cả các nước, và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng nghành nghề, từng địa bàn. Có hai nhóm tiêu thức phổ biến dùng để phân loại DNNVV, gồm tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng.
Tiêu chí định tính: Dựa trên các đặc trưng cơ bản của các DNNVV như chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ quản lý thấp... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề, nhưng thường khó xác định trên thực tế, do đó, chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được làm cơ sở để phân loại.
Tiêu chí định lượng: Có thể sử dụng các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận, trong đó:
Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách lao động thường xuyên, lao động thực tế.
Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (hay vốn) cố định, giá trị còn lại.
Doanh thu có thể là tổng doanh thu/ năm, tổng giá trị gia tăng trên năm.
Đối với Việt Nam, trước giai đoạn đổi mới thường có xu hướng coi tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhất là các cơ sở thủ công nghiệp, là DNNVV còn các doanh nghiệp quốc doanh là các doanh nghiệp lớn.
Trong thời kỳ đổi mới, với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, vai trò của các DNNVV ngày càng được thể hiện rõ. Tuy nhiên, thời gian này các tiêu chí về DNNVV chưa có quy định thống nhất nên các Bộ, ngành và các tổ chức khác nhau ở Việt Nam lại có các tiêu chí áp dụng khác nhau về việc xác định DNNVV. Chính vì sự chưa thống nhất trong khái niệm về DNNVV nên đến ngày 20/06/1998, tại công văn số 681/CP-KTN, Thủ tướng Chính phủ đã quy định tạm thời DNNVV với hai tiêu thức là vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động bình quân dưới 200 người.
Tiếp đó, nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển DNNVV đã nêu rõ: “DNNVV là các cơ sở sản xuất - kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc có số lao động trung bình hàng năm không quá 300 lao động”. Như vậy, với quy định trên, được coi là DNNVV phải thoả mãn hoặc điều kiện về số vốn đăng ký (không quá 10 tỷ đồng - khoảng 660.000 USD), hoặc số lao động bình quân hàng năm (dưới 300 người). Như vậy, theo Nghị định này thì cấc DNNVV gồm các hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp trong nước, kể cả khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể đáp ứng các yêu cầu của điều 3 của Nghị định. Như vậy, tại Việt Nam mới chỉ chia DNNVV thành 2 loại doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ còn ở một số nước người ta còn chia thành doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ (hay rất nhỏ):
Bảng 1.1: Tiêu chí xác định DNNVV của một số nước trên thế giới
Nước
Phân loại
Số lao động
Số vốn
Doanh thu
A. Các nước phát triển
Mỹ
Ngành chế tạo
0-500
Không quan trọng
Không quan trọng
Ngành khác
<5 triệu USD/năm
Nhật Bản
Chế tác
1-300
300 triệu Yên
Bán buôn
1-100
0-100 triệu Yên
Bán lẻ
1-50
0-50 triệu Yên
Dịch vụ
1-100
1-100 triệu Yên
EU
DN siêu nhỏ
<10
Không quan trọng
Không quan trọng
DN nhỏ
<50
5 triệu Euro
7 triệu Euro
DN vừa
<250
27 triệu Euro
40 triệu Euro
Australia
Chế tác nhỏ
<100
Không quan trọng
Không quan trọng
Chế tác vừa
100-199
Dịch vụ nhỏ
<20
Dịch vụ vừa
20-199
Canada
Chế tác nhỏ
<100
Không quan trọng
<5 triệu CND
Chế tác vừa
100-500
Dịch vụ nhỏ
100-500
5-20 triệu CND
Dịch vụ vừa
<50
< 5 triệu CND
50-500
5-20 triệu CND
NewZealand
Các ngành
0-50
Hàn Quốc
Chế tác
0-300
20 -80 tỉ Won
Không quan trọng
Khai mỏ và v.tải
0-300
Không quan trọng
Xây dựng
0-200
TM và DV
0-20
Đài Loan
Chế tác
0-200
80 triệu CNJ
Không quan trọng
Nông lâm ngư
0-50
Không quan trọng
100 triệu CNJ
B. Các nước đang phát triển
Thái Lan
Công nghiệp nhỏ
0-50
Dưới 50 tr. Baht
Công nghiệp vừa
51-200
50 – 200 tr. Baht
Malaysia
Chế tác
0 – 150
Không quan trọng
0 – 25 RM
Mexico
DN siêu nhỏ
0 – 30
Không quan trọng
Không quan trọng
DN nhỏ
31 – 100
DN vừa
101 – 500
Pê - ru
Các ngành
Khg q.trọng
Không quan trọng
<17 triệu USD/năm
Philipin
DN nhỏ
10 - 99
1,5 –15 triệu Pêxo
Không quan trọng
DN vừa
100 - 199
15 – 60 triệu
Indonesia
DN siêu nhỏ
1 - 4
Không quan trọng
0 – 100.000 USD
DN nhỏ
5 - 19
0 – 20.000 USD
DN vừa
20 - 99
<100.000 USD
<500.000 USD
Brunei
Tất cả các ngành
1 - 100
Không quan trọng
Không quan trọng
C. Các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi
Nga
DN nhỏ
1 – 249
Không quan trọng
Không quan trọng
DN vừa
249 – 999
Trung Quốc
DN nhỏ
50 - 100
DN vừa
101 - 500
Hungary
DN siêu nhỏ
1 -10
DN nhỏ
10 - 50
DN vừa
50 - 250
Ba Lan
DN nhỏ
< 50
DN vừa
51 - 200
Slovakia
DN nhỏ
1 -24
DN vừa
25 - 100
Rumani
DN nhỏ
1 - 20
Bungary
DN nhỏ
<50
20 triệu BGL
Uzbekistan
DN nhỏ
<300
DN vừa
300 - 1000
Acmenia
DN cực nhỏ
<5
DN nhỏ
6 – 50
DN vừa
51 - 100
Nguồn:
(1) Hồ sơ các DNNVV (SMEs) và DNNVV công nghiệp (SMIs) khu vực APEC 1990-2000;
(2) Định nghĩa DNNVV của các nước đang chuyển đổi UN_EC, 1999; Tổng quan các DNNVV của OECD, 2000.
Hiện nay, tại Việt Nam chưa có một thống kê chính xác nào về số DNNVV xuất phát từ tiêu chí xác định DNNVV. Tuy nhiên, theo nhiều tác giả thì số lượng DNNVV của Việt Nam hiện chiếm khoảng gần 96% [1] trong tổng số các doanh nghiệp.
Có thể nói rằng, các DNNVV đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Ở một khía cạnh nào đấy, các DNNVV đã góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng GDP, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội, góp phần đáng kể vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, đáp ứng linh hoạt và đa dạng nhu cầu tiêu dùng, gia tăng kim ngạch xuất khẩu và là động lực thúc đẩy đổi mới cả về công nghệ quản lý cũng như kỹ năng của con người. Khi nói đến các DNNVV, đặc điểm nổi bật nhất được nhìn nhận cả trên những ưu thế cũng như những hạn chế, cụ thể như:
- Khả năng khởi nghiệp dễ dàng, không đòi hỏi gì nhiều về mọi mặt. Đây chính là một động lực hình thành một đội ngũ đông đảo các nhà doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện phát huy được mọi nguồn lực và khai thác các lợi thế trong xã hội. Không ít các doanh nghiệp lớn đã khởi nghiệp từ DNNVV.
- Các DNNVV rất linh hoạt, năng động, thích ứng nhanh với những chuyển biến về công nghệ quản lý, với sự thay đổi linh hoạt của thị trường, thể chế hoặc chế độ kinh tế. Thực tế, do quy mô nhỏ và đa phần là mô hình kinh tế tư nhân nên DNNVV rất linh hoạt, năng động trong mọi hoạt động, đặc biệt thích ứng nhanh với những bất định của thị trường và thể chế. Người ta thường nói đến khả năng "lách" thị trường của DNNVV chính là nhờ ưu điểm này.
- Đặc biệt thích nghi với việc phát huy mọi tiềm năng của địa phương. Hiện nay còn nhiều tiềm năng._. trong dân chưa được khai thác, tiềm năng về trí tuệ, tay nghề tinh xảo, lao động, vốn, điều kiện tự nhiên, bí quyết nghề, quan hệ huyết thống. Việc phát triển các doanh nghiệp sản xuất các ngành truyền thống trong nông thôn hiện nay là một trong những hướng quan trọng để sử dụng tay nghề tinh xảo của các nghệ nhân mà hiện đang có xu hướng bị mai một dần, thu hút lao động nông thôn, phát huy lợi thế của từng vùng để phát triển kinh tế , nâng cao thu nhập của dân cư. Việt Nam là một nước nông nghiệp, năng suất của nền sản xuất xã hội cũng như thu nhập của dân cư thấp. Thu nhập của dân cư nông thôn chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp thuần nông. Việc phát triển các DNNVV ở thành thị cũng như nông thôn là phương hướng cơ bản tăng nhanh năng suất và thu nhập của dân cư. Điều không kém quan trọng là thu nhập của dân cư được đa dạng hoá vừa có ý nghĩa nâng cao sức sống của dân cư, vừa làm cho cuộc sống giảm bớt rủi ro hơn, nhất là những vùng chịu ảnh hưởng của thiên tai.
- Là sự bổ sung thiết yếu cho chính sự sinh tồn và phát triển của các doanh nghiệp lớn, làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn. Điều đó thể hiện ở chỗ các DNNVV là nơi thử nghiệm kết quả nghiên cứu - triển khai, các phát minh sáng chế; đảm nhiệm các công đoạn nhất định trong quá trình sản xuất mà các doanh nghiệp lớn không cần thiết phải làm; cung cấp đa dạng các loại dịch vụ…Sự gia tăng nhanh chóng của các DNNVV kéo theo sự tăng lên nhanh chóng số lượng các mặt hàng, công nghệ và chuyển hướng kinh doanh nhanh cho nền kinh tế , có tác dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu quả hơn, làm đại lý vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hoá, cung cấp nguyên liệu, thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn không với tới.
