MỤC LỤC
A/ MỞ ĐẦU
Trong cơ chế thị trường, kinh doanh luôn gắn liền với cạnh tranh. Mõi doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế đều phải tự mình vận động thích nghi với cơ chế này.
Nền kinh tế thị trường phải vận hành, phải tuân thủ những quy luật kinh tế khách quan riêng của nó, trong đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển.
Trong những năm đổi mới nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trườ
115 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Sông Đà trong thời kỳ hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng, nền kinh tế đã có những bước tiến rõ rệt. Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đã có những thuận lợi nhất định đem lại hiệu quả kinh tế cao. Các doanh nghiệp từng bước thoát khỏi tình trạng trì trệ, kém năng động trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây và đã chủ động trong hoạt động kinh doanh, tìm ra hướng đi mới cho doanh nghiệp mình; từ đó không ngừng đổi mới đáp ứng nhu cầu thị trường. Để đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh với nhau. Muốn làm được điều đó một cách hiệu quả, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Trải qua hơn 45 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành, Tổng công ty Sông Đà không ngừng phát triển, tạo lập vị thế trên thị trường. Trong bối cảnh chung với sự cạnh tranh khốc liệt cả thị trường trong nước và quốc tế như vậy, Tổng công ty Sông Đà cũng phải tự đổi mới mình để đứng vững và phát triển trong tương lai. Vốn hoạt động trong lĩnh vực đã có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nên công ty cũng có nhiều thuận lợi về vốn đầu tư, thị trường...Tuy nhiên do đặc điểm của lĩnh vực mà Tổng công ty hoạt động là đầu tư lớn, chu kỳ sản xuất dài, vòng quay vốn chậm, đòi hỏi tổ chức, chuyên môn hoá, hợp tác hoá cao làm cho hiệu quả sản xuất cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy việc nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty đã được ban giám đốc, lãnh đạo công ty rất quan tâm. Phương châm, định hướng phát triển sản xuất trong thời gian tới của công ty là phát huy nội lực, tăng năng lực sản xuất, chủ động hội nhập kinh tế.
Sau khi nghiên cứu tài liệu tham khảo và tìm hiểu thực tế tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Sông Đà , em đã chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Sông Đà trong thời kỳ hậu WTO" làm chuyên đề tốt nghiệp. Với sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Ngọc Sơn cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của các cô, bác, chú, các anh chị trong Tổng công ty nói chung và trong phòng kế hoạch nói riêng, em đã hoàn thành chuyên đề này.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Chương II: Đánh giá năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Sông Đà
Chương III: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh trnah của Tổng công ty Sông Đà
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Phan Thị Thảo
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH
VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
1.1. Cơ sở lý luận về cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh nói chung là sự phấn đấu, vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí hàng đầu trong một lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu quả cao nhất.
Trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều có cạnh tranh. Không có cạnh tranh sẽ không có sinh tồn và phát triển. Đó là quy luật tồn tại của muôn loài.
Cạnh tranh không phải là một khái niệm mới nhưng để có một định nghĩa thống nhất và rộng rãi về nó thì rất khó khăn. Nguyên nhân là khái niệm “ cạnh tranh” được sử dụng ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề, ở nhiều cấp độ khác nhau (cá nhân, doanh nghiệp và quốc gia ) và với mục đích khác nhau (lợi nhuận, phúc lợi xã hội …). Trong thực tế, cạnh tranh là một khái niệm thường được dùng nhiều nhất trong khoa học kinh tế nhưng nó cũng không được định nghĩa một cách cụ thể và rõ ràng.
Cạnh tranh phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Theo Các Mác: “ Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điêu kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận siêu ngạch” . Ở đây, Các Mác đã đề cập đến vấn đề cạnh tranh trong xã hội TBCN, mà đặc trưng của chế độ này là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do đó, theo quan niệm này thì cạnh tranh có nguồn gốc từ chế độ tư hữu. Cạnh tranh là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại. Quan điểm đó về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ tiêu cực. Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội. Do vậy, cạnh tranh có thể được hiểu như sau: “Cạnh tranh là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị trường hàng hóa cụ thể nào đó nhằm giành giật khách hàng và thị trường, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hóa và thu được lợi nhuận cao”. ( Trần Sửu, 2005, tr.46 ). Chủ thể kinh doanh ở đây là các cá nhân, các doanh nghiệp và các nền kinh tế các Quốc gia. Trong khái niệm cạnh tranh này không có cạnh tranh của hàng hóa vì bản thân hàng hóa không phải là một chủ thể kinh doanh và do đó nó không thể tự cạnh tranh được. Nói cạnh tranh ở đây là nói đến hành vi của chủ thể và vì vậy chỉ có hành vi của doanh nghiệp kinh doanh, của các nhân kinh doanh và của một nền kinh tế. Để xuất hiện cạnh tranh trong nền kinh tế cần phải tồn tại một thị trường nghĩa là phải có một nền kinh tế thị trường; thị trường đó phải có tối thiểu hai thành viên bên cung hoặc bên cầu cung cấp hay tiêu thụ cùng một loại sản phẩm, dịch vụ hoặc các sản phẩm, dịch vụ tương tự nhau hoặc có tính chất thay thế cho nhau và mức độ đạt mục tiêu của thành viên này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ đạt mục tiêu của thành viên khác (chẳng hạn việc mở rộng thị phần của một doanh nghiệp sẽ có nguy cơ làm mất thị phần của doanh nghiệp còn lại, làm giảm doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp còn lại).
Quy luật của cạnh tranh là thải loại những thành viên yếu kém trên thị trường, duy trì và phát triển những thành viên tốt nhất và qua đó hỗ trợ đắc lực cho quá trình phát triển của toàn xã hội. Kết quả của cạnh tranh sẽ xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, vì thế mỗi doanh nghiệp đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược cạnh tranh phù hợp để vươn lên tới vị thế cao nhất
1.1.1.2. Lợi thế cạnh tranh
Để đánh giá sự thành công của một doanh nghiệp thông thường người ta xem xét đến vị trí mà nó chiếm giữ được trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh. Nếu một doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao về mặt tài chính, vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh khác thì đó là do doanh nghiệp biết sử dụng hợp lý những nguồn lực, năng lực tích lũy của mình vào các lĩnh vực đã chọn, biết lựa chọn nhà cung cấp và có kênh phân phối sản phẩm hiệu quả. Để có thể duy trì kết quả đạt được trong dài hạn, phát triển doanh nghiệp một cách hợp lý đòi hỏi doanh nghiệp phải có những yếu tố chủ lực, những yếu tố này gọi là lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh được xây dựng từ những đặc trưng của bối cảnh cạnh tranh và nằm ngay trong các thức phân bổ nguồn lực riêng của từng doanh nghiệp.
Theo lý thuyết của Michael Porter đưa ra thì lợi thế cạnh tranh có thể xây dựng theo hai cách sau đây:
Cách thứ nhất là làm giống đối thủ cạnh tranh nhưng rẻ hơn, tức là với chi phí thấp hơn. Trong trường hợp này doanh nghiệp sẽ có lợi thế hơn về chi phí so với đối thủ cạnh tranh. Một khi mà doanh nghiệp đã kiểm soát được chi phí nó sẽ có một “vũ khí cạnh tranh” rất có hiệu quả đó là giá cả. Vũ khí này cho phép doanh nghiệp tăng lợi nhuận hoặc chiếm lĩnh thị phần của các đối thủ cạnh tranh.
Cách thứ hai là làm khác đối thủ cạnh tranh tức là doanh nghiệp có thể làm tốt hơn và bán đắt hơn hoặc làm đơn giản hơn và bán rẻ hơn. Trong trường hợp đầu doanh nghiệp tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm và dịch vụ mà mình cung cấp theo hướng hoàn thiện hơn với chi phí cao hơn. Do đó bán với giá cao hơn mà doanh nghiệp vẫn được thị trường chấp nhận. Trong trường hợp thứ hai, doanh nghiệp lại tạo ra sự khác biệt theo hướng ngược lại bằng cách đơn giản hóa sản phẩm và dịch vụ với chi phí thấp hơn nên có mức giá thấp hơn để chinh phục thị trường. Trong cả hai trường hợp ta đều thấy doanh nghiệp đều có lợi khi tạo ra được một sự chênh lệch giữa chi phí và giá bán, tức là có lợi so với các đối thủ cạnh tranh.
Cũng theo lý thuyết này doanh nghiệp nhằm vào hai mục tiêu là vào toàn bộ thị trường và chấp nhận đối đầu với các đối thủ cạnh tranh. Trong trường hợp này tham vọng của doanh nghiệp sẽ trở thành người dẫn đầu thị trường. Hoặc một lựa chọn khác là doanh nghiệp chỉ nhằm vào một phân đoạn thị trường (khách hàng ) đặc biệt. Lúc này, tham vọngc ủa doanh nghiệp là tránh đối đầu trực tiếp với các đối thủ cạnh tranh mạnh và kiểm soát phân đoạn thị trường này.
1.1.1.3. Vai trò của cạnh tranh
Trong cơ chế thị trường, kinh doanh luôn gắn liền với cạnh tranh. Kinh doanh là cạnh tranh gay gắt không khoan nhượng. Mỗi một doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế đều phải tự mình vận động thích nghi với cơ chế này. Cạnh tranh và quy luật cạnh tranh được thừa nhận. Vai trò của cạnh tranh ngày càng được thể hiện rõ nét hơn.
Đối với toàn nền kinh tế
Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động xã hội. Chúng ta biết kết quả của cạnh tranh là loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao trong sản xuất kinh doanh, không có chiến lược cũng như chiến lược kinh doanh không hiệu quả. Một nền kinh tế mạnh là khi có các công ty, các doanh nghiệp vững mạnh và có khả năng cạnh tranh cao. Tuy nhiên cạnh tranh ở đây phải là cạnh tranh hoàn hảo thì nền kinh tế mới bền vững được, còn cạnh tranh độc quyền làm cho nền kinh tế không ổn định, môi trường cạnh tranh không ổn định dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích, quyền lợi.
Cạnh tranh sẽ đảm bảo việc điều chỉnh quan hệ giữa cung và cầu (quyền tự chủ của người tiêu dùng ). Cạnh tranh sẽ điều khiển sao cho những nhân tố sản xuất sẽ được sử dụng vào những nơi có hiệu quả nhất, làm giảm thiểu tổng giá thành của sản xuất xã hội. Dưới điều kiện cạnh tranh là những tiền đề thuận tiện nhất làm cho sản xuất thích ứng linh hoạt dưới sự biến động của cầu và công nghệ sản xuất. Cạnh tranh sẽ tác động một cách tích cực đến việc phân phối thu nhập thông qua việc cản trở sự bóc lột trên cơ sở quyền lực thị trường và việc hình thành thu nhập không tương ứng với năng suất. Sự thúc đẩy đổi mới được coi là một chức năng cạnh tranh năng động trong những thập kỷ gần đây.
Đối với doanh nghiệp
Cạnh tranh là điều bất khả kháng đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh có thể gọi là cuộc đua khốc liệt mà các doanh nghiệp không thể lẩn tránh mà cần tìm mọi cách vươn lên để chiếm ưu thế và chiến thắng.
Cạnh tranh buộc các nhà sản xuất kinh doanh phải vươn lên tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, dịch vụ bán càng ngày càng hoàn thiện hơn đáp ứng nhu cầu khách hàng và bao giờ các đối thủ cũng tìm cách đưa ra mức giá thấp nhất và có thể chất lượng hoàn hảo nhất. Chính điều này khiến các doanh nghiệp phải lựa chọn phương án chiến lược nội dung tối ưu như: chi phí nhỏ nhất, công nghệ hiện đại cạnh tranh khiến các doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới tạo sức ép cho các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình để giảm giá thành, nâng cao chất lượng.
Mỗi doanh nghiệp không thể lẩn tránh cạnh tranh vì như vậy là cầm chắc sự thất bại, có thể dẫn tới phá sản. Vì thế doanh nghiệp muốn vươn lên phải xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh hợp lý. Coi cạnh tranh như là một công cụ, là bàn đạp vươn lên. Trong cơ chế thị trường và trong thương mại quốc tế, cạnh tranh có vai trò làm cho giá cả của hàng hóa giảm xuống, chất lượng của hàng hóa không ngừng tăng lên và các dịch vụ sau bán hàng ngày càng tăng lên. Vì thế, trước hết cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hóa các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, phải không ngừng áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất.
Sự cạnh tranh khốc liệt làm cho các doanh nghiệp ngày càng vững mạnh, phát triển đi lên, chỉ có cạnh tranh mới làm cho doanh nghiệp ngày thể hiện được khả năng, bản lĩnh của doanh nghiệp trong quá trình tồn tại và phát triển.
Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan, các doanh nghiệp tham gia vào thị trường đều chấp nhận cạnh tranh, cạnh tranh thúc đẩy sản xuất và phát triển. Cạnh tranh sẽ đào thải những doanh nghiệp hoạt động yếu kém, giúp doanh nghiệp tìm tòi và khắc phục những yếu điểm để vươn lên nắm giữ thị trường. Doanh nghiệp nào có chính sách cạnh tranh hiệu quả sẽ tạo ra được vị thế trên thị trường, tăng lợi nhuận và tăng thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, vị thế cạnh tranh chỉ mang tính tương đối, có thể là lớn ở điểm này nhưng lại yếu ở điểm khác. Như vậy, doanh nghiệp phải luôn nhìn nhận cạnh tranh, điều kiện cạnh tranh như là một trong các căn cứ quan trọng để xây dựng chiến lược phát triển trước mắt cũng như lâu dài.
