Mục lục
Phần I- Những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 6
I-Cạnh tranh và các hình thức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 6
1. Khái niệm về cạnh tranh 7
2. Các hình thức cạnh tranh 8
2.2. Căn cứ vào mức độ và tính chất của cạnh tranh trên thị trường 10
2.3 Căn cứ vào chủ thể tham gia vào thị trường 11
3. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN ở Việt Nam. 12
II. Năng lực cạnh tranh và cá
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1384 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông sản xuất khẩu tại Công ty XNK tổng hợp 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 13
1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 13
2. Các nhân tố quyết định cường độ cạnh tranh 14
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 15
3.1 Các nhân tố bên trong ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 16
3.3. Mô hình cạnh tranh (Micheal Poster với 5 lực lượng cạnh tranh) 20
3.3.1. Sự đe doạ từ các đối thủ tiềm ẩn 21
3.3.2. Sức ép từ nhà cung cấp 22
3.3.3. Sức ép của khách hàng 22
3.3.4. Sự đe doạ từ đối thủ hiện tại 23
3.3.5. Sự đe doạ từ sản phẩm thay thế 23
4. Một số công cụ cạnh tranh chủ yếu của các doanh nghiệp 24
4.2. Cạnh tranh bằng giá cả 26
4.3. Cạnh tranh về phân phối và bán hàng 27
4.4. Cạnh tranh về thời cơ thị trường 29
5. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 30
5.1. Thị phần của doanh nghiệp 30
5.2 Tỷ suất lợi nhuận 31
III- Vai trò và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 32
2. Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 33
Phần II Thực trạng năng lực cạnh tranh mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu ở Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I 35
I. Tổng quan về Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I 35
1. Hoàn cảnh ra đời của công ty xuất nhập khẩu tổng hợp 1 35
2. Quá trình phát triển của công ty 37
3. Nhiệm vụ, mục đích, phạm vi hoạt động của Công ty XNK Tổng hợp I
II. Những đặc điểm chủ yếu có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông sản xuất khẩu ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I 39
1. Đặc điểm các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Công ty 39
2. Quy trình thực hiện xuất nhập khẩu hàng hoá 39
2.1. Xin giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá 40
2.2. Chuẩn bị hàng xuất khẩu 41
2.3. Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu 41
2.4. Thuê tàu lưu cước 41
2.5. Mua bảo hiểm 41
2.6. Làm thủ tục hải quan 41
2.7. Giao nhận hàng với tàu 42
2.8. Làm thủ tục thanh toán 42
2.9. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại 42
3. Cơ cấu tổ chức sản xuất kinh doanh 43
4. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty 43
Sơ đồ: cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty XNK Tổng hợp I 46
5. Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý của Công ty 47
6. Thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Công ty 47
7. Vốn kinh doanh 49
8. Cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty 51
III. Thực trạng năng lực cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu 51
1. Kết quả sản xuất kinh doanh của toàn công ty trong ba năm gần đây 54
2. Cường độ cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu nông sản. 54
3. Thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty về một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu 57
4. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Công ty 59
4.1. Các nhân tố thuộc về hàng hoá ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của hàng nông sản 60
4.2. Các nhân tố trong công ty có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của hàng nông sản 63
5. Đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty 69
5.1. Những thành tựu đạt được 69
5.2. Những mặt còn tồn tại 69
5.3. Những nguyên nhân dẫn đến tồn tại 70
Phần III các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông sản xuất khẩu ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I 72
I. Phương hướng và mục tiêu phát triển của công ty 72
1. Phương hướng của hoạt động nông sản của công ty 72
2. Mục tiêu hoạt động của Công ty năm 2001 72
II. Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty 73
Giải pháp thứ nhất: Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả 73
Giải pháp thứ hai: Nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm củng cố uy tín, tăng năng lực cạnh tranh 77
Giải pháp thứ ba: Thực hiện đồng bộ các chính sách Marketing 81
Giải pháp thứ tư: Tăng cường đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ lao động 85
III. Một số kiến nghị với Nhà nước . 89
1. Qui hoạch các vùng sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu. 89
2. Trợ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. 92
2.1. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường . 92
2.2. Hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp. 92
3. Cải tiến các cơ chế trong hoạt động xuất khẩu nông sản 94
3.1. Cải tiến phương thức quản lý đầu mối và hạn ngạch xuất khẩu. 94
3.2. Nâng cao hiệu quả điều hành xuất khẩu nông sản. 94
kết luận
Tài liệu tham khảo
Lời nói đầu
Ngày nay thị trường thế giới đang mở ra nhiều triển vọng lớn, cùng với chính sách mở cửa của Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng xuất khẩu phát triển và đủ năng lực hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Kinh nghiệm của các nước đi trước cộng với lợi thế của mình, Việt nam đã chọn xuất khẩu nông sản là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Xét tương quan trong toàn nghành nông nghiệp, xuất khẩu nông sản chiếm một vị trí quan trọng về tổng sản lượng, nộp ngân sách và đặc biệt đã thu hút hơn 70%lực lượng lao động của cả nước.
Bên cạnh những thuận lợi cũng như những thời cơ nói trên, xuất khẩu nông sản cũng gặp nhiều thách thức, khó khăn. Các đơn vị kinh doanh xuất khẩu nông sản luôn luôn mất ổn định và trải qua những thăng trầm diễn biến của thị trường. Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I với tên giao dịch quốc tế “ GENERALEXIM” cũng trải qua những thách thức đó.
Trong thời gian qua cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Châu á và lan rộng ra một số nước phương Tây cũng làm thu hẹp thị trường hàng nông sản xuất khẩu của công ty. Thời gian tới đất nước gia nhập AFTA đặt ra cho công ty bài toán làm sao để khỏi bị loại khỏi thị trường quốc tế, đứng vững và kinh doanh có lãi. Cả thị trường trong nước và ngoài nước đều có những vấn đề khó khăn cho công ty khi tiếp cận. Đối với thị trường nước ngoài người tiêu dùng là người khó tính, họ có nhiều khả năng lựa chọn từ lựa chọn chủng loại đến kiểu cách tiêu chuẩn chất lượng... nhưng họ là những người có vai trò quan trọng. Bên cạnh đó việc xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước làm cho cạnh tranh càng trở nên gay gắt hơn.
Tình hình đó đòi hỏi nhà quản lý công ty phải làm sao giữ được bạn hàng cũ, mở rộng quan hệ tìm kiếm khách hàng mới tiềm năng. Muốn đạt được điều đó, công ty phải hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng, vận chuyển giao hàng đúng thời hạn, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng ở từng khu vực. Điều đó có nghĩa là công ty phải nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong nước và trên thị trường thế giới.
Chính vì vậy trong quá trình thực tập tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn Tiến sĩ Đinh Ngọc Quyên cùng ban giám đốc, cán bộ phòng tổ chức và phòng nghiệp vụ em đã đi sâu nghiên cứu đề tài:
“ Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông sản xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I ”
Mục đích nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ căn cứ luận, phương pháp luận và thực tiễn nội dung của các khâu từ thu mua chế biến, bảo quản, đóng gói...để đảm bảo chất lượng và có thể cạnh tranh với hàng hoá thế giới. Trên cơ sở đó phân tích thực trạng nhằm đưa ra những kiến nghị nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu đặc biệt là hàng xuất khẩu chủ yếu ở công ty như cà phê, điều nhân , cao su, lạc nhân, gạo...
Bài viết được chia làm 3 phần chính:
Phần I: Lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Phần II Thực trạng năng lực cạnh tranh mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu ở Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I
Phần III Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông sản xuất khẩu ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I
Trong quá trình thực hiện viết luận văn, bài viết sẽ không tránh khỏi những sai sót. Em mong rằng sẽ nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để hoàn thành luận văn tốt hơn. Em xin gửi lơi cảm ơn chân thành đến cô giáo hướng dẫn Tiến sĩ Đinh Ngọc Quyên và các cô chú trong ban giám đốc, phòng tổng hợp và các phòng nghiệp vụ.
Sinh viên thực hiện: Trần Nam Trung
Phần I- lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
I-Cạnh tranh và các hình thức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là sự phát triển cao hơn của nền kinh tế hàng hoá, đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế hàng hoá là sản phẩm được sản xuất ra với mục đích để bán chứ không phải dành cho tiêu dùng cá nhân người sản xuất, trong quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá thì giữa những người sản xuất luôn có sự ganh đua nhau nhằm giành lợi thế cho mình, trong nền kinh tế thị trường thì sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế diễn ra gay gắt hơn do tính chất và trình độ của nền kinh tế thị trường quyết định và đây chính là mầm mống của cạnh tranh. Cạnh tranh ra đời và phát triển trong lòng kinh tế thị trường và chỉ trong Kinh tế thị trường cạnh tranh mới có thể phát triển tới đỉnh điểm cả về quy mô, tính chất và trình độ. Khi nói tới cơ chế thị trường là nói tới môi trường cạnh tranh. Do đó bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường dù muốn hay không muốn đều ít nhiều chịu tác động của cạnh tranh ở các mức độ khác nhau. Các doanh nghiệp thành công trong cơ chế thị trường là các doanh nghiệp biết thích nghi với cạnh tranh và luôn cố gắng giành lấy thế chủ động cho mình trong các quan hệ kinh tế-xã hội bằng các yếu tố thích hợp. Một số doanh nghiệp để giành thắng lợi trong cạnh tranh ngoài việc sử dụng các kỹ năng và kinh nghiệm trong việc tạo ra các lợi thế cạnh tranh, họ đã không ngần ngại sử dụng cả những âm mưu và thủ đoạn tuy nhiên không phải các doanh nghiệp này lúc nào cũng thành công, điều kiện qua trọng dẫn tới thành công trong cạnh tranh chính là việc xây dựng và phát triển một cách đúng đắn và liên tục năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1. Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh ra đời và phát triển từ rất lâu và đã có rất nhiều nhà kinh tế đứng trên các giác độ khác nhau để nghiên cứu và đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về cạnh tranh, trên mỗi giác độ các khái niệm đều có những ý nghĩa lý luận và thực tế nhất định. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế Thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng hệ thống lý luận nói chung và các khái niệm nói riêng về cạnh tranh ngày càng phong phú và hoàn thiện. Dưới CNTB C.Mác quan niệm rằng : “ Cạnh tranh TBCN là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà Tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch ”. Đây là định nghĩa mang tính khái quát chung nhất về cạnh tranh, nó đã nói lên được mục đích của cạnh tranh nhưng chưa nói lên được cách thức để dành được thắng lợi trong cạnh tranh. Bên cạnh đó có một số tác giả quan niệm rằng cạnh tranh như là một “ cuộc chiến ” thực sự mà ở đó người ta phải sử dụng đến tất cả những gì mình có để dành thắng lợi bằng mọi cách trong cả hai tình huống tấn công hay phòng thủ.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận và coi cạnh tranh không những là môi trường và động lực của sự phát triển mà còn là một yếu tố quan trọng làm lành mạnh các quan hệ xã hội, nâng cao hiểu biết của dân cư. Nói tới cạnh tranh không thể không nói tới các nhân tố cấu thành cạnh tranh. Sự cạnh tranh chỉ diễn ra khi có đủ ba yếu tố sau
Một là : Các chủ thể của cạnh tranh. Theo M.Porter thì trong ngành có 5 lực lượng cạnh tranh chính là : các đối thủ hiện tại, các đối thủ tiềm ẩn, người mua, người cung ứng và các nhà sản xuất sản phẩm thay thế .
Hai là : Đối tượng của cạnh tranh. Đối tượng của cạnh tranh có thể là sản phẩm hàng hoá, dịch vụ hay khách hàng.
Ba là : Môi trường cho cạnh tranh : là các yếu tố cần thiết cho quá trình cạnh tranh như là cơ chế kinh tế , hệ thống luật pháp.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh ta thấy rằng giữa sự phát triển của nền kinh tế và sự phát triển của cạnh tranh có mối liên hệ tác động qua lại với nhau thể hiện ở chỗ cạnh tranh là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, khi sản xuất phát triển tạo ra những thay đổi trong cạnh tranh cả về quy mô, hình thức và tính chất. Kết quả của cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, đó là sự sàng lọc cần thiết, là quy luật của sự phát triển, là tiền đề cho sự thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có Luật về cạnh tranh và các doanh nghiệp hiện vẫn đang hoạt động sản xuất kinh doanh theo kiểu thương vụ mà chưa có chiến lược kinh doanh ổn định, không coi trọng lợi ích và vai trò của khách hàng. Điều này đã ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh một cách lành mạnh và xâm phạm tới lợi ích của khách hàng. Trong thời gian tới đây Quốc Hội sẽ ban hành Luật cạnh tranh và khi đó tình hình sẽ được cải thiện một bước và các doanh nghiệp không có năng lực cạnh tranh thực sự sẽ bị đào thải.