Tuy nhiên, các DNNVV cũng có những điểm yếu nhất định, như:
- Thiếu nguồn lực để tiến hành những công trình nghiên cứu - triển khai lớn, đáp ứng yêu cầu và tận dụng khả năng của cách mạng khoa học và công nghệ. Đây thực sự là một khó khăn không nhỏ để các DNNVV có thể đi đầu trong các lĩnh vực công nghệ và tạo ra sự khác biệt nổi trội về sản phẩm. Sự thiếu thốn về nguồn lực của các DNNVV thể hiện không chỉ ở nguồn lực tài chính mà ở cả nguồn nhân lực.
Theo số liệu từ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thì quy mô trung bình của DNNVV (chủ yếu là loại hình kinh tế tư nhân) rất khiêm tốn cả về doanh thu và tài sản (bảng 1.2).
Bảng 1.2: Quy mô trung bình các doanh nghiệp theo hình thức sở hữu
Loại hình
Lao động
(người)
Doanh thu (VND)
Tài sản (VND)
Hộ kinh doanh cá thể
2
Công ty tư nhân
30
7,1 tỷ
4,7 tỷ
Hợp tác xã
39
2,8 tỷ
2,5 tỷ
Doanh nghiệp nhà nước
481
133,7 tỷ
247,5 tỷ
Nguồn: Tổng cục thống kê.
- Không đủ sức thực hiện những dự án lớn về đầu tư, chuyển đổi cơ cấu, về tiếp thị, đào tạo… để theo kịp, thúc đẩy và tận thu lợi ích của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này sẽ hạn chế rất nhiều sự chủ động và tiên phong trong cạnh tranh trong điều kiện hội nhập, nhất là trong các lĩnh vực có sự có mặt của các doanh nghiệp lớn.
- Không có ưu thế của kinh tế quy mô (economy of scale), tức là những thành quả và lợi ích đặc biệt mà chỉ từ một quy mô thích hợp (thường là đủ lớn) thì mới có được.
- Thường bị "lép vế" trong các mối quan hệ (với nhà nước, với thị trường, ngân hàng, các trung tâm nghiên cứu lớn, đối thủ…). Trong không ít các trường hợp để có được các mối quan hệ này, các DNNVV phải dựa vào các doanh nghiệp lớn, hình thành các "chân rết", các vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn.
- Thiếu sức phòng tránh và chống lại các rủi ro, những bất định của thị trường. Bên cạnh đó luôn xuất hiện nhiều doanh nghiệp mới và cũng có nhiều các doanh nghiệp bị phá sản, tạo ra sự chuyển động và thay đổi liên tục, làm mất đi phần nào lòng tin của đối tác và khách hàng.
- Các DNNVV rất khó tập trung lại được thành lực lượng thống nhất có sức mạnh để có vị thế chi phối về kinh tế, mặc dù không phủ nhận vai trò là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển.
1.2.2. Hội nhập – Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNVV có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hội nhập và phát triển nền kinh tế. Điều đó được thể hiện ở các nội dung cơ bản sau:
- Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cho các nước khả năng tiếp nhận các nguồn đầu tư, các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển nền kinh tế, đồng thời tạo ra sự lệ thuộc chặt chẽ, và phụ thuộc lẫn nhau. Các nền kinh tế trở nên cực kỳ nhạy cảm với những biến động của thị trường thế giới, và nếu mỗi quốc gia không xây dựng được đường lối hội nhập chủ động, không tích lũy đủ khả năng kháng cự thì sẽ khó tránh khỏi những tác động tiêu cực mà toàn cầu hoá mang lại. Trước tình thế đó, các quốc gia nào mạnh, DNNVV nào nhiều sức đề kháng thì sẽ tồn tại. Doanh nghiệp nào yếu sẽ bị dòng xoáy toàn cầu hoá cuốn đi. Do đó, việc nâng cao năng lực cạnh tranh là điều kiện tất yếu để các DNNVV Việt Nam tồn tại và phát triển.
- Trong bối cảnh toàn cầu hoá, DNNVV đang tham gia vào một sân chơi ngày càng mở rộng – “ sân chơi chung”, ở đó luật chơi công bằng cho mọi thành viên, không có ưu tiên ưu đãi cho bất cứ thành viên nào, đối mặt với một số đối thủ ngày càng lớn, già dặn hơn và mạnh hơn trên nhiều phương diện, từ tiềm lực tài chính, kinh nghiệm và thủ đoạn cạnh tranh trên thương trường, tri thức kinh doanh cho đến năng lực công nghệ, kỹ thuật. Trong khi đó DNNVV của Việt Nam yếu kém hơn về nhiều mặt, nếu không nâng cao năng lực cạnh tranh thì sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi. Cuộc đua tranh lại diễn ra trong bối cảnh quốc tế không ổn định, khó dự đoán, được quyết định bởi tốc độ, chu kỳ sản xuất và công nghệ ngày càng rút ngắn đến mức chỉ chậm một chút, doanh nghiệp có thể mất cơ hội. Nói cách khác, môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt đó đòi hỏi DNNVV muốn trụ vững và phát triển thì phải nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Thách thức không kém phần nghiêm trọng sẽ xảy ra ngay trên thị trường nội địa trong nước vì khi tham gia vào các tổ chức, diễn đàn quốc tế như ASEAN, AFTA, APEC, WTO… Việt Nam phải cam kết dần dần cắt giảm các mức thuế, xoá bỏ các rào cản về thuế và phi thuế quan, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia đối với các doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường Việt Nam. Với các cam kết cắt giảm thuế, những biện pháp bảo hộ bị gỡ bỏ, hàng tiêu dùng của nước ngoài ồ ạt nhập vào thị trường với giá rẻ hơn, chất lượng, hình thức hấp dẫn hơn. Trong điều kiện năng lực cạnh tranh của DNNVV Việt Nam vẫn còn yếu kém, nhiều doanh nghiệp còn lệ thuộc vào bảo hộ và bao cấp của nhà nước, để có thể tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp này phải nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Trong nền kinh tế hiện đại, tầm quan trọng của lợi thế cạnh tranh truyền thống như tài nguyên thiên nhiên và chi phí lao động rẻ đang giảm sút, tri thức, công nghệ và kỹ năng cao trở thành yếu tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh. Sự thay đổi này làm đảo lộn mạnh mẽ tư duy phát triển, đặt các DNNVV phải giải quyết nhiệm vụ kép: không chỉ phát triển tuần tự, cạnh tranh trong hiện tại mà còn phải chuẩn bị các điều kiện để chuyển sang nền kinh tế tri thức, chuẩn bị cạnh tranh trong tương lai khi còn đang ở trình độ thấp, yếu kém về năng lực cạnh tranh.
1.3. Nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV trong xuất khẩu
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DNNVV
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ở một khía cạnh nào đó được phản ánh thông qua các chỉ tiêu như lợi nhuận, thị phần, nhưng đó là tổng hợp của rất nhiều các yếu tố mà doanh nghiệp đó khai thác và tạo dựng được. Thực tế có rất nhiều những nhân tố chủ quan và khách quan khác nhau ảnh hưởng một cách trực tiếp và gián tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nhất là các DNNVV. Mỗi một nhân tố khác nhau sẽ có mức độ và phạm vi ảnh hưởng không giống nhau. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DNNVV như sau:
* Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế bao gồm các chính sách phát triển kinh tế, chính sách thương mại , đầu tư, hợp tác với nước ngoài... Các chính sách và biện pháp kinh tế nhằm khuyến khích hay hạn chế, ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành cụ thể, do đó có ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp thuộc các ngành đó. Ví dụ, đánh thuế vào nguyên liệu nhập khẩu sẽ đẩy giá thành sản phẩm xuất khẩu lên cao, làm cho nó không có năng lực cạnh tranh, như vậy là không khuyến khích xuất khẩu... Các chính sách kinh tế, mọi quy định và thủ tục phải minh bạch, đơn giản, không phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp sẽ tác động mạnh tới kết quả, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
* Môi trường pháp lý luôn được coi là nhân tố khách quan nhưng có rất nhiều ảnh hưởng đến khả năng tạo dựng năng lực cạnh tranh của DNNVV. Hệ thống pháp luật và chính sách là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường. Nó tạo ra khuôn khổ hoạt động cho doanh nghiệp, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Vì vậy, tính ổn định và chặt chẽ của nó tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Môi trường pháp lý sẽ tạo ra những thuận lợi cho một số doanh nghiệp này nhưng tạo ra những bất lợi cho doanh nghiệp khác. Việc nắm bắt kịp thời những thay đổi của các chính sách để có những điều chỉnh nhằm thích nghi với điều kiện mới là một yếu tố để doanh nghiệp thành công.