Đối với khách hàng
Trên thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra càng gay gắt thi người được lợi nhiều nhất là khác hàng. Khi có cạnh tranh thì người tiêu dùng (khách hàng) được tiêu dùng hàng hóa có chất lượng cao hơn với giá cả phải chăng, nhu cầu của người tiêu dùng được đáp ứng tốt hơn. Có được điều đó là vì có cạnh tranh nên hàng hóa trong trao đổi quốc tế trở nên phong phú và đa dạng về chủng loại, bao bì, mẫu mã và đặc biệt là chất lượng ngày càng cao, giá thành hạ. Bất kỳ hàng hóa nào muốn tham gia vào thị trường thế giới đều phải kiểm tra chất lượng. Chẳng hạn, hàng thủy sản của Việt Nam muốn vào được thị trường EU phải đạt tiêu chuẩn chất lượng theo HACCP (hệ thống phân tích mối nguy tại điểm kiểm soát tới hạn).
1.1.2. Phân loại cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1.1.2.1. Căn cứ vào chủ thể tham gia vào thị trường
- Cạnh tranh giữa người bán với người mua
- Cạnh tranh giữa người bán với nhau
- Cạnh tranh giữa người mua với nhau
1.1.2.2. Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cạnh tranh giữa các công ty, các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hàng nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch, cạnh tranh dưới góc độ chi phí lao động cá biệt nhỏ hơn chi phí lao động xã hội cần thiết sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Do vậy để thu được lợi nhuận các doanh nghiệp thi đua cạnh tranh vệ khoa học kỹ thuật, phải luôn cải tiến công cụ sản xuất, máy móc thiết bị.
- Cạnh tranh ngoài ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng minh các doanh nghiệp của một ngành với những ngành khác nhằm đạt được lợi nhuận cao và tìm kiếm nơi đầu tư có lợi (những nơi có tỷ suất lợi nhuận cao).
Rõ ràng giữa các ngành kinh tế do điều kiện kỹ thuật và điều kiện khác nhau như: nhu cầu, tâm lý, tính chất quan trọng hay không quan trọng nên cùng một lượng vốn đầu tư vào ngành này có thể mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn ngành khác. Điều đó dẫn đến tình trạnh những người sản xuất tại những nơi có tỷ suất lợi nhuận thấp có xu hướng chuyển nguồn nhân lực sang sản xuất tại những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, đó chính là biện pháp để thực hiện cạnh tranh giữa các ngành. Kết quả là những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ thu hút các nguồn lực, quy mô sản xuất tăng. Do đó cung ứng hàng hóa vượt quá cầu của nó sẽ làm cho giá cả hàng hóa giảm xuống. Điều đó làm giảm tỷ suất lợi nhuận, ngược lại những ngành trước đây có tỷ suất lợi nhuận thấp khiến cho một số nhà đầu tư chuyển sang lĩnh vực khác làm cho quy mô sản xuất của ngành giảm, cung nhỏ hơn cầu nên giá cả hàng hóa tăng nên tỷ suất lợi nhuận tăng.
1.1.2.3. Căn cứ vào thị trường
- Cạnh tranh hoàn hảo
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường trong đó mà trong đó không phải chỉ có một người sản xuất hay một người tiêu dùng nào đó là bộ phận lớn của thị trường có ảnh hưởng cá nhân đến giá cả thị trường.
Đặc điểm của thị trường này:
+ Hàng hóa có tính đồng nhất cao, chúng dễ thay thế cho nhau trên thị trường.
+ Người mua và người bán đều không ảnh hưởng đến giá cả, thị trường của sản phẩm, tức là phải chấp nhận giá của thị trường.
+ Trong thị trường hoàn hảo người mua và người bán tự do tham gia hay rút lui khỏi thị trường mà không bị ràng buộc.
- Cạnh tranh không hoàn hảo
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo (gồm cạnh tranh độc quyền và cạnh tranh tập đoàn) là loại thị trường mà trong đó chỉ có một số hãng cung ứng toàn bộ mức cung ứng của toàn bộ thị trường về mọi loại hàng hóa và dịch vụ nào đó.
+ Đặc trưng của thị trường cạnh tranh độc quyền là các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau bằng việc bán các sản phẩm phân biệt, các sản phẩm này thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải thay thế hoàn toàn. Sự gia nhập hay rút lui vào thị trường dễ dàng.
+ Đặc trưng của thị trường cạnh tranh tập đoàn: Hàng hóa và dịch vụ có thể giống nhau một ít, có thể khác nhau một ít, các hàng hóa mới khó ra nhập thị trường. Giá cả luôn cứng nhắc, khi chi phí giảm hay cầu thị trường giảm thì các doanh nghiệp không muốn giảm giá vì điều đó xảy ra thì cuộc chiến tranh giá sẽ xảy ra giữa các doanh nghiệp; ngược lại cầu tăng, hay chi phí tăng các doanh nghiệp không muốn tăng giá vì các đối thủ cùng tập đoàn không tăng giá
1.1.3. Các lý thuyết cạnh tranh
1.1.3.1. Lý thuyết cạnh tranh của trường phái cổ điển
Hiện tượng cạnh tranh xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Tuy vậy, trong cả một thời gian dài người ta không coi cạnh tranh như là một quá trình cũng như không quan sát và phân tích những tác động của chúng trong nền kinh tế. Chỉ đến khi các khái niệm giá trị, giá bán được nghiên cứu một cách nghiêm túc thì khi đó vấn đề cạnh tranh mới được đặt đúng vị trí của nó.
Ý nghĩa của việc cạnh tranh trước hết được những người thuộc trường phái trọng nông phát hiện thông qua sự biến động giá cả. Theo họ “ giá tự nhiên” bao gồm lao động chứa trong sản phẩm và địa tô. Khi xuất hiện một sự bất thường nào đó thì giá thị trường có thể chênh lệch với “ giá tự nhiên” trong một giai đoạn ngắn. Trong trường hợp đó, cạnh tranh sẽ hoạt động tích cực để điều chỉnh “bên cung” và làm cho giá thị trường trở lại mức của “giá tự nhiên”. Adam Smith đã tiếp thu nội dụng này và bổ xung thêm vào đó vấn đề cạnh tranh “ bên cầu”.
Như vậy, Adam Smith chính là người đầu tiên đưa ra những lý thuyết tương đối hoàn chỉnh về cạnh tranh. Lý thuyết của ông đòi hỏi phải đảm bảo tự do hành động cho doanh nghiệp và các hộ gia đình, nghĩa là đảm bảo sự tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng như sự lựa chọn tiêu dùng của các hộ gia đình. Thông qua cơ chế thị trường, việc tận dụng tự do cạnh tranh để theo đuổi lợi ích riêng dẫn đến việc mỗi chủ thể kinh tế sẽ nhận được những thành quả mà họ cống hiến cho thị trường. Mô hình cạnh tranh này của trường phái cổ điển có thể được hiểu như một quá trình điểu phối không có “ bàn tay hữu hình” của Nhà nước.
Tuy vậy, mô hình cạnh tranh của họ khônh đồng nghĩa với chính sách “ bỏ mặc doanh nhân” như nhiều người nhầm lẫn mà họ đòi hỏi nhà nước phải tạo ra và đảm bảo một trật tự pháp lý làm khung khổ cho quá trình cạnh tranh. Sự hài hòa về lợi ích như Adam Smith phỏng đoán đã được trường phái tân cổ điển nghiên cứu và tìm cách xác định điều kiện để tồn tại sự tương ứng giữa lợi ích riêng và lợi ích tổng thể trong xã hội. Kết quả của những cố gắng của nhà kinh tế theo trường phái tân cổ điển đã mang lại “ Mô hình Cân Bằng” của cạnh tranh hoàn hảo. Họ đã thay thế và rút gọn việc phân tích cạnh tranh ở trạng thái động bằng mô hình toán học “ tĩnh” phân tích trạng thái cân băng theo lý thuyết giá.
1.1.3.2. Lý thuyết cạnh tranh không hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền
Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nhiều nhà kinh tế mà nổi tiếng nhất là nhà kinh tế học Mỹ E.Chamberlin và nhà kinh tế học Anh J.Robinson đã tìm cách nghiên cứu để vượt qua sự tách bạch quá rạch ròi giữa hai cực là độc quyền thuần túy và cạnh tranh hoàn hảo. Mô hình cạnh tranh không hoàn hảo hoặc cạnh tranh mang tính độc quyền là phạm trù thứ ba giữa hai cực này. Sự khác biệt của nó so với hai phạm trù kia là nó thiếu một số nhân tố hoàn hảo hoặc nhân tố độc quyền của thị trường.
Cạnh tranh mang tính độc quyền, theo nghĩa rộng là cuộc cạnh tranh giữa nhiều đơn vị cung với những hàng hóa khác biệt cạnh tranh lẫn nhau trên những thị trường với một số ít đơn vị cung. Đến nay, người ta hiểu khái niệm cạnh tranh mang tính độc quyền chỉ theo nghĩa hẹp là: cạnh tranh giữa nhiều người cung với những hàng hóa khác biệt (về giá, địa chỉ, chất liệu … )
Lý thuyết về cạnh tranh mang tính độc quyền đã tạo cơ sở cho các doanh nghiệp có thêm phương án để xây dựng chiến lược marketing khác nhau phù hợp với vị thế của mình trên thị trường đồng thời phù hợp với hình thái thị trường.
1.1.3.3. Lý thuyết cạnh tranh hiệu quả
Lý thuyết này được hình thành vào đầu những năm 40 dựa trên luận điểm của nhà kinh tế học người Mỹ J.Maurice Clack là: Những nhân tố không hoàn hảo trên thị trường có thể được sửa chữa bằng những nhân tố không hoàn hảo khác như thiếu sự tường minh của thị trường và tính tạp chủng của hàng hóa. Bởi vì những tính không hoản hảo này sẽ làm giảm sự phụ thuộc lẫn nhau trong chính sách giá giữa các hãng ở thị trường tạo điều kiện cho các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả.
Quan điểm này của Clack bắt nguồn từ luận điểm của nhà kinh tế học người Mỹ gốc Áo Schumpeter về cạnh tranh. Ông cho rằng phải cạnh tranh bằng sản phẩm mới, bằng kỹ thuật mới, bằng nguồn cung ứng mới và bằng hình thức tổ chức mới. Theo ông đổi mới chính là “ sự phá hủy mang tính sáng tạo”, Clark đã nhanh chóng tiếp thu luận điểm này của Schumpeter. Theo đó, việc các siêu lợi nhuận của doanh nghiệp tiên phong trên cơ sở lợi thế nhất thời vừa có hiệu quả, vừa là tiền đề của cạnh tranh. Lợi nhuận này không nên xóa bỏ ngay lập tức mà chỉ nên giảm dần để doanh nghiệp có thể có điều kiện thời gian tạo ra sự đổi mới, cải tiến khác.
Chính vì vậy, theo Clark sự vận hành của cạnh tranh được đo bằng giảm giá, tăng chất lượng hàng hóa cũng như hợp lý hóa trong sản xuất. Tóm lại, nội dung cơ bản của lý thuyết cạnh tranh hiệu quả là phân biệt rõ những nhân tố không hoàn toàn là có ích, nhân tố nào có hại cho chính sách cạnh tranh và nhận biết được điều kiện nào là điều kiện cần và đủ cho tính hiệu quả cạnh tranh trong nền kinh tế.
1.2. Năng lực cạnh tranh và các tiêu chí đánh giá.
Trong cạnh tranh nảy sinh kẻ có khả năng cạnh tranh mạnh, người có khả năng cạnh tranh yếu hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm có khả năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh của quốc gia hay năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế được hiểu là thực lực là lợi thế mà nền kinh tế hay quốc gia đó huy động được để duy trì và cải thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường thế giới một cách lâu dài và có ý chí nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế của mình và cho quốc gia mình.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh và phát triển bền vững.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được nhanh chóng trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên cùng một thị trường. Hay nói cách khác, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng của nó, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán …
* Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế ta dùng các chỉ tiêu sau:
- Độ mở của nền kinh tế.
- Mức độ tham gia vào phân công lao động quốc tế của nền kinh tế (mức độ tham gia vào các tổ chức và các liên kết kinh tế quốc tế).
- Tiềm lực tài chính của nền kinh
- Kết cấu hạ tầng của nền kinh tế
- Trình độ công nghệ của nền kinh tế
- Trình độ, tác phong làm việc và mức độ linh hoạt của đội ngũ nhân lực trong nền kinh tế.
- Mức độ thông thoáng của cơ chế kinh doanh..
- Hệ thống pháp luật phải đầy đủ, rõ ràng và tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh.
- Quan hệ đối ngoại của Quốc gia đó.
- Hệ thống kênh thông tin ra vào nền kinh tế.
- Khả năng khai thác các lợi thế của nền kinh tế.
- Qui mô của nền kinh tế, sự ổn định về hệ thống chính trị Quốc gia.