Xét trong phạm vi ngành kinh doanh thì cạnh tranh luôn có 5 lực lượng tham gia đó là các đối thủ cạnh tranh tiềm năng, các đối thủ cạnh tranh hiện tại, các đối thủ sản xuất sản phẩm thay thế, người mua và các nhà cung ứng. Năm lực lượng này kết hợp với nhau xác định một phần cường độ cạnh tranh và tỷ suất lợi nhuận của ngành. Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã xuất hiện đầy đủ cả 5 lực lượng này và cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì các lực lượng này cũng có sự phát triển đáng kể : hàng năm có tới hàng nghìn doanh nghiệp mới ra đời, trình độ tổ chức quản lý của các doanh nghiệp ngày càng tốt hơn, chủng loại hàng hoá ngày càng phong phú và có chất lượng cao hơn, trình độ dân trí và thu nhập của người dân ngày càng cao. Về công cụ cạnh tranh trước đây các doanh nghiệp thường chỉ sử dụng các lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối mà ít quan tâm tới việc tạo ra các lợi thế cạnh tranh. Nhưng ngày nay các doanh nghiệp đã quan tâm phần nào tới việc tạo ra các lợi thế cạnh tranh do họ nhận thức ra rằng các lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối thường có hiệu quả thấp và không bền.
2. Các hình thức cạnh tranh
Với mỗi vấn đề, đứng trên các giác độ khác nhau người ta có những cách nhìn nhận khác nhau với những mục đích khác nhau. Với cách phân loại cạnh tranh cũng vậy, với mỗi tiêu thức khác nhau người ta có cách phân loại khác nhau:
2.1. Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành .
- Cạnh tranh giữa các ngành .
Cạnh tranh trong nội bộ ngành : là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất và tiêu thụ 1 loại hàng hoá. Các doanh nghiệp này có đặc trưng về mặt kinh tế-kỹ thuật giống nhau hoặc tương tự nhau thể hiện ở công nghệ, nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm và công dụng cụ thể của sản phẩm. Trong cuộc cạnh tranh này thì hầu hết là bản thân mỗi doanh nghiệp là một đối thủ cạnh tranh và biện pháp cạnh tranh chủ yếu là cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất, hạ giá thành .
Cạnh tranh giữa các ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế khác nhau. Giữa các doanh nghiệp này có sự khác nhau về công nghệ hay nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm hoặc công dụng cụ thể của sản phẩm, nhưng giữa các doanh nghiệp này có một điểm giống nhau rất lớn đó là về mục đích của mọi hoạt động đều nhằm đạt được lợi nhuận cao. Do đó các doanh nghiệp trong ngành có lợi nhuận thấp có xu hướng chuyển sanh hoạt động trong các ngành có lợi nhuận cao hơn. Kết quả của sự chuyển dịch này tạo ra sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành và hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân cho tất cả các ngành. Trong cuộc cạnh tranh này luôn có sự hợp tác nhất định giữa các doanh nghiệp trong ngành trên một số lĩnh vực nhất định và thường cường độ cạnh tranh ở đây không gay gắt bằng cuộc cạnh tranh trong nội bộ ngành .
2.2. Căn cứ vào mức độ và tính chất của cạnh tranh trên thị trường
- Cạnh tranh hoàn hảo .
- Cạnh tranh không hoàn hảo.
- Cạnh tranh độc quyền.
Cạnh tranh hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều người bán và nhiều người mua một loại sản phẩm đồng nhất hoặc có rất ít sự khác biệt, không có người bán hay người mua nào có đủ khả năng chi phối giá cả thị trường. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp sản xuất và bán sản phẩm của mình tại mức giá hiện hành trên thị trường. Xuất phát từ đặc điểm này mà hàng rào cản trở sự nhập cuộc hay rút lui của các đối thủ là rất thấp, tức là sự nhập cuộc của các đối thủ mới hay sự bỏ cuộc của các đối thủ hiện tại cần ít sự cố gắng, chi phí thấp và không có tác động đáng kể nào tới thị trường. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì công cụ cạnh tranh chủ yếu không phải là giá cả mà là những nỗ lực nhằm giảm chi phí hay khác biệt hoá sản phẩm. Đối với thị trường này không có những hiện tượng cung cầu giả tạo và không bị hạn chế bởi các biện pháp hành chính của Nhà nước.
Cạnh tranh không hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có ít người bán và nhiều người mua, sản phẩm trong thị trường này là không đồng nhất. Mỗi loại sản phẩm về công dụng chung nhất thì không có sự khác nhau, nhưng có một số thuộc tính khác nhau và có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau. Do đó người mua ít có điều kiện để so sánh giá cả của sản phẩm này với sản phẩm khác có cùng công dụng. Hàng rào cản trở sự ra nhập và rút lui trong thị trường này cao hơn nhiều so với trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nó đòi hỏi sự cố gắng lớn lao, chi phí lớn và có rủi ro cao. Khi có đối thủ mới ra nhập hay rút lui thì ngay lập tức các đối thủ hiện tại sẽ nhận ra điều này và đưa ra các hành động phù hợp một cách nhanh chóng. Giá cả có thể được sử dụng làm công cụ cạnh tranh nhưng không phải là công cụ hàng đầu, mà công cụ hàng đầu có thể là tính độc đáo của sản phẩm hay chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Thường thì các doanh nghiệp trong thị trường này luôn cố gắng tạo ra hình ảnh của riêng mình và sử dụng nó để lôi kéo khách hành về phía mình. Loại cạnh tranh này rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
Cạnh tranh độc quyền : là loại hình cạnh tranh mà trên thị trường có một số ít người bán những sản phẩm thuần nhất hoặc nhiều người mà mỗi người chỉ bán một loại sản phẩm mang nhãn hiệu và có một số thuộc tính duy nhất. Những người bán này gần như có thể kiểm soát toàn bộ số lượng sản phẩm hàng hoá bán ra trên thị trường. Thị trường này có sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh do vậy được gọi là cạnh tranh độc quyền. Đây là loại cạnh tranh mà Nhà nước cố gắng tác động để đảm bảo luôn có tính cạnh tranh bởi lẽ loại cạnh tranh này rất dễ dẫn đến độc quyền và khi đã dẫn đến độc quyền thì nó sẽ làm tổn hại đến lợi ích xã hội và làm chậm lại sự phát triển của nền kinh tế. Điều kiện ra nhập và rút lui trong thị trường này có rất nhiều trở ngại không thuận lợi như trong hai loại cạnh tranh trên, ngoài những đòi hỏi về tiềm lực tài chính và những thế mạnh về sản phẩm và dịch vụ ra nó còn đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có bí quyết công nghệ và khải năng chịu đựng trong một khoảng thời gian đủ dài. Thị trường cạnh tranh độc quyền không có sự cạnh tranh về giá cả mà mỗi người bán toàn quyền quyết định giá cả sản phẩm của mình, tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi loại sản phẩm và đặc điểm của các phân đoạn thị trường cũng như mức độ độc quyền trên thị trường. Công cụ cạnh tranh được sử dụng trong thị trường này dựa trên uy tín, nhãn mác và tính độc đáo của sản phẩm dịch vụ .
2.3 Căn cứ vào chủ thể tham gia vào thị trường
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua .
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau.
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau .
Cạnh tranh giữa người bán và người mua : là cuộc cạnh tranh dựa trên lợi ích cụ thể của hai bên đó là người mua thì muốn mua rẻ và người bán thì muốn bán đắt. Khi hai bên gặp nhau trên thị trường thì sẽ trao đổi qua lại để đi đến thống nhất về các điều khoản mua và bán, trong quá trình đó ai cũng muốn dành lấy phần lợi cho mình đó chính là cạnh tranh giữa người bán và người mua. Thực tế thì cạnh tranh giữa người bán và người mua không đơn thuần chỉ có về vấn đề giá cả mà còn về các vấn đề khác nữa như phương thức thanh toán, chất lượng phục vụ, chi phí giao hàng nhận hàng, mức độ an toàn và tiện lợi của sản phẩm. Thông thường khi doanh nghiệp đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường rồi thì cường độ cạnh tranh với người mua không cao lắm, nhưng như vậy không có nghĩa là doanh nghiệp đã hoàn toàn dành thế chủ động trước khách hàng mà điều đó chỉ có ý nghĩa trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó các doanh nghiệp phải tự đổi mới mình cho phù hợp với khách hàng. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là giá trị hàng hoá được thực hiện cả hai bên mua và bán đều hài lòng về cái mà mình nhận được.
Cạnh tranh giữa những người mua với nhau : đó là quá trình ganh đua diễn ra giữa những người mua với nhau trong quá trình mua nhằm mục đích mua được hàng hoá có gía trị sử dụng lớn với chất lượng cao.
Quá trình cạnh tranh này chủ yếu diễn ra khi lượng cung trên thị trường nhỏ hơn lượng cầu trên thị trường hoặc với những hàng hoá mang đặc tính duy nhất như: đồ cổ hay những bức tranh nổi tiếng của các hoạ sỹ nổi tiếng và lúc này cường độ cạnh tranh là cao nhất, giá cả của hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng vọt nhưng người mua vẫn sẵn sàng chấp nhận mua. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là người bán sẽ được lợi và người mua nhận được thứ mà mình cần với chi phí cao hơn nhưng vẫn chấp nhận.
Cạnh tranh giữa những người bán với nhau : đây là cuộc cạnh tranh chính trên thị trường, mang tính gay go khốc liệt nhất và có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau , thủ tiêu nhau nhằm giành giật khách hàng và thị trường , giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất tiêu thụ cũng như trong các mối quan hệ kinh tế. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là một sự đào thải có chọn lọc và các doanh nghiệp chiến thắng có cơ hội để tăng doanh thu, tăng lợi nhuận mở rộng quy mô sản xuất và tăng thị phần tạo ra sự phát triển vững chắc. Thực tế cho thấy, khi sản xuất hàng hoá càng phát triển, số người bán tăng lên thì cạnh tranh cũng ngày càng quyết liệt và các doanh nghiệp thành công là các doanh nghiệp dám đối đầu với cạnh tranh, tạo được vũ khí cạnh tranh có hiệu quả và dám chấp nhận “luật chơi”.
3. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN ở Việt Nam.
Thời gian tiến hành đổi mới còn tương đối ngắn nên nền kinh tế nước ta mới chỉ hình thành được khuôn khổ chung của nền kinh tế thị trường. Vì thế để nền kinh tế thị trường định hướng XHCN - một hình thái chưa hề có trong tiền lệ lịch sử hoạt động một cách thực sự trôi chảy thì còn rất nhiều việc phải làm. Một trong số những việc chưa làm và rất khó làm nhưng không thể không làm chính là tạo lập môi trường có tính cạnh tranh và những điều kiện pháp lý đảm bảo cho sự cạnh tranh công bằng, lành mạnh.
Nền kinh tế Việt Nam có kế thừa nền kinh tế tập trung với tính độc quyền nằm ngay trong cơ chế quản lý nên chính sách cạnh tranh chống độc quyền trước hết nhằm hạn chế các yếu tố độc quyền trong cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước. Thực chất của quá trình đổi mới kinh tế là quá trình giải quyết độc quyền của cơ chế quản lý tập trung. Sự hiển thị độc quyền ở Việt Nam là sự tồn tại của một số Tổng công ty Nhà nước. Chính sự vận hành của cơ chế Tổng công ty đã triệt tiêu tính cạnh tranh của thị trường mặc dù ý đồ thiết lập những tập đoàn kinh tế mạnh để tăng sức cạnh tranh là hoàn toàn chính đáng. Nhưng khác với điều mong đợi là trở thành đội quân chủ lực, lôi kéo doanh nghiệp vừa và nhỏ khác thành một đội hình tăng mạnh, tăng năng lực cạnh tranh với tập đoàn kinh tế nước ngoài thì các Tổng công ty lại cạnh tranh với “người nhà” ngay trên “sân nhà” bằng chính lợi thế độc quyền của cơ chế. Những Tổng công ty có mức lãi trước thuế cao nhất, những sản phẩm kém sức cạnh tranh phần lớn là những sản phẩm mang tính độc quyền dưới 2 dạng chính: hoặc là sản phẩm của một hay một số ít nhà cung cấp như Tổng công ty 90- 91 hoặc là sản phẩm được bảo hộ thậm chí cả hai hình thức đó.
Tóm lại, tình trạng kém sức cạnh tranh của nền kinh tế hiện nay không chỉ biểu hiện ở khía cạnh những thông số kỹ thuật của sản phẩm như giá cả cao, chất lượng thấp, chủng loại, kiểu dáng, bao bì kém hấp dẫn. Điều đáng nói là sự thiếu vắng một môi trường trong đó các yếu tố độc quyền bị hạn chế. Sự tồn tại cơ chế xin cho kết hợp với kiểu hình thành và vận hành của mô hình tổng công ty như hiện nay trở thành cặp bài trùng duy trì trạng thái độc quyền. Vì thế trong giai đoạn tiếp tục công cuộc đổi mới tới đây cần thiết loại bỏ cơ chế xin cho và xem xét lại cơ chế vận hành của Tổng công ty.
