Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty TNHH Thương mại VIC tại thị trường Nghệ An và Hà Tĩnh

1. Mở đầu 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Chăn nuôi chiếm vị trí quan trọng trong nền nông nghiệp cũng như nền kinh tế quốc dân nước ta. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu nói chung và nhu cầu về thực phẩm nói riêng ngày càng lớn, thực tế này đặt ra nhiều cơ hội nhưng cũng là thách thức cho các nhà sản xuất cung cấp TĂCN. Trước sức ép của nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp đều đứng trước thách thức vô cùng to lớn, đó là làm sao đạt hiệu quả cao trong quá trình hoạt động sản xuất kinh

doc117 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty TNHH Thương mại VIC tại thị trường Nghệ An và Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh và nâng cao sức cạnh tranh với các đối thủ. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần phẩi xác định đúng hướng trong quá trình đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp cần có cái nhìn tổng thể về thị trường để khi sản xuất kinh doanh có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh nhằm giúp doanh nghiệp phát triển bền vững và ổn định. Cạnh tranh là một hiện tượng vốn có của nền kinh tế thị trường. Khi chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội song cũng phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn. Công ty TNHH Thương mại VIC Là một doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi mới đi vào hoạt động, xâm nhập thị trường muộn khi mà các công ty, các doanh nghiệp sản xuất thức ăn lớn đã có thị trường tương đối ổn định thì nhiệm vụ đặt ra cho công ty VIC lúc này là làm thế nào để nâng cao thị phần và năng lực cạnh cho sản phẩm. - Các câu hỏi đặt ra cho ban lãnh đạo công ty lúc này là: + Thực trạng sản xuất TĂCN của các doanh nghiệp tại Việt Nam thế nào. + Thị phần và Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này ra sao. + Các yếu tố ảnh hưởng tích cực và những cản trở trong sản xuất TĂCN hiện nay như thế nào. + Giải pháp nào để nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. Để góp phần trả lời các câu hỏi này chúng tôi đã chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty TNHH Thương mại VIC tại thị trường Nghệ An và Hà Tĩnh”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 1.2.1. Mục tiêu chung Mục tiêu nghiên cứu tổng quan của đề tài là nhằm đưa ra cách nhìn tổng quan đầy đủ về sức cạnh tranh của công ty từ đó đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty VIC tại thị trường Nghệ An và Hà Tĩnh 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hóa những cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn về sản xuất và cạnh tranh sản phẩm TĂCN. - Đánh giá đầy đủ các nguồn lực phục vụ sản xuất kinh doanh nói chung và việc nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty VIC. - Đánh giá thực trạng quá trình cạnh tranh của công ty VIC và sản phẩm của công ty tại thị trường Nghệ An và Hà Tĩnh. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty VIC tại thị trường Nghệ An và Hà Tĩnh. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng - Ngành hàng: Sản xuất và kinh doanh TACN - Tác nhân tham gia trong các khâu: Sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng. - Các nhân tố chủ yếu có liên quan đến thị trường TACN: Cơ chế chính sách, giá cả, mẫu mã, chủng loại hàng hoá, công tác Marketing, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. - Đối tượng nghiên cứu khác: Một số công ty TĂCN có mặt trên địa bàn để so sánh với Công ty TNHH Thương mại VIC 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Đề tài được nghiên cứu tại hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh - Thời gian nghiên cứu: Đối với số liệu thứ cấp là 3 năm: 2005 - 2006 - 2007 - Số liệu điều tra địa bàn nghiên cứu tập trung vào năm 2007 - Thời gian thực hiện đề tài: Từ tháng 10/2007 đến tháng 10/2008. 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn 2.1 Cơ sở lý luận 2.1.1. Các khái niệm 2.1.1.1 Khái niệm cạnh tranh Trong kinh tế, khái niệm cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các danh nghiệp trong việc dành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh của mình trên thương trường. Cạnh tranh có thể đưa lại lợi ích cho người này và gây thiệt hại cho người khác, song xét dưới góc độ lợi ích toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực ( chất lượng tốt hơn, giá cả rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn...) [9]. Cạnh tranh là một trong những động lực cơ bản và là động phát triển của nền kinh tế thị trường. Không có cạnh tranh thì không có kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường khả năng cạnh tranh là điều kiện sống còn của mỗi doanh nghiệp. Vì thế trong từng doanh nghiệp đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược cạnh tranh phù hợp để vươn lên vị trí cao nhất trong thị trường [1]. Các học thuyết kinh tế thị trường, dù trường phái nào cũng đều thừa nhận rằng: cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cung - cầu và giá cả hàng hóa là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường, cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường Theo C.Mác: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”[2]. ở đây, Các Mác đã đề cập đến vấn đề cạnh tranh trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mà đặc trưng của chế độ này là chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do vậy theo quan niệm này thì cạnh tranh có nguồn gốc từ chế độ tư hữu. Cạnh tranh được xem là sự lấn áp, chèn ép lẫn nhau để tồn tại. Do vậy cạnh tranh là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể kinh doanh với nhau trên cùng một thị trường hàng hoá cụ thể nào đó nhằm chiếm lĩnh khách hàng và thị trường, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hoá và thu được lợi nhuận cao. Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam: Cạnh tranh là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung cầu, nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.[3] Theo nhà kinh tế học ở Mỹ P.A. Samuelson và W.D.Nordhaus: Cạnh tranh (Competition) là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị trường. Hai tác giả này cho cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo.[5] Các tác giả Mỹ khác là D. Begg, S. Fischer và R. Dornbusch, cũng cho cạnh tranh là cạnh tranh hoàn hảo, các tác giả này viết: Một ngành cạnh tranh hoàn hảo, là ngành trong đó mọi người đều tin rằng hành động của họ không gây ảnh hưởng tới giá cả thị trường, phải có nhiều người bán và nhiều người mua. [6] Các tác giả trong cuốn: Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh thuộc dự án VIE/97/016 cho rằng: Cạnh tranh có thể hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được một mục tiêu kinh doanh cụ thể, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. Cạnh tranh trong một môi trường như vậy đồng nghĩa với ganh đua. [8] - PGS. Lê Hồng Tiệm: "Cạnh tranh là sự đấu tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh nhằm giành lấy những điều kiện thuận lợi nhất trong sản xuất ra sản phẩm, trong tiêu thụ hàng hoá, trong hoạt động dịch vụ để đảm bảo thực hiện lợi ích tốt nhất của mình" [10]. Ngoài ra, còn có rất nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm cạnh tranh, song qua các định nghĩa trên có thể tiếp cận về cạnh tranh như sau: Thứ nhất, khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm lấy phần thắng của nhiều chủ thể cùng tham gia. Thứ hai, mục đích của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào đó mà các chủ thể đều cùng hướng đến chiếm đoạt; tức là phải có nhiều chủ thể cùng tham gia cạnh tranh, đó là các chủ thể có cùng các mục đích, mục tiêu và kết quả phải giành giật. Trong kinh tế, với các chủ thể cạnh tranh bên bán, đó là các loại sản phẩm tương tự có mục đích phục vụ một loại nhu cầu của khách hàng mà các chủ thể tham gia cạnh tranh đều có thể làm ra và được người mua chấp nhận. Còn với chủ thể cạnh tranh bên mua là sự giành giật mua được các sản phẩm theo đúng mong muốn của mình. Thứ ba, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cạnh tranh cụ thể, có các ràng buộc chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị trường, các điều kiện pháp lí, các thông lệ kinh doanh,.. Thứ tư, trong quá trình cạnh tranh các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau: cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng sản phẩm, cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm, cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm, cạnh tranh nhờ dịch vụ bán hàng tốt,… Các yếu tố qui định mức độ cạnh tranh trong một ngành hoạc trên một thị trường được thể hiện qua sơ đồ 1 [11]. - Số lượng các đối thủ hiện có trong ngành - Quyền lực thương lượng giữa người cung ứng - Quyền lực thương lượng của phía người tiêu thụ - Sự đe doạ của những người mới hoạc sẽ nhập cuộc - Sự đe doạ của những sản phẩm hoac dịch vụ mơi sẽ thay thế Sự đe dạo của những người mới hoặc sẽ nhập cuộc Cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại trong ngành Sự đe dạo của những sản phẩm hoặc dịch vụ thay thế Quyền lực thương lượng của phía người tiêu thụ Quyền lực thương lượng của phía người cung ứng Sơ đồ 1. Yếu tố quyết định mức độ cạnh tranh trên thị trường cho một số ngành Đối với toàn nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận một số chức năng quan trọng: - Cạnh tranh sẽ đảm bảo việc điều chỉnh quan hệ giữa cung và cầu (Quyền tự chủ của người tiêu dùng). - Cạnh tranh sẽ điều khiển quan hệ sao cho những nhân tố sản xuất được sử dụng vào những nơi hiệu quả nhất, làm giảm thiểu tổng giá thành sản xuất của xã hội. - Cạnh tranh là những tiền đề thuận tiện nhất làm cho sản xuất thích ứng linh hoạt với sự biến động của cầu và công nghệ sản xuất. - Sự bóc lột trên quyền lực thị trường và việc hình thành thu nhập không tương ứng với năng suất sẽ bị cản trở bởi cạnh tranh, như vậy cạnh tranh sẽ tác động một cách tích cực đến việc phân phối thu nhập. - Sự thúc đẩy mới được coi là một chức năng cạnh tranh năng động trong những thập kỷ gần đây [12]. Trong môi trường cạnh tranh, sức cạnh tranh trên thị trường sản phẩm ngày một khốc liệt bao gồm: Cạnh tranh của người bán ( Nhà sản xuất kinh doanh ) với người mua ( khách hàng ): cạnh tranh giữa những người bán với nhau: cạnh tranh giữa những người mua với nhau. Tham gia vào thị trường cạnh tranh, các doanh nghiệp không chỉ tạo ra lợi thế so sánh lớn nhất của mình mà còn tạo ra được lực kéo hút tổng hợp khách hàng tiềm năng trên thị trường lớn nhất. Vì vậy, cơ sở để xác lập một hệ thống chiến lược cạnh tranh dựa trên nguyên lý bộ ba cạnh tranh. - Nguyên lý bộ ba cạnh tranh: Trong thiết kế bất cứ một mô hình chiến lược nào đều có ba người tham gia chủ yếu: bản thân công ty, khách hàng và đối thủ cạnh tranh. Mỗi một thành phần tham gia này là một cơ thể sống, có lợi ích riêng và mục tiêu riêng. Tất cả chúng gộp lại được gọi chung là tam giác chiến lược hay mô hình nguyên lý bộ ba cạnh tranh được biểu thị qua sơ đồ 2 Các khu vực thị trường theo đuổi Giá trị Các khu vực đa thị trường Khách hàng Chi phí Người cạnh tranh Giá trị Công ty Sơ đồ 2: Mô hình nguyên lý bộ ba cạnh tranh [13]. Xuất phát từ nguyên lý thành công, các công ty phải thực hiện việc làm hài lòng khách hàng tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh của mình. Các chiến lược phải thích nghi được với yêu cầu của người tiêu thụ cũng như với chiến lược của các đối thủ cạnh tranh. Dựa trên tầm cơ và vị trí trên thị trường, công ty phải tìm ra chiến lược cho phép mình đạt được lợi thế cạnh tranh mạnh nhất. Với cách tiếp cận trên, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thồng thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi. [14]. 2.1.1.2 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có quan niệm gắn năng lực cạnh tranh với ưu thế sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Có quan điểm gắn cạnh tranh của doanh nghiệp với thị phần mà nó chiếm giữ, có quan niệm lại cho rằng sức cạnh tranh đồng nghĩa hiệu quả của doanh ngiệp .....Tuy nhiên có thể nêu ra một số định nghĩa về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp như sau: - Khái niệm về năng lực cạnh tranh được nêu ra lần đầu tiên ở Mỹ vào đầu những năm 1980. theo Aldington Report “Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả thấp hơn các đối thủ cạnh tranh trong nước và quốc tế. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đồng nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng bảo đảm thu nhập cho người lao động và chủ doanh nghiệp” [4]. - Theo Fafchamps cho rằng: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó có thể sản xuất ra sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác, nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao [7]. - Còn Markasen (1992) lại đưa ra một khái niệm: “Một nhà sản xuất là cạnh tranh nếu như nó có một mức chi phí đơn vị trung bình bằng hoặc thấp hơn chi phí do đơn vị của các nhà cạnh tranh quốc tế” [7]. - Theo Philip Lasser cho rằng: Năng lực cạnh tranh của một công ty trong một lĩnh vực được xác định bằng những thế mạnh mà công ty có hoặc huy động được để có thể cạnh tranh thắng lợi [7]. - Theo Báo cáo về sức cạnh tranh (1985) của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) cũng chỉ ra rằng: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực và cơ hội trong hoàn cảnh riêng trước mắt và tương lai của doanh nghiệp có sức hấp dẫn về giá cả và chất lượng hơn so với đối thủ canh tranh trong và ngoài nước để thiết kế sản xuất, tiêu thụ hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Đến năm 1995 WEF lại định nghĩa “Năng lực cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp là khả năng của một công ty, một nước trong việc sản xuất ra của cải trên thị trường thế giới nhiều hơn đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp” - Theo một số nhà nghiên cứu trong nước về cạnh tranh của doanh nghiệp: + TS. Vũ Trọng Lâm (2006) cho rằng: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng và đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế [9]. Quan niệm này cho thấy nếu doanh nghiệp có khả năng duy trì và sáng tạo liên tục các lợi thế cạnh tranh của mình, doanh nghiệp sẽ luôn đi trước các đối thủ và giành phần thắng trong cuộc cạnh tranh để đạt được mục đích duy trì và mở rộng thị trường, gia tăng lợi nhuận. + Theo TS.Nguyễn Hữu Thắng (2006): "Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững" [4]. Quan niệm này đã phần nào bao quát được mục đích và chiến lược trong quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp. Nếu hiểu cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt và quyết liệt của các chủ thể kinh doanh trên thị trường thì chỉ có cạnh tranh giữa các cá nhân, các doanh nghiệp và cạnh tranh giữa các nền kinh tế, thông qua cạnh tranh hàng hoá. Trong quá trình các chủ thể cạnh tranh với nhau, để giành được lợi thế về mình, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị thế của mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một sức mạnh nào đó, một khả năng nào đó hoặc một năng lực nào đó của chủ thể, được gọi là là năng lực cạnh tranh của chủ thể đó. Tuy nhiên nếu năng lực cạnh tranh chỉ là thực lực và lợi thế của bản thân doanh nghiệp thì chưa đủ bởi vì doanh nghiệp cạnh tranh có thắng lợi hay không lại bị tác động của rất nhiều nhân tố, trong đó có sự tác động của ngoại lực, của sự vay mượn tạm thời để duy trì vị trí của nó trên thị trường bằng rất nhiều cách khác nhau. Trong thực tế có nhiều doanh nghiệp thực lực rất nhỏ nhưng vẫn duy trì được vị trí của nó trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh khác. Do vậy, nếu chỉ hiểu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thực lực và lợi thế của doanh nghiệp sẽ làm giảm những suy nghĩ sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám huy động thực lực hoặc những lợi thế của doanh nghiệp khác vào việc duy trì vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Năng lực cạnh tranh có ba cấp độ: - Năng lực cạnh tranh quốc gia: Năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững thu hút được đầu tư, đảm bảo kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của người dân [15]. - Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và nước ngoài. - Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa trên cơ sở chi phí thấp, sản phẩm tốt, công nghệ cao hoạc tổ hợp các yếu tố này. Một nhà sản xuất được gọi là sản xuất cạnh tranh nếu có khả năng cung ứng một sản phẩm có chất lượng cao với mức giá thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Một công ty được xem là có sức cạnh tranh khi nó duy trì được vị thế của mình trên thị trường cùng với các nhà sản xuất khác với các sản phẩm thay thế, hoạc đưa ra thị trường các sản phẩm tương tự với mức giá thấp hơn, hoạc cung cấp các sản phẩm tương tự với đặc tính về chất lượng hay dịch vụ ngang bằng hoạc cao hơn [16]. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở các nhóm yếu tố chủ yếu được biểu thị qua sơ đồ 3 Năng lực cạnh tranh của doanh ngiệp Chất lượng, khả năng cung ứng các đầu vào Công nghệ và dịch vụ trợ giúp Uy tín thương hiệu sản phẩm Nhu cầu của khách hàng đối với sản phẩm Sơ đồ 3: Các yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp[13] Sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác, nhưng chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao [17]. Sức cạnh tranh của một công ty trong một lĩnh vực được xác định bằng những thế mạnh mà công ty có hoặc huy động được để có thể cạnh tranh thắng lợi. Tóm lại: năng lực cạnh tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp là tổng hợp các yếu tố để xác lập vị thế so sánh tương đối hay tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng, phát triển bền vững, ổn định của doanh nghiệp trong mối quan hệ so sánh với tập các đối thủ cạnh tranh trên cùng một môi trường và thị trường cạnh tranh xác định trong một khoảng thời gian hoặc thời điểm nhất định. Thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu được lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và nước ngoài. - Sức cạnh tranh của sản phẩm: có nhiều khái niệm về sức cạnh tranh của sản phẩm. Sức cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó (về các chỉ tiêu) so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường [18]. Khái niệm này cho thấy, việc xác định sản phẩm có sức cạnh tranh hay không trên thị trường, là xác định mức độ tin cậy của người tiêu dùng đối với sản phẩm về giá cả, chủng loại, thị phần, đổi mới công nghệ và dịch vụ sau bán hàng… so với sản phẩm cùng loại mà đối thủ cung cấp trên cùng một loại thị trường, chứ không quan tâm đến việc nó có vượt trội hơn so với mọi sản phẩm xuất khẩu tại chỗ hay không. Có thể hiểu rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm được cấu thành bởi nhiều yếu tố: Về chất lượng của sản phẩm; về giá cả sản phẩm thoả mãn nhu cầu; thị hiếu của người tiêu dùng; được người tiêu dùng lựa chọn; lợi nhuận có thể chấp nhận được cho nhà sản xuất; khả năng sử dụng thay thế của một loại sản phẩm khác biệt tương tự với loại sản phẩm đó. Ngoài các yếu tố trên, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được quyết định bởi các yếu tố khác như công nghệ, chất lượng, giá cả, kiểu dáng, mẫu mã của sản phẩm, phương thức tiêu thụ, quảng cáo, bán hàng, độ tin cậy của sản phẩm, tính độc đáo v.v…  - Nâng cao năng lực cạnh tranh là: đánh giá thực tế năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm dịch vụ đó thông qua các tiêu chí để có những nhận định, biện pháp, chiến lược nhằm đưa doanh nghiệp có đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Hay nâng cao năng lực cạnh tranh là thay đổi mối tương quan giữa thế và lực của doanh nghiệp về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh [18]. Mục tiêu của hầu hết các doanh nghiệp là đạt vị thế cao trong thị trường để sau đó lạm dụng vị thế có lợi này khai thác tối đa lợi nhuận trong một thời gian dài. Trong đề tài này chúng tôi quan tâm đến: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; sức cạnh tranh của sản phẩm.  