- Ấn tượng về hình ảnh của một nền kinh tế trong tiềm thức của người tiêu dùng trên thế giới.
* Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, ta sử dụng phương pháp phân tích chuỗi giá trị. Một số yếu tố để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp như :
- Số chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp cung ứng trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh.
- Số mặt hàng của doanh nghiệp có mức độ hấp dẫn cao hơn về mẫu mã, giá cả, dịch vụ sau bán hàng so với các đối thủ cạnh tranh.
- Số mặt hàng của doanh nghiệp có sự thuận tiện hơn về hệ thống phân phối so với các đối thủ cạnh tranh.
- Số mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao hơn trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh.
- Số tiêu chí đo lường năng lực cạnh tranh mà doanh nghiệp đáp ứng được so với các đối thủ cạnh tranh.
- Số ưu thế mà doanh nghiệp có được so với các đối thủ cạnh tranh.
Một doanh nghiệp kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực thường kinh doanh nhiều mặt hàng trong một lĩnh vực và trong nhiều lĩnh vực khac nhau. Vì vậy, không phải tất cả các mặt hàng do doanh nghiệp sản xuất ra đều có năng lực cạnh tranh hoặc có năng lực cạnh tranh bằng nhau. Một tất yếu sẽ xảy ra là một số mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao nhưng một số mặt hàng khác lại có năng lực cạnh tranh thấp . Trong trường hợp đó, ta chỉ nên đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo một hoặc một số mặt hàng.
* Để đánh giá năng lực cạnh tranh (sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh) của một mặt hàng, ta có thể dùng các tiêu chí sau:
- Mức doanh thu của mặt hàng đó trong từng năm.
- Thị phần của mặt hàng đó trên thị trường trong từng năm so với các đối thủ cạnh tranh.
- Mức độ hấp dẫn của sản phẩm đó về mẫu mã, kiểu cách,…so với các đối thủ cạnh tranh.
- Mức chênh lệch về giá của mặt hàng đó so với các đối thủ cạnh tranh.
- Mức chênh lệch về chất lượng của hàng hoá đó so với hàng hoá cùng loại của các đối thủ cạnh tranh.
- Mức ấn tượng về hình ảnh, nhãn hiệu về hàng hoá của nhà sản xuất ra mặt hàng đó so với các hàng hoá cùng loại của các đối thủ cạnh tranh.
1.3. Các chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp
1.3.1 Chiến lược chi phí thấp
Công ty theo chiến lược chi phí thấp lựa chọn sự khác biệt hóa sản phẩm ở mức thấp. Khác biệt hóa có chí phí cao: nếu công ty dành nguồn lực tập trung vào việc tạo sự khác biệt cho sản phẩm thì chi phí sản xuất sẽ tăng. Công ty theo chiến lược chi phí thấp chủ trương đạt mức khác biệt trong sản phẩm không cao hơn công ty theo chiến lược khác biệt hóa (công ty cạnh tranh bằng việc dành toàn bộ nguồn lực để phát triển sản phẩm sản phẩm), nhưng phải đạt mức chi phí thấp. Công ty theo chiến lược chi phí thấp không cố gắng trở thành công ty đầu ngành trong việc tạo sự khác biệt; thông thường công ty chỉ tạo sự khác bỉệt hóa khi khách hàng có nhu cầu.
Ưu điểm: Công ty theo đuổi chiến lược chi phí thấp có thể cạnh tranh với các đối thủ ngành vì có lợi thế chi phí và nếu như cạnh tranh ngành tăng lên, các công ty bắt đầu cạnh tranh về giá thì công ty có chi phí thấp sẽ có khả năng chịu đựng được sự cạnh tranh tốt hơn các công ty khác. Công ty cũng ít bị tác động khi các nhà cung cấp tăng giá và khi khách hàng yêu cầu giảm giá vì sản xuất quy mô lớn có thể giảm chi phí. Hơn nữa các công ty này thường có thị phần lớn, mua với số lượng nhiều nên họ có quyền mặc cả giá với người cung cấp. Cuối cùng là công ty có chi phí thấp tạo ra cản trở xâm nhập ngành cao với các đối thủ tiềm ẩn.
Nhược điểm: Các đối thủ cạnh tranh có thể bắt trước phương pháp sản xuất với chi phí thấp hơn hoặc do khoa học công nghệ phát triển nên ngày càng có nhiều công nghệ sản xuất tiên tiến có khả năng làm mất lợi thế của công ty với chi phí thấp hơn.
1.3.2. Chiến lược khác biệt hóa sản phẩm
Mục tiêu của chiến lược khác biệt hóa sản phẩm có được lợi thế cạnh tranh bằng cách tạo ra sản phẩm mà khách hàng cho rằng có những điểm khác biệt. Công ty theo đuổi chiến lược này có khả năng thỏa mãn nhu cầu khách hàng theo cách mà đối thủ cạnh tranh không làm được, do đó công ty có thể đặt giá cao hơn giá trung bình ngành. Khả năng tăng thu nhập bằng cách đặt giá cao cho phép công ty theo chiến lược các đối thủ và có được lợi nhuận cao hơn trung bình.
Ưu điểm: Công ty nào theo đuổi chiến lược khác biệt hóa sẽ ít bị cạnh tranh từ các đối thủ vì họ có lòng trung thành về nhãn hiệu sản phẩm của khách hàng. Và vì vậy cũng không bị áp lực từ phía khách hàng do họ cung cấp các sản phẩm đặc biệt duy nhất. Còn đối với các nhà cung cấp sức ép đối với công ty cũng rất ít, họ có thể chịu việc tăng giá đầu vào ở một mực độ nào đó do mục tiêu hàng đầu của họ cần tạo ra sự khác biệt hóa. Và cuối cùng lòng trung thành của khách hàng là rào cản lớn để ngăn chặn sự đe dọa từ các đối thủ tiềm ẩn và các sản phẩm thay thế.
Nhược điểm: Khả năng duy trì sự khác biệt của công ty là không lây dài và không ổn định vì dễ bị các đối thủ cạnh tranh bắt chước sản phẩm giống như của công ty. Mối nguy hiểm nữa là sự khác biệt hóa và mức giá cao hơn mức trung bình của công ty không được thị trường chấp nhận. Điều này sẽ là nguy cơ dẫn đến chiến lược khác biệt hóa không thành công.
1.3.3. Chiến lược trọng tâm (tập trung )
Chiến lược tập trung trọng điểm khác với hai chiến lược trên ở chỗ công ty đeo đuổi chiến lược này chỉ phục vụ nhu cầu của một số nhóm khách hàng hoặc phân đoạn thị trường nào đó. Công ty theo đuổi chiến lược này chủ yếu phục vụ thị trường hẹp, có thể là một vùng, một loại khách hàng hoặc một loại sản phẩm.
Ưu điểm: Lợi thế cạnh tranh của công ty theo chiến lược này bắt nguồn từ năng lực khác biệt của nó- hiệu quả, chất lượng, đổi mới hoặc đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Công ty có thể cạnh tranh với các đối thủ vì nó cung cấp sản phẩm và dịch vụ mà các đối thủ không thể có. Khả năng này giúp cho công ty có quyền lực với khách hàng vì khách hàng không thể mua hàng hóa như vậy ở chỗ khác. Chiến lược này cho phép công ty gần gũi với khách hàng và phản ứng nhanh với những nhu cầu thay đổi.
Nhược điểm: Các công ty theo đuổi chiến lược này chỉ tập trung vào một phân đoạn thị trường nên sản xuất với số lượng nhỏ. Do vậy, chi phí sản xuất thường cao hơn công ty theo chiến lược chi phí thấp và công ty theo chiến lược khác biệt hóa. ._.Các công ty theo chiến lược này dễ bị mất thị trường khi ưu thế khoa học công nghệ của công ty theo chiến lược chi phí thấp thỏa mãn nhu cầu khách hàng của họ hoặc thị trường của họ sẽ bị các công ty theo đuổi chiến lược khác biệt hóa nhằm tới với năng lực sản xuất lớn hơn rất nhiều.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.4.1 Các yếu tố môi trường vĩ mô
1.4.1.1. Các yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến các công ty, vì các yếu tố này tương đối rộng cho nên các công ty cần chọn lọc để nhận biết tác động cụ thể, ảnh hưởng trực tiếp nhất.
Ảnh hưởng chủ yếu về kinh tế thường bao gồm:
Tỷ lệ lãi suất:
Tỷ lệ lãi suất có thể tác động đến mức cầu đối với sản phẩm của công ty. Tỷ lệ lãi suất là rất quan trọng khi người tiêu dùng thường xuyên vay tiền để thanh toán các khoản mua bán hàng hoá của mình. Tỷ lệ lãi suất còn quyết định mức chi phí về vốn và do đo quyết định mức đầu tư. Chi phí này là nhân tố chủ yếu khi quyết định tính khả thi của chiến lược.
Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là sự so sánh về giá trị của đồng tiền trong nước với đồng tiền của các quốc gia khác. Thay đổi về tỷ giá hối đoái có tác động trực tiếp đến tính cạnh tranh của sản phẩm do công ty sản xuất trên thị trường quốc tế. Khi giá trị của đồng tiền trong nước thấp so với các đồng tiền khác, hàng hoá sản xuất trong nước sẽ tương đối rẻ hơn, trái lại hàng hoá sản xuất ở ngoài nước sẽ tương đối đắt hơn. Một đồng tiền thấp hay đang giảm giá sẽ làm giảm sức ép từ các công ty nước ngoài và tạo ra nhiều cơ hội để tăng sản phẩm xuất khẩu và ngược lại.
Tỷ lệ lạm phát:
Lạm phát có thể gây xáo trộn nền kinh tế làm cho sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tỷ lệ lãi suất tăng và sự biến động của đồng tiền trở nên không lường trước được. Nếu lạm phát tăng liên tục, các hoạt động đầu tư trở thành công việc hoàn toàn may rủi.
Thực trạng của lạm phát là ở chỗ nó làm cho tương lai kinh doanh trở nên khó dự đoán được. Nếu trong một môi trường mà lạm phát mạnh sẽ không thể nào dự đoán được giá trị thực của lợi nhuận có thể thu được từ một dự án. Sự bất trắc này làm cho các công ty không muốn bỏ tiền vào đầu tư. Hành động này lại hạn chế sự hoạt động của nền kinh tế và cuối cùng thì đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng. Do vậy, lạm phát cao là một nguy cơ đối với công ty.
Quan hệ giao lưu quốc tế:
Những thay đổi về môi trường quốc tế có thể xuất hiện cả những cơ hội cũng như nguy cơ về việc mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước của một công ty. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay mang lại nhiều cơ hội cho công ty các nước đầu tư vào. Đồng thời cũng tạo ra sự cạnh tranh ngày càng mạnh hơn ở cả thị trường trong nước và quốc tế.
1.4.1.2. Các yếu tố công nghệ
Ngày nay công nghệ được coi là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh. Thay đổi về công nghệ có thể làm cho các sản phẩm đang sản xuất trở nên lỗi thời trong khoảng thời gian ngắn. Cũng với thời gian đó có thể tạo ra hàng loạt sản phẩm mới. Như vậy nó đồng thời có thể là cơ hội cũng như mối đe dọa. Do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ đã diễn ra xu hướng làm ngắn lại chu kỳ sống của sản phẩm. Các công ty phải lường trước được những thay đổi do công nghệ mới mang lại. Công nghệ cũng tạo ta nhiều phương pháp sản xuất mới, những phương pháp này cũng sẽ tạo ra những cơ hội hoặc những đe dọa.
1.4.1.3. Các yếu tố chính trị và pháp luật
Các yếu tố thuộc về chính trị và luật pháp cũng có tác động lớn đến mức độ thuận lợi và khó khăn của môi trường. Các công ty hoạt động phải tuân theo các quy định của chính phủ về thuê mướn nhân công, thuế, quảng cáo, nơi đặt nhà máy và bảo vệ môi trường…Những quy định này có thể là cơ hội hoặc hạn chế sự phát triển cũng như địa bàn hoạt động của công ty…
1.4.1.4. Các yếu tố văn hóa, xã hội, dân số
Tất cả các công ty đều phải phân tích các yếu tố xã hội nhằm nhận biết các cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra. Khi một hay nhiều yếu tố thay đổi chúng có thẻ tác động đến công ty như xu hướng nhân chủng học, sở thích vui chơi giải trí, chuẩn mực đạo đức xã hội, vấn đề lao động nữ. Các yếu tố xã hội thường biến đổi hoặc tiến triển chậm nên đôi khi thường khó nhận biết. Cùng với sự phát triển kinh tế, sự biến động về các yếu tố xã hội ngày càng có tác động mạnh hơn đến sự hoạt động của các công ty như tỷ lệ sinh đẻ, sự trẻ hóa hoặc lão hóa của dân số, quy mô của gia đình.