II. Năng lực cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp nào đang hoạt động trên thị trường có tính cạnh tranh muốn tồn tại và phát triển đều phải có những vị trí nhất định, chiếm những phần thị trường nhất định. Sự tồn tại của doanh nghiệp luôn bị các đối thủ khác bao vây. Vì vậy để tồn tại trong thị trường doanh nghiệp luôn phải vận động, biến đổi ít nhất là với vận tốc ngang bằng với các doanh nghiệp khác trong ngành. Muốn vậy ngoài những tác động bên ngoài thì bản thân doanh nghiệp cần phải có những năng lực nhất định.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực và tiềm năng mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của mình trên thương trường kinh doanh một cách lâu dài và có ý nghĩa.
2. Các nhân tố quyết định cường độ cạnh tranh
Với mỗi doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành cũng như các doanh nghiệp đang có ý định ra nhập ngành thì việc nghiên cứu cường độ cạnh tranh là hết sức có ý nghĩa. Có thể nói cường độ cạnh tranh ở mỗi ngành khác nhau là không giống nhau, nhưng nhìn chung cường độ cạnh tranh trong ngành chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi các yếu tố sau:
Thứ nhất là số lượng và kết cấu của các đối thủ : thông thường thì số lượng doanh nghiệp tham gia cạnh tranh càng nhiều thì cường độ cạnh tranh càng mạnh do số lượng khách hàng cũng như cơ hội kinh doanh là có hạn và các doanh nghiệp luôn cố gắng nhiều hơn để có được “phần bánh” của mình. Kết cấu ngành thể hiện ở mối tương quan lực lượng giữa các doanh nghiệp trong ngành, nếu như số lượng các doanh nghiệp trong ngành ít nhưng tương quan lực lượng giữa các doanh nghiệp là ngang nhau thì cường độ cạnh tranh cũng lớn do các doanh nghiệp luôn có tham vọng vươn lên dẫn đầu trong ngành và họ cho rằng cơ hội cho mỗi doanh nghiệp là gần ngang nhau.
Thứ hai là tốc độ tăng trưởng của ngành: thường thì khi tốc độ tăng trưởng của ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động cao thì cường độ cạnh tranh trong ngành là thấp, nhưng cường độ cạnh tranh giữa các ngành khác với ngành này thì lại cao do sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận đã nghiên cứu ở trên. Ngược lại khi tốc độ tăng trưởng của ngành thấp thì cường độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành là rất cao do các doanh nghiệp đã nhận thấy được sự suy thoái của ngành mình, “cái bánh” còn lại thì quá bé mà ai cũng muốn “phần bánh” to để sớm thu hồi vốn đầu tư và chuyển sang kinh doanh trong những ngành có tốc độ tăng trưởng cao hơn.
Thứ ba là tỷ trọng giữa chi phí cố định và chi phí dự trữ trên tổng vốn kinh doanh. Đối với các ngành có tỷ lệ chi phí cố định trên tổng vốn kinh doanh cao thì thường có áp lực thu hồi vốn lớn, tỷ lệ chi phí dự trữ trên tổng vốn kinh doanh cao thì thường rủi ro lớn, tốc độ quay vòng vốn chậm và cường độ cạnh tranh mạnh hơn trong các ngành có hai tỷ lệ này thấp .
Thứ tư là sự khác biệt giữa các đối thủ cạnh tranh về văn hoá phong tục tập quán, trình độ quản lý và ngôn ngữ. Về các nhân tố này giữa các doanh nghiệp có sự khác nhau càng lớn thì cường độ cạnh tranh càng giảm. Về văn hoá và phong tục tập quán, giữa các doanh nghiệp mà có sự khác nhau lớn thì họ khó có thể có sự hiểu biết sâu sắc về nhau và do đó có cách nhìn khác nhau về một vấn đề và tương tự cũng có những cách giải quyết khác nhau và cường độ cạnh tranh thường là thấp và ngược lại. Về trình độ quản lý cũng vậy, khi có sự chênh lệch lớn về trình độ quản lý thì các doanh nghiệp có trình độ quản lý cao hơn sẽ hoạt động hiệu quả hơn và có khả năng đáp trả những phản ứng từ phía đối thủ một cách nhanh chóng và thường là dành thế chủ động một cách không mấy khó khăn trước các đối thủ có trình độ quản lý thấp hơn .
Thứ năm là hàng rào cản trở rút lui. Khi các doanh nghiệp đang hoạt động trong một ngành kinh tế xác định mà muốn rời bỏ ngành vì những lý do nào đó thì họ phải vượt qua một số điều kiện nhất định tương tự như khi nhập cuộc. Ví dụ như : các chi phí cố định mà chưa khấu hao hết và khó thanh lý, tổn thất về giáo dục đào tạo cán bộ công nhân viên, chi phí đổi mối, những mối quan hệ, lịch sử, truyền thống của công ty. Các điều kiện này chính là hàng rào cản trở rút lui, hàng rào này càng cao thì sự rút lui của các doanh nghiệp trong ngành càng khó khăn và cường độ cạnh tranh càng cao vì các doanh nghiệp không thành công vẫn phải ở lại và tranh đấu trong ngành và ngược lại.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Cùng với sự phát triển của nền Kinh tế thì hệ thồng cơ sở lý luận về cạnh tranh ngày càng đa dạng và phong phú. Thực tế có nhiều quan điểm khác nhau về các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có quan điểm cho rằng đó là các nhân tố bên trong doanh nghiệp, quan điểm khác thì cho rằng đó là các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp, một quan điểm khác nữa lại cho rằng các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là cả những yếu tố bên trong và cả những yếu tố bên ngoài. Đây có vẻ là quan điểm mang tính khái quát và đầy đủ nhất.
3.1 Các nhân tố bên trong ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Nhân tố thứ nhất: Nguồn nhân lực
Nhân lực là yếu tố quan trọng nhất của sản xuất kinh doanh, được chia làm các cấp: Quản trị viên cấp cao, quản trị viên cấp trung gian và đội ngũ công nhân. Các quản trị viên cấp cao có ảnh hưởng lớn đến các quyết định quản lý của doanh nghiệp. Nếu họ có trình độ quản lý cao, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường, khả năng đánh giá và khả năng đối ngoại tốt thì doanh nghiệp sẽ có sức cạnh tranh lớn hơn. Đội ngũ quản lý cấp doanh nghiệp là những nhà quản lý chủ chốt nếu như có kinh nghiệm công tác, phong cách quản lý, khả năng ra quyết định, khả năng xây dựng ê kíp quản lý và sự hiểu biết về kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ có nhiều thuận lợi. Họ sẽ có đầy nhiệt huyết._. với doanh nghiệp. Mặt khác các cán bộ quản lý với trình độ hiểu biết khác nhau có thể tạo ra nhiều ý tưởng chiến lược sáng tạo. Đội ngũ công nhân cũng có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua các yếu tố về năng suất, trình độ tay nghề và ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động và sự sáng tạo của họ.
Nhân tố thứ hai: Khả năng tổ chức quản lý
Khả năng tổ chức quản lý được thể hiện thông qua cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị, hệ thống thông tin quản lý, bầu không khí đặc biệt nề nếp hoạt động của doanh nghiệp.
Nề nếp tổ chức định hướng cho phần lớn công việc trong doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng tới phương thức ra quyết định của nhà quản trị, quan điểm của họ với các chiến lược và điều kiện môi trường của doanh nghiệp. Nề nếp đó có thể là nhược điểm gây cản trở cho việc hoạch định và thực hiện chiến lược hoặc là ưu điểm thúc đẩy các hoạt động đó. Các công ty có nề nếp mạnh, tích cực thì sẽ có nhiều cơ hội để thành công hơn các công ty có nề nếp yếu kém hoặc tiêu cực. Nề nếp của tổ chức là tổng hợp các kinh nghiệm, cá tính bầu không khí làm việc của doanh nghiệp mà khi liên kết với nhau tạo thành “phương thức mà chúng ta hoàn thành công việc ở đó”. Thực chất nề nếp của doanh nghiệp là cơ chế tương tác với môi trường. Do vậy, doanh nghiệp cần phải xây dựng được một nề nếp tốt khuyến khích các nhân viên tiếp thu các chuẩn mực đạo đức và thái độ tích cực. Nề nếp tạo ra tính linh hoạt và khuyến khích việc tập trung chú ý đến các điều kiện bên ngoài thì nó sẽ tăng cường khả năng của công ty thích nghi được sự biến đổi của môi trường. Một trong những bổn phận chính của các nhà quản trị là hình thành được các giá trị phẩm chất của tổ chức bằng cách hướng sự lưu tâm chú ý của nhân viên vào những điều quan trọng.
Một nề nếp tốt làm cho nhân viên nhận thức tốt hơn những điều mà họ làm và vì vậy dẫn dắt họ làm việc tích cực hơn nhằm đạt được các mục đích của tổ chức. Nó cũng bao gồm các tiêu chí về hành vi đạo đức hoặc một hệ thống các quy tắc giao tiếp thân mật nhắc nhở nhân viên phải cư xử như thế nào. Ngược lại đối với một nề nếp yếu kém, nhân viên lãng phí thì giờ chỉ cố tìm hiểu những việc họ cần làm và làm như thế nào.
Nhân tố thứ ba: Nguồn lực về tài chính
Khả năng tài chính khẳng định sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Khả năng tài chính được hiểu là quy mô nguồn tài chính của doanh nghiệp và tình hình hoạt động, các chỉ tiêu tài chính hàng năm như hệ số thu hồi vốn, khả năng thanh toán... Nếu như một doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, khả năng huy động vốn là lớn sẽ cho phép doanh nghiệp nhiều vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị đồng thời tăng khả năng hợp tác đầu tư về liên doanh liên kết. Tình hình sử dụng vốn cũng quyết định chi phí về vốn của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
Nhân tố thứ tư: Nguồn lực về vật chất kỹ thuật
Nguồn lực vật chất kỹ thuật thể hiện :
+ Trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của doanh nghiệp và khả năng có được công nghệ tiên tiến.
+ Quy mô và năng lực sản xuất: Nếu một doanh nghiệp có quy mô và năng lực sản xuất lớn sẽ có nhiều lợi thế hơn so với doanh nghiệp có quy mô và năng lực sản xuất nhỏ vì quy mô và năng lực sản xuất sẽ tạo ra sản phẩm với khối lượng lớn, nhờ đó mà hạ được giá thành sản phẩm, đồng thời khi mà sản phẩm đã phù hợp với người tiêu dùng thì với khối lượng lớn sẽ cho phép doanh nghiệp chiếm lĩnh và giữ vững thị trường trên nhiều khu vực khác nhau, tránh sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp có quy mô và năng lực sản xuất lớn sẽ có nhiều cơ hội tiếp xúc với khách hàng hơn, nên dễ nắm bắt và thoả mãn nhu cầu của khách hàng, còn khách hàng thì càng tín nhiệm doanh nghiệp hơn.
+ Nguồn cung cấp nguyên vật liệu: Nếu một doanh nghiệp có nguồn cung cấp nguyên vật liệu không tin cậy sẽ không có chương trình kiểm tra chất lượng hiệu quả hoặc không thể kiểm tra chi phí của họ thì sẽ đặt doanh nghiệp vào vị trí bất lợi khi cạnh tranh.
+ Vị trí địa lý: Việc lựa chọn vị trí mặt bằng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng. Vị trí của doanh nghiệp có đảm bảo nguồn điện cung cấp đầy đủ cho sản xuất hay không. Vị trí địa lý còn ảnh hưởng đến các yếu tố chi phí như đất đai, nhà cửa lao động, chi phí vận chuyển. Các bộ phận chi phí này đều tham gia cấu thành vào trong giá thành của sản phẩm. Việc lựa chọn vị trí địa lý của doanh nghiệp còn tạo thuận lợi hoặc gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc liên hệ hoặc giao dịch với đối tác.