* Trình độ phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ, hạ tầng cơ sở và dịch vụ hậu cần. Đây được coi là nhóm yếu tố ảnh hưởng gián tiếp, nhưng có tác động cũng không hề nhỏ đến khả năng tạo dựng năng lực cạnh tranh của DNNVV. Các dịch vụ hỗ trợ như công nghệ thông tin, viễn thông, giao thông vận tải,… và các ngành công nghiệp phụ trợ, hạ tầng cơ sở có thể làm cho thời gian giao hàng bị kéo dài, chi phí xuất khẩu tăng lên đáng kể. Hiện nay, tại Việt Nam các ngành công nghiệp phụ trợ, nguồn cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành sản xuất còn rất kém phát triển đã dẫn đến chi phí cho sản phẩm bị tăng cao. Bên cạnh đó, giá cước viễn thông, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc còn chưa đáp ứng kịp với sự phát triển và gia tăng nhanh chóng của các doanh nghiệp. Tất cả những điều này đã làm cho giá thành sản phẩm của các DNNVV Việt Nam cao hơn so với mức giá trung bình trong khu vực và thế giới, làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
* Các nhân tố thuộc về con người và tri thức ban lãnh đạo. Đây là những nhân tố quan trọng nhất và có ảnh hưởng một cách trực tiếp nhất đến năng lực cạnh tranh của các DNNVV. Trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp thì cơ cấu Ban lãnh đạo, phẩm chất và tài năng của họ có vai trò quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng quyết định tới sự thành công của doanh nghiệp. Bất cứ doanh nghiệp nào, với quy mô nào, kết quả và hiệu quả của các mặt hoạt động đều phụ thuộc nhiều vào đức và tài của đội ngũ lãnh đạo cũng như cơ cấu tổ chức của bộ máy quản lý, vào việc xác định chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận, cá nhân và việc thiết lập các mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Chính vì thế tri thức ban lãnh đạo sẽ ảnh hưởng rất quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm. Cùng với đó, trình độ nhân viên, tay nghề của người lao động luôn là động lực tạo ra những lợi thế cạnh tranh và sự vượt trội trên những mặt khác nhau của doanh nghiệp so với đối thủ.
* Các yếu tố về công nghệ và kỹ thuật. Xu hướng phát triển khoa học công nghệ trên thế giới cũng như trong khuôn khổ quốc gia đều ảnh hưởng mạnh mẽ tới năng lực của doanh nghiệp. Hoạt động trong những ngành có tốc độ phát triển về công nghệ cao thì công nghệ chính là nguồn lực tạo ra sức mạnh cạnh tranh, là vũ khí cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải có khả năng nắm bắt và đón đầu được sự phát triển khoa học công nghệ, phải có kế hoạch đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm tăng khả năng cạnh tranh. Với các DNNVV, mặc dù rất nhanh nhạy trong chuyển đổi công nghệ xuất phát từ quy mô hạn chế của mình, nhưng lại gặp không ít khó khăn trong thay đổi thiết bị do hạn chế lớn về tài chính. Vì thế, nếu được sự hỗ trợ trong một chừng mực nhất định về tài chính và tiếp cận thường xuyên với công nghệ hiện đại sẽ tạo động lực mạnh mẽ để DNNVV có thể nâng cao chất lượng cũng như năng suất sản xuất, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và của doanh nghiệp.
* Vốn kinh doanh có lẽ là nhân tố luôn được các DNNVV quan tâm và chú trọng. Nguồn vốn sẽ có ảnh hưởng trực tiếp nhất đến khả năng đổi mới mặt hàng, mở rộng thị trường và gia tăng quảng bá cho sản phẩm. Tuy nhiên, nguồn vốn hoàn toàn không phải là nhân tố ảnh hưởng quyết định nhất đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Vấn đề là ở chỗ, doanh nghiệp phải biết huy động tối đa và khai thác, sử dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn vốn khác nhau.
Ngoài ra, còn có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp với những mức độ nhau đến năng lực cạnh tranh của DNNVV như đặc điểm về văn hoá, xã hội, thói quen, phong tục tập quán và phong cách làm việc, sự trợ giúp từ phía chính phủ và các cơ quan chức năng trong hệ thống quản lý nhà nước và ngành…
1.3.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của doanh nghiệp
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về phân tích năng lực cạnh tranh, xuất phát từ những góc độ và phương pháp luận tiếp cận khác nhau. Theo quan điểm phân tích theo cấu trúc thị trường, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được xem xét theo năm yếu tố của môi trường kinh doanh kinh tế vĩ mô theo mô hình của Michael Porter: các đối thủ cạnh tranh, các sản phẩm và dịch vụ thay thế, doanh nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào, sức mạnh của người mua, và các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Theo cách tiếp cận này ta chỉ thấy được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp từ góc nhìn định tính, việc định lượng năng lực cạnh tranh là không thể và cũng rất khó trong thực tiễn phân tích. Theo quan điểm phân tích trên cơ sở đánh giá lợi thế so sánh ( lợi thế so sánh theo phương pháp này là lợi thế về chi phí thấp ): thì trên thị trường cạnh tranh, giá cả đã được xác định, do đó doanh nghiệp nào tìm cách tiết kiệm chi phí sẽ giảm được giá thành và tăng lợi nhuận lên. Như vậy, phân tích năng lực cạnh tranh theo quan điểm này là phương pháp phân tích tĩnh, tức là xem xét năng lực cạnh tranh chỉ dựa vào khả năng tiết kiệm chi phí của doanh nghiệp và xem các yếu tố còn lại là không đổi. Trong khi đó, năng lực cạnh tranh là một khái niệm động, thường xuyên thay đổi theo sự biến động của môi trường. Phân tích năng lực cạnh tranh theo quan điểm tổng thể là quan điểm phân tích năng lực cạnh tranh của doanh ngiệp trong trạng thái động. Theo quan điểm này, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được phân tích trong mối quan hệ hữu cơ với môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động trong đó, chịu sự tác động của các yếu tố từ môi trường kinh doanh bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Môi trường bên trong doanh nghiệp chính là các yếu tố nội lực của doanh nghiệp, có vai trò quyết định trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh bên ngoài của doanh nghiệp bao gồm môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường kinh tế vi mô. Doanh nghiệp có thể có những tác động nhất dịnh tới môi trường kinh doanh kinh tế vi mô, nhưng đối với các yếu tố của môi trường kinh tế vĩ mô, doanh nghiệp chỉ có thể tìm cách thích nghi mà không thể kiểm soát được.
Với các góc độ tiếp cận khác nhau về năng lực cạnh tranh, người ta xây dựng hệ thống các tiêu chí khác nhau để xem xét, đánh giá. Nếu xem xét trên góc độ quốc gia, một nền kinh tế hay một địa phương thì hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá sẽ khác nhiều so với việc xem xét trên góc độ năng lực cạnh tranh của một ngành, của doanh nghiệp và của sản phẩm.
Ở cấp độ doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá một cách tổng thể nhất thông qua các chỉ tiêu sau:
- Sản lượng, doanh thu: đánh giá kết quả hoạt động của doanh nghiệp thể hiện năng lực đầu ra của doanh nghiệp. Sản lượng tiêu thụ sản phẩm tăng cao, doanh thu tăng trưởng cao và ổn định qua các năm chứng tỏ khả năng duy trì và giữ vững thị phần của doanh nghiệp.
- Thị phần: đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ, cho biết khả năng chấp nhận của thị trường với sản phẩm doanh nghiệp cung cấp. Thị phần sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp lớn hơn chứng tỏ nó có khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng cao hơn so với đối thủ cạnh tranh.
- Tỷ suất lợi nhuận: được đo bằng tỷ lệ giữa lợi nhuận doanh nghiệp thu được với chi phí, doanh thu, tài sản hoặc vốn của doanh nghiệp bỏ ra để thu được khoản lợi nhuận đó. Chỉ tiêu này đánh giá tính hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài các chỉ tiêu định lượng trên, năng lực cạnh tranh còn được đánh giá qua các chỉ tiêu định tính như: chất lượng hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh, khả năng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh và thương hiệu, uy tín, hình ảnh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh....
Các chỉ tiêu trên là biểu hiện bên ngoài của năng lực cạnh tranh. Chúng cho thấy kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng đồng thời chúng cũng là các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh theo lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, chúng chứng tỏ sức mạnh của doanh nghiệp trên thị trường khi đem so sánh với các đối thủ.
Với sản phẩm cụ thể, sức cạnh tranh thường được xem xét thông qua các tiêu chí như: Chất lượng sản phẩm (Nhìn cả trên khía cạnh chất lượng hữu dụng và chất lượng thấy được, giá trị gia tăng của sản phẩm...); Giá cả của sản phẩm (Trong tương quan với chất lượng thấy được và các chi phí chuyển đổi, chi phí tiêu dùng sản phẩm); Hệ thống kênh phân phối của sản phẩm (Phản ánh khả năng bao quát thị trường mục tiêu và năng lực duy trì các cam kết với khách hàng cũng như hiệu quả trong tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp đối với sản phẩm); Sự nổi tiếng của thương hiệu sản phẩm (Khả năng biết đến và cảm nhận của thương hiệu, cho thấy sức hút của thương hiệu và sản phẩm đối với người tiêu dùng); Thị phần của sản phẩm.
Với tiếp cận như trên việc nghiên cứu và phân tích về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu sẽ là rất khó khăn, đặc biệt khi nghiên cứu đồng thời nhiều doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau với quy mô vừa và nhỏ (khả năng xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường hầu như rất thấp). Cùng với đó là quan điểm cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được cấu thành chủ yếu từ sức cạnh tranh của sản phẩm (hay nói khác đi, sức cạnh tranh của sản phẩm là bộ phận cấu thành quan trọng và chủ yếu nhất của năng lực cạnh tranh doanh nghiệp). Từ đó, khi xác định hệ thống các tiêu chí để phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa, chúng ta tiếp cận theo hướng phân tích năng lực khai thác và phát triển các công cụ nhằm tạo dựng lợi thế cạnh tranh, từ đó có cái nhìn gián tiếp về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
1.3.3. Nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV trong xuất khẩu
Dựa trên các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung nêu trên, để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình các DNNVV thường tập trung vào những yếu tố sau đây:
- Vốn: Các DNNVV thường thiếu vốn nên việc quản trị và khai thác hợp lý các nguồn vốn thường được các DNNVV quan tâm nhiều hơn. Đây cũng là nguyên nhân được nhiều doanh nghiệp viện dẫn để biện hộ cho sự hạn chế trong năng lực cạnh tranh của mình. Doanh nghiệp cần khai thác và sử dụng tốt nhất các nguồn vốn hiện có, huy động được những nguồn vốn khác nhau phục vụ cho các chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp, đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn, liên doanh và liên kết trong xuất khẩu, tận dụng tối đa các nguồn tài trợ và đầu tư, quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính trong sản xuất kinh doanh.