1.4.1.5. Xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế
Cũng giống các yếu tố khác đều có tác động hai mặt đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, xu hướng toàn cầu hóa cũng mở ra rất nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều mối đe dọa, nhiều nguy cơ. Toàn cầu hóa sẽ giúp mở rộng thị trường hoạt động của doanh nghiệp, xóa bỏ các rào cản kinh tế, giúp các doanh nghiệptiếp thu được những tiến bộ khoa học công nghệ một các nhanh chóng. Nhưng đồng thời nó lại cũng tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn do sức ép từ các đối thủ tiềm ẩn cùng ngành ngày càng tăng, các doanh nghiệp nước ngoài thâm nhập vào thị trường nội địa ngày càng tăng. Chính vì vậy, các doanh nghiệp trong nước phải nhận thức rõ toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế là một xu thế không thể đảo ngược. Họ buộc phải nâng cao sức cạnh tranh, phải nhanh chóng nắm lấy cơ hội do quá trình này tạo ra nhưng đồng thời phải có biện pháp để đẩy lùi và hạn chế nguy cơ thách thức.
1.4.2. Các yếu tố môi trường vi mô (môi trường ngành )
Michael E. Porter của trường quản trị kinh doanh Harvard đã đưa ra những vấn đề cốt lõi nhất để giúp cho các nhà quản lý sử dụng phân tích môi trường ngành
Porter đưa ra mô hình năm lực tác động vào ngành:
* Mức độ cạnh tranh giữa các công ty đang hoạt động trong ngành.
* Khả năng cạnh tranh của các đối thủ tiềm ẩn.
* Mức độ cạnh tranh của các sản phẩm thay thế.
* Sức ép về giá của người mua.
* Sức ép về giá của người cung ứng.
Lập luận của Porter là mỗi tác động ngày càng lớn mạnh của những lực đó có thể coi là một sự đe dọa khi mà nó làm giảm lợi nhuận. một tác động cạnh tranh yếu tố có thể được coi là cơ hội khi nó cho phép công ty kiếm được lợi nhuận nhiều hơn.
1.4.2.1. Sự cạnh tranh của các đối thủ tiềm ẩn
Đối thủ tiềm ẩn là các công ty hiện không ở trong ngành nhưng có khả năng nhảy vào những hoạt động kinh doanh trong ngành đó. Đổi thủ mới tham gia trong ngành có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của công ty do họ đưa vào khai thác các năng lực sản xuất mới với mong muốn giành được một thị phần thị trường. Do đó những công ty đang hoạt động tìm mọi cách để hạn chế các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh vực kinh doanh của họ. Bởi vì hiển nhiên là nhiều công ty nhảy vào kinh doanh trong một ngành, nó sẽ trở nên khó khăn hơn đối với các công ty đang hoạt động trong ngành đó. Vì vậy để bảo vệ vị trí cạnh tranh của mình công ty thường quan tâm đến việc duy trì hàng rào hợp pháp ngăn cản sự xâm nhập từ bê ngoài
Một nghiên cứu có tính kinh điển về những trở ngại cho việc nhẩy vào ngành kinh doanh được nhà kinh tế học Joe Bain đưa ra. Ông ta xác định 3 yếu tố trở ngại chủ yếu đối với việc nhảy vào một ngành kinh doanh.
Sự ưa chuộng sản phẩm: Đó là sự ưa thích của người mua đối với sản phẩm của các công ty hiện đang hoạt động, những công ty này có thể thiết lập nên sự ưa chuộng của khách hàng đối với sản phẩm của mình bằng cách: quảng cáo thường xuyên tên công ty và nhãn hiệu. Đối với sản phẩm thông qua các chương nghiên cứu và phát triển nhấn mạnh ưu thế về chất lượng hàng hóa cao và dịch vụ sau bán hàng.
Như vậy sự ưa chuộng sản phẩm làm giảm bớt sự đe dọa thâm nhập vào ngành của các đối thủ tiềm ẩn, làm cho họ thấy rằng việc phá dỡ sự ưa thích của người tiêu dùng đối với sản phẩm của các công ty trong ngành là khó khăn và tốn kém.
Các ưu thế về chi phí thấp: Đây chính là khó khăn đối với các đối thủ tiềm ẩn khi mới nhảy vào ngành. Những lợi thế về chi phí thường bắt nguồn từ: Phương pháp sản xuất tốt do kết quả của quá trình tích lũy kinh nghiệm lâu dài, sự quản lý có hiệu quả đầu vào của sản xuất như lao động, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị có nguồn vốn cho kinh doanh ổn định với lãi suất thấp do hoạt động của công ty chứa đựng ít rủi ro hơn các công ty khác.
Tính hiệu quả của sản xuất lớn: Đây là ưu thế về chi phí của các công ty có quy mô lớn. Ưu thế của sản xuất lớn bao gồm: giảm chi phí thông qua sản xuất hàng loạt các đầu ra đã được tiêu chuẩn hóa, giảm giá cho việc mua các nguyên liệu đầu vào và các bộ phận máy móc thiết bị với một khối lượng lớn, sự phân bổ đều những chi phí cố định cho một khối lượng sản xuất lớn hơn và cả tính hiệu quả của sản xuất lớn trong quảng cáo.
Nếu công ty có được những lợi thế này sẽ buộc các công ty mới xâm nhập vào đương đầu với những khó khăn về quy mô sản xuất nhỏ và phải đương đầu với những bất lợi về chi phí lớn.
1.4.2.2. Sự cạnh tranh của sản phẩm thay thế
Sản phẩm thay thế là những sản phẩm của công ty trong những ngành khác nhau nhưng thỏa mãn những nhu cầu của người tiêu dùng giống như các công ty trong ngành. Những công ty này thường cạnh tranh gián tiếp với nhau. Ví dụ các công ty trong ngành cà phê cạnh tranh một cách gián tiếp với các công ty trong ngành chè và những ngành nước giải khát không cồn. Nếu giá của cà phê tăng quá lớn so với giá chè thì người uống cà phê sẽ chuyển sang uống chè.
Như vậy, sự tồn tại những sản phẩm thay thế hình thành một sức ép cạnh tranh rất lớn. Nó giới hạn mức giá của một công ty có thể định ra và do đó giới hạn mức lợi nhuận của công ty. Ngược lại nếu sản phẩm của công ty có ít các sản phẩm thay thế, công ty có cơ hội để tăng giá và kiếm thêm được lợi nhuận.
1.4.2.3. Sức ép về giá của người mua
Người mua được xem như là sự đe dọa mang tính cạnh tranh khi họ đẩy giá cả xuống hoặc khi họ yêu cầu chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn làm cho chi phí hoạt động củ doanh nghiệp tăng lên. Ngược lại nếu người mua có những yếu thế sẽ tạo cho công ty cơ hội để tăng giá và kiếm nhiều lợi nhuận hơn. Người mua có thể gây áp lực với công ty đến mức độ nào phụ thuộc vào thế mạnh của họ trong quan hệ với công ty. Theo Porter, những yếu tố tạo nên áp lực cho người mua là:
- Khi ngành cung cấp gồm nhiều công ty nhỏ còn người mua chỉ là số ít công ty nhưng có quy mô lớn.
- Khi người mua mua với số lượng lớn, họ có thể sử dụng sức mua của mình như một đòn bẩy để yêu cầu được giảm giá.
- Khi người mua có thể lựa chọn đơn đặt hàng giữa các công ty cung ứng cùng loại sản phẩm.
1.4.2.4. Sức ép về giá của người cung cấp
Người cung cấp được coi là sự đe dọa với công ty khi họ có thể đẩy mức giá hàng cung cấp cho công ty lên, ảnh hưởng đến mức lợi nhuận của công ty. Các công ty thường phải quan hệ với các tổ chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau như vật tư thiết bị, nguồn lao động và tài chính. Yếu tố làm tăng thế mạnh của các tổ chức cung ứng cũng tương tự như các yếu tố làm tăng thế mạnh của người mua sản phẩm:
- Số lượng tổ chức cung cấp ít, người mua khó lựa chọn cơ sở cung cấp.
- Sản phẩm công ty cần mua có rất ít loại sản phẩm có thể thay thế được.
1.4.2.5. Sự cạnh tranh giữa các công ty đang hoạt động trong ngành
Sự cạnh tranh giữa các công ty trong ngành là yếu tố quan trọng tạo ra cơ hội hoặc mối đe dọa cho các công ty. Nếu sự cạnh tranh này là yếu các công ty có cơ hội để nâng giá nhằm thu được lợi nhuận cao hơn. Nếu sự cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn tới sự cạnh tranh quyết liệt về giá cả, có nguy cơ làm giảm lợi nhuận của các công ty. Sự cạnh tranh giữa các công ty trong ngành thường chịu tác động tổng hợp của 3 yếu tố cấu thành: cơ cấu ngành, mức độ cầu và những trở ngại ra khỏi ngành.
- Cơ cấu ngành: đó là sự phân bố về số lượng và quy mô của các công ty trong ngành. Có thể phân biệt hai loại cơ cấu chính. Thứ nhất, ngành phân tán, bao gồm số lượng lớn các công ty có quy mô vừa và nhỏ, không có công ty nào có vai trò chi phối toàn bộ ngành như ngành sản xuất lương thực trong nông nghiệp, ngành dệt, ngành kinh doanh khách sạn, du lịch. Thứ hai, ngành hợp nhất, bao gồm số lượng ít các công ty có quy mô lớn hoặc trường hợp đặc biệt, chỉ có một công ty độc quyền như ngành sản xuất ôtô, sản xuất điện. Cũng cần chú ý mức độ phân tán hoặc hợp nhất của các ngành không giống nhau.
Đặc trưng của những ngành phân tán là các công ty nhỏ bé không có sức mạnh chi phối thị trường và thường phải chấp nhận mức giá của thị trường. Khi đó mức lợi nhuận của công ty phụ thuộc vào khả năng giảm chi phí hoạt động, nhưng về mặt này các công ty có nhiều mặt hạn chế, do quy mô nhỏ, sản phẩm của công ty thường phải chịu tỷ lệ lớn hơn về chi phí marketing hoặc chi phí nghiên cứu và phát triển để tạo ra sự khác biệt hóa về sản phẩm.
Đặc trưng của ngành hợp nhất là các công ty hoạt động phụ thuộc vào nhau. Điều này có nghĩa là các hoạt động cạnh tranh của một công ty sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức lợi nhuận của các công ty khác trong ngành. Trong ngành hợp nhất hoạt động mang tính cạnh tranh của một công ty tác động trực tiếp đến thị trường của các đối thủ cạnh tranh và buộc chúng phải đối phó lại. Hậu quả là sự xoáy trôn ốc tăng lên về mức độ của cạnh tranh làm giảm mức lợi nhuận của ngành. Do đó, điều rõ ràng là trong ngành hợp nhất sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các công ty và khả năng xảy ra chiến tranh về giá cả tạo ra sự đe dọa chủ yếu.
- Mức độ cầu: tình trạng về cầu trong ngành cũng là một yếu tố tác động đến cạnh tranh. Tăng nhu cầu tạo ra cơ hội cho việc mở rộng sản xuất, làm dịu bớt sự cạnh tranh. Cầu tăng lên khi trên thị trường có thêm người tiêu dùng mới hoặc làm tăng sức mua của người tiêu dùng hiện tại. Các công ty có thể tăng doanh thu mà không làm ảnh hưởng đến thị trường của các công ty khác. Như vậy việc tăng cầu đưa đến cơ hội mở rộng hoạt động cho các công ty.
Ngược lại cầu giảm khi có người tiêu dùng rời bỏ thị trường của ngành, hoặc sức mua của những người tiêu dùng hiện tại giảm. Khi đó sự cạnh tranh giữa các công ty trở nên mạnh mẽ hơn, một công ty chỉ có thể đạt tới sự tăng trưởng mạnh bằng cách lấy đi thị phần của những công ty khác. Sự biến động của mức cầu phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của ngành.
- Những trở ngại ra khỏi ngành: Những trở ngại ra khỏi ngành đe dọa khi cầu đang có xu hướng giảm. Nếu như những trở ngại này rất khó vượt qua thì các công ty có thể bị buộc chặt vào nhau, mặc dù hoạt động kinh doanh không có hứa hẹn gì tốt đẹp cả, và nó sẽ làm cho sự cạnh tranh trở nên gay gắt. Các trở ngại chính ra khỏi ngành thường là: Thứ nhất, các máy móc, thiết bị khó có thể sử dụng vào ngành khác, do vậy công ty không bán được, nếu công ty muốn ra khỏi ngành buộc phải bỏ đi toàn bộ tài sản này. Thứ hai, những chi phí cố định rất lớn khi ra khỏi ngành như trả lương cho công nhân khi chưa hết hợp đồng. Thứ ba, đó là sự gắn bó về tình cảm đối với ngành như những công ty thuộc gia đình, dòng họ.
1.5. Các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Giá trị do một công ty sáng tạo ra được đo bằng mức doanh thu của họ. Đó là giá trị mà người mua sẵn sàng trả đối với hàng hoá và dịch vụ do công ty cung cấp. Một công ty hoạt động có lãi khi doanh thu của họ lớn hơn chi phí tiến hành hoạt động tạo ra giá trị. Để có lợi thế cạnh tranh công ty phải thực hiện các hoạt động tạo ra giá trị với chi phí thấp hơn các đối thủ của nó, hoặc tiêu thụ sản phẩm với giá cao hơn bằng cách tạo ra sự khác biệt sản phẩm. Quá trình tạo ra sản phẩm được trình bày dưới dạng chuỗi giá trị theo cách mô tả của giáo sư Michael Porter của trường quản trị kinh doanh Harrard. Dưới đây là sơ đồ mô tả chuỗi giá trị:
Cơ sở hạ tầng
Hệ thống thông tin
Nguồn nhân lực
Nghiên cứu và phát triển
Quản lý nguyên vật liệu
Sản xuất
Marketing và bán hàng
Dịch vụ
Chuỗi giá trị bao gồm hai phần cơ bản: các hoạt động chính và các hoạt động bổ trợ. Các hoạt động chính liên qua đến việc sản xuất tạo ra sản phẩm, hoạt động marketing và việc đưa hàng đến người tiêu dùng cũng như dịch vụ sau bán hàng. Những thế mạnh tạo ra giá trị sản phẩm phụ thuộc chủ yếu vào các mặt hoạt động này.