Nhân tố thứ năm: Hoạt động Marketing
Nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt đòi hỏi mỗi doanh nghiệp không thể không có hoạt động Marketing. Bộ phận quản lý Marketing phân tích các nhu cầu thị hiếu , sở thích của thị trường và hoạch định các chiến lược hữu hiệu về sản phẩm, giá cả, giao tiếp và phân phối phù hợp với thị trường mà doanh nghiệp đang vươn tới nghĩa là hoạt động Marketing của doanh nghiệp sẽ cho phép doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, với mức giá linh hoạt trước những biến động của thị trường, tạo ra mạng lưới phân phối với số lượng phạm vi và mức độ kiểm soát phù hợp đưa ra sản phẩm đến tay người tiêu dùng nhanh nhất đồng thời kích thích tiêu thụ sản phẩm bằng nhiều hình thức khác nhau như quảng cáo, khuyến mại, dịch vụ sau bán hàng và hướng dẫn sự dụng cho khách hàng. Như vậy công tác Marketing của doanh nghiệp luôn ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
3.2. Các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Các nhân tố thuộc môi trường nền kinh tế
Thứ nhất là các nhân tố kinh tế : các yếu tố kinh tế là các yếu tố chủ yếu tạo nên môi trường kinh doanh và thông qua môi trường kinh doanh các yếu tố này tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo hai hướng tích cực và tiêu cực. Các nhân tố kinh tế có ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gồm có:
Tốc độ tăng trưởng của nền Kinh tế : nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định sẽ làm cho thu nhập của các tầng lớp dân cư tăng lên đồng nghĩa với nó là khả năng thanh toán của họ cũng tăng lên và sức mua một số hàng hoá tăng lên và đây là cơ hội kinh doanh tốt cho các doanh nghiệp. Mặt khác nó còn chứng tỏ một điều là hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là có hiệu quả cao, khả năng tích tụ và tập chung tư bản lớn, có khả năng mở rộng sản xuất với nhiều thuận lợi về cơ sở hạ tầng và làm tăng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp so với các doanh nghiệp nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái và giá trị đồng tiền trong nước : trong cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài thì tỷ giá hối đoái và giá trị đồng tiền trong nước có tác động mạnh tới năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Khi tỷ gía hối đoái giảm thì năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước cao hơn các doanh nghiệp nước ngoài vì có thuận lợi hơn trong sự so sánh về giá cả và ngược lại .
Thứ hai là các nhân tố chính trị và pháp luật : chính trị và pháp luật chính là những yếu tố chính tạo nên môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Môi trường chính trị ổn định , hệ thống luật pháp rõ ràng sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi với sự công bằng và bình đẳng cho các doanh nghiệp , các nỗ lực của các doanh nghiệp được ghi nhận và bảo hộ tốt khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh .
Thứ ba là các nhân tố về khoa học, kỹ thuật và công nghệ : nhóm nhân tố này có tác động mạnh mẽ tới hai nhân tố cơ bản tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường là giá cả và chất lượng sản phẩm dịch vụ. Trong bất kỳ giai đoạn nào thì tiến bộ khoa học kỹ thuật là giới hạn trên của chất lượng sản phẩm và dịch vụ , các doanh nghiệp muốn nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ thì phải áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và trình độ khoa học kỹ thuật của doanh nghiệp quyết định chất lượng và giá cả sản phẩm hàng hoá từ đó tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Khoa học kỹ thuật tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo các hướng sau :
Tạo ra những phương pháp công nghệ mới góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nó giúp cho các doanh nghiệp có được những phương pháp quản lý tiên tiến góp phần giảm chi phí hạ giá thành .
Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền đạt thông tin, tiến bộ khoa học công nghệ còn cho phép doanh nghiệp điều tra nhu cầu người tiêu dùng chính xác hơn từ đố tạo ra những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ sát với nhu cầu thị trường hơn.
Thứ tư là các nhân tố về văn hoá, xã hội: đây là nhóm nhân tố có tác động âm thầm khó nhận biết và thường là rất lâu dài và khó lượng hoá. Chính phong tục, tập quán, lối sống, thị hiếu, lối sống, thói quen tiêu dùng, tôn giáo tín ngưỡng đã ảnh hưởng tới cơ cấu nhu cầu thị trường từ đó ảnh hưởng tới tính khả thi của các chính sách kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ năm là các nhân tố thuộc về tự nhiên: các nhân tố tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, môi trường thời tiết khí hậu. Các nhân tố tác động đến doanh nghiệp theo hai hướng tích cực và tiêu cực. Trong trường hợp tài nguyên thiên phong phú , vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí, có điều kiện thuận lợi để khuếch trương sản phẩm, tiếp cận thị trường mới và ngược lại , những khó khăn ban đầu về các điều kiện tự nhiên sẽ gây ra những trở ngại không nhỏ cho doanh nghiệp làm giảm năng lực cạnh tranh .
3.3. Mô hình cạnh tranh (Micheal Poster với 5 lực lượng cạnh tranh)
Bên cạnh những tác động vĩ mô nói trên, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn chịu tác động của môi trường cạnh tranh. Theo Micheal Porter, doanh nghiệp cần quan tâm tới 5 lực lượng cạnh tranh theo mô hình sau:
Hình 1: Mô hình 5 sức mạnh cạnh tranh.
Các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường nhưng có tiềm năng lớn
Các doanh nghiệp cạnh tranh hiện tại
Người bán
Sản phẩm, dịch vụ
thay thế
Người mua
Chính sức ép của các đối thủ này đối với doanh nghiệp làm cho giá cả các yếu tố đầu vào và đầu ra biến động theo những xu hướng khác nhau. Doanh nghiệp phải linh động điều chỉnh các hoạt động của mình giảm thách thức, tăng thời cơ chiến thắng cạnh tranh để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, đưa ra thị trường những sản phẩm mới có chất lượng cao, mẫu mã đa dạng, phù hợp, giá cả phải chăng. Theo mô hình Micheal Porter có 5 tác lực cạnh tranh là đối thủ tiềm ẩn, người cung cấp, người mua, sản phẩm, dịch vụ thay thế và sự cạnh tranh của các công ty hiện tại.
3.3.1. Sự đe doạ từ các đối thủ tiềm ẩn
Các đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp chưa có mặt trong ngành nhưng có khả năng tham gia vào ngành.
Sự xuất hiện đối thủ này phụ thuộc vào những điều kiện và khả năng của doanh nghiệp tính riêng biệt của một thị trường nào đó như các rào cản mang bản chất kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật.
Khả năng về mặt tài chính là một rào cản nhập cuộc. Sẽ có một số ngành đòi hỏi khi tham gia phải được đầu tư lớn ngay từ đầu hoặc doanh nghiệp phải có lợi thế quy mô.
Những rào cản mang bản chất thương mại: hình ảnh và uy tín của sản phẩm hoặc sự lôi kéo được những khách hàng trung thành.
Ngoài ra với nguồn lực khan hiếm (bị kiểm soát rất chặt chẽ) cũng là một rào cản các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhập cuộc.
Chính vì những nguy cơ nhập cuộc của đối thủ tiềm ẩn mà nghiên cứu đối thủ tiềm ẩn là một quá trình hết sức cần thiết trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp chủ động né tránh, đối phó thậm chí là kìm hãm sự xuất hiện của đối thủ tiềm ẩn.
3.3.2. Sức ép từ nhà cung cấp
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao giờ cũng chịu sức ép từ những phía khác nhau như các nhà cung cấp hay khách hàng. Tuy nhiên trong mỗi trường hợp khác nhau, mức độ sức ép của nhà cung cấp cũng khác nhau, có thể là mạnh hay yếu. Nếu như các nhà cung cấp tập trung thì họ có khả năng ép giá, ngược lại doanh nghiệp có thể chi phối được giá cả đầu vào của người cung cấp. Khả năng ép của người cung cấp còn phụ thuộc vào những vấn đề sau:
* Thứ nhất, ngành hoạt động có phải là khách hàng chủ yếu hay không.
* Thứ hai, bản thân ngành hoạt động có khả năng tìm sản phẩm thay thế hay không.
* Thứ ba, chi phí chuyển đổi là lớn hay nhỏ.
* Thứ tư, là khả năng hội nhập dọc ngược chiều và xuôi chiều.
3.3.3. Sức ép của khách hàng
Cũng như quan hệ của doanh nghiệp và nhà cung cấp thông qua chỉ số: giá chất lượng, giao hàng và phương tiện tính toán. Những quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng có khác bởi khách hàng là người quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp.
Sức ép của khách hàng tuỳ thuộc vào một số tiêu thức sau:
Quy mô tương đối của khách hàng.
Ngành hoạt động có phải là nhà cung cấp chủ yếu không.
Khách hàng có khả năng tìm sản phẩm thay thế hay không.
Chi phí chuyển đổi có cao không.
Khả năng hội nhập dọc, xuôi chiều của doanh nghiệp.
Thông tin của khách hàng.
3.3.4. Sự đe doạ từ đối thủ hiện tại
Các đối thủ hiện tại: là các doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành và đã có những vị trí nhất định trên thị trường. Họ tham gia cạnh tranh cũng cùng mục đích như chúng ta đó là tồn tại và phát triển : tăng doanh thu , tăng lợi nhuận, mớ rộng thị phần, nâng cao uy tín. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình còn phụ thuộc vào năng lực nhận biết và các năng lực tiềm ẩn của các đối thủ hiện tại. Khi năng lực nhận biết của các đối thủ hiện tại là cao thì mọi đường đi nước bước của ta đều có thể bị nhận ra một cách dễ dàng. Khi các đối thủ đã nhận ra sự di chuyển của doanh nghiệp mình thì không có nghĩa là họ sẽ phải ứng ngay lập tức và tạo ra được những bất lợi cho mình thông qua các hoạt động trả đũa, mà điều đó còn phụ thuộc vào năng lực tiềm tàng và thế mạnh điểm yếu cũng như là chiến lược phát triển của các đối thủ.
3.3.5. Sự đe doạ từ sản phẩm thay thế
Xét một cách chung nhất thì các doanh nghiệp trong một ngành phải cạnh tranh với các ngành sản xuất các sản phẩm thay thế. Các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt ngưỡng tối đa cho mức giá mà các doanh nghiệp trong ngành có thể kinh doanh có lãi từ đó tác động tới năng lực cạnh tranh lâu dài của các doanh nghiệp trong ngành. Đe doạ này đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự phân tích, theo dõi thường xuyên những tiến bộ khoa học kỹ thuật-công nghệ, trong đó liên quan trực tiếp là đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Hơn nữa, sự thay thế của nhu cầu thị trường cũng là một nhân tố quan trọng tạo ra sự đe doạ này.
Các nhân tố thuộc môi trường nền kinh tế
Các nhân tố kinh tế .
Các nhân tố về chính trị, luật pháp .
Các nhân tố về khoa học, kỹ thuật .
Các nhân tố về văn hoá, xã hội .
Các nhân tố về tự nhiên .
Các nhân tố thuộc nhân tố ngành
Đối thủ cạnh tranh hiện tại .
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn .
Khách hàng .
Người cung ứng .
5. Đối thủ sản xuất hàng thay thế
Các nhân tố bên trong
Nguồn lực tài chính.
Nguồn nhân lực.
Khả năng tổ chức quản lý.
Nguồn lực vật chất kỹ thuật.
Hoạt động Marketing.
Hình 1 : Các nhân tố tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
4. Một số công cụ cạnh tranh chủ yếu của các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh thì điều đầu tiên cần phải quan tâm là xác định chính xác các đối thủ, sau đó tiến hành phân tích các đối thủ và lựa chọn vũ khí cạnh tranh phù hợp, tiến hành xây dựng lợi thế cạnh tranh và tập trung cố gắng nỗ lực để giữ vững những lợi thế đó. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của các doanh nghiệp.
4.1. Cạnh tranh bằng sản phẩm
Chất lượng của sản phẩm, dịch vụ quyết định chữ tín của doanh nghiệp và tạo ra lợi thế có tính quyết định trong cạnh tranh. Cạnh tranh bằng sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải chú trọng thích đáng đến các khâu, các quá trình có tính quyết định đến chất lượng sản phẩm như: nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, công nghệ, trình độ tay nghề và ý thức của người lao động, trình độ tổ chức quản lý. Nội dung của cạnh tranh bằng sản phẩm bao gồm :
Cạnh tranh về trình độ của sản phẩm : tuỳ thuộc vào mỗi loại sản phẩm và tính năng công dụng của mỗi loại mà doanh nghiệp lựa chọn các chỉ tiêu thích hợp để đánh giá trình độ của sản phẩm cho phù hợp. Mặt khác thì trình độ của sản phẩm có được coi là phù hợp hay không còn do thị trường quyết định và nó quyết định doanh nghiệp có giành chiến thắng trong cạnh tranh hay không .
Cạnh tranh về chất lượng sản phẩm: doanh nghiệp tạo ra được càng nhiều lợi thế cho chỉ tiêu này thì sản phẩm càng có nhiều cơ hội giành thắng lợi trong cạnh tranh. Cần phải thấy rằng: chất lượng sản phẩm là một phạm trù Kinh tế-Xã hội-Kỹ thuật tổng hợp, nó liên quan đến toàn bộ các hoạt động của quá trình từ nghiên cứu thiết kế cho đến sản xuất , phân phối trao đổi , tiêu dùng và chất lượng sản phẩm có tính tương đối thường xuyên thay đổi theo không gian và thời gian. Vì vậy khi chất lượng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp được thị trường chấp nhận ngày hôm nay, thì không có nghĩa là ngày mai nó vẫn được chấp nhận. Chính điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá của mình cho phù hợp với nhu cầu thị trường.