- Chất lượng và giá cả sản phẩm xuất khẩu là chỉ tiêu quan trọng để nhận xét về sức cạnh tranh của sản phẩm, một yếu tố cấu thành quan trọng của năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Quản trị chất lượng là công cụ không thể thiếu trong nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm là trung tâm chú ý của khách hàng và là trung tâm của hình ảnh thương hiệu. Nâng cao chất lượng sẽ là điều kiện tiên quyết để cạnh tranh thành công. Việc áp dụng tích cực các công cụ quản lý chất lượng đồng bộ sẽ mang lại cho doanh nghiệp khả năng duy trì và nâng cao không ngừng chất lượng sản phẩm cung ứng ra thị trường.
- Nâng cao khả năng xâm nhập thị trường ngách. Với các DNNVV, việc đối đầu trực tiếp với các tập đoàn lớn là không thể, vì vậy để thành công trên thương trường, các DNNVV luôn tìm cách đi vào các thị trường ngách với những phân khúc chuyên biệt. Đây được coi như tiêu chí đánh giá mức độ linh hoạt để duy trì và phát triển năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Tăng kim ngạch xuất khẩu: Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng duy trì và mở rộng thị phần của doanh nghiệp.
- Tri thức ban lãnh đạo và quản trị nguồn nhân lực. Con người là trung tâm của mọi hoạt động, vì thế, các chiến lược và công cụ của doanh nghiệp áp dụng đều được bắt nguồn và triển khai thông qua đội ngũ nhân sự. Với đặc thù của doanh nghiệp nhỏ và vừa, tính tập trung trong lãnh đạo rất cao, mọi mệnh lệnh cũng như các chiến lược đều được đề xuất và triển khai trực tiếp từ Ban lãnh đạo công ty. Vì thế, tri thức ban lãnh đạo là nội lực quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Cùng với đó là khả năng quản trị nguồn nhân lực của doanh nghiệp, tạo điều kiện tốt nhất để người lao động phát huy những sáng tạo và tinh thần của mình, nhằm tạo ra một hiệu quả cao nhất cho quá trình sản xuất và quản lý phân phối sản phẩm.
- Phương thức kinh doanh xuất khẩu: Phương thức kinh doanh xuất khẩu như là một tiêu chí bổ sung, mang tính tổng hợp về kỹ năng của doanh nghiệp trong thực hiện các chiến lược kinh doanh và khả năng xâm nhập thị trường. Doanh nghiệp cần tập trung vào những vấn đề sau:
+ Khai thác các lợi thế sẵn có để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, đặc biệt trong điều kiện của các doanh nghiệp xuất khẩu. Các lợi thế có thể là lợi thế địa phương, lợi thế quốc gia và những lợi thế khác về tên gọi xuất xứ, chỉ dẫn địa lý, vùng nguyên liệu...
+ Phân đoạn thị trường và quản trị mối quan hệ với khách hàng. Một sản phẩm có thể có khả năng cạnh tranh cao ở một phân khúc này, nhưng chưa chắc đã có năng lực cạnh tranh tốt ở một phân khúc khác, vì thế việc phân khúc thị trường sẽ tạo điều kiện cần thiết để có những chính sách và chiến lược phù hợp trong từng giai đoạn và từng phân khúc riêng. Bên cạnh đó, mối quan hệ với khách hàng được quản trị tốt sẽ mang lại sự hài lòng cho khách hàng, giúp duy trì tập khách hàng trung thành - một tài sản thương hiệu quan trọng. Phân khúc hợp lý thị trường, chia nhỏ hợp lý các tập khách hàng mục tiêu theo những tiêu chí khác nhau, duy trì mối quan hệ công chúng và tạo giao diện tiếp xúc thương hiệu tốt nhất... sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình
+ Linh hoạt trong đổi mới mặt hàng. Tiêu chí này được nhìn nhận dưới góc độ khả năng đáp ứng những nhu cầu biến động thường xuyên của khách hàng, khả năng làm mới hình ảnh thương hiệu để từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh trong phân khúc thị trường mà mình phụ trách.
1.4. Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của một số nước trên thế giới và bài học cho các DNNVV Việt Nam
1.4.1. Kinh nghiệm
Mỗi quốc gia khác nhau đều có những chính sách khác nhau để trợ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNNVV. Dưới đây nêu ra kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực [21]:
Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan đang thực hiện rất nhiều các chính sách để hỗ trợ và phát triển các DNNVV mang tính nhất quán, toàn diện và đồng bộ. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ 20 Thái Lan đã thực hiện chính sách “công nghiệp hoá kiểu xí nghiệp dân gian” thay thế chính sách “công nghiệp hoá do chính phủ dẫn đường”, “xí nghiệp quốc doanh là chủ lực” với phương châm tích cực thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Có thể tiếp cận với những kinh nghiệm đáng quý của Thái Lan như:
- Lấy tư hữu hoá, chính sách kinh tế thị trường làm hạt nhân; chú trọng phát huy hiệu suất của ngành nghề tư doanh và bảo vệ lợi ích tư bản tư nhân, không thành lập các công ty quốc doanh cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân.
- Thực hiện chính sách “mở cửa” đa phương lâu dài, song có mức độ ưu tiên cho tư bản tư nhân trong nước ở các giai đoạn phát triển sau.
- Động viên, khuyến khích phát triển kinh tế xuất khẩu của tư nhân bằng các hình thức khen thưởng rất thiết thực và cụ thể.
- Thực hiện chính sách ngoại giao cân bằng, cụ thể là cân bằng trong quan hệ với các nước lớn như Mỹ, Nhật, EU, nhằm đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tránh cọ sát mậu dịch, tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp tư nhân.
Kinh nghiệm của Singapore
Số các DNNVV hiện chiếm đến 92% số các tổ chức kinh doanh và đang sử dụng 48% lực lượng lao động, đóng góp 29% tổng giá trị gia tăng của nền kinh tế Singapore. Chính phủ Singapore có quan điểm khuyến khích xuất khẩu đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau:
- Hỗ trợ có trọng điểm cho các doanh nghiệp, mà cụ thể là ưu đãi trước hết dành cho các DNNVV có triển vọng bằng cách giúp họ xây dựng hình ảnh, phương hướng, chiến lược hoạt động. Hỗ trợ chia sẻ thông tin, giúp mở rộng cơ sở kinh doanh thông qua mở rộng cơ sở sản xuất và hệ thống khách hàng. Cùng với đó, chính phủ giúp đỡ tất cả các doanh nghiệp địa phương dù lớn hay nhỏ thuộc nhiều lĩnh vực trong ứng dụng công nghệ, cải tiến chất lượng, tin học hoá, tăng cường xúc tiến mở rộng kinh doanh ra nước ngoài.
- Hợp tác với các công ty nước ngoài nhằm tạo sự hỗ trợ qua lại tốt nhất giữa DNNVV với các công ty đó để các DNNVV có thể nhận được công nghệ và khả năng sản xuất cao, có điều kiện đột phá vào thị trường mới (trước hết là trong khu vực) bằng cách biến mình thành vệ tinh cho các công ty lớn, tham gia mạnh vào các dịch vụ thầu phụ công nghiệp và đảm bảo uy tín, chất lượng.
- Xây dựng và phát triển Trung tâm DNNVV một cửa để hỗ trợ cho các doanh nghiệp thực hiện kế hoạch 5 mũi: công nghệ, tài chính, thông tin, thị trường và phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, quan điểm của Singapore là giúp đỡ thông qua các chính sách phát triển và nâng cấp theo cơ chế thị trường tự do chứ không lạm dụng trợ cấp trực tiếp và chế độ bảo hộ lâu dài.
Kinh nghiệm của Trung Quốc
Chính phủ Trung Quốc đang ngày càng quan tâm đầy đủ hơn đến việc đảm bảo duy trì một thị trường lành mạnh, cạnh tranh bình đẳng và hợp lý trong mọi ngành và mọi lĩnh vực kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV theo những thông lệ quốc tế, nhất là các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Có thể nói, quá trình hình thành và hoàn thiện chính sách cạnh tranh ở Trung Quốc đồng thời cũng là quá trình đẩy nhanh sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNVV, Trung Quốc đã sớm mạnh dạn triển khai một loạt các cuộc “phẫu thuật kinh tế” mang tính cách mạng, như:
Thứ nhất, xoá bỏ hệ thống giá độc quyền Nhà nước. Hiện nay thị trường đã điều tiết giá của 90% nguyên liệu sản xuất, 95% hàng tiêu dùng, 86% nông sản phẩm và các sản phẩm phụ trợ.
Thứ hai, hình thành cơ cấu đa sở hữu. Năm 1998, tỉ lệ khu vực kinh tế Nhà nước chỉ còn chiếm 28,4%, kinh tế tập thể 42,8% và kinh tế tư nhân 28,8%
Thứ ba, tăng quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước, hiện nay chỉ còn 3,3% số doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo kế hoạch sản xuất của Nhà nước.