Các hoạt động bổ trợ cũng có thể làm giảm chi phí trong việc sáng tạo ra giá trị, như giảm chi phí quản lý nguyên vật liệu, chức năng nghiên cứu – phát triển có thể tạo ra sản phẩm mới hoặc quy trình công nghệ mới cho phép hạ thấp chi phí sản xuất.
1.5.1. Các hoạt động chính
1.5.1.1. Sản xuất
Chức năng sản xuất trong hoạt động kinh doanh là quá trìn biến đổi đầu vào thành hàng hóa và dịch vụ. Đối với hầu hết các ngành,chi phí sản xuất chủ yếu là để tạo ra hàng hóa hoặc dịch vụ đều chiếm tỷ lệ lớn, vì vậy chức năng sản xuất thường được coi là vũ khí cạnh tranh trong chiến lược của công ty. Những quyết định chủ yếu liên quan đến chức năng sản xuất là:
- Quyết định về quy trình sản xuất như lựa chọn công nghệ, bố trí các điều kiện làm việc, định vị thiết bị, cân đối dây chuyền sản xuất, sắp xếp hệ thống vận chuyển …
- Quyết đinh về huy động năng lực sản xuất như xác định mức sản lượng, công suất hoạt động của máy móc thiết bị, bố trí ca sản xuất.
- Quyết định về chất lượng sản phẩm, như thông số kỹ thuật cần kiểm tra, phương thức kiểm tra chất lượng.
1.5.1.2. Marketing và tiêu thụ sản phẩm
Marketing có thể được mô tả như một quá trình xác định, dự báo, thiết lập và thỏa mãn các nhu cầu mong muốn của người tiêu dùng đối với sản phẩm hay dịch vụ. Việc phân tích hoạt động marketing thường bao gồm các nội dụng: phân tích khách hàng, nghiên cứu thị trường, mua và bán hàng hóa.
Phân tích khách hàng là việc nghiên cứu và đánh giá nhu cầu, mong muốn của người tiêu thụ - liên quan đến hoạt động của công ty. Nghiên cứu thị trường là việc thu thập, ghi chép và phân tích có hệ thống các dữ liệu về các vấn đề có liên quan đến việc bán hàng hóa hay dịch vụ. Thông qua việc nghiên cứu thị trường công ty có thể phát hiện ra những điểm mạnh và điểm yếu then chốt. Các nhà nghiên cứu thị trường thường sử dụng đa dạng các biện pháp kỹ thuật để thu thập thông tin bởi vì hoạt động nghiên cứu thị trường hỗ trợ cho tất cả các chức năng quan trọng của công ty.
Hoạt động mua hàng nhằm đảm bảo các nguồn lực cần thiết cho hoạt động sản xuất hoặc dịch vụ. Hoạt động này bao gồm việc đánh giá các nhà phân phối có khả năng thay thế để lựa chọn nhà phân phối tốt nhất thỏa mãn các điều kiện cũng như phương thức phân phối có thể chấp nhận được. Bán hàng lại bao gồm nhiều hoạt động marketing khác như quảng cáo, yểm trợ bán hàng, kênh phân phối hàng, quản lý lượng bán hàng …
1.5.2. Các hoạt độngbổ trợ
1.5.2.1. Quản lý nguyên vật liệu
Chức năng quản lý nguyên vật liệu được coi là phương pháp quản lý khoa học, nó đang trở thành một hoạt động ngày càng quan trọng ở nhiều công ty. Bởi vì nó có thể giúp công ty tạo lập được tế mạnh về chi phí so với đối thủ cạnh tranh. Đối với một doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chi phí về nguyên vật liệu và vận chuyển thường chiếm tới gần 60% trong doanh thu tiêu thụ hàng hóa. Do vậy, quản lý nguyên vật liệu một cách hiệu quả có thể giảm được lượng tiền mặt nằm trong dự trữ để tăng đầu tư vào máy móc thiết bị.
1.5.2.2. Nghiên cứu và phát triển.
Trong các hoạt động đầu tư, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển thường đưa lại kết quả rất lớn. Hoạt động nghiên cứu và phát triển có thể chia ra làm ba loại: nghiên cứu đổi mới sản phẩm nhằm tạo ra sản phẩm hoàn toàn mới trước các đổi thủ cạnh tranh, nghiên cứu cải tiến sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng hay hoàn thiện các đặc tính của sản phẩm hiện có, thứ ba là nghiên cứu đổi mới công nghệ nhằm cải tiến quá trình sản xuất để giảm chi phí hoặc nâng cao chất lượng.
Hoạt động nghiên cứu và phát triển thường tạo ra cho doanh nghiệp những bước đột phá trong hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời tạo cho doanh nghiệp những lợi thế trong một khoảng thời gian nhất định. Khoa học công nghệ luôn luôn đổi mới, do đó nếu doanh nghiệp muốn tạo được lợi thế kinh doanh thì phải đầu tư vào nghiên cứu và triển khai một cách hợp lý.
1.5.2.3. Quản trị nguồn nhân lực
Quản trị nhân lực hay còn gọi là quản trị nhân sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện chiến lược. Mục tiêu của quản trị nhân sự là phát triển một kế hoạch nhân lực bao gồm:
- Dự đoán về nguồn nhân lực mà công ty có nhu cầu trong tương lai.
- Sắp xếp hợp lý nguồn nhân lực trong công ty.
- Đảm bảo cung – cầu về nguồn nhân lực cho các mặt hoạt động.
- Xác định các biện pháp cụ thể để quản lý nguồn nhân lực: tuyển chọn, phỏng vấn, kiểm tra, định hướng đào tạo, đánh giá, thưởng phạt, thăng cấp, kỷ luật, sa thải …
Yêu cầu của quản trị nhân lực là xây dựng được một đội ngũ lao động tích cực, có kỹ năng sản xuất, ngày càng tích lũy được kinh nghiệm và nâng cao tay nghề trong sản xuất.
1.5.2.4. Hệ thống thông tin.
Thông tin liên kết tất cả các chức năng trong kinh doanh với nhau và cung cấp cơ sở cho tất cả các quyết định quản trị, vì thế nó có thể tạo ra những lợi thế cạnh tranh chủ yếu. Có nhiều kênh truyền thông tin: điện thoại, đài, báo, ti vi, Internet … Tuy nhiên, ngày nay do sự giảm mạnh trong chi phí của công nghệ tin học, thông tin liên lạc cho phép sử dụng hệ thống máy tính vốn chỉ sử dụng trong văn phòng nay được dùng trong mọi hoạt động. Một hệ thống thông tin hữu hiệu cũng giống như một thư viện thu thập, phân loại và lưu trữ dữ liệu. Đây là nguồn chiến lược quan trọng, theo dõi các thay đổi của thị trường, nhận ra các mối đe dọa trong cạnh tranh và hỗ trợ cho việc thực hiện đánh giá, kiểm soát chiến lược.
1.5.2.5. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là chức năng bổ trợ cuối cùng trong chuỗi giá trị. Nó tạo điều kiện cho các chức năng cơ bản và các chức năng bổ trợ khác hoạt động. Cơ sở hạ tầng bao gồm các bộ phận: kế hoạch, tài chính kế toán, pháp lý …
Công tác kế hoạch cho phép công ty hình dung và trình bày sự phát triển của mình. Chức năng kế hoạch giúp các nhà lãnh đạo phân tích tình hình, xác định được mục tiêu chiến lược và các biện pháp để đạt được mục tiêu đề ra. Đồng thời cố vấn cho các bộ phận chức năng khác trong việc xây dựng các kế hoạch và tiến hành nghiên cứu các lĩnh vực đặc thù. Nếu doanh nghiệp xây dựng được một chiến lược tốt có nghĩa là doanh nghiệp đã tạo tiền đề quan trọng để đạt được kết quả tốt.
Chức năng tài chính bao gồm ba quyết định chủ yếu: quyết định huy động vốn, quyết định đầu tư và quyết định về phân chia lợi nhuận. Chức năng này nhằm bảo đảm khả năng tài chính cho doanh nghiệp, thể hiện ở khả năng thanh toán, tổng lượng vốn, cơ cấu vốn, khả năng huy động vốn trong những tình thế kinh doanh nhất định, tốc độ chu chuyển vốn, hiệu quả đầu tư vốn và quản lý vốn. Nếu tình trạng tài chính của doanh nghiệp không tốt có nghĩa là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chưa cao. Trong tương lai, việc duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn chứ chưa kể đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh.
1.6. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh thời kỳ hậu WTO
1.6.1. Thuận lợi và khó khăn khi gia nhập WTO
Toàn cầu hóa là quy luật phát triển tất yếu, khách quan của tiến bộ xã hội loài người. Nó mang lại sự tăng trưởng kinh tế nhanh hơn nhưng mặt khác nó cũng mang đến nhiều thách thức cho các nước này. Các quốc gia cần nắm bắt được cơ hội, lường trước những khó khăn, tạo ra những bước đi thích hợp để tham gia vào tiến trình hội nhập và toàn cầu hóa đạt hiệu quả cao.
Việt Nam cũng trên con đường hội nhập kinh tế thế giới. Có người lo ngại về những tác động tiêu cực đến nền kinh tế và xã hội như: đầu cơ, buôn lậu, tham nhũng, ma túy, mại dâm … Nhưng cũng có những người thì coi hội nhập như là một sự cần thiết khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Không có một quốc gia nào, kể cả nước hùng mạnh nhất thế giới như Mỹ, nước đông dân nhất thế giới như Trung Quốc có thể đứng ngoài cuộc. Hội nhập kinh tế quốc tế thế giới vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với Việt Nam nói chung và đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
Về thuận lợi, toàn cầu hóa tạo thuận lợi cho việc hợp tác, phân công, khai thác và sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả nhằm giảm chi phí sản xuất và lưu thông. Hàng hóa của Việt Nam sẽ có nhiều cơ hôi thâm nhập vào thị trường thế giới nhất là nông sản vì đây là một lợi thế của Việt Nam. Với tiềm năng lao động dồi dào cho phép các doanh nghiệp Việt Nam phát triển mạnh mẽ những loại hàng hóa sản xuất sử dụng nhiều lao động. Đồng thời hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế suất ưu đãi và giá rẻ tù những vật tư, nguyên liệu nhập khẩu nên sẽ có điều kiện tăng cường khả năng cạnh tranh. Tham gia hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam có thêm thuận lợi để chuyển giao công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ mạng thông tin toàn cầu phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh những thuận lợi thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với những khó khăng thách thức. Toàn cầu hóa tạo ra môi trường cạnh tranh cùng phát triển song là cuộc cạnh tranh không cân sức. Năng lực nội tại của các doanh nghiệp còn yếu kém đã làm giảm năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế và bị “lấn át ngay tài sân nhà”. Đồng thời môi trường pháp lý và sự bất cập trong cơ chế hành chính, sự thiếu đồng bộ trong các chính sách của nhà nước đã tạo ra một rào cản lớn để các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh bình đẳng và có hiệu quả. Để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, một mặt chúng ta phải phát huy những thuận lợi, tận dụng hiệu quả các cơ hội, mặt khác phải tháo gỡ các khó khăn thách thức nói trên một cách triệt để, thỏa đáng.
1.6.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế
1.6.2.1. Quá trình gia nhập WTO của Việt Nam
Tổ chức Thương mại Thế giới thành lập ngày 01-01-1995 với tư cách là thể chế pháp lý điều tiết các mối quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế mang tính toàn cầu. WTO ra đời trên cơ sở kế thừa tất cả các nguyên tắc, luật lệ của tổ chức tiền thân đã tồn tại gần 50 năm trước đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT).
Nhận rõ sự cần thiết tham gia tổ chức WTO, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định lại"...Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương...tiến tới gia nhập WTO...".
Tháng 1/1995, Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO.
Tháng 8/1996, cung cấp cho WTO Bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam.
Tháng 7/1998, phiên họp đa phương đầu tiên với Ban công tác về minh bạch hoá các chính sách kinh tế thương mại.
Tháng 12/1998, họp đa phương phiên 2.
Tháng 7/1999, họp đa phương phiên 3.
Tháng 11/2000, họp đa phương phiên 4.
Tháng 4/2002, họp đa phương phiên 5.
Tháng 5/2003, họp đa phương phiên 6 đàm phán về mở cửa thị trường.
Tháng 12/2003, Phiên đàm phán đa phương thứ 7.
Tháng 6/2004, phiên đàm phán đa phương thứ 8.
Phiên họp thứ nhất đến phiên thứ 4 tập trung trả lời các câu hỏi của các thành viên Ban công tác về minh bạch hoá chính sách kinh tế thương mại. Kết thúc phiên 4, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị trường.