Cạnh tranh về bao bì: yêu cầu đối với bao bì sản phẩm không chỉ đơn giản là phương tiện bao gói bảo quản mà nó còn được các doanh nghiệp sử dụng để tạo ra những lợi thế tương đối như là tính thẩm mỹ, tính tiện lợi tiết kiệm thời gian, tính không ô nhiễm. Đặc biệt là đối với các sản phẩm lương thực, thực phẩm, những mặt hàng có giá trị sử dụng cao thì khách hàng còn coi đó là một tiêu chí quan trọng trong việc quyết định mua .
Cạnh tranh về nhãn, mác, uy tín sản phẩm: trong quá trình mua thì đây là yếu tố tác động trực tiếp vào giác quan của người tiêu dùng.
Cạnh tranh về khai thác tốt chu kỳ sống của sản phẩm: bất kỳ một sản phẩm hàng hoá nào cũng đều có chu kỳ sống của nó với 4 giai đoạn là: giai đoạn giới thiệu, giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn bão hoà và giai đoạn suy thoái. Các doanh nghiệp thì luôn có gắng khai thác hợp lý chu kỳ sống của sản phẩm bởi lẽ với mỗi doanh nghiệp trên các đoạn thị trường khác nhau thì chu kỳ sống của sản phẩm là không giống nhau và mỗi một quyết định chính xác về chiến lược sản phẩm đúng đắn sẽ tạo ra rất nhiều lợi thế trong việc tiêu thụ sản phẩm do khai thác hiệu quả những phân đoạn thị trường cụ thể.
4.2. Cạnh tranh bằng giá cả
Cạnh tranh bằng giá cả hiện nay vẫn được sử dụng nhiều do tính chưa ổn định trong hoạt động của các doanh nghiệp cũng như trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Cạnh tranh về giá cả thường chỉ được sử dụng trong giai đoạn đầu khi doanh nghiệp mới bước vào thị trường mới và trong giai đoạn cuối của chu kỳ sống của sản phẩm. Cạnh tranh về giá cả được thể hiện ở những nội dung sau :
Kinh doanh với chi phí thấp : chi phí thấp ở đây thể hiện ở cả chi phí trực tiếp như chi phí nguyên vật liệu, chi phí lương công nhân và cả trong chi phí gián tiếp như chi phí quản lý , chi phí bán hàng.
Bán với mức giá hạ và với mức giá thấp: thực tế thì chi phí của doanh nghiệp vẫn ngang bằng với các doanh nghiệp khác trong ngành nhưng doanh nghiệp muốn đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ vì một mục tiêu khác nào đó nên bán sản phẩm với giá thấp hơn các đối thủ. Mức giá có vai trò cực kỳ quan trọng trong cạnh tranh. Nếu như chênh lệch về giá giữa doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh lớn hơn chênh lệch về gía trị sử dụng của sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp đã đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh, chính điều này đem lại khách hàng cho doanh nghiệp, mà khách hàng là lý do tồn tại của doanh nghiệp .
Cạnh tranh bằng giá cả là phương pháp cuối cùng mà doanh nghiệp thực hiện trong cạnh tranh bởi hạ giá ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp và vấp phải sự phải đối gay gắt của các doanh nghiệp khác và họ sẵn sàng tiến hành các hoạt động trả đũa chúng ta. Sau đây là một số chính sách giá bán sản phẩm mà doanh nghiệp có thể áp dụng trong cạnh tranh :
Chính sách định giá thấp .
Chính sách định giá cao .
Chính sách ổn định giá .
Chính sách bán phá giá .
Chính sách định giá theo giá thị trường .
Chính sách định giá phân biệt .
4.3. Cạnh tranh về phân phối và bán hàng
Cạnh tranh về phân phối và bán hàng được hể hiện ở những nội dung sau
Khả năng đa dạng hoá các kênh phân phối và chọn được kênh chủ lực: ngày nay các doanh nghiệp luôn có một cơ cấu sản phẩm rất đa dạng. Với mỗi sản phẩm hàng hoá thì luôn có một số lượng nhất định loại kênh phân phối phù hợp và đem lại hiệu quả cao. Hay nói một cách khác là việc lựa chọn kênh phân phối không hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của doanh nghiệp mà nó còn phụ thuộc vào đặc điểm về sản phẩm, đặc điểm về thị trường và đặc điểm của các loại kênh phân phối mà các đối thủ đang sử dụng. Các loại kênh tiêu thụ có thể là :
Kênh cấp 0
Người sản xuất
Người tiêu dùng
Người sản xuất
Người bán lẻ
Người tiêu dùng
Người sản xuất
Đại lý
Người bán buôn
Người bán lẻ
Người tiêu dùng
Người sản xuất
Đại lý
Người bán lẻ
Người tiêu dùng
Kênh cấp 0
Kênh cấp 1
Kênh cấp 2
Kênh cấp 3
Kênh cấp 0 (kênh trực tiếp ngắn) : là kênh phân phối chỉ bao gồm người sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng.
Kênh cấp 1 (kênh trực tiếp dài) : là kênh tiêu thụ gồm người sản xuất, người tiêu dùng và người trung gian. Sản phẩm hàng hoá từ người sản xuất qua người trung gian rồi mới đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Ưu điểm của kênh trực tiếp: xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Thường xuyên tiếp xúc với khách hàng giúp doanh nghiệp hiểu rõ nhu cầu thị trường và khách hàng, nắm bắt nhanh chóng những mong muốn, nguyện vọng của người tiêu dùng. Từ đó có các ứng xử thích hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xây dựng uy tín của mình trên thị trường .
Nhược điểm của kênh trực tiếp: Hạn chế sự chuyên môn hoá, tổ chức và quản lý tiêu thụ phức tạp, vốn và nhân lực của doanh nghiệp bị phân tán, công tác thanh quyết toán phức tạp và doanh nghiệp phải chịu hoàn toàn rủi ro trong quá trình tiêu thụ hàng hoá .
Kênh cấp 2 (kênh gián tiếp ngắn): là loại kênh tiêu thụ bao gồm người sản xuất, người tiêu dùng cuối cùng, nhà đại lý và người bán lẻ. Loại kênh tiêu thụ này thường được áp dụng cho các trường hợp mà sản phẩm được sản xuất ở một hay một số nơi, nhưng doanh nghiệp lại phải cung cấp cho người tiêu dùng ở nhiều nơi. Nhìn chung các doanh nghiệp áp dụng hình thức này là các doanh nghiệp có quy mô lớn, thị trường rộng và không có ý định phân phối độc quyền .
Kênh cấp 3 (kênh gián tiếp dài): là loại kênh tiêu thụ bao gồm người sản xuất, người tiêu dùng và ba nhà trung gian khác. Loại kênh tiêu thụ này được áp dụng tương tự như loại kênh cấp 2 nhưng thường thì có thị trường rộng hơn về không gian.
Ưu điểm của kênh gián tiếp: có khả năng lưu chuyển một khối lượng lớn hàng hoá trong một khoảng thời gian ngắn, công tác giao nhận hàng và thanh toán đơn giản, tiết kiệm chi phí bảo quản hao hụt mất mát cho doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tập chung vào sản xuất.
Nhược điểm của kênh gián tiếp: do hàng hoá phải trải qua nhiều lần chu chuyển, chi phí tiêu thụ lớn dẫn đến giá cả tăng cao. Các doanh nghiệp khó kiểm soát được giá bán của các trung gian và không có cơ hội để tiếp xúc với khách hàng nên doanh nghiệp thường là nhận ra muộn hơn sự thay đổi trong nhu cầu của khách hàng.
Ngoài ra còn có những kênh tiêu thụ nhiều cấp hơn nhưng ít gặp trong thực tế vì thông thường thì các doanh nghiệp ít nhiều vẫn muốn quản lý được hệ thống kênh tiêu thụ của mình, nếu như số cấp quá nhiều thì sẽ dẫn đến tình trạng là các doanh nghiệp không kiểm soát được làm giảm hiệu quả của việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá .
Tìm được người điều khiển đủ mạnh .
Có hệ thống bán hàng phong phú .
Có biện pháp tốt kết dính các kênh lại với nhau .
Có các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng hợp lý.
4.4. Cạnh tranh về thời cơ thị trường
Các doanh nghiệp hiện nay hoạt động trong một môi trường luôn biến động với tốc độ rất nhanh, các cơ hội kinh doanh được coi là bình đẳng cho mọi doanh nghiệp. Cạnh tranh về thời cơ thị trường thể hiện ở chỗ các doanh nghiệp luôn cố gắng dự báo trước được những thay đổi của thị trường, từ đó đưa ra được các chính sách khai thác thị trường hợp lý và sớm hơn các đối thủ. Một trong những yêu cầu của việc cạnh tranh về thời cơ thị trường là khả năng phán đoán và khả năng thích ứng của doanh nghiệp vơí các thay đổi của môi trường kinh doanh. Việc thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của môi trường kinh doanh đối với các doanh nghiệp khác nhau là không giống nhau, nó phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức cũng như nề nếp hoạt động và sự nỗ lực của toàn doanh nghiệp.
4.5. Cạnh tranh về không gian và thời gian
Trong trường hợp mà giá cả sản phẩm của các doanh nghiệp trên thị trường chênh lệch không lớn, chất lượng sản phẩm tương đối đồng đều và ổn định thì yếu tố không gian và thời gian đóng vai trò quan trọng quyết định đến khả năng tiêu thụ của sản phẩm hàng hoá. Những doanh nghiệp nào có quá trình buôn bán trao đổi nhanh thuận tiện sẽ giành thắng lợi trong cạnh tranh .
5. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
5.1. Thị phần của doanh nghiệp
Thị phần tuyệt đối
Kết quả tổng hợp của mọi nỗ lực cố gắng của doanh nghiệp có thể được đánh giá qua một số chỉ tiêu về thị phần của doanh nghiệp, đây là những chỉ tiêu phản ánh quy mô thị trường của doanh nghiệp và thông qua đó ta có thể thấy được phần nào năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu thị phần tuyệt đối của doanh nghiệp có thể được tính dựa trên doanh thu hay khối lượng bán ra của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường :
Thị phần tuyệt đối của doanh nghiệp tính theo doanh thu
Doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp =
Tổng doanh thu tiêu thụ trên thị trường
- Thị phần tuyệt đối của doanh nghiệp tính theo khối lượng hàng hoá bán ra
Lượng bán ra của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp =
Tổng lượng tiêu thụ trên thị trường
Độ lớn của chỉ tiêu này nói lên quy mô thị trường của doanh nghiệp. Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này ta có thể đánh giá được mức độ hoạt động hiệu quả hay không hiệu quả của doanh nghiệp trong lĩnh vực giữ vững và mở rộng thị trường. Tổng doanh thu trên thị trường hay tổng lượng tiêu thụ trên thị trường qua từng thời kỳ phản ánh tốc độ tăng trưởng chung của thị trường, doanh thu của doanh nghiệp hay lượng tiêu thụ của doanh nghiệp qua từng thời kỳ phản ánh tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này tăng lên qua từng thời kỳ điều đó chứng tỏ doanh nghiệp đã duy trì được vị trí của mình trên thị trường và ngược lại nếu chỉ tiêu này giảm điều đó chứng tỏ doanh nghiệp đã không theo kịp tốc độ tăng trưởng của thị trường (mặc dù doanh thu hay lượng bán ra của doanh nghiệp tăng lên nhưng tốc độ tăng nhỏ hơn tốc độ tăng của thị trường ).
Mặc dù vậy thì chỉ tiêu này vẫn chưa nói lên được mối quan hệ tương quan về quy mô thị trường giữa doanh nghiệp và các đối thủ khác. Để thấy được mối quan hệ này ta phải dựa vào các chỉ tiêu thị phần tương đối .
Thị phần tương đối
Thị phần tương đối của một doanh nghiệp là tỷ lệ về thị phần của doanh nghiệp so với thị phần của đối thủ khác. Thị phần của doanh nghiệp và thị phần của đối thủ cũng được tính theo 2 cách trên. Đối thủ khác có thể là đối thủ mạnh nhất trong ngành hay đối thủ cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp mình tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu của doanh nghiệp .
Thị phần của doanh nghiệp
Thị phần tương đối của doanh nghiệp =
Thị phần của đối thủ
Ưu điểm : chỉ tiêu thị phần đơn giản, dễ tính .
Nhược điểm : không đảm bảo tính xác do gặp phải khó khăn trong việc thu thập số liệu .
5.2 Tỷ suất lợi nhuận
Chỉ tiêu này có thể được tính cho từng sản phẩm hay toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong từng giai đoạn cụ thể .