Thứ tư, đa phương hoá và đa dạng hoá các kênh mở cửă với thế giới bên ngoài. Đây là một bước đi rất thích hợp để tạo điều kiện cho các DNNVV có thể tiếp cận và thâm nhập thị trường nước ngoài.
Cùng với đó vai trò của các Hiệp hội ngành hàng tại Trung Quốc cũng rất được chú trọng và khuyến khích, tạo điều kiện cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp, nhất là khi tham gia thị trường quốc tế và đối mặt với các quy định bảo hộ tạm thời cũng như những rào cản của các nước nhập khẩu.
1.4.2. Bài học rút ra cho các DNNVV Việt Nam
* Từ các kinh nghiệm của Trung Quốc, có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, đó là:
- Không thể có cạnh tranh hiệu quả khi các doanh nghiệp nhà nước bị buộc phải làm việc theo kế hoạch áp đặt từ trên xuóng và được nhận nhiều ưu đãi từ phía Nhà nước
- Công ty cổ phần đang và sẽ trở thành định hướng phát triển của các doanh nghiệp hiện đại do những ưu thế cạnh tranh vượt trội của nó trong huy động vốn, chia sẻ rủi ro, kích thích lao động sáng tạo, trách nhiệm và xã hội hoá lực lượng sản xuất xã hội.
- Mở cửa thị trường, đa dạng hoá và tuân thủ các cam kết hội nhập quốc tế là điều kiện quan trọng trong chính sách cạnh tranh của bất kỳ quốc gia nào.
- Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế nói chung, cho các DNNVV nói riêng thì chính sách cạnh tranh cần kết gắn chặt chẽ với chính sách tự do hoá kinh doanh và hoàn thiện công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước.
* Kinh nghiệm thành công của Singapore trong việc duy trì năng lực cạnh tranh xuất khẩu đã chỉ ra tầm quan trọng của sự can thiệp và bộ máy điều hành hiệu quả của Chính phủ. Những nhân tố này đã tạo điều kiện cho việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ để giúp Singapore nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu. Chất lượng chứ không phải là số lượng hỗ trợ của Chính phủ đã giúp cho việc tăng trưởng và phát triển ổn định. Chính phủ cần tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi để phát huy ưu điểm của thị trường và phát triển khu vực tư nhân.
Từ sự thành công của Singapore trong việc thu hút FDI Việt Nam cần phải xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi, xây dựng những mặt hàng mũi nhọn có năng lực cạnh tranh quốc gia và hướng đến hợp tác khu vực.
Một bài học khác mà Việt Nam rút ra từ kinh nghiệm của Singapore là việc đạt được trình độ cao trong phát triển nguồn nhân lực, trang bị cho người dân những kỹ năng cần thiết để nhanh chóng nắm bắt được công nghệ mới. Singapore không chỉ đầu tư vào giáo dục cơ bản mà còn tập trung vào chương trình đào tạo theo định hướng công ngh._.NVV, đồng thời là nơi quảng bá hình ảnh Việt Nam.
* Chính sách đầu tư.
Nhà nước cần sửa đổi và bổ sung quy hoạch, chiến lược phát triển ngành, địa phương cho phù hợp với tình hình thị trường, cam kết quốc tế và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, khuyến khích phát triển mạnh những sản phẩm có năng lực cạnh tranh hiện nay và trong tương lai, bảo hộ có chọn lọc để phát triển một số sản phẩm, dịch vụ thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện.
Nhà nước cần xác định những sản phẩm, dịch vụ trọng điểm, sản phẩm mới, độc đáo, xây dựng đồng bộ chương trình nâng cao năng lực cạnh tranh, tập trung đầu tư cho các sản phẩm, dịch vụ này và đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu, linh kiện, phụ tùng, phát triển công nghiệp phụ trợ sản xuất như thiết kế, tiếp thị, bao bì, đóng gói, sửa chữa. Ngoài ra, nhà nước cần tăng cường hơn các chính sách ưu đãi đầu tư và các lĩnh vực sản xuất và chế biến nguyên phụ liệu thay thế hàng nhập khẩu.
Nhà nước cần đầu tư vào những ngành mà đối thủ cạnh tranh, trực tiếp là các doanh nghiệp Trung Quốc và các nước ASEAN không có ưu thế hoặc ưu thế thấp, ưu thế đang giảm dân, tập trung đầu tư sản xuất những sản phẩm độc đáo nhằm đáp ứng nhu cầu của từng nhóm khách hàng cụ thể, tăng đầu tư vào những ngành mà các nước không có thế mạnh hoặc những phân đoạn thị trường Việt Nam có thế mạnh hơn, không đầu tư vào những mặt hàng Việt Nam chưa có năng lực cạnh tranh, không có thị trường tiêu thụ, giảm đầu tư vào các ngành mà các nước trong khu vực có thế mạnh và thị phần lớn hoặc hiện nước ta đã dư thừa công suất.
3.3.2. Các giải pháp vi mô - giải pháp thuộc về doanh nghiệp
3.3.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng, đổi mới và hạ giá bán sản phẩm
Nâng cao chất lượng và đổi mới sản phẩm được coi là giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNNVV. Tuy nhiên để nâng cao chất lượng và đổi mới sản phẩm không chỉ đơn thuần là hô hào mà quan trọng hơn cả là các doanh nghiệp phải tự nhận thức sâu sắc điều đó và phải có được những kiến thức sâu về thị trường cũng như thị hiếu tiêu dùng để từ đó có được chiến lược ngắn hạn cũng như dài hạn cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Để thực hiện được điều này các DNNVV cần tập trung vào một số biện pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, xây dựng trong doanh nghiệp một nền văn hoá lấy việc nâng cao chất lượng sản phẩm làm mục tiêu phấn đấu ở tất cả các bộ phận. Các nhà quản lý các cấp và người lao động trong doanh nghiệp phải nhiệt tình ủng hộ triết lý nâng cao chất lượng và hoạt động tốt để thực hiện triết lý này. DNNVV phải tạo cho người lao động ý thức quen với việc sử dụng hàng hoá theo tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn này có thể là tiêu chuẩn cơ sở, tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn nước ngoài hoặc tiêu chuẩn quốc tế. Doanh nghiệp cần tạo ra cho người lao động trong doanh nghiệp sự hứng khởi trong công việc, giúp họ xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ phải làm. Đặc biệt, để tăng tính trách nhiệm của người lao động, các nhà quản lý cần tổ chức lại công việc. Bên cạnh yêu cầu người lao động có thể trao cho người lao động nhiều quyền tự quyết hơn trong phạm vi nghiệp vụ vì điều này khích lệ người lao động tìm kiếm các phương pháp, giải pháp kỹ thuật mới để cải tiến quá trình hoạt động của họ. Mặt khác, để nâng cao chất lượng, cần khuyến khích sự tham gia của người lao động và quá trình ra quyết định. Để kích thích ý thức nâng cao chất lượng và tính sáng tạo đòi hỏi DNNVV phải xây dựng được một hệ thống đánh giá đúng đắn kết quả công việc cá nhân và tập thể – lấy đó làm cơ sở cho việc trả công và tiến cử. Với các DNNVV có thể tổ chức định kỳ các cuộc thi tay nghề cũng như các cuộc thi áp dụng sáng kiến trong sản xuất nhằm tạo điều kiện để người lao động phát huy khả năng của mình, gia tăng tìm tòi, cải tiến nâng cao năng suất lao động. Học tập kinh nghiệm của Nhật Bản và một số nước khác, trong các doanh nghiệp nên áp dụng mô hình nhóm chất lượng (QC) nhằm khai thác tối đa tính sáng tạo của các thành viên trong doanh nghiệp và nâng cao khả năng cũng như hiệu quả của các công cụ quản lý chất lượng tại doanh nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Thứ hai, tăng cường đầu tư, đổi mới trang thiết bị công nghệ, nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật gắn liền với đầu tư co hoạt động đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, để tạo ra đội ngũ người lao động không chỉ sử dụng thành thạo mà còn có khả năng làm chủ, sữa chữa, cải tạo dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị. Đối với công nghệ hiện đại, mới đầu tư doanh nghiệp phải tập huấn thật kỹ cho người lao động cơ chế vận hành, cách thức phát hiện và khắc phục nhanh chóng các sự cố. Thực hiện tốt giải pháp này không những tạo cho doanh nghiệp đội ngũ lao động, sản phẩm có chất lượng mà còn giúp doanh nghiệp giảm được các chi phí phát sinh.
Thứ ba, đưa vào áp dụng trong DNNVV các hệ thống quản lý tiên tiến, các công cụ và giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng. Hiện nay, có nhiều hệ thống quản lý như ISO 9000, ISO 14000, TQM...Các DNNVV cần nghiên cứu, áp dụng hệ thống thích hợp với điều kiện, đặc điểm cụ thể của mình. Việc đưa vào áp dụng các hệ thống quản lý mới chỉ là bước khởi đầu, để đảm bảo chất lượng ổn định, doanh nghiệp phải luôn theo dõi, kiểm tra, giám sát các quá trình tác nghiệp trong doanh nghiệp ở mọi khâu để đảm bảo những hoạt động đó phù hợp với yêu cầu của hệ thống quản lý. áp dụng hệ thống này không những giúp doanh nghiệp khẳng định chất lượng sản phẩm mà còn tạo ra hình ảnh thuyết phục về hệ thống quản lý chung của doanh nghiệp. Đồng thời, khẳng định sự cam kết của DNNVV trong việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng, không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đối với sản phẩm xuất khẩu, DNNVV phải nắm vững và đáp ứng các yêu cầu “ Quy định kỹ thuật ’’ chính là yêu cầu về chất lượng hàng hoá, được áp dụng đối với mọi hàng hoá, đặc biệt là các hàng hoá liên quan đến tính an toàn, sức khỏe của người tiêu dùng, đến vệ sinh và môi trường...Không nắm bắt kịp thời những quy định này, nhiều DNNVV làm hàng xuất khẩu đã phải trả giá vì nhiều lô hàng khi vừa tới cửa khẩu đã buộc quay trở lại bến xuất hoặc thậm chí bị tiêu huỷ.
- Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu sản phẩm. Tác giả J. Trust trong cuốn Định vị thương hiệu. Free Press, 1999 đã chỉ ra rằng, ngày nay quá trình cạnh tranh được tiến hành ngay từ trong nhà máy chứ không phải chỉ trên quầy hàng để nhấn mạnh về vai trò của công tác nghiên cứu, cải tiến sản phẩm của các doanh nghiệp. Với các DNNVV, tuỳ theo điều kiện và khả năng của mình có thể thành lập bộ phận nghiên cứu sản phẩm mới, hoặc thuê khoán các nhà thiết kế, các nhà nghiên cứu để luôn có những phương án tung sản phẩm mới ra thị trường. Bên cạnh đó, việc đổi mới thường xuyên hình ảnh thương hiệu thông qua cải tiến và thay đổi bao bì của hàng hoá cũng mang lại hiệu quả rất cao nhằm chống lại sự nhàm chán của khách hàng đối với hàng hoá của doanh nghiệp. Đầu tư về tài chính cho nghiên cứu sản phẩm cần được chú trọng hơn và cần coi đó như là một khoản đầu tư cho tương lai, hoàn toàn đó không phải là một loại chi phí đơn thuần trong sản xuất.
- Tăng cường nghiên cứu, thu thập ý kiến khách hàng để có được những phản hồi trung thực và đầy đủ nhất về chất lượng cảm nhận của sản phẩm do doanh nghiệp cung cấp. Việc nghiên cứu và thăm dò có thể thực hiện thông qua trang web của doanh nghiệp hoặc thông qua các hội chợ triển lãm tại nước ngoài. Hiện nay, đại đa số các DNNVV vẫn chỉ chú ý đến doanh số bán hàng và tìm kiếm những khách hàng tiềm năng mà rất ít quan tâm đến việc lắng nghe và tập hợp những phản hồi từ những người tiêu dùng cuối cùng. Vì thế, các DNNVV đã không có được những thông tin phong phú và sát thực nhất về sản phẩm mà mình cung cấp, từ đó thiếu tính định hướng cụ thể cho việc nâng cao và cải tiến chất lượng sản phẩm.
- Nhằm hạ thấp giá thành để nâng cao năng lực cạnh tranh, các DNNVV nên chủ động hơn về nguồn cung cấp nguyên liệu thông qua các hợp đồng liên kết trong cung ứng nguyên liệu cũng như chủ động tìm kiếm nguồn nguyên liệu thay thế (nếu có thể). Có thể lấy ví dụ về các doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ làm ví dụ cho biện pháp này. Hiện có không ít các DNNVV sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đã sử dụng nguyên liệu như nứa, giang để sản xuất hàng sơn mài thay vì phải dùng gỗ như trước đây; dùng bẹ chuối, bẹ ngô, bèo tây (lục bình) trong sản xuất hàng xuất khẩu. Với việc sử dụng các loại nguyên liệu như vậy đã gia tăng tính chủ động và hạ rất nhiều giá thành của sản phẩm do đây là những nguyên liệu tận dụng, rẻ tiền. Với các doanh nghiệp sản xuất và chế biến thuỷ sản, nông sản xuất khẩu, cần gia tăng liên kết với các cơ sở nuôi trồng, nếu có điều kiện nên tổ chức một phần tự nuôi trồng để chủ động về nguồn nguyên liệu cho sản xuất.
Tăng cường áp dụng và khuyến khích người lao động tham gia cải tiến trong sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Các DNNVV Việt Nam rất cần tập trung vào một số vấn đề sau trong quy trình sản xuất nhằm hạ giá thành sản phẩm:
+ Giảm thiểu hoặc mạnh dạn loại bỏ các công đoạn không hiệu quả trong quy trình sản xuất;
+ Giảm thiểu và hạn chế tối đa công việc vận chuyển nguyên liệu, bán thành phẩm (nếu có thể);
+ Tối ưu hoá việc vận chuyển thông qua sử dụng các dụng cụ và thiết bị xử lý nguồn nguyên vật liệu;
+ Rút ngắn tối đa khoảng cách cho công việc vận chuyển;
+ Đơn giản hoá và cải tiến các hoạt động vận hành và kiểm tra theo hướng có hiệu quả hơn.
Bên cạnh các biện pháp kinh tế kỹ thuật để cắt giảm chi phí, một biện pháp mang tính chiến lược cạnh tranh là định giá sản phẩm trên thị trường hay đoạn thị trường trọng điểm nào đó. Tức là quyết định về giá ban đầu cho các đối tượng khách hàng khác nhau, giá cả cho từng chủng loại sản phẩm, mức độ và khả năng kiểm soát giá trên các thị trường....Để có được mức giá thích hợp, cần thiết phải nghiên cứu và theo dõi những biến động của thị trường theo thời gian, mùa vụ, nhu cầu và thị hiếu, tình hình cạnh tranh, chính sách giá của đối thủ cạnh tranh và độ co giãn của cầu theo giá.
3.3.2.2 Giải pháp về xâm nhập và phát triển thị trường
Để chiếm lĩnh và làm chủ thị trường thì bên cạnh việc không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, phát triển và quảng bá thương hiệu, các DNNVV Việt Nam phải biết kết hợp sử dụng hợp lý các biện pháp sau;
- Tăng cường nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường cho phép doanh nghiệp có thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng trên thị trường, giá cả, dung lượng thị trường, các tham số thuộc về môi trường kinh doanh, từ đó có thể lựa chọn được mặt hàng kinh doanh, đối tượng giao dịch, phương thức kinh doanh sao cho đạt được hiệu quả cao nhất. Nghiên cứu thị trường bao gồm các bước quan sát, phân tích và dự đoán về tình hình thị trường, dự đoán về tình hình chung như phát triển kinh tế xã hội ở các nước và khu vực có liên quan, dung lượng thị trường, tình hình tài chính tiền tệ, chính sách và tập quán buôn bán làm cơ sở hình thành chiến lược thâm nhập thị trường. Cụ thể:
+ Công tác nghiên cứu thị trường phải được tiến hành song song cả trong phạm vi nội địa và quốc tế và cần phải được tiến hành một cách thường xuyên theo định kỳ tại tất cả các thị trường của doanh nghiệp và phải được xây dựng theo kế hoạch cụ thể, có sự phân công rõ ràng và thường xuyên được kiểm tra, đôn đốc.
+ Cho đến nay, hoạt động nghiên cứu thị trường quốc tế của đa số các DNNVV không chủ động và thiếu tính kế hoạch. Doanh nghiệp gần như lựa chọn theo cách thức phản ứng lại với thị trường, trong tương lai, các DNNVV xuất khẩu cần phải cố gắng chuyển từ tiếp cận thị trường một cách “ phản ứng hay bị động ” sang tiếp cận “ tích cực ”, tức là phải có định hướng, mục tiêu và chiến lược rõ ràng. Doanh nghiệp phải chủ động lựa chọn thị trường và tiến hành phân đoạn khách hàng trên các thị trường trên cơ sở đó xác định mặt hàng kinh doanh và thị trường xuất khẩu các mặt hàng cho một giai đoạn nhất định. Phương thức này sẽ đảm bảo tính hệ thống và tính kế hoạch trong việc lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Cụ thể, nên tiến hành nghiên cứu và tìm hiểu từ các nguồn thông tin sau đây:
+ Nghiên cứu qua mạng internet và qua các báo, tạp chí, phương tiện
thông tin đại chúng của Việt Nam và nước ngoài;
+ Nghiên cứu thông qua các nguồn từ Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), từ Hiệp hội các ngành hàng;
+ Nghiên cứu thông qua mạng lưới người thân đang học tập và công tác tại nước ngoài;
+ Nghiên cứu và thu thập thông tin từ các thương vụ Việt Nam tại nước ngoài cũng như tận dụng cơ hội gặp gỡ thương nhân nước ngoài tại Việt Nam;
+ Kết hợp nghiên cứu nguồn thông tin thứ cấp với nghiên cứu tại các hội chợ trong và ngoài nước.
Từ thực tiễn hiện nay, hàng xuất khẩu của Việt Nam mặc dù đã có mặt trên hơn 100 khu vực thị trường khác nhau, nhưng thực tế vẫn chỉ tập trung vào một số thị trường trọng điểm, vì vậy khi gặp những bất định của thị trường sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng xuất khẩu, các doanh nghiệp cần chủ động trong việc tìm kiếm và thâm nhập vào các thị trường mới thông qua các kênh khác nhau bên cạnh việc tăng cường duy trì các thị trường truyền thống của mình. Đây là bài học kinh nghiệm được rút ra sau khi các doanh nghiệp Việt Nam bị kiện vụ cá tra, cá basa và vụ kiện tôm vào Hoa Kỳ, giày dép vào EU, vụ EU cấm nhập khẩu đồ gỗ từ gỗ rừng nguyên sinh từ các nước Châu Á. Để có thể thâm nhập được vào các thị trường mới và mở rộng phát triển thị trường, các DNNVV nên tận dụng những ưu thế của mình đi vào các thị trường ngách. Điều này sẽ chỉ có thể thực hiện được khi các doanh nghiệp có những thông tin đầy đủ và chính xác về tình hình thị trường và thị hiếu tiêu dùng. Cần khai thác triệt để sự hỗ trợ của Chính phủ, tăng cường quan hệ và nắm bắt thông tin thị trường thông qua mạng lưới các thương vụ Việt Nam tại nước ngoài, gia tăng khai thác mạng lưới những người Việt đang học tập và công tác tại nước ngoài để thiết lập các mối quan hệ thương mại và triển khai các hệ thống kênh phân phối trực tiếp. Bên cạnh đó, cần duy trì mạng lưới bán hàng trung gian trong giai đoạn đầu khi chưa có khả năng triển khai các thị trường và khách hàng mới.