Phiên thứ 5 và thứ 6, đàm phán về mở cửa thị trường. Chúng ta phải cung cấp cho Ban thư ký WTO một loạt các tài liệu như: Bản tóm tắt hiện trạng về chính sách kinh tế thương mại; về chính sách hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp; về chính sách hỗ trợ công nghiệp; về hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước; 7 chương trình hành động thực hiện Hiệp định về sở hữu trí tuệ liên quan thương mại (TRIMS); thực hiện Hiệp định về xác định trị giá Hải quan (CVA).
Phiên đàm phán thứ 7 và 8, chuyển sang giai đoạn bàn thảo tài liệu "một số yếu tố của dự thảo báo cáo gia nhập".
Tại Phiên đàm phán thứ 8, Việt Nam cam kết tuân thủ một loạt các quy định, nghĩa vụ của WTO. Đầu tiên là nghĩa vụ MFN (nguyên tắc tối huệ quốc, không phân biệt đối xử), theo đó, Việt Nam xác nhận sẽ tuân thủ nguyên tắc MFN sau khi gia nhập đối với cả thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ. Cam kết thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa trong nước và ngoài nước...Bản chào phiên 8 có bước đi đột phá, chỉ riêng ở nhóm dịch vụ, Việt Nam đã cho phép "mở cửa" 10 nhóm và gần 100 mặt hàng. Ngoài ra thuế quan đối với hàng hoá cũng có bước nhảy vọt như bỏ trợ cấp xuất khẩu đối với cà phê, hạ mức thuế quan nói chung tới mức các đối tác có thể chấp nhận được. Chính vì vậy, các nước tham gia đàm phán rất hoan nghênh Việt Nam về các bước đi này... Về chương trình hành động lập pháp, Việt Nam đã đưa ra danh mục sửa đổi bổ sung và ban hành với 36 văn bản, bao gồm luật và pháp lệnh có liên quan đến quá trình gia nhập WTO như: Luật thương mại, Luật cạnh tranh, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Pháp lệnh chống bán phá giá... Các thành viên WTO cũng yêu cầu Việt Nam tiếp tục tăng cường lộ trình xây dựng luật để đến cuối năm 2005 phải thông qua các văn bản luật và pháp lệnh có liên quan đến nghĩa vụ thành viên WTO.
Cùng với đàm phán đa phương, chúng ta đã tiến hành khoảng 20 phiên đàm phán song phương với 17 thành viên bao gồm: EU, Hoa Kỳ, Canada, Hàn Quốc, Ôxtrâylia, Nauy, Cuba, Uruguay, Argentina, Braxin, Nhật Bản, Thuỵ Sĩ, ấn Độ, Đài Loan, Chi Lê, Paraguay. Các thành viên đàm phán mở cửa thị trường với Việt Nam tập trung vào lĩnh vực hàng hoá và dịch vụ.
Kết thúc phiên đa phương, Chủ tịch Ban công tác về Việt Nam gia nhập WTO đánh giá: Phiên đàm phán đã đạt được kết quả đáng khích lệ và từ phiên 9 bắt đầu chuyển sang thảo luận nội dung của bản dự thảo báo cáo về các cam kết đa phương.
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO vào ngày 17 tháng 1 năm 2007. Trở thành một thành viên chính thức đem lại cho Việt Nam những thời cơ mới đồng thời đối mặt với những thách thức mới. Do đó nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng phải nâng cao năng lực cạnh tranh để đứng vững và phát huy được lợi thế trên trường quốc tế.
1.6.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện WTO
Mỗi doanh nghiệp kinh doanh phải có những nguồn lực nhất định. Để duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh buộc các doanh nghiệp phải phát huy triệt để mọi tiềm lực, mọi thế mạnh để tạo lợi thế bằng hoặc hơn cá._. ở mỗi sản phẩm, mỗi công trình Tổng Công ty đã thực hiện: có thể ở kiểu dáng độc đáo, kỹ thuật vượt trội, đáp ứng các yêu cầu về tiến độ của khách hàng hoặc sẵn sàng thoả mãn những yêu cầu thêm ngoài hợp đồng.
Nâng cao năng lực cạnh tranh bằng các biện pháp hạ giá thành nhưng vẫn phẩi đảm bảo tỷ suất lợi nhuận theo đúng kế hoạch đã đề ra. Tăng tỷ suất lợi nhuận là một yêu cầu cấp bách bởi tăng tỷ suất lợi nhuận sẽ tăng tích lũy, tạo điều kiện cho Tổng Công ty tái đầu tư cho công nghệ, kỹ thuật, mở rộng sản xuất. Muốn vậy, mọi biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh dù là biện pháp kỹ thuật, nhân sự hay quản lý đều phải đảm bảo được yêu cầu giảm chi phí, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận.
Tạo được thế mạnh về nguồn lực tài chính vì năng lực tài chính có tác dụng tích cực đến quá trình đấu thầu. Với những công trình đã thắng thầu, năng lực tài chính mạnh giúp cho Tổng Công ty hoàn thành nhiệm vụ thi công, đảm bảo công trình có kỹ thuật, chất lượng tốt, đúng tiến độ thi công và nâng cao uy tín. Trong đấu thầu, năng lực tài chính là một trong những tiêu chuẩn đánh giá nhà thầu. Một Tổng Công ty với năng lực tài chính mạnh có thể quyết định giá bỏ thầu một cách sáng suốt và hợp lý.
Năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty còn được thể hiện ở bộ máy quản lý gọn nhẹ, ít trung gian, phương thức quản lý hiện đại và hiệu quả, luôn thích nghi được với yêu cầu của chủ đầu tư và mọi biến động của thị trường.
Để có được năng lực cạnh tranh cao, Tổng Công ty phải có được các nguồn lực và các kỹ năng cần thiết để khai thác các nguồn lực đó, phải có năng lực cần thiết để quản lý các nguồn lực một cách có hiệu quả. Các giải pháp không chỉ đơn thuần là sử dụng nguồn lực để tạo ra lợi thế cạnh tranh mà điều quan trọng là phải xem lợi thế đó kéo dài được bao lâu và làm thế nào để duy trì các lợi thế đó một cách lâu dài. Những lợi thế thường dễ bị bắt chước là các lợi thế dựa trên các nguồn lực hữu hình. Vì các nguồn lực này dễ dàng nhận thấy và có thể mua được. Còn các nguồn lực vô hình như thương hiệu, uy tín của Tổng Công ty rất khó bắt chước. Nhìn chung các nguồn lực dễ bị sao chép hơn là các năng lực. Do đó điều quan trọng là thiết lập được cơ sở cho các lợi thế cạnh tranh lâu bền và duy trì được lợi thế cạnh tranh đó cho Tổng Công ty.
1.4. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty sông Đà
1.4.1. Xây dựng chiến lược đa dạng hóa các hình thức đầu tư
Tổng công ty hoạt động đa ngành, đa dạng hóa sản phẩm, trong đó có hoạt động đặc biệt là hoạt động xây dựng. Hoạt động này rất khó có chiến lược dài hạn vì nó phụ thuộc lớn vào năng lực đấu thầu và nhu cầu xây dựng. Chính vì vậy, Tổng công ty cần có chiến lược đa dạng hóa các hình thức đầu tư và hình thức sở hữu trong đầu tư xây dựng.
Tự đầu tư và hợp tác với các Tổng công ty, các Tập đoàn lớn cũng như huy động vốn từ cán bộ công nhân viên để đầu tư các cơ sở sản xuất kinh doanh, khu công nghiệp, khai thác chế biến khoáng sản và sản phẩm dịch vụ tài chính tiền tệ, … cụ thể như sau:
Đầu tư sản xuất điện năng:
Đầu tư xây dựng và kinh doanh điện. Đây là lĩnh vực đang được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước quan tâm. Vì vậy, cần phải có chiến lược đầu tư đúng đắn, xây dựng cơ chế thông thoáng, phù hợp để tổ chức thực hiện.
Tăng cường hợp tác liên doanh, liên kết với các Tập đoàn kinh tế mạnh, với các Tổng công ty lớn, các tổ chức kinh tế khác và các cá nhân, các thể nhân trong xã hội, kể cả đối tác nước ngoài, tìm kiếm cơ hội để đầu tư trong nước
Đầu tư sản xuất công nghiệp vật liệu xây dựng:
Chuẩn bị tốt mọi điều kiện và tìm mọi biện pháp đẩy nhanh tiến độ, tìm kiếm, liên kết với các đối tác nước ngoài có tiềm lực, có uy tín để cùng đầu tư dây chuyền 2 nhà máy xi măng Hạ Long, dự kiến triển khai xây dựng năm 2009 và hoàn thành, đưa vào vận hành năm 2012. Trong việc lựa chọn thiết bị cần đặc biệt quan tâm đến thiết bị của các nước có công nghệ tiên tiến hiện đại, thương hiệu nổi tiếng để đảm bảo chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm hạ nhằm tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường.
Thành lập các công ty cổ phần để thực hiện đầu tư, giảm dần tỷ lệ góp vốn của doanh nghiệp vào dự án, huy động nhiều nguồn vốn trong xã hội, nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia, quan tâm tìm kiếm hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước có kinh nghiệm, uy tín, tiềm lực tài chính cùng tham gia góp vốn đầu tư dự án.
Đầu tư khai thác tài nguyên, khoáng sản:
Cùng với các Tập đoàn kinh tế lớn, các Tổng công ty mạnh của đất nước như: Tập đoàn công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn dầu khí Việt Nam…Tập trung nghiên cứu cơ hội đầu tư trong lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản như khai thác mỏ sắt, đầu tư khu liên hợp luyện kim, khai thác muối mỏ cùng với dự án chế biến các sản phẩm từ muối mỏ, khai thác và chế biến các khoáng sản boxit, thạch cao, trồng cây cao su, dự án sản xuất ván sợi ép từ gỗ…
Đầu tư kinh doanh hạ tầng, khu đô thị:
Đẩy mạnh công tác tìm kiếm dự án đầu tư khu đô thị trên khắp các tỉnh thành trên cả nước, xây dựng chiến lược thu hút vốn từ nhiều thành phần kinh tế, nhiều nguồn, kể cả trong và ngoài nước để đầu tư dự án.
Tiếp tục tìm kiếm cơ hội đầu tư các dự án đường cao tốc, phát triển hạ tầng, giao thông đô thị…Mở rộng hình thức liên doanh, liên kết với các đối tác trong và ngoài nước có kinh nghiệm, chuyên nghiệp trong quản lý, có đủ tiềm lực cùng hợp tác đầu tư dự án. Đảm bảo mở rộng hoạt động đầu tư, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cao đối với từng dự án.
Đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu kinh tế:
Nghiên cứu, tìm kiếm cơ hội đầu tư một số dự án khu công nghiệp mới, đầu tư khu kinh tế hoặc đặc khu kinh tế ở các tỉnh thành trong cả nước, phù hợp với định hướng phát triển của Tập đoàn. Tăng cường và mở rộng hợp tác với các tập đoàn, Tổng công ty, các thành phần kinh tế khác, các nhà đầu tư nước ngoài cùng tìm kiếm cơ hội và đầu tư xây dựng, kinh doanh, khai thác khu công nghiệp, khu kinh tế. Kêu gọi các nhà đầu tư thứ phát, các nhà đầu tư cấp hai vào đầu tư tại các khu công nghiệp, khu kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi hấp dẫn nhất để khuyến khích các nhà đầu tư.
Đầu tư phát triển các ngành nghề kinh doanh khác
Khi Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế khu vực và thế giới thì lĩnh vực dịch vụ sẽ là là lĩnh vực có sự phát triển với tốc độ cao , thu hút nhiều Tập đoàn, doanh nghiệp lớn có tiềm năng đầu tư vào;Trong đó các lĩnh vực :ngân hàng tài chính, chứng khoán đang là khu vực có tốc độ phát triển mạnh.
Tham gia góp vốn đầu tư vào các ngân hàng cổ phần, vừa mở rộng ngành nghề kinh doanh, vừa tạo ra các kênh huy động vốn thuận lợi cho Tập đoàn, mở rộng và đa dạng hóa hình thức sở hữu, đặc biệt chú trọng hợp tác với các đối tác có kinh nghiệm và các tổ chức tín dụng nước ngoài có uy tín trong hoạt động tín dụng. Tiếp tục lựa chọn nghiên cứu cơ hội đầu tư tài chính vào các dự án, các doanh nghiệp khác, đầu tư chứng khoán …
Tăng cường nghiên cứu các cơ hội để đầu tư các ngành nghề sản xuất kinh doanh, các ngành nghề dịch vụ khác ngoài những ngành nghề truyền thống, mở rộng thị trường, tăng doanh thu và lợi nhuận, tạo đà cho sự phát triển bền vững của Tập đoàn .
1.4.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là trung tâm của sự phát triển nên ở mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực của cuộc sống, con người luôn là yếu tố cần được quan tâm nhiều nhất. Ý thức được vấn đề này, Tổng công ty Sông Đà luôn nỗ lực để có một đội ngũ CBCNV giỏi về năng lực, tốt về sức khỏe và lành mạnh về tinh thần. Tổng số lao động của công ty hơn 30.000 người nên việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là hết sức cần thiết. Với sụ bùng nổ về thông tin và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật như hiện nay thì cần phải có các chương trình đào tạo và đào tạo lại cán bộ, nâng cao tay nghề công nhân. Các chương trình này phải xác định cụ thể: Mục tiêu đào tạo, hình thức đào tạo, nguồn vốn đào tạo và tiêu chuẩn nguồn nhân lực. Sau khi đào tạo phải có hoạt đông kiểm tra và đánh giá chất lượng đào tạo.