Nếu tính cho từng đơn vị sản phẩm ta có :
Giá bán – Giá thành
Tỷ suất lợi nhuận =
Giá bán
Nếu tính cho toàn bộ sản phẩm tiêu thụ trong kỳ ta có :
Tổng doanh thu - Giá vốn hàng bán
Tỷ suất lợi nhuận =
Tổng doanh thu
ý nghĩa của chỉ tiêu: chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Đây là chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà nó còn thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
III- Vai trò và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
* Cạnh tranh buộc doanh nghiệp sử dụng tài nguyên một cách tối ưu và khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Chỉ có như vậy các doanh nghiệp mới có thể giảm bớt chi phí, giảm giá thành sản phẩm để giành thị phần với các đối thủ cạnh tranh. áp dụng khoa học công nghệ mới không những cho phép doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực một cách tối ưu nhất mà còn cho phép hiện đại hoá dây chuyền sản xuất tăng năng suất góp phần hiện đại hoá sản phẩm.
* Cạnh tranh làm cho nhu cầu tiêu dùng gắn liền với nhu cầu sản xuất. Nếu như trong nền kinh tế kế hoạch tập trung để sản xuất ra một loại hàng hoá thì cần một thời gian dài cho các khâu đệ trình, xét duyệt, thì trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh đã buộc các doanh nghiệp phải tìm hiểu nghiên cứu nhu cầu để từ đó đáp ứng nhu cầu một cách nhanh nhất, kịp thời nhất và hiệu quả nhất. Chính việc thi nhau sản xuất đã làm cho giá cả hàng hoá ngày càng có xu hướng giảm, chủng loại hàng hoá ngầy càng đa dạng và phong phú, chất lượng và dịch vụ phục vụ ngày một tốt hơn.
* Cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế, là cách hữu hiệu nhất để tối đa hoá lợi nhuận và lợi ích của cả người sản xuất và người tiêu dùng. Cạnh tranh là cơ chế hai đầu, một mặt nó đẩy các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả tới chỗ phá sản, mặt khác tạo đièu kiện tốt cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả phát triển tốt hơn. Tuynhiên cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế giữa các doanh nghiệp sử dụng lãng phí nguồn lực, gây thất thoát cho Nhà nước bằng những doanh nghiệp sử dụng nguồn lực một cách một cách tối ưu, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Có thể nói cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lự._.hực hiện một cách nghiêm ngặt bởi đó là công việc quyết định đến chất lượng hàng hoá.
+ Phương thức tiến hành
* Đầu tư công nghệ chế biến hàng nông sản:
Nhìn vào thực trạng công nghệ chế biến hàng nông sản của công ty ta nhận thấy một điều là công nghệ chế biến của công ty còn quá lạc hậu và nghèo nàn, do đó dẫn chất lượng hàng nông sản của công ty không cao. Trước hoàn cảnh đó công ty cần thực hiện các công việc sau:
Xây dựng thêm một dây chuyền sấy khô hàng nông sản. Hàng nông sản là loại hàng rất dễ bị hư hỏng khi gặp phải điều kiện không thuận lợi. Nếu ta có thể xây dựng được dây chuyền sấy khô sẽ giảm tỷ lệ hư hỏng của sản phẩm đi rất nhiều. Ngoài ra hàng của công ty đóng gói khi xuất sang các nước vẫn đảm được chất lượng cao.
Xây dựng một dây chuyền kiểm tra độ đồng đều của hàng nông sản. Phần lớn hàng nông sản khi xuất sang các nước đều bị đánh giá là chất lượng không cao một phần do mức độ không đồng đều của hàng nông sản. Do đó hàng nông sản của công ty bị ép bán với giá thấp hơn so với hàng hoá cùng loại.
Nếu công ty thực hiện được hai công việc trên chất lượng hàng nông sản của công ty sẽ được cải thiện lên rất nhiều từ đó có thể tăng được khối lượng tiêu thụ và doanh thu.
* Thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá.
Để có hàng hoá tốt phục vụ cho xuất khẩu thì không thể không thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá. Sau khi đưa hàng hoá về đến kho trạm, các tổ kho phải thực hiện tốt các công tác phân loại, bao gói, xếp hàng hoá vào kho và hàng loạt các nghiệp vụ dự trữ và bảo quản khác để giữ gìn chất lượng, số lượng hàng hoá và luôn sẵn sàng xuất hàng một cách nhanh chóng thuận tiện. Trong dự trữ bảo quản hàng hoá các yêu cầu kỹ thuật của kho chứa hàng rất quan trọng, nhất là đối với hàng nông sản rất dễ bị ẩm mốc mục...
Hiện nay ở Công ty có một số kho không đủ yêu cầu cho việc dự trữ hàng nông sản: mái dột, nền ẩm, hệ thống thoát khí không đạt yêu cầu do đó Công ty cần có kế hoạch nâng cấp những kho hàng này bằng cách sửa lại mái, thay đổi, lắp đặt mới hệ thống máy điều hoà nhiệt độ, máy hút ẩm. Bên cạnh đó, Công ty nên yêu cầu các nhân viên của kho phải thường xuyên kiểm tra hàng hoá, kiểm tra các điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm phù hợp với đặc tính bảo quản của từng loại hàng hoá.
+ Hiệu quả biện pháp
Công ty sẽ thu được lợi rất lớn từ giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm. Năm 2000 và 2001 công ty đã không thể ký kết hợp đồng với đối tác Nhật bản vì chất lượng hàng nông sản của công ty không đảm bảo. Nếu công ty nâng cao được chất lượng sản phẩm thì giá cả hàng nông sản của công ty có thể tăng lên từ 5-10% so với giá cũ đồng thời công ty có thể tăng được lượng hàng tiêu thụ trên một số thị trường như Mỹ, Singapore, Đài loan, Nhật bản... từ đó có thể tăng doanh thu và lợi nhuận của công ty. Ta có bảng giá của các loại mặt hàng chính của công ty sau khi nâng cao chất lượng hàng nông sản
Biểu 11: Dự báo khối lượng và giá trị hàng hoá sau khi thực hiện giải pháp
Giá MH
Giá hiện tại(usd)
Số lượng tiêu thụ
(tấn)
Giá trị
1000usd
Giá sau khi thực hiện (usd)
Số lượng tiêu thụ dự báo
(tấn)
Giá trị
1000usd
1-giá lạc nhân
650
9.646
6270
652
9.635
6282
2- giá hạt tiêu
1775
1.921
3410
1778
1.926
3424.4
3-giá cao su
705
4.156
2930
715
4.17
2981.5
4-giá cà phê
1560
0.949
1480
1565
0.95
1486.7
5-giá gạo
293
5.973
1750
300
5.97
1791
6-giá quế
4120
0.408
1680
4125
0.408
1683
7-giá điều nhân
4010
0.387
1550
4012
0.387
1552.6
8-tổng
23.44
19070
23.446
19201.3
Nguồn: báo cáo dự kiến tình hình tiêu thụ của công ty trong năm 2002
Nếu công ty có thể thực hiện thành công giải pháp này thì khối lượng hàng hoá nông sản mà công ty có thể tiêu thụ sẽ tăng lên từ 23.440 tấn lên đến 23.446 tấn và doanh thu tăng thêm khoảng 130 nghìn usd tương đương khoảng 1,9 tỷ. Ngoài ra giải pháp này còn giúp công ty tăng thị phần, xâm nhập vào một số thị trường mới, cải thiện được vị trí của công ty trên thương trường.
Muốn thực hiện được giải pháp này công ty phải đầu tư hai dây chuyền sấy và dây chuyền kiểm tra mức độ đồng đều. Giá cả toàn bộ của hai dây chuyền này là: dây chuyền sấy 6,5 tỷ, dây truyền kiểm tra độ đồng đều 7,3 tỷ. Ngoài ra công ty còn phải xây dựng một số cơ sở phụ trợ khác chí phí hết 2 tỷ. Hai dây chuyền này dự kiến sẽ sử dụng trong vòng 10 năm. Hàng năm lợi nhuận của công ty có thể tăng thêm được từ 700 triệu đến 1tỷ.
+ Điều kiện thực hiện biện pháp
Trước hết công ty cần có từ 15,5-16 tỷ đồng nhằm xây dựng dây chuyền chế biến hàng nông sản.
Để đáp ứng với nhu cầu mua sắm thêm dây chuyền chế biến, công ty cần có từ 20-25 người gồm cả nhân viên kỹ thuật và công nhân. Điều này công ty phải chi phí một khoản tiền để đưa một số người đi đào tạo.
Ban lãnh đạo phải đưa ra các chính sách cụ thể về đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm để lôi kéo mọi cán bộ trong công ty vào hoạt động này.
Các phòng ban đều phải gắn mối quan hệ chặt chẽ với nhau để tạo ra hệ thống đồng bộ trong việc quản lý chất lượng hàng nông sản.
Ngoài ra công ty cần tổ chức các cuộc gặp gỡ thường xuyên tại công ty để các chuyên gia chất lượng và các thành viên trong công ty có thể trao đổi ý kiến.
Giải pháp thứ ba: Thực hiện đồng bộ các chính sách Marketing.
+ Cơ sở lý luận
Kinh tế thị trường càng phát triển thì hoạt động Marketing càng giữ vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Nếu hoạt động Marketing được đẩy mạnh thì cũng có nghĩa là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được tăng cường.Tốc độ phát triển của lĩnh vực xuất nhập khẩu ở nước ta hiện nay tất yếu sẽ dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt do vậy việc đẩy mạnh hoạt động Marketing là vấn đề cấp thiết.
+ Cơ sở thực tiễn .
Trong thời gian qua các hoạt động mang tính chất Marketing của công ty chủ yếu nằm rải rác ở các phòng nghiệp vụ. Do đó hoạt động Marketing rất mờ nhạt, ảnh hưởng tới thị phần của công ty, sản phẩm chỉ tiêu thụ ở một số thị trường truyền thống chưa vào được một số thị trường tiềm năng như Mỹ, Nhật bản... Đã vậy một số thị trường truyền thống lại có xu hướng giảm đi. Theo kế hoạch năm 2002 công ty sẽ nâng tổng lợi nhuận dự kiến do vậy công ty cần thực hiện đồng bộ chính sách Marketing.
+ Phương thức tiến hành
Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường
Xác định thị trường hiện tại và thị trường tương lai tiềm năng của công ty, xác định thị trường nào là thị trường có triển vọng nhất, khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty trên thị trường đó là bao nhiêu, đặc điểm của mỗi loại thị trường.
Nghiên cứu và dự báo nhu cầu đối với từng loại sản phẩm. Khảo sát thị hiếu người tiêu dùng về các mặt như chất lượng, giá cả, bao bì, mẫu mã, phương thức giao nhận, phương thức thanh toán... xem đã phù hợp chưa, có cần điều chỉnh không? Ngoài ra cần phải phân tích khả năng của thị trường để phát hiện ra những thị trường mới, Công ty không thể cứ mãi trông cậy vào những sản phẩm và thị trường hiện tại được, mà cần phải thường xuyên nghiên cứu thị trường thấy được xu thế biến động của thị trường, dự báo được nhu cầu để từ đó kịp thời đưa ra những sản phẩm mới thay thế những sản phẩm đang ở thời kỳ suy thoái. Tuy nhiên, trước khi đưa ra thị trường một sản phẩm mới thì Công ty còn phải tính đến sự phù hợp với mục tiêu và tiềm năng của mình, nghiên cứu từng khả năng từ khía cạnh quy mô và tính chất của thị trường.
Phải thường xuyên phân tích đánh giá các đối thủ cạnh tranh để thấy được năng lực cạnh tranh của công ty so với các đối thủ, xác định số lượng đối thủ cạnh tranh và ai là đối thủ cạnh tranh chính của công ty, họ mạnh yếu ở điểm nào? xác định thị phần, xem xét chất lượng, giá cả, phương pháp quảng cáo, dịch vụ khách hàng... của họ có gì khác biệt so với công ty. Đồng thời, công ty phải biết ai là người chiếm giữ vị trí thủ lĩnh của nghành và họ thành công là do đâu.
Để hoạt động nghiên cứu có hiệu quả thì công ty phải thường xuyên tổ chức các cuộc điều tra nghiên cứu thị trường như cử các nhân viên đi phỏng vấn trực tiếp khách hàng để thu thập các thông tin của khách hàng về sản phẩm của công ty, hoặc công ty tham gia các cuộc hội chợ triển lãm, trưng bày sản phẩm... những nhân viên làm nhiệm vụ nghiên cứu thị trường phải là những người có kiến thức chuyên nghành.