- Xúc tiến thương mại: song song với hoạt động tìm hiểu, nghiên cứu thị trường DNNVV cần tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại: như quảng cáo thông qua tham gia hội chợ quốc tế, quảng cáo trên mạng Internet vì đây là phương thức rất hiện đại có khả năng đem lại hiệu quả cao mà chi phí rẻ, phù hợp với thị trường nước ngoài nơi mà công nghệ thông tin đã phát triển. Thực chất của xúc tiến thương mại quốc tế là sự truyền tin giữa các nền văn hoá, giữa tập quán tiêu dùng này với tập quán tiêu dùng khác, do đó công việc xúc tiến gặp rất nhiều khó khăn đòi hỏi phải có đầu tư cao. Khoa học marketing đã chỉ ra rằng, các tập khách hàng khác nhau không có cùng một mong muốn như nhau hay những biểu hiện như nhau, họ luôn luôn có những động cơ thúc đẩy và kìm hãm khác nhau, nhận thức khác nhau tuỳ thuộc vào nền văn hoá, tập quán tiêu dùng....Do đó, xúc tiến thương mại quốc tế cũng có những phong cách khác nhau mới đạt được hiệu quả công tác xuất khẩu. Vì thế, DNNVV muốn chủ động trên thị trường phải xây dựng cho mình một lực lượng tác nghiệp xúc tiến thương mại nhạy cảm, năng lực thông tin và xử lý thông tin nhanh để giúp cho doanh nghiệp luôn giành được lợi thế trong cạnh tranh quốc tế. Đây cũng là yêu cầu mà các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện ngay để gia tăng năng lực cạnh tranh.
- Để nâng cao năng lực thâm nhập thị trường DNNVV cần thiết lập hệ thống kênh phân phối phù hợp. Đối với doanh nghiệp Việt Nam, khả năng bán hàng trực tiếp cho khách hàng cuối cùng là rất khó, chúng ta chưa có đủ khả năng để thiết lập mạng phân phối riêng do chi phí thiết kế kênh quá lớn so với quy mô xuất khẩu. Trong những năm trước mắt, các DNNVV Việt Nam cần cố gắng tiếp cận thị trường thông qua các trung gian phân phối của nước nhập khẩu vì thông qua kênh phân phối này sản phẩm có thể thâm nhập được vào thị trường mà không bị các yếu tố môi trường cản trở, gia tăng được năng lực cạnh tranh nhờ uy tín của người phân phối nước ngoài. Đây có thể được xem là giải pháp hợp lý nhất đối với việc nâng cao uy tín của sản phẩm và thực hiện chủ động hơn hoạt động phân phối trên thị trường nước ngoài.
3.3.2.3 Hình thành các liên kết trong xuất khẩu
Một xu hướng trong cạnh tranh ngày nay là chuyển dần từ cạnh tranh đối đầu sang cạnh tranh liên kết, hình thành các tập đoàn lớn với rất nhiều các doanh nghiệp vệ tinh. Vì thế, sự đơn độc của các doanh nghiệp, nhất là các DNNVV sẽ rất khó có thể trụ vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các DNNVV cần tạo dựng được các mối liên kết chặt chẽ trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng hoá. Để gia tăng các liên kết trong hoạt động xuất khẩu, các DNNVV cần thực hiện các biện pháp sau đây:
- Tham gia và hình thành các Hiệp hội, Câu lạc bộ ngành hàng để từ đó có thể giúp đỡ nhau trong chia sẻ kinh nghiệm cũng như tạo ra một thế lực mạnh hơn trong xuất khẩu hàng hoá. Kinh nghiệm của các thành viên trong Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản VASEP, của Hiệp hội những người sản xuất nón Chuông, Hiệp hội làng nghề Bắc Ninh rất đáng để các DNNVV học tập. Tại các Hiệp hội này, các thành viên không chỉ được chia sẻ về kinh nghiệm sản xuất và xuất khẩu mà còn có nhiều điều kiện để cùng nhau tham gia các hội chợ nước ngoài, tìm kiếm thị trường và khách hàng. Khi có những hợp đồng lớn, các doanh nghiệp trong Hiệp hội cùng nhau chia sẻ và hỗ trợ trong việc thực hiện hợp đồng.
- Tăng cường liên kết trong xuất khẩu thông qua các liên kết với các nhà cung cấp nguyên liệu, các cơ sở sản xuất vệ tinh và các nhà kinh doanh thương mại cũng như các cơ sở nghiên cứu khoa học, các nhà đầu tư để chủ động trong sản xuất cũng như thực hiện xuất khẩu một cách có hiệu quả nhất. Tuỳ theo điều kiện thực tế của mỗi doanh nghiệp cũng như đặc thù của mặt hàng sản xuất kinh doanh và sự trợ giúp của chính quyền trung ương cũng như địa phương mà có thể áp dụng các mô hình liên kết trong xuất khẩu với những quy mô và mức độ khác nhau. Theo chúng tôi, các DNNVV có thể áp dụng hai mô hình liên kết là mô hình liên kết giản đơn (hình 3.1) và mô hình liên kết chuỗi (hình 3.2).
Các DN cung ứng nguyên liệu, dịch vụ hỗ trợ
DN sản xuất hàng xuất khẩu
và các dịch vụ hỗ trợ
Cung cấp nguyên liệu
Cung ứng đơn hàng hoặc/và nguyên liệu
DN sản xuất hàng xuất khẩu
DN kinh doanh xuất khẩu
Cung cấp sản phẩm
Hình 3.1: Mô hình liên kết giản đơn trong xuất khẩu hàng hoá
Nguồn: Viện chiến lược Phát triển, Tổ chức Phát triển Công nghiệp LHQ. Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp. NXB Chính trị quốc gia, 1999.
XK trực tiếp
DN sản xuất hàng xuất khẩu
Vật tư
Nguyên liệu
Dịch vụ hỗ trợ
DN xuất khẩu hàng hoá
Các DN sản xuất vệ tinh
Viện nghiên cứu KH-CN
Các nhà đầu tư, ngân hàng
Hình 3.2: Mô hình liên kết chuỗi trong xuất khẩu hàng hoá
Nguồn: Viện chiến lược Phát triển, Tổ chức Phát triển Công nghiệp LHQ. Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp. NXB Chính trị quốc gia, 1999.
Mô hình liên kết giản đơn được đề xuất cho trường hợp các doanh nghiệp nhỏ phân bố rải rác trong các địa phương và nguồn nguyên liệu cho sản xuất chủ yếu là khai thác trong nước. Thông qua mô hình trên, các DNNVV có thể khai thác được kỹ năng thâm nhập thị trường cũng như kỹ năng kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp thương mại, điều này sẽ hạn chế bớt được những rủi ro và tạo điều kiện để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá. Đây là mô hình rất dễ triển khai, tuy nhiên mối liên kết này thường là lỏng lẻo và tồn tại theo từng giai đoạn hoặc theo từng thương vụ. Với mô hình liên kết theo chuỗi đòi hỏi sự nỗ lực rất cao của tất cả các bên, đặc biệt rất cần có sự hỗ trợ và can thiệp từ phía cơ quan chính phủ cả ở trung ương và địa phương. Mô hình này thích hợp nhất cho các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng xuất khẩu có lợi thế cao của Việt Nam để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và gia tăng nhận biết của khách hàng về sản phẩm và thương hiệu. Theo chúng tôi, trong chương trình thương hiệu quốc gia do Bộ Thương mại chủ trì nên hỗ trợ hình thành mô hình liên kết này tại một số doanh nghiệp làm điển hình để nhanh chóng đưa hình ảnh thương hiệu và sản phẩm Việt Nam đến với công chúng.
- Hình thành các liên kết tĩnh và động giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học và các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu triển khai thiết kế sản phẩm, đổi mới quy trình công nghệ và nâng cấp các trang thiết bị hiện có tại các doanh nghiệp. Thực tế này tại Việt Nam còn rất yếu. Số các cơ sở nghiên cứu khoa học trực thuộc doanh nghiệp hầu như không có (chưa đến 10%) [7], các cơ quan nghiên cứu và các trường đại học hầu như tách rời với các doanh nghiệp, đặc biệt với các DNNVV thì gần như không có sự liên kết nào. Các DNNVV nên tận dụng chất xám từ các nhà khoa học thông qua các hợp đồng nghiên cứu chuyển giao công nghệ hoặc hợp đồng tư vấn theo từng công đoạn và tư vấn chiến lược theo từng thời kỳ. Đây là kinh nghiệm của một số doanh nghiệp sản xuất và chế biến thuỷ sản, nông sản phía Nam đã và đang áp dụng và tỏ ra rất có hiệu quả. Với các nhà vườn ở Nam Bộ hoặc các cơ sở nuôi trồng, chế biến thuỷ sản, họ đã tạo được liên kết rất chặt chẽ với các viện nghiên cứu về giống cây trồng, giống thuỷ sản, sử dụng thường xuyên các chuyên gia về bảo vệ thực vật, thú y, chuyên gia xây dựng chiến lược và thương hiệu cho sản phẩm. Kết quả là chỉ sau một thời gian ngắn, năng suất nuôi trồng đã tăng cao (trên 30%) và hạ được bình quân đến 20 giá thành nhờ áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật [5]. Hiện nay, Chính phủ đã chỉ đạo, để đẩy mạnh xuất khẩu và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế cho sản phẩm Việt Nam, cần hình thành các mối liên kết chặt chẽ giữa các nhà: nhà nông, nhà khoa học, nhà nước, nhà băng, nhà buôn, nhưng trong thực tế triển khai rất cần sự tích cực và chủ động của các doanh nghiệp.