Theo tôi: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sự so sánh những lợi thế của mình với các đối thủ cạnh tranh để xác định vị thế của mình trên thương trường thông qua khả năng duy trì và mở rộng thị trường, thông qua sự không ngừng nâng cao về chất lượng sản phẩm. Sức cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó (về các chỉ tiêu) so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường [17]. Sức cạnh tranh của sản phẩm được cấu thành bởi nhiều yếu tố chính: chất lượng, giá cả sản phẩm, thị hiếu của người tiêu dùng, được người tiêu dùng lựa, lợi nhuận có thể chấp nhận được cho nhà sản xuất,… 2.1.1.3 Lợi thế cạnh tranh Lợi thế cạnh tranh trước hết là sự biểu hiện “tính trội” của mặt hàng đó về chất lượng giá cả và cơ chế vận hành của nó trên thị trường tạo nên sự hấp dẫn, thuận tiện cho khách hàng trong quá trình tiếp cận và sử dụng. Lợi thế cạnh tranh còn là sự thể hiện tính kinh tế của các yếu tố đầu vào cũng như đầu ra của sản phẩm, nó bao gồm chi phí cơ hội và năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt đạt tiêu chuẩn quốc tế và thị hiếu tiêu dùng trên các thị trường cụ thể. Do vậy, lợi thế cạnh tranh xét theo tính chất thương mại còn là “nghệ thuật buôn bán” được biểu hiện qua các nội dung mang tính giải pháp về chiến lược và sách lược của một ngành hàng, một sản phẩm trong quá trình sản xuất và trao đổi thương mại, chiến lược cạnh tranh suy cho cùng là “chinh phục cả thế giới khách hàng bằng uy tín, giá cả và chất lượng” [12].  Lợi thế cạnh tranh có thể được biểu hiện và đo được bằng các chỉ tiêu vừa định tính vừa định lượng. * Các chỉ tiêu định tính: 1. Chất lượng sản phẩm, vệ sinh công nghiệp và thực phẩm cao hay thấp… là các tiêu chuẩn về chất lượng và độ an toàn trong sử dụng. 2. Qui mô, khối lượng và sự ổn định của sản phẩm 3. Kiểu dáng mẫu mã của sản phẩm, phù hợp với thị hiếu và tập quán tiêu dùng trên các thị trường đến mức độ nào. 4. Môi trường thương mại, thể hiện mức độ và khả năng giao dịch cũng như uy tín trên thị trường. 5. Môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách thương mại (thuế, tỷ giá…). 6. Giá thành và giá cả sản phẩm - Giá thành của sản phẩm biểu hiện những chi phí của các yếu tố đầu vào. - Giá cả thường biểu hiện trong hoạt động lưu thông và trao đổi [31]. 2.1.1.4 Sản phẩm Theo quan niệm truyền thống: sản phẩm là tổng hợp các đặc tính vật lý học, hoá học, sinh học,... có thể quan sát được, dùng để thoả mãn những nhu cầu cụ thể của sản xuất hoặc đời sống. Theo quan niệm marketing: sản phẩm là thứ có khả năng thoả mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng, cống hiến những lợi ích cho họ và có thể đưa ra chào bán trên thị trường với khả năng thu hút chú ý mua sắm và tiêu dùng. Theo đó, một sản phẩm được cấu tạo và hình thành từ hai yếu tố cơ bản [18]: + Yếu tố vật chất: những đặc tính vật lý, hoá học, hình học, kể cả những đặc tính đó có tính chất của bao gói với chức năng bảo quản hàng hoá. + Yếu tố phi vật chất: tên gọi, nhãn hiệu, biểu trưng, cách thức sử dụng, cách thức nhận biết, dịch vụ, những thông tin về tập quán, thị hiếu, thói quen tiêu dùng của khách hàng mà các nỗ lực marketing phải hướng tới thoả mãn. Theo quan điểm này, sản phẩm vừa là cái “đã có”, vừa là cái “đang và tiếp tục phát sinh” trong trạng thái biến đổi không ngừng của nhu cầu. Ngày nay, người tiêu dùng hiện đại khi mua một sản phẩm không chỉ chú ý đến các khía cạnh vật chất, mà còn quan tâm đến nhiều khía cạnh phi vật chất, khía cạnh hữu hình và cả các yếu tố vô hình của sản phẩm. + Giá trị của sản phẩm: Khi khách hàng quyết định mua sắm một loại sản phẩm cụ thể, họ thường kỳ vọng vào những lợi ích do tiêu dùng sản phẩm ấy mạng lại, do vậy khi quyết định mua, họ buộc phải có sự lựa chọn. Điều này liên quan đến giá trị tiêu dùng của sản phẩm: giá trị tiêu dùng của sản phẩm là sự đánh giá của khách hàng về khả năng của sản phẩm trong việc thoả mãn nhu cầu của họ. Sản phẩm được nhiều người đánh giá, giá trị cao thì cơ hội thị trường của nó càng lớn và ngược lại. + Định vị của sản phẩm: Định vị của sản phẩm có nghĩa là xác định vị trí của sản phẩm trên thị trường so với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh, để xác định họ thường dựa vào những đánh giá, so sánh sẵn trong tâm trí về sản phẩm của doanh nghiệp khác. Vị trí của một sản phẩm là một tập hợp những ấn tượng, quan niệm, cảm quan của khách hàng về sản phẩm đó so với các sản phẩm cạnh tranh cùng loại. + Sản phẩm mới: Sản phẩm mới là sản phẩm hoàn toàn chưa có trên thị trường hoặc sản phẩm đã có nhưng được hoàn thiện hơn nhằm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và thúc đẩy bán hàng, tăng lợi nhuận doanh nghiệp. Sự cần thiết phải phát triển sản phẩm mới: - Tiến bộ khoa học công nghệ và sự phát triển sản xuất nâng cao mức sống của dân cư làm cho nhu cầu tiêu thụ sản phẩm mới tăng, doanh nghiệp không thể dựa vào sản phẩm hiện có mà phải coi trọng việc phát triển sản phẩm mới. - Sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học công nghệ làm nảy sinh thêm những nhu cầu mới, sự đòi hỏi và lựa chọn ngày càng khắt khe, tình trạng cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt hơn,... 2.1.1.5 Về marketing - Marketing là thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm hướng vào dòng chuyển vận hàng hoá và dịch vụ từ người sản xuất tới người tiêu thụ hoặc người sử dụng. - Marketing như là một triết lý soi sáng cho toàn bộ tổ chức. ý tưởng có thể được mở rộng để xác định ý nghĩa của marketing như là một nhiệm vụ thu hút và gìn giữ khách hàng, một nhiệm vụ đòi hỏi sự tận tâm của tất cả mọi người làm việc cho doanh nghiệp bởi nó là việc của mọi người là mối quan tâm của mọi doanh nghiệp [19]. - Định nghĩa tổng quát về marketing của Philip Kotler: marketing là một dạng hoạt động của con người nhằm thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của họ thông qua trao đổi [20]. Tóm lại: có nhiều khái niệm về marketing, nhưng có thể hiểu marketing là cách mà doanh nghiệp tuyên truyền hay sử dụng nghệ thuật kinh doanh để ngày càng có nhiều người biết đến sản phẩm của mình và tiêu dùng nó ngày càng nhiều hơn. 2.1.1.6 Về thị trường Có nhiều khái niệm về thị trường nhưng theo Philip Kotler: thị trường là tập hợp các cá nhân và tổ chức hiện đang có sức mua và có nhu cầu đòi hỏi cần được thoả mãn [20]. Theo quan niệm của những người làm tiếp thị, khi nói đến thị trường phải nói đến: Những người trong cuộc (tức là những người trực tiếp hoặc gián tiếp làm cho cung cầu gặp nhau). - Điều quan trọng là phải hiểu được nhu cầu và nắm bắt được thị trường, việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất, thực hiện dịch vụ của các doanh nghiệp dịch vụ cũng như bán hàng của các doanh nghiệp thương mại đều diễn ra trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh lại đòi hỏi mọi doanh nghiệp đều phải ra sức cố gắng giành vị thế cao trong thị trường, mỗi doanh nghiệp buộc phải tự tìm kiếm khách hàng cho mình, để đạt được điều này doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau mà hai biện pháp quan trọng nhất là chính sách giá cả và chính sách quảng cáo. 2.1.2 Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là một nội dung trong cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá dịch vụ bán ra càng nhiều, số lượng người cung cấp càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Nhưng cũng chính nhờ sự cạnh tranh, mà nền kinh tế thị trường vận động theo hướng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội - yếu tố đảm bảo cho sự thành công của mỗi quốc gia trong con đường phát triển. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của riêng ai, nên cạnh tranh trở thành một quy luật quan trọng thúc đẩy sự phát triển. Mọi doanh nghiệp đều phải tự mình vận động để đứng vững trong cơ chế này. Cơ chế thị trường mở đường cho doanh nghiệp nào biết nắm thời cơ, biết phát huy tối đa thế mạnh của mình và hạn chế được tối thiểu những bất lợi để giành thắng lợi trong cạnh tranh. Hơn nữa, nước ta đã và đang hội nhập với nền kinh tế thế giới, mà hội nhập kinh tế quốc tế có nghĩa là mở cửa nền kinh tế, thực hiện tự do hoá thương mại, đưa các doanh nghiệp tham gia vào thị trường và thực hiện cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hội nhập kinh tế một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có những đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường; hội nhập kinh tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện mở rộng thị trường chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý. Thách thức hàng đầu khi hội nhập kinh tế quốc tế là tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên cả thị trường trong nước và xuất khẩu do các hàng rào thuế quan bảo hộ cả thuế quan và phi thuế quan cũng như các chính sách ưu đãi đang dần bị loại bỏ. Chính vì vậy, doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế phải không ngừng lớn lên. Cụ thể: không ngừng tăng vốn, luôn đổi mới công nghệ, chất lượng lao động để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tăng năng lực cạnh tranh. Một thách thức nữa của hội nhập kinh tế: hàng hoá dịch vụ sẽ ngày càng phải đương đầu với những rào cản thương mại quốc tế mới. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải trang bị cho mình những kiến thức về thị trường cả trong và ngoài nước, nắm bắt tập quán, luật kinh doanh ở thị trường trong và ngoài nước. Khi mà sức cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao nó sẽ thể hiện tốt vai trò, chức năng của mình trong việc: - Phục vụ tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng - Kích thích sản xuất phát triển ổn định - Thúc đẩy sự phát triển của khoa._. học kỹ thuật - Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế Không những thế nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn là nhân tố thúc đẩy các quan hệ chính trị - kinh tế - xã hội, tăng cường mối quan hệ hợp tác, hiểu biết lẫn nhau giữa các nước, v.v… Trong bối cảnh đó nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của các doanh nghiệp là một tất yếu khách quan. 2.1.3 Nội dung và yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của hàng hoá 2.1.3.1 Nội dung Việc đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp căn cứ: + Sản phẩm: chủng loại sản phẩm, khối lượng và chất lượng sản phẩm, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm, hệ thống phân phối sản phẩm, uy tín thương hiệu, nguồn hàng cung cấp ổn định. + Giá bán: chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí bán hàng, chi phí xúc tiến bán hàng. Cách xác định giá bán, giá bán các loại sản phẩm khi bán buôn, bán lẻ. + Thị phần, số lượng thị trường, số lượng khách hàng,… càng lớn thì khả năng tiêu thụ càng được mở rộng. Mở rộng thị trường thông qua quảng cáo, khuyến mại, chào hàng, chiêu hàng, tham gia hội chợ triển lãm. 2.1.3.2 Yếu tố cấu thành sức cạnh tranh của doanh nghiệp Như đã đề cập ở phần trên, cạnh tranh trong thương trường không phải là diệt trừ đối thủ của mình mà chính là phải mang lại cho khách hàng những giá trị cao hơn, hoặc mới lạ hơn để khách hàng lựa chọn. Để đảm bảo sự tồn tại, phát huy lợi thế tối ưu để phát triển trên thị trường, các doanh nghiệp phải tạo ra và không ngừng tăng trưởng “sức cạnh tranh” trên thương trường. Xuất phát từ đặc điểm và nội dung hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có thể tổng hợp các yếu tố tạo ra khả năng không ngừng vượt trội trong quá trình cạnh tranh: Thứ nhất: Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp Trong hoạt động sản xuất kinh doanh có nhiều loại chiến lược khác nhau được phân loại theo cấp độ chiến lược và phạm vi của chiến lược, bao gồm chiến lược kinh doanh tổng hợp và chiến lược yếu tố, bộ phận hợp thành, giải quyết từng vấn đề kinh doanh cụ thể. Chiến lược kinh doanh tổng quát đề cập đến những vấn đề quan trọng bao trùm nhất và có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp như: phương thức kinh doanh, chủng loại hàng hoá, dịch vụ được lựa chọn sản xuất kinh doanh, thị trường tiêu thụ, các mục tiêu, tài chính và các chỉ tiêu tăng trưởng,… Dưới đây là một số chiến lược quan trọng trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp: [17]. * Chiến lược giữ vững và phát triển thị trường hiện tại Một trong nội dung của chiến lược kinh doanh là chiến lược giữ vững và phát triển thị trường hiện tại của doanh nghiệp, giữ vững và phát triển thị trường hiện tại xuất phát từ yêu cầu của quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phải nhằm tới các mục tiêu về lợi nhuận. Để làm được điều này doanh nghiệp cần nghiên cứu nhu cầu của khách hàng trên thị trường, cơ hội trên thị trường hiện tại của doanh nghiệp thường xuất hiện khi có những nhu cầu của khách hàng còn chưa được đáp ứng hoặc đáp ứng chưa tốt, hoặc khi doanh nghiệp có điều kiện và khả năng cạnh tranh để tăng thị phần trên thị trường nhờ một lợi thế chung nào đó hay do sự suy yếu của đối thủ. * Chiến lược tiếp cận và xâm nhập thị trường mới Một trong những mục tiêu mà doanh nghiệp cần hướng tới trong quá trình kinh doanh là tăng trưởng thường xuyên để củng cố và phát triển vị thế của mình trên thị trường. Để có thể tiếp cận và thâm nhập thị trường mới, việc đầu tiên mà doanh nghiệp cần làm là nghiên cứu thị trường mới này để xác định thị trường trọng điểm để từ đó có cánh ứng xử phù hợp với thị trường mới. * Chiến lược phát triển thị trường mục tiêu Việc xác định thị trường mục tiêu và chiến lược phát triển thị trường mục tiêu là rất quan trọng của doanh nghiệp, có ba cách tiếp cận thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp có thể xem xét lựa chọn đưa vào chiến lược. + Thứ nhất, cách tiếp cận đơn giản là doanh nghiệp chọn một trong số các thị trường thành phần làm thị trường mục tiêu và xây dựng marketing cho thị trường này + Thứ hai, cách tiếp cận thị trường trọng điểm phức tạp, doanh nghiệp chọn hai hay nhiều hơn trong các thị trường thành phần làm thị trường mục tiêu và xây dựng marketing hỗn hợp cho từng thị trường mục tiêu đã chọn. + Thứ ba, cách tiếp cận thị trường mục tiêu chấp nhận được, doanh nghiệp chọn hai hay nhiều hơn trong số các thị trường thành phần làm thành một thị trường tương đối đồng nhất và xây dựng marketing hỗn hợp chung cho thị trường. * Các chiến lược marketing hỗn hợp Các chiến lược marketing hỗn hợp đi vào chi tiết cụ thể những gì sản phẩm mang tới cho khách hàng: nó được định giá như thế nào, được giới thiệu ra sao, và nó được bán ở đâu để khách hàng có thể mua được, đây là nguyên tắc 4P, đó là Product (sản phẩm), Price (giá cả), Promotion (quảng cáo giới thiệu), và Place (địa điểm). Các chiến lược sản phẩm bao gồm nhiều khía cạnh, khi triển khai một sản phẩm vào thị trường, tuỳ thuộc từng đặc điểm thị trường và sản phẩm mà có thể áp dụng các chiến lược: Thứ nhất, chiến lược mở rộng thị trường là việc giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp với các thị trường mà không có sự thay đổi nào về sản phẩm, thực chất đây là chiến lược dựa trên quan điểm tiêu chuẩn hoá sản phẩm. Người ta cho các nhu cầu của người tiêu dùng và các điều kiện thị trường đang trở nên đồng nhất hơn, do đó trong trường hợp này doanh nghiệp giữ nguyên sản phẩm để bán ở thị trường hiện tại và tìm kiếm thị trường mới cho nó. Chiến lược này có thể áp dụng đối với doanh nghiệp khả năng tài chính nhỏ, khả năng nghiên cứu và phát triển hạn chế thì hiệu quả hơn. Thứ hai, chiến lược thích nghi sản phẩm, đây là sự thay đổi sản phẩm để thoả mãn các yêu cầu và thị hiếu của thị trường. Sự thích nghi này có thể tiến hành từng phần hoặc toàn bộ các đặc điểm của sản phẩm như thay đổi các tính năng kinh tế cho sản phẩm, thay đổi nhãn hiệu cho sản phẩm và các dịch vụ hỗ trợ sản phẩm. Để tiến hành chính sách này các doanh nghiệp cần dựa vào việc nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm, mức độ chấp nhận sản phẩm của thị trường, tìm kiếm công dụng mới cho sản phẩm. Thứ ba, chiến lược sản phẩm mới, quá trình triển khai sản phẩm mới phải tuân thủ các bước: hình thành ý tưởng về sản phẩm mới, đánh giá ý tưởng sản phẩm mới, thiết kế kỹ thuật và phát triển sản phẩm, kiểm tra sản phẩm mới và cuối cùng là giới thiệu sản phẩm mới ra thị trường. Thứ tư, chiến lược chủng loại sản phẩm quyết định đến số lượng các nhóm hàng, các kiểu loại, kích cỡ của sản phẩm được đưa ra thị trường đáp ứng nhu cầu thị trường và phù hợp với năng lực doanh nghiệp. Chiến lược giá là một trong những chính sách quan trọng trong chiến lược marketing hỗn hợp. Căn cứ để ra quyết định trong chiến lược giá là: các yếu tố chi phí; những mục tiêu của doanh nghiệp; yếu tố lạm phát; nhu cầu của thị trường; cạnh tranh trên thị trường, kênh phân phối… Một chiến lược marketing hỗn hợp hữu hiệu đòi hỏi phải bao gồm các chiến lược xúc tiến thương mại. Nó bao gồm: - Thứ nhất, quảng cáo. Quảng cáo có thể được tiến hành trước khi sản phẩm có mặt trên thị trường. Các bước thực hiện trong quảng cáo: xác định mục tiêu quảng cáo; xây dựng nội dung quảng cáo; chọn phương tiện và lập kế hoạch quảng cáo, thiết kế và triển khai quảng cáo; đánh giá hiệu quả quảng cáo. - Thứ hai, xúc tiến bán hàng: là hoạt động thu hút sự chú ý của khách hàng tới một sản phẩm làm nó hấp dẫn hơn ở nơi bán và nơi tiêu thụ. Các hình thức xúc tiến chủ yếu: thay đổi hình thức sản phẩm, khuyến khích mua hàng (hạ giá, hoặc khuyến mại khác), trưng bày và giới thiệu sản phẩm hàng hoá. - Thứ ba, hội chợ triển lãm và phòng trưng bày với mục đích giới thiệu sản phẩm và quan sát các đối thủ cạnh tranh, quan sát khách hàng và quan sát xu thế của thị trường nhằm đưa ra những sản phẩm phù hợp. Chiến lược phân phối: bao gồm những quyết