Hoàn thiện chính sách sản phẩm
Về chủng loại và cơ cấu mặt hàng: Hiện tại công ty có 6 loại sản phẩm chính được tiêu thụ nhiều nhất, đó là mặt hàng lạc nhân, cao su, quế, điều, gạo, cà phê. Trong 6 loại này thì mặt hàng quế và điều rất được ưa thích về chất lượng và giá cả nên tiêu thụ rất nhanh thậm chí không đáp ứng đủ nhu cầu. Mặt hàng quế, điều đem lại lợi nhuận cho Công ty rất lớn do đó Công ty nên tập trung mạnh vào hai loại mặt hàng này. Mặc dù lạc nhân tiêu thụ cũng rất tốt nhưng do sản xuất đem lại lợi nhuận không đáng kể nên công ty chỉ nên duy trì ở một mức sản lượng vừa phải. Còn cà phê của công ty nói chung tiêu thụ kém, không thể cạnh tranh được với cà phê của các nước khác. Công ty cần phải đặc biệt lưa ý tới sản phẩm này, nên đầu tư để nâng cao chất lượng cũng như hình thức mẫu mã để hơn hẳn của đối thủ. Có như vậy thì mặt hàng này mới có thể tồn tại được.
Về bao bì nhãn mác của sản phẩm: Nếu so sánh với các đối thủ khác thì bao bì nhãn mác của công ty còn đơn điệu, không hấp dẫn người tiêu dùng. Nhược điểm này gây ảnh hưởng rất nhiều đến năng lực cạnh tranh. Để khắc phục nhược điểm này Công ty cần quan tâm đổi mới cải tiến mẫu mã bao bì sao cho ngày một đẹp, hấp dẫn hơn, khắc phục được những điểm yếu của mình.
Xây dựng chính sách giá cả linh hoạt :
Giá cả có ảnh hưởng rất đến khối lượng bán của công ty. Giá cả là một trong những công cụ cạnh tranh chính của công ty. Do vậy, công ty cần xây dựng được một chính sách giá linh hoạt hợp lý để góp phần đẩy mạnh khả năng canh tranh. Mục tiêu của việc xây dựng chính sách giá cả linh hoạt là phải tăng được khối lượng bán ra và tăng lợi nhuận.
Ngoài việc định giá dựa vào chi phí sản xuất thì công ty còn phải tính đến giá của các sản phẩm cùng loại khác trên thị trường. Thông thường tâm lý người tiêu dùng cho rằng giá cả gắn với chất lượng nghĩa là giá cao thì chất lượng sản phẩm tốt và ngược lại. Hiểu được tâm lý này, nếu công ty định giá thấp thì sẽ ảnh hưởng tới uy tín về chất lượng sản phẩm của công ty, ảnh hưởng đến lợi nhuận. Tuy nhiên, nếu định giá cao mà không tương xứng với chẩt lượng thì cũng không thể bán được.
Công ty nên sử dụng chính sách giá để khuyến khích, hỗ trợ khách hàng, nơi mà năng lực cạnh tranh của công ty đang bị giảm xuống. Ngoài ra để mở rộng thị trường công ty phải ưu tiên các mức giá cho các khách hàng ở các khu vực thị trường mới này. Có thể như vậy thì sản phẩm của công ty mới có thể tiêu thụ được và có khả năng canh tranh với các đối thủ.
Công ty cũng nên khuyến khích tiêu thụ bằng cách thay đổi một chút trong chính sách giá phân biệt. Với những khách hàng lâu năm của công ty và luôn mua với khối lượng lớn thì công ty nên có chính sách chiết khấu hoặc giảm giá thích hợp. Điều này có tác dụng làm cho khách hàng ngày càng gắn bó với công ty, khối lượng tiêu thụ sẽ tăng mạnh, vòng quay của vốn cũng sẽ tăng nhanh, năng lực cạnh tranh cũng tăng lên.
Hoàn thiện chính sách phân phối sản phẩm:
Kênh phân phối được tổ chức hợp lý sẽ giảm bớt các khâu trung gian không cần thiết, giảm chi phí tiêu thụ, tăng lợi nhuận của công ty và đảm bảo sản phẩm đến tay khách hàng một cách nhanh chóng, do đó sẽ đẩy mạnh năng lực cạnh tranh.
Hiện tại công ty thực hiện chính sách phân phối qua một khâu trung gian, đối tác bao tiêu sản phẩm cho công ty. Điều này chứng tỏ kênh phân phối của công ty rất ngắn. Sản phẩm của công ty chưa phân phối đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng. Do vậy công ty nên tích cực đặt những chi nhánh đại diện cho công ty ở các thị trường chính để từ đó có thể đưa sản phẩm của công ty đến tận tay người tiêu dùng. Nếu công ty thực hiện được phương thức này thì về lâu dài sản lượng tiêu thụ của công ty sẽ tăng lên sẽ làm cho tổng lợi nhuận của công ty cũng tăng lên.
Cải tiến phương thức thanh toán: để giúp khách hàng mua theo hợp đồng khắc phục những khó khăn về vấn đề huy động vốn để lấy hàng công ty có thể áp dụng phương thức bán hàng trả chậm. Nếu khách hàng chưa có tiền trả ngay thì họ có thể trả chậm sau một thời gian nhất định. Điều này khuyến khích khách hàng đến với công ty và xây dựng được mối quan hệ giữa công ty và khách hàng.
+ Hiệu quả của biện pháp
Thực hiện đồng bộ các chính sách Merketing như trên sẽ tạo sức mạnh cạnh tranh lớn cho công ty, trước hết là sẽ giữ được thị trường tiêu thụ hiện tại của công ty, sau đó sẽ tạo điều kiện thâm nhập vào thị trường Mỹ, Nhật bản, Trung quốc mà trước đây Công ty chưa thể vào được. Mạng lưới tiêu thụ sẽ được mở rộng, khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ tăng lên dẫn đến doanh thu tăng, lợi nhuận tăng. Cụ thể như sau:
Biểu 12: Lợi nhuận dự kiến tăng thêm khi thực hiện giải pháp
Mặt hàng
Giá trị hiện tại đạt được
Khối lượng hàng hoá tăng thêm
Giá trị hàng hoá tăng thêm
Chí phí Cho từng mặt hàng(usd\tấn)
Lợi nhuận dự kiến thu được(usd)
Lạc nhân
650
100
65000
54500
10500
Hạt tiêu
1775
50
88750
79000
9750
Cao su
705
25
17625
10000
7625
Cà phê
1560
40
62400
56000
6400
Gạo
293
80
23440
12000
11440
Quế
4120
20
82400
72000
10400
Điều
4010
25
100250
93000
7250
Tổng kim ngạch tăng thêm
340
439865
63365
Từ giải pháp này công ty có thể lợi nhuận khoảng 900 triệu đồng sau khi đã trừ đi các chi phí cho việc thực hiện các hoạt động cho giải pháp này. Thêm vào đó một số mặt hàng của công ty có thể có mặt tại nhiều thị trường trên thế giới. Lợi ích vô hình từ giải pháp này là rất lớn. Có thể sau khi thực hiện giải pháp này công ty sẽ cải thiện được hình ảnh cũng như tên tuổi của mình trên trường quốc tế.
+ Điều kiện thực hiện biện pháp
+ Thứ nhất: Điều đầu tiên mà Công ty cần thực hiện là thành lập phòng Marketing với những chức năng nhiệm vụ cụ thể để có thể đề ra và thực hiện một cách có hiệu quả các chính sách Marketing cần thiết cho Công ty. Gồm các chức năng như sau:
+ Chỉ ra các nhu cầu và xu hướng, cách thức thoả mãn nhu cầu của thị trường.
+ Phân đoạn và lựa chọn thị trường.
+ Đề xuất các chính sách vềthị trường, giá cả, chất lượng sản phẩm, phân phối,... để xâm nhập và khai thác thị trường.
+ Phối hợp với các phòng nghiệp vụ để thực hiện các hoạt động kinh doanh và hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Thu nhận và phân tích các thông tin phản hồi từ bạn hàng, đối tác kinh doanh.
Tổ chức phòng marketing.
Phòng marketing
Marketing nhập khẩu
Marketing xuất khẩu
Thị trường ngoài nước
Nguồn hàng trong nước
Thị trường ngoài nước
Nhu cầu trong nước
+ Thứ hai: Cần xây dựng một “cơ chế” hợp lý nhằm phối hợp các hoạt động của phòng Marketing với các phòng chức năng khác trong Công ty. Chỉ có như vậy phòng Marketing mới có thể đề ra được các chính sách sát thực và có tính khả thi.
+ Thứ ba: Phòng Marketing cần có một đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, có trình độ nghiệp vụ cao để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Bởi do đặc điểm có một thị trường tiêu thụ rộng lớn, trong khi mạng lưới tiêu thụ còn mỏng nên sự nhiệt tình, năng động cũng như trình độ chuyên môn của các cán bộ trong phòng là vô cùng quan trọng trong việc thiết lập một hệ thống tiêu thụ một cách quy củ cho Công ty.
+ Thứ tư: Do tính chất đặc thù của một doanh nghiệp Nhà nước là bị ràng buộc bởi quá nhiều đạo luật, các quy định này đã ràng buộc Công ty trong việc xử lý chi phí cho việc quảng cáo. Sẽ là tốt hơn nếu các chi phí quảng cáo được nới lỏng hơn, và khi đó Công ty sẽ có đầy đủ kinh phí hơn để thực hiện công việc này.
Giải pháp thứ tư: Tăng cường đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ lao động.
+ Cơ sở lý luận
Con người là nguồn lực quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào để nó hoạt động có hiệu quả. Sự thành công hay thất bại của bất kỳ một doanh nghiệp lớn hay nhỏ phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nhân lực và hiệu suất của người lao động vì chính con người tác động đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Nếu doanh nghiệp có một đội ngũ lao động có đủ kiến thức, trình độ kỹ thuật, công nghệ thì sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, tạo ra thế mạnh vượt trội quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh.
+ Cơ sở thực tiễn
Công ty với bề dày kinh nghiệm lâu năm đã góp phần hình thành một đội ngũ lao động có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nhưng với chủ trương dần dần đổi mới thiết bị cũ bằng thiết bị công nghệ hiện đại chỉ có kinh nghiệm thôi chưa đủ mà còn cần phải có trình độ kỹ thuật và chuyên môn để làm chủ được công nghệ, vận hành các trang thiết bị công nghệ mới đảm bảo một cách tốt nhất trong việc nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Do vậy, để đảm bảo cho công tác đầu tư đổi mới công nghệ có hiệu quả trong những năm tới thì Công ty cần phải có kế hoạch đào tạo để nâng cao trình độ quản lý của các cán bộ quản lý, trình độ chuyên môn của các kỹ sư công nghệ và kỹ sư cơ khí, trình độ tay nghề và tác phong làm việc cho công nhân.
+ Phương thức tiến hành
* Đối tượng đào tạo
+ Các cán bộ trong bộ máy quản lý.
+ Đội ngũ công nhân.
* Hình thức đào tạo: Công ty có thể sử dụng hai hình thức đào tạo là đào tạo tại chỗ và gửi đi đào tạo.
Đào tạo tại chỗ :
+ Đào tạo lại công nhân: Đối với công nhân kỹ thuật bậc cao và công nhân lành nghề thông qua các kỳ thi nâng bậc để đánh giá phân loại công nhân có tay nghề khá, trung bình và yếu từ đó có phương thức đào tạo thích hợp với từng loại. Công ty nên tổ chức các lớp học tại Công ty cho những công nhân có trình độ tay nghề trung bình và yếu mỗi năm thực hiện 2 khoá, mỗi khoá 6 ngày, chi phí cho mỗi ngày là 5.000.000 đồng. Như vậy trong một năm chi phí cho đào tạo lại công nhân sẽ là:
Chi phí cho đào tạo lại công nhân = 2´6 ´5.000.000 = 60.000.000 đồng.
+ Đối với đội ngũ công nhân, tổ trưởng sản xuất thì sau mỗi quý Công ty cũng nên tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi rút kinh nghiệm trong lĩnh vực như: quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ, để từ đó học hỏi những kiến thức bổ ích nhằm giúp họ điều hành tốt một tổ, một ca sản xuất. Như vậy, trong một năm Công ty sẽ tổ chức 2 lần hội thảo, chi phí cho một lần hội thảo là 5.000.000 đồng. Vậy tổng chi phí hội thảo là 4´5.000.000 = 20.000.000 đồng.
Ta có tổng chi phí dành cho đào tạo tại chỗ là: 60.000.000 + 20.000.000 + 50.000.000 = 130.000.000 đồng.