Tổng công ty cần phải:
Lập kế hoạch đào tạo cán bộ trung và dài hạn trong lĩnh vực quản lý và lý luận chính trị; đào tạo nâng cao kỹ năng lãnh đạo, quản lý, tổ chức tham quan và học tập thực tế tại các nước tiên tiến trongkhu vực và trên thế giới cho đội ngũ lãnh đạo, cán bộ nguồn củ công ty Mẹ và lãnh đạo các đơn vị là công ty Con, công ty liên kết của Tổng công ty.
Xây dựng kế hoạch đào tạo, bổ sung kiến thức mới trong các lĩnh vực chuyên ngành như: Quản lý kỹ thuật, đầu tư, kế hoạch, kinh tế, tài chính, kế toán và tổ chức đào tạo. Làm việc với các trường đại học trong nước, các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, để lên kế hoạch, chương trình, nội dung, ký kết hợp đồng đào tạo để tiến hành mở các lớp đào tạo chuyên ngành, nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên của Tổng công ty.
Xây dựng kế hoạch, chính sách tuyển dụng cán bộ công nhân viên, thu hút nhân tài để đáp ứng kịp thời nguồn nhân lực của Tổng công ty trong giai đoạn tới. Chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với thợ bậc cao, cán bộ quản lý giỏi ở vùng sâu, vùng xa, đề xuất những giải pháp hữu hiệu nhằm khuyến khích người lao động.
Thực hiện tốt chính sách tiền lương, BHXH và các chế độ khác cho người lao động để kịp thời động viên, khuyến khích người lao động, góp phần phát triển nguồn nhân lực và đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của cơ chế thị trường hiện nay.
1.4.3.Đổi mới công nghệ, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và phát triển.
Thực tế về mặt bằng công nghệ của Tổng công ty cho thấy yêu cầu đổi mới công nghệ rất cao. Để đổi mới có hiệu quả không thể làm một cách ồ ạt và cũng không thể dàn trải vì vốn cho hiện đại hoá là rất lớn. Nó đòi hỏi Tổng công ty phải có kế hoạch, chiến lược đầu tư hợp lý và lâu dài. Dưới đây là một số quan điểm cơ bản khi tiến hành đổi mới:
- Cần phải đổi mới có trọng điểm, dần dần, trong đó đào tạo nguồn nhân lực phải đi trước một bước để có thể tiếp thu, ứng dụng và phát triển những máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại. Khi đổi mới cần chú ý đến một số điểm:
+ Có cần thiết phải đổi mới máy móc đó hay không? Thực trạng lạc hậu của máy móc đó ra sao?
+ Khi đổi mới cần mua loại nào?
+ Tổng số tiền cần thiết? Nguồn? Thời gian bao lâu?
Tất cả những câu hỏi trên cần được trả lời trước khi lập dự án đổi mới. Thành phần tham gia chủ yếu trong nghiên cứu tiền khả thi và khả thi là: phòng kỹ thuật. Ngoài ra, còn có thành viên ở các phòng, các đơn vị thành viên khác, ví dụ như phòng Kế hoạch -Vật tư, phòng Tài chính – Kế toán, phòng Marketing. Tất cả phải nằm dưới sự chỉ đạo, điều hành của ban lãnh đạo Tổng công ty.
- Bên cạnh biện pháp đầu tư mua mới, công ty cũng cần phải đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và phát triển để tạo ra sản phẩm hàng hoá đặc thù, cải tiến máy móc kỹ thuật, nâng cao hiệu quả và năng suất lao động. Hoạt động nghiên cứu phát triển giúp Tổng công ty cải tiến máy móc, hợp lý hoá sản xuất trên cơ sở máy móc hiện đại, tiết kiệm nguồn lực. Không ai hiểu rõ công ty bằng chính cán bộ, công nhân kỹ thuận ở chính công ty đó nên việc cải tiến sẽ hiệu quả nhất nếu do chính cán bộ công nhân viên của Công ty nghiên cứu. Hoạt động nghiên cứu phát triển tìm ra phương thức sản xuất mới, phát minh ra công nghệ sản xuất mới giúp công ty có được lợi nhuận độc quyền trên thị trường. Hoạt động nghiên cứu và phát triển không chỉ do cán bộ công nhân viên trong công ty thực hiện mà còn có thể hợp tác với các công ty khác, các trường Đại học, trường công nhân kỹ thuật và các Viện cùng thực hiện các dự án nghiên cứu trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Nguồn vốn dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển phải dựa phần lớn vào vốn tự có và vốn vay dài hạn, được trích ra từ lợi nhuận để lại. Như vậy, Tổng công ty cần phải có nguồn vốn dành riêng cho hoạt động nghiên cứu và phát triển đổi mới công nghệ.
1.4.4. Giải pháp lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp.
Tổng công ty cần triển khai tích cực công tác hoạch toán kinh doanh trong toàn Tổng công ty. Yêu cầu các đơn vị lập kế hoạch giá thành, kế hoạch lợi nhuận, đặc biệt lập kế hoạch tài chính rõ ràng, có cơ sở.
Tăng cường công tác thu vốn:
Các đơn vị, các Ban điều hành dự án trực thuộc Tổng công ty thực hiện nghiêm chỉnh quy định về thu vốn để xác định rõ trách nhiệm của từng bộ phận cũng như xác định quyền lợi, chế độ đãi ngộ với các bộ phận thực hiện tốt.
Rà soát, bổ sung cán bộ kinh tế, kỹ thuật có đủ năng lực tại các công trình trọng điểm đảm bảo tiến độ hoàn thành hồ sơ nghiệm thu thanh toán để thu hồi vốn.
Đôn đốc thu hồi các khoản nợ, nhất là các khoản công nợ quá hạn, nợ cá nhân, nợ khó đòi, các khoản nợ còn vướng mắc. Quy trách nhiêm, quyền lợi cụ thể và giao nhiệm vụ thu nợ, thời gian phải hoàn thành cho từng người đối với từng khoản nợ.
Xây dựng và thực hiện các biện pháp đồng bộ từ Tổng công ty đến các đơn vị để đảm bảo chỉ số chứng khoán chung của Tổng công ty và từng đơn vị thành viên ngày càng tăng.
Xây dựng kế hoạch lưu chuyển tiền của Công ty Mẹ và trong từng công ty Con.
Thực hiện định kỳ công tác phân tích hoạt động kinh tế, đưa ra nguyên nhân lỗ,lãi và biện pháp khắc phục.
Đẩy mạnh thực hiện chương trình thực hành tiết kiệm chống lãng phí của Hội đồng quản trị Tổng công ty; tổ chức quản lý tốt tất cả các yếu tố chi phí sản xuất, tiết kiệm trong đầu tư.
Chấn chỉnh công tác hạch toán kế toán đảm bảo đúng chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán hiện hành. Báo cáo kế toán chính xác, kịp thời đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin của thị trường chứng khoán và các nhà đầu tư. Thực hiện nghiêm chỉnh quy định về xử lý trách nhiệm cá nhân đối với vi phạm trong công tác kế toán.
Thực hiện kiểm soát rủi ro như thanh tra tài chính nội bộ, kiểm soát của ban kiểm soát. Kiểm toán độc lập toàn bộ, kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính.
Quản lý thương hiệu Sông Đà: quản lý tốt biểu tượng Sông Đà, tên thương hiệu Sông Đà. Các công ty con, công ty liên kết muốn sử dụng thì phải ký hợp đồng với Tổng công ty.
Chế độ đãi ngộ với người lao động: quan tâm đến đơn giá trả lương, phương pháp xác định đơn giá trả lương gắn với khối lượng, chất lượng sản xuất sản phẩm và thời gian trả lương cho người lao động, đồng thời dùng đòn bẩy tiền thưởng để kích thích người lao động trong sản xuất. Chăm lo đến nơi ở, phương tiện đi lại của người lao động ở các công trường trọng điểm.
1.4.5. Duy trì và đẩy mạnh hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu của Tổng công ty ở trong nước và ra thị trường thế giới
Thương hiệu là tài sản vô giá của doanh nghiệp. Khẳng định được thương hiệu trên thị trường là một thành công lớn của doanh nghiệp. Đối với sản phẩm nhãn hiệu hàng hoá là tên doanh nghiệp, là biểu tượng được đăng ký và bảo vệ quyền sở hữu, được cơ quan chức năng công nhận. Thương hiệu là chất lượng sản phẩm, là uy tín, sự tin cậy của khách hàng, tiềm năng phát triển của công ty, sự nổi tiếng của thương hiệu đó.
Xuất phát từ tính cấp thiết phải xây dựng thương hiệu sản phẩm, thông qua kinh nghiệm của một số doanh nghiệp ta có thể đưa ra một số phương hướng xây dựng và phát triển thương hiệu của Tổng công ty Sông Đà :
Tạo ra các sản phẩm, dịch vụ đặc trưng của công ty với chất lượng đảm bảo yêu cầu của khách hàng và thị trường.
Dành nguồn vốn nhất định cho hoạt động giới thiệu sản phẩm, xây dựng và quảng bá thương hiệu SÔNG ĐÀ (có thể từ 5 – 7 % tổng nguồn vốn kinh doanh)
Công ty cần đa dạng hoá kênh phân phối, có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, việc quảng bá thương hiệu công ty cũng cần lựa chọn kênh hợp lý như thông qua các hội trợ triển lãm kết hợp giới thiệu thông qua các công trình xây dựng do chính công ty thực hiện hoặc các công ty có uy tín cao trong ngành thực hiện. Ngoài ra để quảng bá ra nước ngoài, công ty cũng có thể sử dụng mạng Internet, kênh phân phối độc quyền hoặc nhờ sự giúp đỡ của nhà nước (ví dụ như: phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, cơ quan xúc tiến thương mại).
Cuối cùng công ty cũng cần phải xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu một cách lâu dài mà trước tiên là chiến lược đào tạo nguồn nhân lực và đa dạng hoá sản xuất sản phẩm.
1.4.6. Duy trì và đẩy mạnh công tác liên kết và hợp tác đầu tư với bạn hàng trong nước và với nước ngoài
Hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp. Thực tế đã chứng minh rằng không có một một doanh nghiệp, một quốc gia nào có được một vị thế tuyệt đối, hoàn hảo ở tất cả mọi mặt. Các doanh nghiệp hợp tác, liên kết với nhau là cách tốt nhất để học hỏi và phát huy lợi thế của mình. Các doanh nghiệp có thể liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm bổ sung cho nhau, hoặc cũng có thể liên kết hợp tác với các nhà cung cấp để có nguồn cung ổn định và các khách hàng với tư cách là đại lý phân phối độc quyền. Có rất nhiều cách, nhiều hình thức để liên kết và hợp tác.
Đối với Tổng công ty Sông Đà vốn hoạt động trong lĩnh vực xây dựng đòi hỏi nguồn vốn lớn nên cần phải đẩy mạnh hoạt động liên kết và hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt hiện nay công ty đang thực hiện chiến lược đa dạng ngành nghề. Sau đây là một số giải pháp về hoạt động liên kết và hợp tác cho công ty trong thời gian tới:
Cung cấp đầu vào cho lĩnh vực xây dựng: Việc phối hợp với các nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào là hết sức quan trọng vì nó không những ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến chất lượng công trình, uy tín của Tổng công ty.
Hoạt động sản xuất: Công ty có thể hợp tác với một số công ty khác trong và ngoài nước, các Viện nghiên cứu, các trường Đại học, các Trung tâm nghiên cứu để nghiên cứu, cải tiến và hiện đại hoá máy móc, dây chuyền sản xuất và cả trong công tác đào tạo nguồn nhân lực. Thêm vào đó, công ty còn có thể tận dụng năng lực sản xuất hiện tại để tiến hành hoạt động gia công sản phẩm cho các doanh nghiệp khác. Thông qua hoạt động này công ty sẽ có thể học hỏi, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để tự hoàn thiện năng lực sản xuất.
Tăng cường hợp tác liên doanh, liên kết với các Tập đoàn kinh tế mạnh, với các Tổng công ty lớn, các tổ chức kinh tế khác và các cá nhân, các thể nhân trong xã hội, kể cả đối tác nước ngoài, tìm kiếm cơ hội để đầu tư trong nước; bao gồm các dự án thủy điện, các dự án nhiệt điện tại CHDCND Lào, Campuchia, một số nước đang phát triển khác. Trước mắt đẩy mạnh đầu tư các dự án thủy điện tại nước CHDCND Lào theo hiệp định hợp tác giữa Chính phủ hai nước. Các dự án đầu tư mới sẽ thành lập công ty cổ phần hoặc liên doanh, huy động vốn từ các nhà đầu tư trong nước, ngoài nước, đặc biệt là nhà đầu tư thuộc nước sở tại.