- Cùng với các liên kết trên đây, các DNNVV cần chủ động và tạo dựng được các liên kết với các cơ sở cung cấp dịch vụ và hậu cần như các hãng và đại lý vận tải, bảo hiểm, khai thác tối đa hiệu quả của mạng lưới thông tin liên lạc, nhất là tăng cường sử dụng và khai thác mạng internet phục vụ cho hoạt động tìm kiếm bạn hàng, thông tin thị trường phục vụ cho xuất khẩu hàng hoá.
3.3.2.4. Giải pháp về bồi dưỡng đội ngũ và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực
Nhân lực luôn là vấn đề mấu chốt để một doanh nghiệp thành công trong kinh doanh. Vì thế mọi vấn đề của doanh nghiệp đều cần và trước hết được thực hiện thông qua một đội ngũ từ lãnh đạo cấp cao đến nhân viên và người lao động có năng lực và trình độ nhất định. Doanh nghiệp phải xây dựng được chiến lược đào tạo và được thực hiện có kế hoạch một cách nhất quán và theo những định hướng được lựa chọn thận trọng, phù hợp với chiến lược phát triển chung của doanh nghiệp, thậm chí song hành với chiến lược chung của doanh nghiệp với tầm nhìn ít nhất 5-10 năm. Mức đầu tư cho hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải đạt một tỷ lệ hợp lý trong quỹ tiền lương của doanh nghiệp, đẩy mạnh các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng là giải pháp quan trọng hàng đầu để tăng cường quản lý và khai thác có hiệu quả cơ sở tri thức của doanh nghiệp. Nội dung cần đào tạo, bồi dưỡng bao gồm cả các kỹ năng, tri thức chuyên môn, nghiệp vụ lẫn các kỹ năng nghiên cứu, khai thác, sử dụng tri thức vào các hoạt động của doanh nghiệp và chia sẻ các tri thức đó với các đồng nghiệp. Các biện pháp được đề xuất trong nhóm giải pháp này là:
- Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý và lãnh đạo của đội ngũ lãnh đạo đơn vị, thông qua các lớp bồi dưỡng kỹ năng hoặc theo học các lớp tập trung, đặc biệt là các lớp về quản trị doanh nghiệp, marketing, kỹ năng xuất nhập khẩu, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế. Các DNNVV cần gia tăng chi phí cho đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ để có thể cập nhật được những kiến thức và công nghệ hiện đại, khai thác tối đa hiệu quả của trang thiết bị cũng như mạng lưới cơ sở hạ tầng hiện có.
- Định kỳ kiểm tra tay nghề của người lao động và mở các lớp bồi dưỡng nâng cao tay nghề theo cách mở trực tiếp tại doanh nghiệp hoặc cử người theo học các lớp tập trung dài hạn và ngắn hạn tại các cơ sở đào tạo. Theo Báo cáo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương thì số lao động có tay nghề cao hoặc được đào tạo chính thức ở Việt Nam, đặc biệt là trong các DNNVV rất thấp (chẳng hạn trong ngành nông nghiệp chiếm 60% tổng số lao động trong cả nước, nhưng chỉ có 3,85% số người được đào tạo) [7]. Kỷ luật trong lao động của người Việt Nam nói chung và tại các DNNVV cũng rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì thế, bên cạnh việc bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động, các DNNVV cần có những biện pháp tăng cường kỷ luật lao động cho người lao động thông qua các quy định nội bộ, đối xử công bằng, đảm bảo chế độ bảo hiểm xã hội và giáo dục thường xuyên cho người lao động.
- Tăng cường bồi dưỡng kiến thức ngoại ngữ và tin học cho đội ngũ nhân viên kinh doanh để có thể chủ động ứng phó với các tình huống bất định của thị trường và khai thác tốt các nguồn thông tin trên các phương tiện khác nhau, nhất là qua mạng internet.
KẾT LUẬN
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam với số lượng lớn, địa bàn rộng khắp đã góp phần to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhưng trong bối cảnh hội nhập toàn cầu về kinh tế, các doanh nghiệp không những phải cạnh tranh ở các thị trường ngoài nước mà còn phải cạnh tranh ở thị trường trong nước với các doanh nghiệp của nước mình và của nước ngoài.Vấn đề cạnh tranh luôn là một thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp, đòi hỏi sự chủ động rất lớn từ mỗi doanh nghiệp. Để phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình trong giai đoạn tới, các DNNVV Việt Nam phải tận dụng mọi thế mạnh của mình và hạn chế các yếu kém, nhược điểm để tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh lớn trong nước và trên thế giới. Mặt khác Nhà nước cần tạo ra hành lang pháp lý chung và các chính sách hỗ trợ cần thiết khác cho các DNNVV bởi nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV Việt Nam là một sự nghiệp khó khăn, lâu dài đòi hỏi cả Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội cùng chung sức thực hiện.
Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp các lý luận, quan điểm khác nhau, đề tài đã đạt được về cơ bản những kết quả như sau:
- Hệ thống hoá được cơ sở luận để phân tích và nhìn nhận vấn đề năng lực cạnh tranh cấp độ doanh nghiệp và của sản phẩm. Trên cơ sở đó đã chỉ ra được những nhân tố ảnh hưởng cũng như các công cụ cần thiết tạo dựng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Tập trung phân tích thực trạng tình hình tạo dựng năng lực cạnh tranh của các DNNVV Việt Nam trên các khía cạnh chủ yếu như thị phần của DNNVV, mặt hàng và chất lượng sản phẩm của các DNNVV để từ đó có thể chỉ ra những tồn tại trong các DNNVV Việt Nam.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DNNVV Việt Nam trong giai đoạn tới. Đây là nhóm các giải pháp theo tiếp cận cả ở góc độ doanh nghiệp cả trên góc độ quản lý nhà nước của các cấp từ trung ương đến các địa phương, các ngành, các hiệp hội ngành hàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
Bộ Thương mại (2006), Báo cáo Phát triển doanh nhiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2006-2010.
Bộ Thương mại (2000), Đề tài NCKH cấp Bộ. Giải pháp đồng bộ đẩy mạnh xuất khẩu đối với các DNNVV tại tp. Hồ Chí Minh từ nay đến 2020”. Mã số B1999-78-051
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Báo cáo đánh giá tình hình thi hành Luật doanh nghiệp.
Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Thương mại, Giao thông vận tải, Khoa học & công nghệ, Lao động thương binh và xã hội, Tài nguyên và môi trường, Tài chính, Công nghiệp, Ngân hàng nhà nước, các Hiệp hội ngành hàng, (2006), Báo cáo phát triển DNNVV giai đoạn 2006-2010
Báo cáo về phát triển xuất khẩu nông sản khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, (2005).
Báo cáo tình hình phát triển sản xuất và xuất khẩu cà phê giai đoạn 2005-2010. Buôn Mê Thuột 11/2005.
CIEM- Dự án VIE 01/025 của UNDP, (2005) Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. NXB Giao thông vận tải.
Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội.
Cục Xúc tiến thương mại. (2005), Khảo sát về năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu thuỷ sản tại các tỉnh phía Nam năm 2005 thông qua chương trình hỗ trợ của Cục Xúc tiến thương mại - Bộ Thương mại và Hiệp Hiệp hội chế biến & Xuất khẩu thuỷ sản (VASEP) cho những mặt hàng xuất khẩu trọng điểm.
P.A Samuelson và W.D Nordhaus, (1989) Kinh tế học tập 2 xuất bản lần 2, Viên quan hệ quốc tế, Hà Nội.
Nguyễn Vĩnh Thanh (2005), Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế. NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Quốc Thịnh (2001), Đề tài NCKH cấp Bộ "Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam". Mã số B2001-39-37
Từ điển Bách khoa, (1995), NXB Từ điển bách khoa. Hà Nội.
Từ điển thuật ngữ kinh tế học, (2001)NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội
VCCI, (1998) Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Thực trạng và giải pháp. NXB Thống kê, Hà Nội.
VCCI, (Tháng 9/2005),Đề án phát triển DNNVV giai đoạn 2005-2010.
VCCI, (Tháng 9/2004), Chương trình hỗ trợ DNNVV giai đoạn 2005-2010.
Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp, (Tháng 2/2004) Doanh nghiệp nhỏ và vừa - các vấn đề và giải pháp chủ yếu.
Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp.Sáu bài học kinh nghiệm trong chính sách cạnh tranh của Trung Quốc.
(
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM). Báo cáo về năng lực cạnh tranh năm 2005.
Tài liệu của WB các năm 2001, 2002, 2003, 2004 về các DNNVV.
Trang Website:
http:www.noip.gov.vn
http: www.mot.gov.vn
Tiếng anh
Micheal Porter. The Competitive Advantage of Nation. "To achieve competitive success, firms from the nation must possess a competitive advantage in the form of either lower cost or differentiated products that command premium prices. To sustain advantage, firms must achieve more sophisticated competitive advantage overtime, through providing higher - quality products and services or producing more efficently". The Free Press 1990.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVTS018.doc