Gửi đi đào tạo:
+ Đối với cán bộ chủ chốt thì cần phải trang bị, bổ sung và nâng cao trình độ lý luận về các kiến thức cơ bản như kiến thức về công nghệ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổng hợp ( dự đoán, lập kế hoạch, ra quyết định ). Những cán bộ này phải được đào tạo trên các lĩnh vực như tổ chức quản lý kinh doanh, pháp luật kinh tế, tiền tệ, tín dụng, phân tích hoạt động kinh doanh, thông tin, thị trường, kinh tế đối ngoại, ngoại ngữ đạt bằng C có thể giao dịch trực tiếp khi làm việc với khách hàng nước ngoài ( khi có nhu cầu ). Công ty có thể tổ chức học tập trung theo định kỳ một năm một khoá học. Chi phí cho mỗi khoá học ước tính là 50.000.000 đồng cho 3 cán bộ.
Ngoài ra, Công ty có thể cho các cán bộ này đi tham quan khảo sát tại các doanh nghiệp tiên tiến khác để học hỏi kinh nghiệm.
+ Đào tạo cán bộ, kỹ thuật, để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý, với những cán bộ quản lý được phát triển từ đội ngũ cán bộ kỹ thuật thì nên đào tạo thêm kiến thức về quản lý. Với những cán bộ quản lý kinh doanh mà không phải xuất thân từ cán bộ kỹ thuật thì nên trang bị thêm các kiến thức về kỹ thuật công nghệ, trọng tâm đào tạo cán bộ kinh tế kỹ thuật hiện nay là ngoại ngữ, vi tính, các tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ trong và ngoài nước. Các mô hình quản lý tiên tiến về mô hình đào tạo có thể đưa vào các lớp đào tạo do Bộ Công nghệ tổ chức hoặc các trường đại học trong và ngoài nước chiêu sinh để cử đi học.
Cử 5 cán bộ kỹ thuật, quản lý, kinh doanh đi học trang bị thêm kiến thức tại các trường đại học. Mỗi khoá học 2 năm, chi phí cho một người mỗi khoá học là 10.000.000 đồng. Tổng chi phí sẽ là: 5 ´ 10.000.000 = 50.000.000 đồng.
Cử 1 cán bộ kỹ thuật và 1 cán bộ quản lý kinh doanh có năng lực, triển vọng ra nước ngoài học để nắm bắt được những tiến bộ của các nước trên thế giới về vận dụng vào sản xuất kinh doanh của Công ty. Chi phí cho mỗi người ước tính là 100.000.000 đồng mỗi năm, khoá học kéo dài 2 năm. Như vậy, tổng chi phí sẽ là 2 ´ 100.000.000 ´ 2 = 400.000.000 đồng.
Tổng chi phí gửi đi đào tạo là 50.000.000 + 50.000.000 + 400.000.000 = 500.000.000 đồng.
Những ngành nghề cần đào tạo do Công ty yêu cầu, phòng tổ chức hành chính đi liên hệ các cơ sở đào tạo có uy tín để cử cán bộ đi học.
+ Hiệu quả của biện pháp
Thực hiện triệt để biện pháp trên từ 2 đến 3 năm sau công ty sẽ có: đội ngũ cán bộ chủ chốt với những kiến thức toàn diện như kỹ năng về công nghệ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lập kế hoạch, ra quyết định..., đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý, đội ngũ công nhân với trình độ tay nghề cao...sẽ góp phần xây dựng một đội ngũ lao động có trình độ tốt, đủ khả năng tiếp cận vận hành các trang thiết bị công nghệ mới góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thực hiện thành công các nhiệm vụ Công ty đề ra và hơn nữa là góp phần vào tăng sức cạnh tranh cho Công ty, giúp Công ty tồn tại và phát triển lâu dài.
+Điều kiện thực hiện biện pháp
+ Thứ nhất: Công ty cần đào tạo ra một bầu không khí tích cực bồi dưỡng và tự bồi dưỡng đối với các cán bộ công nhân viên của mình
+ Thứ hai: Công ty cần có một số công nhân có trình độ tay nghề vững đồng thời có các mối quan hệ với các cán bộ kỹ thuật khác ở các cơ sở đào tạo để những người này có đủ khả năng tổ chức các cuộc thi và đánh giá chính xác kết quả thi của các công nhân.
+ Thứ ba: Công ty cần có các biện pháp để đánh giá, phân loại công nhân viên chức định kỳ để xác định một cách đúng đắn đối tượng cần đào tạo. Đồng thời Công ty cũng cần có các mối quan hệ với các trung tâm đào tạo để có thể gửi đúng đối tượng đến được nới cần đến để đào tạo.
III. Một số kiến nghị với Nhà nước .
Thực tế những năm qua cho thấy hoạt động xuất khẩu nông sản có những đóng góp to lớn cho xuất khâủ Việt Nam nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung. Vì vậy việc tiếp tục nâng cao khả năng xuất khẩu nông sản ở Việt nam sẽ là hướng đi đúng đắn trong những năm tới. Để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản thì vai trò của Nhà nước là rất quan trọng. Với mong muốn góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản ở Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I nói riêng và Việt nam nói chung, em xin được mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước.
1. Qui hoạch các vùng sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu
Để nâng cao hơn nữa chất lượng hàng nông sản, việc qui hoạch các vùng sản xuất và chế biến nông sản là rất cần thiết. Qui hoạch vùng sản xuất cho phép ta có thể áp dụng các kỹ thuật đối với cây trồng một cách hợp lý, đồng bộ. Hơn nữa, nhờ có qui hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng cho các cơ sở sản xuất nông sản sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Cũng căn cứ vào qui hoạch, Nhà nước có thể kế hoạch hoá được các hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản.
Nhà nước cũng cần xây dựng các nhà máy chế biến ở trong hay gần vùng sản xuất nông sản. Các nhà máy chế biến này có nhiệm vụ ký kết hợp đồng thu mua nông sản đối với các hộ nông dân, với cam kết về số lượng, chất lượng, thời gian nhằm định hướng cho người nông dân sản xuất.
Với việc qui hoạch vùng sản xuất, chế biến nông sản, các hoạt động sản xuất, thu mua, vận chuyển, bảo quản, chế biến...được diễn ra một cách tập trung, đồng bộ từ đó làm giảm chi phí, giảm giá thành hàng nông sản xuất khẩu làm tăng lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt nam trên thị trường quốc tế.
2. Trợ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản
2.1. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường
Hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản ở Việt nam đều gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là không đủ chi phí cho hoạt động nghiên cứu thị trường một cách thoả đáng. Hơn nữa thị trường nông sản thế giới biến động rất thất thường và mang tính thời vụ nên đòi hỏi về thông tin thị trường phải rất nhanh và chính xác, trong khi việc tiếp nhận các thông tin này ở các doanh nghiệp Việt nam vẫn còn rất chậm. Do vậy, trong thời gian tới Nhà nước cũng như các Bộ có liên quan phải đặc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường để nắm bắt kịp thời nhu cầu hàng nông sản trên thị trường quốc tế, thông tin về giá cả kịp thời cho các doanh nghiệp để tránh tình trạng bị ép giá, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội thăm dò, tìm kiếm thị trường.
Phân đoạn thị trường theo khu vực cho một số đầu mối xuất khẩu nông sản lớn. Biện pháp này tạo điều kiện chuyên sâu về thị trường cho các doanh nghiệp, đồng thời tránh sự cạnh tranh của chính các doanh nghiệp trong nước, làm thiệt hại đến lợi ích quốc gia. Nhà nước cũng nên thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại ở các vùng để cung cấp các thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động nghiên cứu thị trường cho các công ty.
2.2. Hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp
Chúng ta đều biết rằng hoạt động kinh doanh nông sản có tính chất thời vụ. Do vậy vốn cho thu mua hàng tại các vụ là rất lớn vì đòi hỏi phải diễn ra tập trung, nhanh chóng. Bên cạnh đó chi phí thu mua, vận chuyển dự trữ, bảo quản để có hàng đúng theo yêu cầu cung cấp cho thị trường thế giới cũng rất tốn kém. Trong thời điểm hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản đều gặp khó khăn về vốn vì thế việc Nhà nước hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp này là rất cần thiết.
Nhà nước có thể sử dụng một số biện pháp:
Khuyến khích Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn thu mua nông sản.
Bỏ qua quy định hạn chế mức tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại khi cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản vay.
Thông qua các tổ chức Ngân hàng thực hiện cơ chế: bảo lãnh tiền vay, tiền mua và bán hàng trả chậm, bảo lãnh nộp thuế, bảo đảm hợp đồng với các đơn vị xuất khẩu nông sản.
Hình thành quỹ hỗ trợ xuất khẩu để cấp tín dụng ưu đãi và bảo lãnh tín dụng cho hoạt động xuất khẩu.
3. Cải tiến các cơ chế trong hoạt động xuất khẩu nông sản
3.1. Cải tiến phương thức quản lý đầu mối và hạn ngạch xuất khẩu
Đây là vấn đề then chốt trong xuất khẩu nông sản, nó ảnh hưởng tới cơ cấu và qui mô của bộ máy xuất khẩu nông sản. Hiện nay, việc quản lý bằng hạn ngạch xuất khẩu đối với một số mặt hàng nông sản còn có nhiều bất cập. Chẳng hạn đối với mặt hàng gạo, Nhà nước áp dụng hạn ngạch với khoảng 41 đơn vị đầu mối xuất khẩu gạo trực tiếp trong cả nước và các doanh nghiệp ngoài đầu mối khi tìm kiếm thị trường mới phải thông qua Bộ Thương mại xem xét và trình Chính phủ quyết định. Chính điều này làm các doanh nghiệp hay bị động trong việc giao dịch xuất khẩu. Vì vậy đòi hỏi phải nâng cao năng lực điều hành phân bổ hạn ngạch sát thực tế hơn. Bên cạnh đó, Nhà nước cần duy trì ổn định các đầu mối xuất khẩu trực tiếp để các doanh nghiệp có điều kiện đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và xây dựng mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản.
3.2. Nâng cao hiệu quả điều hành xuất khẩu nông sản
- Công bố giá sàn thu mua nông sản ngay từ đầu vụ để người dân yên tâm sản xuất đồng thời làm tín hiệu cho các ngành, các doanh nghiệp tham gia điều hành thị trường nhằm giữ cho giá nông sản ở mức hợp lý. Chính phủ cũng nên thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu hàng nông sản nhằm hạn chế rủi ro cho người xuất khẩu hàng nông sản, lập lại trật tự mua bán thị trường trong và ngoài nước, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu nông sản.
- Việc chỉ định doanh nghiệp đại diện giao dịch ký hợp đồng theo hiệp định Chính phủ và tham gia đấu thầu là cần thiết vì các hợp đồng theo hiệp định Chính phủ thường được giá cao, khối lượng lớn giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá và có cơ sở để đấu tranh giá cả đối với các khách
Kết luận
Cùng với xu thế hội nhập chung của thế giới,Việt Nam đang nỗ lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những nhân tố quan trọng của quá trình này là hoạt động xuất khẩu, một nguồn cung cấp ngoại tệ chính để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, góp phần cân đối, duy trì và tái mở rộng sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công nghệ thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế xã hội nước nhà.
Công ty XNK Tổng hợp I là một doanh nghiệp nhà nước thamgia vào lĩnh vực xuất nhập khẩu ngay từ những ngày đầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước ta. Hiện nay, Công ty đã tạo lập được một vị trí tương đối vững vàng trên thị trường trong nước cũng như thế giới. Đặc biệt là hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Trên cơ sở định hướng của Đảng và Nhà nước, Công ty cũng coi nông sản là mặt hàng xuất khẩu chiến lược trong những năm tới và tích cực tìm kiếm những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng này.
Nhận thức được điều đó, cộng với sự quan tâm,lòng mong muốn được đóng góp ý kiến vào sự nghiệp chung của Công ty, của đất nước, em quyết định dành sự nghiên cứu của mình vào đề tài “ nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông sản xuất khẩu ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I ”. Bài viết sẽ không tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong sẽ nhận được những góp ý, bổ sung từ phía thầy cô giáo và cán bộ trong Công ty.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn cô giáo Đinh Ngọc Quyên và các cô chú trong công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I đã tận tình giúp đỡ để em có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Quản Trị Kinh doanh thương mại quốc tế Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân-PGS, TS Trần Chí Thành(1997).
Giáo trình Thanh toán quốc tế Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân - PGS,TS Nguyễn Duy Bột.(1999).
Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - PGS, TS Vũ Hữu Tửu, nhà xuất bản giáo dục.(1996).
Kinh tế ngoại thương - PTS Bùi xuân Lưu , nhà xuất bản giáo dục 1996.
Giáo trình Quản trị Doanh Nghiệp- PGS, PTS Hoàng Minh Đường, Nguyễn thừa Lộc.
Tạp chí Thương Mại: số 3-2001.
Các báo cáo tổng kết kết quả kinh doanh của Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp 1 từ 1996- 2001.
Các báo: Thời báo kinh tế Việt Nam, báo Đầu Tư, báo Nông nghiệp năm 2000 và 2001...
Luận văn K37,38,39
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29873.doc