1.4.7. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tổng công ty
Với chủ trương xây dựng và phát triển Tổng công ty thành Tập đoàn kinh tế mạnh, đa dạng hóa sở hữu, đa dạng hóa ngành nghề, đa dạng hóa sản phẩm, Tổng Công ty cần tạo lập một cơ cấu tổ chức linh hoạt gắn liền với tổ chức hệ thống thông tin chính xác kịp thời phục vụ cho việc ra quyết định. Một cơ cấu tổ chức hoàn thiện cho phép đảm bảo sự thích nghi của tổ chức với các chiến lược kinh doanh đã chọn. Khi môi trường kinh doanh thay đổi thì cơ cấu cũng không được cứng nhắc, phải luôn được cải tiến, đổi mới để thích ứng với các biến động mà đặc trưng nổi bật trong những năm gần đây là tính không chắc chắn về kinh tế tài chính, sự đổi mới liên tục về nhu cầu, tầm quan trọng của nhân tố con ngưòi ngày càng tăng.
Việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tổng Công ty cần chú ý:
Cần định hướng vào việc đạt mục tiêu, không chỉ giới hạn ở những nguồn lực và đội ngũ nhân viên hiện thời mà có thể thay đổi linh hoạt.
Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ phận, các cấp lãnh đạo, áp dụng nguyên tắc chịu trách nhiệm đầy đủ trong khuôn khổ quyền hạn được giao.
Chú ý nâng cao trình độ chuyên môn hóa của mỗi đơn vị thành viên đồng thời đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ giữa các đơn vị để có được sức mạnh tổng hợp và tranh thủ được lợi thế kinh tế nhờ quy mô.
Công tác điều hành quản lý được coi như là mắt xích nối các hoạt động của công ty một cách nhịp nhàng. Ngoài ra, công tác này còn có nhiệm vụ vạch ra các giai đoạn mục tiêu phấn đấu hoàn thành cũng như các hướng đi, bước đi cụ thể.
Một số biện pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác điều hành quản lý cho Tổng công ty :
Kiện toàn công tác tổ chức quản lý với cán bộ, gắn khối quản lý với khối sản xuất để kiểm tra giám sát lẫn nhau. Sắp xếp đổi mới doanh nghiệp, cơ cấu lại tổ chức của công ty Mẹ và các công ty Con. Hoàn thành chuyển đổi các công ty con đang là công ty TNHH nhà nước 1thành viên thành công ty cổ phần.
Tăng cường sự điều hành quản lý, giám sát của cán bộ cấp trên, nhất là trong khâu quản lý nguyên vật liệu, nhưng đồng thời cũng tạo ra sự chủ động cho cán bộ cấp dưới, các đơn vị thành viên và sự giám sát của cấp thấp với cấp cao.
Tổ chức tiếp nhận các đơn vị được Bộ xây dựng giao vốn và một số đơn vị thuộc trung ương và địa phương khác tự nguyện ra nhập Tập đoàn, ra mắt và đưa vào hoạt động theo mô hình Tập đoàn.
Xây dựng, rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành các quy chế, quy định, đảm bảo công tác chỉ đạo, quản lý điều hành sản xuất của Tập đoàn theo phương pháp quản lý, điều hành tiên tiến, phân cấp triệt để,tạo ra cơ chế chủ động, thông thoáng cho các đơn vị trong Tập đoàn hoạt động, đáp ứng yêu cầu phát triển với quy mô lớn và tốc độ cao, đảm bảo sản xuất kinh doanh hiệu quả và tích lũy vốn.
1.5. Một số kiến nghị khác
1.5.1. Về phía nhà nước
Thứ nhất, Nhà nước quan tâm mở rộng và tăng năng lực hoạt động cho các trường dạy nghề và chuyên nghiệp để họ cung cấp nguồn nhân lực đảm bảo cả số lượng và chất lượng. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được quyết định bởi đội ngũ nhân lực của doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam đang ở trong tình trạng thừa công nhân lao động thủ công và thiếu những công nhân được đào tạo bài bản và hiện đại, có tay nghề chuyên môn cao. Điều này đòi hỏi Nhà nước tăng cường công tác đào tạo tay nghề và trình độ để đảm bảo nhu cầu về lao động. Đồng thời cần hoàn thiện thể chế của thị trường lao động để đảm bảo sự công bằng, kích thích sự di chuyển nguồn nhân lực, đảm bảo việc làm và thu hút tài năng.
Thứ hai, Nhà nước đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại nhằm tạo chỗ dưạ cho các doanh nghiệp trong nước khi tham gia thị trường quốc tế. Xúc tiến thương mại là một trong những giải pháp hữu hiệu giúp doanh nghiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh. Xúc tiến thương mại tạo cơ hội cho doanh nghiệp giao lưu học hỏi và phát huy khả năng của mình. Xét ở tầm vĩ mô,xúc tiến thương mại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. Thực tế hiện nay thì hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều hiểu biết và kinh nghiệm cần thiết về thị trường nước ngoài do hoạt động nghiên cứu thị trường nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức. Nhà nước cần nâng cao hơn nữa nhận thức của doanh nghiệp về lĩnh vực này và có biện pháp hỗ trợ thông qua con đường ngoại giao. Nhà nước thiết lập các văn phòng đại diện, các cơ quan thường vụ và hội đồng tư vấn xuất khẩu ở nước ngoài tại các thị trường điểm, các khu vực kinh tế lớn. Xây dựng chính sách và các biện pháp đẩu mạnh công tác xúc tiến thương mại ở nước ngoài như khuyến khích các doanh nghiệp thành lập ở nước ngoài những đại lý phân phối hàng hóa, trưng bày sản phẩm … ; tổ chức nghiên cứu học tập kinh nghiệm tổ chức và quản lý của một số tổ chức xúc tiến thương mại lớn trên thế giới để hoàn thiện hệ thống xúc tiến thương mại ở Việt Nam.
Thứ ba, Nhà nước đẩy mạnh hoạt động cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp. Thông tin là đầu vào tất yếu của quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp nào có thông tin nhanh nhất, doanh nghiệp đó sẽ có cơ hội chiến thắng. Có đầy đủ thông tin và xử lý đúng đắn thông tin là công cụ quan trọng để doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh vì đó là căn cứ đưa ra các quyết định sản xuất kinh doanh. Việc tiếp cận thông tin của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế cả ở thị trường trong nước và quốc tế do các nguồn thông tin không chính xác, phân tán và không hệ thống. Mỗi doanh nghiệp khi bắt đầu thu thập thông tin thường bắt đầu từ việc kiếm chung chung rồi mới đến các thông tin chuyên ngành dẫn tới tốn kém mà hiệu quả không cao. Nếu Nhà nước đứng ra cung cấp thông tin ban đầu thì sẽ tiết kiệm đươc một khoản chi phí đáng kể. Nhà nước hình thành các trung tâm thu thập, phân tích và xử lý thông tin trong nước và quốc tế cung cấp cho doanh nghiệp trên tất cả các lĩnh vực như thông tin kinh tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật.
Thứ tư, Nhà nước hoàn thiện chính sách thuế và công cụ thuế. Thuế là nguồn thu chủ yếu của Nhà nước để duy trì sự hoạt động của bộ máy Nhà nước và thực hiện các hoạt động phúc lợi xã hội. Đối với các doanh nghiệp thì thuế là một khoản chi phí, nó ảnh hưởng tới lợi nhuận, tỷ lệ đầu tư… và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính sách thuế của Việt Nam hiện nay đang là vấn đề đáng quan tâm của cả Nhà nước và các doanh nghiệp. Chính sách thuế không ổn định, thường xuyên thay đổi làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh. Nhà nước nên tích cực cải cách hệ thống thuế và phí nói chung để giảm gánh nặng cho doanh nghiệp và đảm bảo tính minh bạch của hệ thống thuế. Nhà nước thực hiện hỗ trợ có thời hạn hợp lý và hiệu quả đối với một số sản phẩm quan trọng. Công cụ thuế phải là đòn bẩy kích thích đầu tư sản xuất kinh doanh và tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển chứ không phải là công cụ ảnh hưởng tới nguồn lực của doanh nghiệp. Chính sách thuế phải dần đi đến việc khắc phục thất thu và lạm thu thuế, đảm bảo công bằng giữa các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế.
Thứ năm, Nhà nước cần có các chính sách giúp doanh nghiệp giải quyết các vướng mắc về vốn. Mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần có vốn để phục vụ cho hoạt động đầu tư sản xuất. Các doanh nghiệp có thể huy động vốn ở nội bộ hoặc đi vay, vay trong nước hoặc vay ngoài nước. Thị trường tài chính ngày càng phát triển, các kênh huy động vốn ngày càng phong phú, Nhà nước cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút các nguồn vốn trực tiếp, gián tiếp và các nguồn vốn khác. Nhà nước có vai trò to lớn trong việc điều tiết các hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Nếu Nhà nước thiết lập một hành lang pháp lý nhất quán, ổn định, tạo dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, chính sách đầu tư lành mạnh, hấp dẫn sẽ giúp cho các doanh nghiệp, mỗi thành viên trong nền kinh tế nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập một cách thuận lợi vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
1.5.2. Về phía ngành chủ quan (Bộ xây dựng )
Bổ nhiệm những cán bộ có năng lực lãnh đạo, có trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt cho các doanh nghiệp trong ngành.
Thường xuyên thực hiện kiểm tra, kiểm soát doanh nghiệp thông qua báo cáo các chỉ tiêu kế hoạch.
Thiết lập hệ thống thông tin thị trường để hỗ trợ cho Tổng công ty trong việc tìm kiếm đối tác.
Tổ chức chương trình đào tạo, mở các lớp bồi dưỡng và nâng cao kiến thức quản lý và kiến thức chuyên môn cũng như chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
KẾT LUẬN
Việc doanh nghiệp tìm cho mình một chỗ đứng vững chắc, toàn trong nền kinh tế thị trường là một điều hết sức khó khăn. Tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho một doanh nghiệp cũng với chính mục đích tạo cho công ty một chỗ đứng, một vị thế trên thương trường. Trong quá trình nghiên cứu, bám sát thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Sông Đà những năm qua ta thấy Tổng công ty Sông Đà đã có chỗ đứng trên thị trường, có được uy tín đối với khách hàng.
Tuy nhiên để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới thì Tổng công ty còn rất nhiều việc phải làm. Trên đây là một số ý kiến bản thân em đưa ra nhằm áp dụng vào thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty để nâng cao năng lực cạnh tranh, giữ vững vị thế của mình trên thị trường trong nước và quốc tế.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn TS.Nguyễn Ngọc Sơn và các cô, chú, anh, chị ở phòng kế hoạch Tổng công ty Sông Đà đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh các năm 2001 – 2007 của Tổng công ty Sông Đà
2. Bàn về cạnh tranh toàn cầu
NXB Thông tấn, Hà Nội 2005
3. Chìa khóa nâng cao năng lực tiếp thị và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
NXB Thống kê 2004
4. Giáo trình Chiến lược kinh doanh
5. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập
Trần Sửu
6. Tạp chí thương mại, báo công nghiệp và một số báo, tạp chí khác có liên quan
7. Trang web: www.mof.gov.vn
www.mofa.gov.vn
Cơ sở hạ tầng:
- Máy móc thiết bị tương đối đầy đủ nhưng tỷ lệ nội địa hóa còn thấp
- Sắp xếp đổi mới cơ cấu tổ chức hiệu quả, có sự lãnh đạo chặt chẽ của cán bộ cấp trên, công tác kế hoạch
Hệ thống thông tin:
- Thông tin được cung cấp ngày càng nhanh và hiệu quả hơn thông qua các kênh thông tin khác nhau
guồn nhân lực:
- Các bộ chuyên môn kỹ thuật, công nhân có trình độ cao.
- Thường xuyên đào tạo và đào tạo lại cho nguồn nhân lực.
Nghiên cứu và triển khai:
- Các công trình nghiên cứu nhằm cải tiến, nâng cao năng suất, đổi mới công nghệ.
Quản lý nguyên vật liệu:
- Nguyên vật liệu phục vụ cho các hoạt động sản xuất của công ty chỉ được đáp ứng một phần bởi nguồn trong nước, phần còn lại phải nhập khẩu.
Sản xuất:
- Hoạt động đa dạng các ngành nghề trong đó xây dựng các công trình thủy điện lớn là thế mạnh.
- Công suất tối đa chưa được tận dụng hết
Marketing:
- Hoạt động nghiên cứu thị trường còn yếu, chủ yếu vẫn là các phương thức được sử dụng đã lâu.
Dịch vụ:
- Hoạt động kinh doanh dịch vụ cũng được Tổng công ty chú trọng nhưng còn mới nên doanh thu ít.
P. đầu tư
P. kế hoạch
Hội đồng quản trị
BĐH dự án hầm Hải Vân
Công
Ty
SĐ
1
CN TCT
tại
TP
HCM
Công
Ty
SĐ
3
P. thiết bị
P. quản lý kỹ thuật
P. T.Chính kế toán
Tổng giám đốc
P. quản lý cơ bản
P. Kiểm toán nội bộ
P. Hành chính
P. tổ chữc, đào tạo
ĐDH
dự án thuỷ điện
Tuyên
Quang
ĐD
TCT
tại
Miền Trung
ĐD
TCT
tại
Sơn
La
C.Ty
CP xi măng Hạ Long
C.Ty BOT thuỷ điện Cần Đơn
C.Ty PT
ĐT Hà
Thành
Công
Ty
SĐ
5
Công
Ty
SĐ
4
Công
Ty
SĐ
1
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33038.doc