định gắn liền với việc lựa chọn, phát triển và kiểm soát các thành viên kênh để đáp ứng được các điều kiện và mục tiêu thị trường. Để lựa chọn các thành viên kênh cần xây dựng các chỉ tiêu, tiến hành đánh giá cho điểm và lựa chọn các thành viên của kênh tối ưu nhất, các thành viên của kênh thường lựa chọn các công ty kinh doanh, bán buôn và bán lẻ, các môi giới… Thứ hai: Quy mô của doanh nghiệp Quy mô của doanh nghiệp thực chất là giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm, tận dụng lợi thế về quy mô sản xuất kinh doanh lớn. Khi quy mô về vốn lớn nó sẽ là cơ sở, là nền tảng để doanh nghiệp tiến hành các hoạt động của mình nhằm hướng tới lợi nhuận cao nhất có thể. Trong nền kinh tế hội nhập, yếu tố vốn đối với doanh nghiệp càng trở nên quan trọng, là cơ sở để doanh nghiệp mở rộng quy mô tạo thế cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Còn nếu quy mô nhỏ thì phải chấp nhận bất lợi về chi phí, do đó rất khó có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Thứ ba: Năng lực quản lý và điều hành Do môi trường kinh doanh luôn ở trạng thái không ổn định, thay đổi một cách chóng mặt, đòi hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được phải linh động, thích ứng với các biến động đó, nếu không doanh nghiệp sẽ lạc hậu và bị loại khỏi cuộc. Nhu cầu luôn thay đổi, chu kỳ sống của sản phẩm bị rút ngắn, các sản phẩm thay thế liên tục xuất hiện với chất lượng, mẫu mã, công dụng cao hơn. Do vậy, sức cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá bởi tính linh hoạt và ứng dụng của doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của thị trường. Sự linh hoạt của doanh nghiệp trong quản lý sẽ giảm được tỷ lệ chi phí quản lý trong giá thành sản phẩm, qua đó nâng cao sức cạnh tranh  sản phẩm của doanh nghiệp. Thứ tư: Khả năng nắm bắt thông tin Ngày nay sự bùng nổ thông tin, tin học đã khẳng định vai trò to lớn của thông tin. Thông tin về thị trường mua bán, thông tin về tâm lý và thị hiếu khách hàng, thông tin về giá cả, đối thủ cạnh tranh… có ý nghĩa quan trọng trong việc ra quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Nắm bắt thông tin giúp doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong kinh doanh, giúp doanh nghiệp tìm và tạo ra “ lợi thế so sánh” của doanh nghiệp… Thứ năm: Đảm bảo chữ tín Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, những hành động bất tín, gian lận (như hàng giả, trốn thuế…) trong kinh doanh chỉ có thể đem lại lợi ích nhỏ nhoi trước mắt, nhưng nhất định sẽ làm cho doanh nghiệp thiệt hại nhiều hơn về lâu dài, mất bạn hàng và chỗ đứng trên thị trường. Thứ sáu: Trình độ công nghệ Tình trạng trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới cạnh tranh của doanh nghiệp, nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp và tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán sản phẩm, một trang thiết bị hiện đại thì sản phẩm của họ nhất định có chất lượng cao, ngược lại không có một doanh nghiệp nào có thể nói là có sức cạnh tranh cao khi mà trong tay họ lại là cả hệ thống máy móc cũ kỹ với công nghệ lạc hậu. Thứ bảy: Chất lượng cán bộ quản lý, đội ngũ lao động Yếu tố này quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp, trình độ, năng lực của các thành viên Ban Lãnh đạo ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp không những lợi ích trước mắt và cả lợi ích lâu dài. Trình độ tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ của người lao động và lòng hăng say làm việc của họ là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Thứ tám: Chi phí kinh doanh Trong đó bao gồm chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới (R&D); các chi phí tiện ích; chi phí vận tải, chi phí mặt bằng sản xuất,… là những nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh của doanh nghiệp. Chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới là chi phí quan trọng trong nền kinh tế hiện đại bởi các doanh nghiệp muốn tồn tại, có sức cạnh tranh thì cần phải biết đổi mới mình, do đó đối với hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới hiện nay, nhất là các nước đang phát triển, chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí nhằm đầu tư nghiên cứu các công nghệ kỹ thuật mới, độc đáo, hiện đại, đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng, qua đó tạo một vị thế tốt trên thị trường. Thứ chín: Tổ chức hệ thống của doanh nghiệp Các doanh nghiệp cho dù có các yếu tố mặt hàng sản xuất kinh doanh, nhân sự, tài chính, trang thiết bị hay công nghệ như nhau nhưng do trật tự tổ chức hệ thống với hiệu lực khác nhau thì sức cạnh tranh của nó cũng có những điểm khác nhau. 2.1.4 Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Khi đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp dựa vào các tiêu chí sau:  - Đáp ứng yêu cầu của khách hàng là chuẩn mực (Khả năng đáp ứng yêu cầu của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp). Muốn có năng lực cạnh tranh cao hơn doanh nghiệp cần xác định và thõa mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng so với đối thủ cạnh tranh. Vì vậy khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng là tiêu chí không thể thiếu khi đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế. Khả năng cung cấp cho khách hàng đúng hàng hoá, dịch vụ mà họ cần, đúng vào thời điểm mà họ mong muốn. Cung cấp cho khách hàng những sản phẩm chất lượng cao hơn, tính năng ưu việt hơn so với các sản phẩm hiện có trên thị trường với mức giá chấp nhận được và đảm bảo về mặt thời gian. Sự hoàn hảo của các dịch vụ trước, trong và sau bán hàng đang ngày càng trở thành nhân tố quan trọng thu hút sự trở lại của khách hàng, tăng uy tín và sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. - Thực lực của doanh nghiệp, là yếu tố cơ bản để đảm bảo thoả mãn nhu cầu của khách hàng, khi nói đến sức cạnh tranh là bao hàm ý so sánh với các đối thủ cạnh tranh. Muốn giữ vững và lôi kéo khách hàng doanh nghiệp phải có thực lực  được thể hiện thành các lợi thế so với các đối thủ. Thực lực hay năng lực sản xuất của doanh nghiệp là kết quả sản xuất kinh doanh tối đa mà doanh nghiệp có thể đạt được trong thời gian hoạt động sản xuất kinh doanh nhất định, phù hợp với những điều kiện và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả sản xuất kinh doanh tối đa biểu hiện bằng khối lượng sản phẩm hàng hoá tối đa phản ánh khả năng cao nhất mà doanh nghiệp có thể đạt được trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhất định nhờ sử dụng có hiệu quả nhất tài sản cố định và lao động hiện có với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng những quy trình công nghệ tiên tiến vào sản xuất và tổ chức lao động khoa học, phù hợp với những điều kiện và nhiệm vụ kinh doanh của từng doanh nghiệp. Các yếu tố hình thành năng lực sản xuất doanh nghiệp [27]: + Yếu tố lao động + Yếu tố vật chất kỹ thuật của sản xuất + Yếu tố tổ chức kỹ thuật của sản xuất. Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh, chỉ tiêu này càng cao càng thể hiện năng lực cạnh tranh cao của doanh nghiệp. - Năng lực tài chính, kế toán của doanh nghiệp Khả năng tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở quy mô vốn: vốn cố định, vốn lưu động và các vốn chuyên dùng khác. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong trong hoạt động sản xuất kinh doanh và có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nhiệm vụ cơ bản của phân tích tài chính doanh nghiệp là [27]: + Phân tích khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp + Phân tích mức độ đảm bảo nguồn vốn lưu động cho việc dự trữ tài sản lưu động thực tế của doanh nghiệp + Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp + Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp + Phân tích khả năng sinh lời của vốn + Phân tích tốc độ chu chuyển của vốn lưu động Như vậy, năng lực tài chính phản ánh sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu đầu tiên, bắt buộc phải có nếu muốn doanh nghiệp thành công trong kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. - ít có doanh nghiệp nào có đầy đủ lợi thế mà thường thì mạnh về mặt này lại yếu mặt khác. Vì thế cần đánh giá từng mặt mạnh, yếu, phát huy thế mạnh. Việc đánh giá sức cạnh tranh nếu chỉ dừng lại ở định tính, thì không tránh được các yếu tố cảm tính, bởi vậy phải cố gắng lượng hoá. Tuy nhiên, khó có thể lượng hoá được một chỉ tiêu tổng hợp đo lường sức cạnh tranh của doanh nghiệp, cần sử dụng một hệ thống chỉ tiêu: Doanh thu của doanh nghiệp Thị phần của DN = x 100% Tổng doanh thu của các DN trong ngành - Thị phần các sản phẩm đó trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh: Thị phần của doanh nghiệp đó là phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm được, thị phần càng lớn càng thể hiện sức cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh. Trong trường hợp không tính được thị phần và tốc độ tăng trưởng thị phần thì người ta có thể sử dụng chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng doanh thu để thay thế. Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi đầu ra của doanh nghiệp theo thời gian và được tính theo công thức: Doanh thu thời kỳ hiện tại của DN Tốc độ tăng doanh thu của DN = x 100% Doanh thu tiêu thụ của DN kỳ trước Để tồn tại và có sức cạnh tranh, doanh nghiệp phải chiếm giữ được một phần thị trường bất kể nhiều hay ít dù nó là địa phương, quốc gia hay thế giới, qua đó đánh giá được sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp, ưu thế cũng như các điểm mạnh, điểm yếu tương đối của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh. - Vị thế tài chính: vị thế tài chính của một doanh nghiệp có tầm quan trọng tối cao trong việc nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả năng nguồn tài chính mạnh được đánh giá bằng năng lực cạnh tranh của các tham số: lợi nhuận, dòng tiền mặt, tỷ lệ vốn vay, mức dữ trữ và hiệu suất lợi tức cổ phần doanh nghiệp, cụ thể, các hệ số thanh khoản, các hệ số hoạt động, các chỉ số sinh lợi, các tỷ số vốn vay, phân tích các nguồn vốn và sử dụng các ngân quỹ [11]. - Quản lý và lãnh đạo (Trình độ và năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp) quản trị là sự đương đầu với tính phức hợp - một quyết định quản trị tốt phải đạt được một mức quyết định và khả năng định hướng đúng vào các vấn đề chất lượng và tính sinh lợi của sản phẩm. Lãnh đạo cũng giống như sự việc đương đầu với sự thay đổi, sự đạt tới của một tầm nhìn. Những thách thức đối với doanh nghiệp càng lớn thì tầm quan trọng của sự lãnh đạo càng lớn [11]. Năng lực tổ chức quản lý doanh nghiệp được coi là yếu tố có tính quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng. Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp được thể hiện ở các nội dung sau [27]: + Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý: được đánh giá bằng những kiến thức cần thiết để quản lý và điều hành, thực hiện các công việc đối nội và đối ngoại của doanh nghiệp. Trình độ của đội ngũ này không chỉ đơn thuần là trình độ học vấn mà còn thể hiện những kiến thức rộng lớn và phức tạp thuộc nhiều lĩnh vực liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ pháp luật, thị trường, ngành hàng...đến kiến thức xã hội, nhân văn. Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý tác động trực tiếp và toàn diện tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua việc hoạch định và thực hiện chiến lược, lựa chọn phương pháp quản lý, tạo động lực trong doanh nghiệp... + Trình độ tổ chức, quản lý của doanh nghiệp thể hiện ở việc sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận. Việc hình thành tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp theo hướng tinh, gọn, nhẹ và hiệu lực cao, có ý nghĩa quan trọng không chỉ bảo đảm hiệu quả quản lý, ra quyết định nhanh chóng, chính xác mà còn làm giảm tương đối chi phí quản lý của doanh nghiệp, nhờ đó mà nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. + Trình độ năng lực quản lý của doanh nghiệp còn được đánh giá thông qua việc hoạch định chiến lược kinh doanh, lập kế hoạch, điều hành tác nghiệp ... điều này có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn và do đó có tác động mạnh tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp - Khả năng nắm bắt thông tin: doanh nghiệp phải nắm bắt đầy đủ các thông tin, bao gồm các thông tin về khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ cùng loại; thông tin về tình hình cung-cầu và giá cả; thông tin về công nghệ mới thích hợp; thông tin về hoạt động và cả thủ đoạn của đối thủ cạnh tranh,…[21]. - Chất lượng sản phẩm và bao gói: người tiêu dùng khi mua hàng trước hết phải nghĩ tới khả năng hàng hoá đáp ứng nhu cầu của họ, tới chất lượng mà nó có. Trong điều kiện hiện tại, chất lượng là yếu tố quan trọng bậc nhất mà các doanh nghiệp lớn thường sử dụng trong cạnh tranh vì nó đem lại khả năng “chiến thắng” (vì thay đổi giá thì dễ nhưng muốn thay đổi chất lượng thì cần phải có thời gian). Đó cũng là con đường mà doanh nghiệp thu hút khách hàng, giữ gìn tạo dựng chữ tín tốt nhất, khi tiếp cận hàng hoá cái mà người tiêu dùng gặp phải trước hết là bao bì, mẫu mã, vẻ đẹp và sự hấp dẫn của nó, làm người tiêu dùng quyết định mua hàng một cách nhanh chóng hơn [22]. Hàng hoá dù đẹp và bền đến đâu cũng sẽ bị lạc hậu trước những yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, do đó, doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới và hoàn thiện về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã, tạo những nét riêng độc đáo, hấp dẫn người mua. Đây cũng là yếu tố quan trọng để bảo vệ nhãn hiệu, uy tín sản phẩm trong điều kiện ngày càng có nhiều sản phẩm giống nhau, hàng thật, hàng nhái, hàng giả lẫn lộn. - Giá cả sản phẩm và dịch vụ: giá cả phải đủ sức cạnh tranh với sản phẩm cùng loại. Bảng giá đưa ra cần trả lời được câu hỏi rất cơ bản: với giá đó thì người mua chấp nhận không [22]. - Kênh phân phối: kênh phân phối được coi là một chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi lẽ, sản phẩm và giá cả là hai yếu tố quyết định những giá trị cơ bản dành cho khách hàng ở khâu sản xuất còn phân phối là yếu tố đem đến cho khách hàng những giá trị gia tăng và cách đa hàng hoá tới tay người tiêu dùng, thông qua những dịch vụ khách hàng. Trong xu thế tiêu dùng hiện tại, giá trị gia tăng là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự hài lòng của khách hàng, nếu mức độ hài lòng của khách hàng cao hơn so với đối thủ cạnh tranh sẽ quyết định khả năng chiếm lĩnh thị trường, tức là quyết định thắng lợi trong cạnh tranh. - Truyền tin và xúc tiến: tuỳ theo mục tiêu kế hoạch tiêu thụ sản phẩm khác nhau mà các doanh nghiệp có chi phí này cao hay thấp. Khi xem xét tỷ lệ marketing so với tổng doanh thu ta thấy, chỉ tiêu này cao mà doanh nghiệp vẫn duy trì và mở rộng được thị phần so với mục tiêu đề ra thì có nghĩa là việc đầu tư cho khâu marketing là hiệu quả. Còn nếu thay vì quảng cáo rầm rộ, doanh nghiệp có thể đầu tư chiều sâu để tăng lợi ích lâu dài như đầu tư cho chi phí nghiên cứu và phát triển. - Năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D): Bao gồm cân nhắc về các thành tựu đổi mới để triển khai các sản phẩm mới, nghiên cứu và triển khai được tổ chức ra sao (theo định hướng thị trường hay theo công nghệ), R & D hữu hiệu cho phép có được sức mạnh trong đổi mới công nghệ, có ưu thế trong giới thiệu sản phẩm mới thành công, cải tiến cập nhật liên tục sản phẩm [11]. Lợi thế về chi phí: tạo ra sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh, các nhân tố sản xuất như đất đai, vốn và lao động thường được xem như là nguồn lực để tạo lợi thế cạnh tranh. - Lợi thế về sự khác biệt: Dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị sử dụng cho người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm, lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận mức giá thậm chí cao hơn đối thủ [13]. - Mức độ đổi mới của doanh nghiệp: Là việc hoàn chỉnh và triển khai một sáng chế kỹ thuật hay sản phẩm sử dụng được. Đổi mới là một công cụ quan trọng để cải thiện kết quả sản xuất kinh doanh [27]. Đổi mới là tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu đổi mới thành công, doanh nghiệp sẽ tạo ra những điểm độc đáo mà các đối thủ khác không có. Chính tính độc đáo đó tạo sự nổi trội cho sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp từ đó nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp. - Văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp: Là hệ thống niềm tin, giá trị và chuẩn mực giải quyết vấn đề được xây dựng trong quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp, và được thể hiện trong các hình thái vật chất và hành vi của các thành viên. Văn hoỏ doanh nghiệp cú vị trớ và vai trũ rất quan trọng trong sự phỏt triển và nâng cao hiệu quả hoạt động toàn diện của mỗi doanh nghiệp [4]. 2.1.5 Các công cụ sử dụng cạnh tranh 2.1.5.1 Công cụ cạnh tranh là chiến lược sản phẩm Chiến lược sản phẩm có vai trò cực kỳ quan trọng, trong nền kinh tế thị trường mọi doanh nghiệp đều xác định phương hướng sản xuất kinh doanh trên cơ sở: “kết hợp chuyên môn hoá với đa dạng hoá sản xuất và kinh doanh tổng hợp”. Chuyên môn hoá thông qua chiến lược chi phối bằng chi phí, chiến lược khác biệt hoá nhằm tạo và cung cấp loại sản phẩm hàng hoá độc đáo cho thị trường, chiến lược liên kết sản phẩm, chiến lược sản phẩm kết hợp [23]. Chiến lược sản phẩm là vũ khí sắc bén nhất trong cạnh tranh trên thị trường đồng thời là phương pháp có hiệu quả tạo ra nhu cầu mới, để nghiên cứu thực hiện chiến lược sản phẩm một cách tốt nhất, sản phẩm có vị trí trên thị trường cần quan tâm đến từng yếu tố nhỏ cấu thành nên sản phẩm: - Nhãn hiệu cho sản phẩm: đó là tên, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu tượng, hình vẽ sự phối hợp của chúng có công dụng để xác nhận hàng hoá hay dịch vụ và phân biệt chúng với các đối thủ cạnh tranh. - Bao bì hàng hoá: Nhiều nhà hoạt động thị trường gọi bao bì là biến thứ năm của makertting bổ sung cho sản phẩm, giá cả, phân phối và khuyến mại nhưng phần lớn những người bán vẫn xem bao bì là một trong những yếu tố của chính dịch vụ đối với khách hàng, chủng loại hàng hoá, thiết kế sản phẩm mới. Thời gian gần đây bao bì đã biến thành một trong những công cụ đắc lực trong cạnh tranh. Bao bì được thiết kế tốt có thể trở thành một tiện nghi thêm đối với người tiêu dùng, còn đối với người sản xuất nó là phương tiện kích thích tiêu thụ hàng hoá thêm [24]. - Thiết kế sản phẩm mới: do những thay đổi nhanh chóng về thị hiếu, công nghệ và tình hình cạnh tranh, công ty không chỉ dựa vào những sản phẩm có sẵn ngày hôm nay. Người tiêu dùng muốn chờ đợi những sản phẩm mới và hoàn hảo. Các đối thủ cạnh tranh cũng lỗ lực tối đa để cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm mới đó. Vì thế mỗi doanh nghiệp đều phải có chương trình thiết kế sản phẩm mới phù hợp của mình. 2.1.5.2 Công cụ cạnh tranh chủ yếu a) Chất lượng Không một ai đi mua sản phẩm mà lại không có lợi ích gì, hay nói cách khác không thoả mãn một nhu cầu nào. Do vậy doanh nghiệp cần quan tâm đến công dụng, lợi ích của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong điều kiện nhất định về kinh tế, kỹ thuật, chất lượng là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện ở nhiều mặt khác nhau, có tính chất lý hoá, với mỗi loại sản phẩm khác nhau thì chỉ tiêu chất lượng là khác nhau, tuy nhiên vấn đề chính là chất lượng sản phẩm cùng loại với các doanh nghiệp khác phải luôn giữ vững và nâng cao hơn. Nếu hai hàng hoá có công dụng như nhau, giá cả bằng nhau, người tiêu dùng sẵn sàng mua hàng hoá nào có chất lượng cao hơn, do đó, chất lượng hàng hoá là công cụ, là vũ khí tấn công đầu tiên đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tăng khả năng cạnh tranh, thể hiện trên nhiều giác độ: - Nếu chất lượng sản phẩm tăng lên sẽ thu hút được khách hàng, tăng khối lượng hàng hoá bán ra, tăng uy tín của sản phẩm, mở rộng được thị trờng. - Nâng cao chất lượng sản phẩm có nghĩa là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh [22]. b) Giá cả Bên cạnh chất lượng sản phẩm bao giờ cũng là giá bán. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá theo sự thoả thuận giữa người mua và người bán trong quan hệ cung cầu và yếu tố cạnh tranh. Mỗi một doanh nghiệp có thể sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau, giá cả của chúng cũng khác nhau, mỗi mức giá đưa ra phải căn cứ vào tình hình cung cầu trên thị trường, mức giá qui định của Nhà nước. Giá cả có ảnh hưởng đến khối lượng sản phẩm bán ra, sự đánh giá của khách hàng về chất lượng sản phẩm, về vị trí của doanh nghiệp, nó quyết định đến việc mua sản phẩm hàng hoá của khách hàng và là phương thức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường [21]. Hai hàng hoá có cùng chất công dụng, chất lượng như nhau, người tiêu dùng sẽ mua hàng hoá nào có giá thấp hơn. Với mức sống còn thấp người tiêu dùng thông thường tìm mua hàng hoá có giá rẻ, phù hợp với khả năng thanh toán của họ. Trong nhiều trường hợp để cạnh tranh về giá, một số doanh nghiệp đã sử dụng biện pháp dùng nhiều để thắng, tức là chấp nhận bán giá thấp nhưng dùng số lượng nhiều để thu lại [21]. Giá cả bao giờ cũng là một trong những yếu tố cơ bản quyết định việc lựa chọn của người mua, giá cả được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua chính sách định giá bán mà doanh nghiệp áp dụng với thị trường. c) áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại Sức cạnh tranh của doanh nghiệp tăng lên khi giá cả hàng hoá cá biệt của họ thấp hơn giá cả trung bình trên thị trường, nhưng đó mới chỉ là một mặt của vấn đề, mặt khác còn phải đảm bảo lợi nhuận của doanh nghiệp khi chấp nhận hạ giá. Điều đó thúc đẩy doanh nghiệp phải tập trung các nguồn lực để tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hàng hoá… để giành ưu thế trong cạnh tranh. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến công cụ lao động, hợp lý hoá sản xuất, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, quản lý hiện đại vào trong sản xuất kinh doanh [21]. d) Phương thức phục vụ và thanh toán Đây là phương tiện khá quan trọng của cạnh tranh, đặc biệt trong điều kiện doanh nghiệp chưa tạo được sự độc đáo của sản phẩm, trong điều kiện giá cả và chất lượng ngang ngửa trong cạnh tranh, ai nắm được vũ khí này sẽ thắng trong cạnh tranh, bởi vì công cụ này sẽ tạo sự tiện lợi cho khách hàng. Phương thức phục vụ và thanh toán được thể hiện ở 3 giai đoạn của quá trình bán hàng: trước khi bán hàng, trong quá trình bá._.ại Số điểm quan trọng 1. C.sách hỗ trợ của Nhà nước phát triển C.N 0.08 4 0.32 3 0.24 3 0.24 2. Thuận lợi trong Q.h hợp tác với nước ngoài 0.10 3 0.30 2 0.20 4 0.40 3. Giá cả các N.L bổ xung phục vụ ngành 0.08 2 0.16 3 0.24 3 0.24 4. Giá sản phẩm đầu ra của ngành hàng 0.12 3 0.36 3 0.36 3 0.36 5. Chưa chủ động được nguồn nguyên liệu 0.08 2 0.16 3 0.24 3 0.24 6. Đối thủ có sản phẩm chất lượng cao 0.08 2 0.16 3 0.24 3 0.24 7. Sản phẩm vi phạm cha được xử lý triệt để 0.06 1 0.06 1 0.06 1 0.06 8. Xu hướng tiêu dùng sản phẩm hàng H H 0.09 3 0.27 1 0.09 3 0.27 9. Dịch bệnh và rủi ro trong chăn nuôi 0.09 2 0.18 3 0.27 4 0.36 10. Thị phần KV N.An, Q..Nhơn, Đ. Tháp nhỏ 0.12 3 0.36 4 0.48 3 0.36 11. Qui định về VSMT, AT.TP và S.p Chất lợng 0.10 4 0.40 4 0.40 3 0.30 Tổng cộng 1.00 2.73 2.82 3.07 Nguồn: Đánh giá của các chuyên gia - Các yếu tố được sử dụng đưa vào ma trận là các yếu tố quan trọng nhất quyết định tới sự thành công của công ty. - Mức độ quan trọng được xác định từ 0,0 (không quan trọng) tới 1 rất quan trọng) cho mỗi yếu tố, tổng số các mức độ quan trọng này phải bằng 1. - Các mức phân loại cho thấy mức độ phản ứng của doanh nghiệp với mỗi yếu tố. + Mức phân loại là (4) cho thấy có sự phản ứng tốt. + Là (3) cho thấy phản ứng trên trung bình. + Là (2) trung bình. + Là (1) ít phản ứng * Số điểm quan trọng = mức độ quan trọng nhân với số phân loại. + Mức trung bình của số điểm quan trọng là 2,5. + Mức tốt là 4 và mức 1 là yếu. Như vậy, thị phần khu vực Nhà máy Nghệ An, Qui Nhơn, Đồng Tháp còn nhỏ, Giá sản phẩm đầu ra của ngành hàng ( Như giá lợn, giá gà, vịt, giá trứng...) và thuận lợi trong quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngài là ba yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự thành công của công ty (với mức độ quan trọng là 0,20 và 0,11). Trong thời gian tới công ty cần tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, chủ động tiêu thụ các sản phẩm của người dân, để có thể cạnh tranh được với các công ty khác. Thị phần khu vực phía Nhà máy Nghệ An, Qui Nhơn, Đồng Tháp còn nhỏ (với mức độ quan trọng là 0,2) và sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp ( tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi ) sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp tục khai thác, mở rộng thị trường. Với xu hướng tiêu dùng sản phẩm H.H (mức phân loại là 1 và mức độ quan trọng là 0,09) sẽ làm giảm lượng cầu về tiêu thụ hàng đậm đặc trong thời gian tới, đòi hỏi công ty cần phải nghiên cứu đổi mới và đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Với xu hướng xiết chặt các qui đinh trong sản xuất, an toàn thực phẩm và sản phẩm chất lượng (mức độ quan trọng là 0,10) tạo điều kiện cho công ty tăng các sản phẩm mũi nhọn có chất lượng. Chưa tự chủ được nguồn nguyên vật liệu, đây là tình trạng chung của các doanh nghiệp sản xuất TACN ( mức độ quan trọng là 0,09 ), giá các loại nguyên liệu bổ xung (mức độ quan trọng là 0,09) và giá sản phẩm đầu ra của ngành hàng (mức độ quan trọng là 0,11) cũng là ba yếu tố gây khó khăn đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cuối cùng, tổng số điểm là 2,82 cho thấy công ty mới trên mức trung bình trong việc nỗ lực nhằm tận dụng các cơ hội và giảm thiểu các mối đe doạ từ bên ngoài. - Các yếu tố được sử dụng đưa vào ma trận là các yếu tố quan trọng nhất quyết định tới sự thành công của công ty. - Mức độ quan trọng được xác định từ 0,0 (không quan trọng) tới 1 rất quan trọng) cho mỗi yếu tố, tổng số các mức độ quan trọng này phải bằng 1. - Các mức phân loại cho thấy yếu tố có điểm yếu quan trọng nhất là (1), ít quan trọng (2), là điểm mạnh (3), rất mạnh (4). Số điểm quan trọng = mức độ quan trọng nhân với số phân loại + Mức trung bình của số điểm quan trọng là 2,5. + Mức tốt là 4 và mức 1 là yếu. Như vậy yếu tố “Giá thành sản phẩm thấp” và “Các sản phẩm mũi nhon chủ đạo ” " Sự trung thành của các đại lý" là ba điểm mạnh nhất đối với công ty. Đó là những lợi thế mà công ty có được so với các đối thủ cạnh tranh. “Chưa đa dạng hoá sản phẩm” là điểm yếu của công ty so với các đối thủ cạnh. Đây là nguyên nhân chính trong việc giảm lợi thế cạnh tranh của công ty. Trong thời gian tới công ty cần có chiến lược đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng. “Đội ngũ nhân viên lành nghệ nhiều kinh nghiệm” và " Dây truyền sản xuất đồng bộ" là điểm yếu của công ty trong việc phát triển và đưa ra những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu thị trường. Tổng số điểm quan trọng được so sánh với 2,5 để biết được khái quát hoàn cảnh nội bộ của công ty (mạnh, yếu) như thế nào so với mức trung bình của ngành. Bảng Mar trận các yếu tố bên ngoài ( EFE ) Các yếu tố môi trường chủ yếu Mức độ quan trọng Công ty Dabaco Công ty VIC Công ty Cargill Phân loại Số điểm quan trọng Phân loại Số điểm quan trọng Phân loại Số điểm quan trọng 1. C.sách hỗ trợ của Nhà nước phát triển C.N 0.08 4 0.32 3 0.24 3 0.24 2. Thuận lợi trong Q.h hợp tác với nước ngoài 0.10 3 0.30 2 0.20 4 0.40 3. Giá cả các N.L bổ xung phục vụ ngành 0.08 2 0.16 3 0.24 3 0.24 4. Giá sản phẩm đầu ra của ngành hàng 0.12 3 0.36 3 0.36 3 0.36 5. Chưa chủ động được nguồn nguyên liệu 0.08 2 0.16 3 0.24 3 0.24 6. Đối thủ có sản phẩm chất lượng cao 0.08 2 0.16 3 0.24 3 0.24 7. Sản phẩm vi phạm cha được xử lý triệt để 0.06 1 0.06 1 0.06 1 0.06 8. Xu hướng tiêu dùng sản phẩm hàng H H 0.09 3 0.27 1 0.09 3 0.27 9. Dịch bệnh và rủi ro trong chăn nuôi 0.09 2 0.18 3 0.27 4 0.36 10. Thị phần KV N.An, Q..Nhơn, Đ. Tháp nhỏ 0.12 3 0.36 4 0.48 3 0.36 11. Qui định về VSMT, AT.TP và S.p Chất lợng 0.10 4 0.40 4 0.40 3 0.30 Tổng cộng 1.00 2.73 2.82 3.07 Nguồn: Đánh giá của các chuyên gia Tổng số điểm quan trọng của Công ty VIC là 2,79 cho thấy công ty chỉ ở trên mức trung bình một chút, còn nhiều điểm yếu mà công ty chưa giải quyết được trong khi lại chưa có tác động mạnh vào điểm mạnh để tăng cường khả năng cạnh tranh so với các đối thủ và tận dụng tối đa các cơ hội trên thị trường. Công ty VIC là một trong ít các doanh nghiệp với 100% vốn nội địa có được chiến lược phát triển lâu dài. Bên cạnh nội lực mạnh và các cơ hội ngoại lực, công ty còn phải đối mặt với nhiều nhiều hạn chế và thách thức từ bên ngoài Bảng Mar trận SWOT của công ty VIC Doanh nghiệp Điểm mạnh - S Điểm yếu - W Môi trường kinh doanh Ma trận SWOT - Chất lượng sản phẩm tốt. - Giá bán cạnh tranh hợp lý với nhu cầu thị trường. - Mạng lưới tiêu thụ rộng và sâu, đại lý trung thành. - Hoạt động hỗ trợ bán hàng được chú trọng. - Có uy tín thương hiệu. - Có sản phẩm chủ đạo. - Có mối quan hệ tốt với tổ chức hội. - Mới chỉ tập trung vào sản phẩm chủ đạo. - Chưa đa dạng sản phẩm. - Hệ thống dây truyền sản xuất chưa đồng bộ. - Tiềm lực kinh tế của đại lý chưa thực mạnh. - Thiếu đội ngũ nhân viên lành nghề, kinh nghiệm. Cơ hội - O - Chính sách nhà nước thuận lợi cho chăn nuôi phát triển. - Thị trường rộng, nhiều công ty thu hẹp thị trường để trách thua lỗ nên tạo ra lỗ hổng thị trường. - Vấn đề an toàn thực phẩm ngày càng được chú ý. Kết hợp S - O - Đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng có chất lượng cao. - Nghiên cứu các biện pháp hạ giá thành để tạo sự cạnh tranh về giá. - Đẩy mạnh dịch vụ sau bán hàng, chăm sóc khách hàng. - Phát triển kênh phân phối theo chiều sâu. - Tranh thủ sự ủng hộ của các đối tác là chính quyền cơ sở. Kết hợp W - O - Mở rộng cơ cấu đa dạng hoá sản phẩm. - Chú trọng đổi mới công nghệ, dây truyền sản xuất. - Xây dựng phát triển đội ngũ chuyên gia NC.TT. - Thách thức - T - Giá nguyên liệu tăng cao và có nhiều biến động. - Đầu ra người nông dân bếch bênh không ổn định. - Dịch bệnh nhiều. - Cạnh tranh gay gắt từ nhiều hãng. - Chưa chủ động được nguồn nguyên liệu. - Hàng nhái, giả còn nhiều Kết hợp S - T - Tạo ra nơi tiêu thụ ổn định về đầu ra cho người nông dân. - Tăng cường hỗ trợ nông dân để đầu tư lại sau dịch. - Xây dựng qui hoạch vùng nguyên liệu. - Tuyên truyền và phối hợp để giải quyết hàng nhái, hàng giả. Kết hợp T - W - Đa dạng hoá sản phẩm để nâng sức cạnh tranh. - Có chiến lược đào tạo để chuyển hoá và nâng cao trình độ cho nhân viên. - Chú trọng nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm mới. 4.7 Giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty VIC 4.7.1 Những căn cứ để đề xuất giải pháp 1. Chiến lược kinh doanh Qua tìm hiểu, phân tích thực trạng của công ty cho thấy: công ty chưa xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn mà chỉ xây dựng dựa trên kinh nghiệm là chính, mục tiêu kế hoạch đặt ra phụ thuộc nhiều vào sự biến động của thị trường. Do vậy, công ty cần thiết phải có một quy trình xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý cho mình.Việc đổi mới quy trình hoạch định chiến lược kinh doanh của công ty cần thực hiện qua các bước sau Bước 1: Xác định mục tiêu phát triển dài hạn cho công ty. Mục tiêu dài hạn sẽ định hướng giúp cho công ty kích thích các nỗ lực, hỗ trợ việc phân bổ nguồn lực và thiết kế công việc. Bước 2: Phân tích tình hình nội bộ công ty. Điều này cho phép đánh giá khả năng của doanh ghiệp có thể nắm bắt và thống trị được các cơ hội kinh doanh sắp tới hay không. Công ty phải đánh giá đúng điểm mạnh, điểm yếu của mình trên cơ sở phân tích kỹ càng những lợi thế cũng như những hạn chế so với các đối thủ cạnh tranh khác. Trong chiến lược kinh doanh phải đặc biệt quan tâm đến việc khai thác thế mạnh, mọi nguồn lực phải tập trung nhằm tận dụng khai thác những ưu thế của công ty (bao hàm toàn bộ những khả năng về tài sản có sẵn hay tiềm năng của công ty, chủ yếu thuộc về vật lực, nhân lực và các lợi thế khác: uy tín, danh tiếng, vị trí địa lý, điều kiện về thông tin…), tức là có thể đánh giá không chỉ những lợi thế chuyền thống, hữu hình, mà cả những lợi thế vô hình. Cần phân biệt nội lực để hoạch định chiến lược với phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Kết quả kinh doanh chỉ cho thấy thực trạng kinh doanh của công ty tại một thời điểm nhất định, chứ chưa cho thấy sức mạnh tiềm ẩn trong tương lai. Vì vây, để hoạch định chiến lược được chính xác cần thay đổi cách phân tích chuyền thống bằng cách phân tích chiến lược. Mỗi công ty phải tìm thấy điểm mạnh của mình, điểm mạnh mà đối thủ không có hoặc yếu hơn để từ đó đa ra các giải pháp chiến lược trong kinh doanh. Bước 3: Phân tích môi trường kinh doanh bên ngoài. Trong bước này cần lượng trước được các thách thức, các tình huống nguy hiểm đối với công ty cũng như các cơ hội mà doanh nghiệp có thể tận dụng. Việc dự báo này chính xác bao nhiêu thì chiến lược kinh doanh càng chắc chắn bấy nhiêu và trong phân tích phải thấy cơ hội và nguy cơ có mối quan hệ biện chứng với nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Nếu công ty không nắm được cơ hội thì bản thân đấy cũng là một nguy cơ, ngược lại nếu khắc phục được nguy cơ thì sẽ có động lực to lớn để vợt lên làm xuất hiện cơ hội mới. Phân tích môi trường kinh doanh bên ngoài phải xác định được các nhân tố kinh tế, công nghệ, xã hội, chính trị có ảnh hởng trực tiếp tới phân đoạn thị trường của công ty. Đặc biệt kết quả phân tích nhu cầu sẽ là những gợi ý quan trọng trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh của công ty, cho phép xác định và lựa chọn các chiến lược như chiến lược sản phẩm, chiến lược phân phối, chiến lược xúc tiến tiêu thụ, cung ứng hàng cũng là yếu tố cần phân tích kỹ lưỡng, nhất là những thông tin liên quan đến đối thủ cạnh tranh. Trong phân tích, dự báo, công ty phải phân tích năng lực các đối thủ cạnh tranh và phương thức hoạt động của họ để chủ động lựa chọn cách ứng xử phù hợp nhất trong điều kiện cạnh tranh. Trong phân tích môi trường kinh doanh bên ngoài, công ty cần thay đổi cả phương pháp lẫn đối tượng phân tích theo hướng sử dụng các phương pháp hiện đại, kết hợp phân tích từ xa đến gần mới có thể đưa ra được các kết quả chính xác. Bớc 4: Xác định quan điểm, mục tiêu chiến lược. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong hoạch định chiến lược kinh doanh. Công ty phải xác định được hướng đi của mình và cụ thể hóa thông qua các quan điểm và mục tiêu chiến lược. Công ty cần xác định rõ quan điểm phát triển của mình theo hướng thị trờng, trong đó xác định rõ khách hàng của công ty. Bớc 5: Dự tính các khả năng và giải pháp chiến lược. Trên cơ sở những kết quả phân tích môi trường kinh doanh bên ngoài kết hợp với đánh giá nội lực công ty phải dự tính được khả năng phát triển và giải pháp chiến lược để thực hiện được mục tiêu, định hướng đã xác định. Bước 6: Lựa chọn chiến lược. Dựa trên sự so sánh các giải pháp chiến lược, công ty sẽ tiến hành lựa chọn chiến lược tối ưu nhất cho mình. Chiến lược kinh doanh là sản phẩm của sáng tạo, của khoa học quản lý, nó quyết định sự thắng lợi hay thất bại của công ty trong quá trình cạnh tranh. 2. Kế hoạch kinh doanh Trong thời gian qua công tác xây dựng kế hoạch kinh doanh của công ty đã được cải thiện. Công ty chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình trên cơ sở tự đánh giá khả năng về vốn, nguồn hàng và nhu cầu khách hàng. Các chỉ tiêu kế hoạch đã đảm bảo có lãi. Tuy nhiên, công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty cần chú ý: - Hoạt động kinh doanh chịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố khách quan bên ngoài như: điều kiện khí hậu thời tiết, sự biến động của giá cả đầu ra, giá nhuyên liệu đầu vào, dịh bệnh những thay đổi bất ngờ của nhu cầu khách hàng..., điều này đòi hỏi việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch kinh doanh phải năng động. Để ra quyết định và có biện pháp xử lý kịp thời người lãnh đạo cần nắm được những thông tin liên quan tới hoạt động kinh doanh của công ty và phản ứng của khách hàng một cách thường xuyên liên tục chứ không phải làm theo một định kỳ nào đó. - Sự chậm trễ của thông tin sẽ dẫn đến việc ra quyết định hoặc là không đúng đắn, hoặc quá muộn, gây nên những thiệt hại lớn cho công ty. Vì vậy, công ty cần xây dựng cho mình một cơ sở dữ liệu thông tin. Cơ sở dữ liệu thông tin bao gồm tất cả thông tin trong hiện tại và trong quá khứ, về các đối thủ cạnh tranh, về khách hàng,… - Kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty hầu như chỉ là kế hoạch tác nghiệp mang tính chiến thuật. Các kế hoạch kinh doanh của công ty chỉ quan tâm tới mục tiêu doanh số và sản lượng và các biện pháp để tăng thị phần trước mắt, chứ chưa quan tâm nhiều đến việc làm thế nào để củng cố vị thế của công ty trên thị trường, tạo hình ảnh vững chắc của công ty trong nhận thức của khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh. - Để kế hoạch kinh doanh của công ty đạt được mục tiêu, công ty cần hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường, cần có sự phân tích, đánh giá từ tổng quát đến chi tiết phù hợp với công ty. Nghiên cứu thị trường là nghiên cứu về quy mô, cơ cấu và sự vận động của thị trường, phân tích các nhân tố của môi trường (môi trường kinh tế, văn hóa xã hội, công nghệ, các đối thủ cạnh tranh…) cung cầu về loại hàng hóa của công ty mình. * Mục tiêu của công ty trong thời gian tới - Mục tiêu tăng trưởng: - Mục tiêu phát triển thị trường và sản phẩm: sản xuất kinh doanh và lợi nhuận là 2 khái niệm không thể tách rời nhau trong cơ chế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng muốn hoạt động sản xuất kinh doanh của mình có lợi nhuận và càng tạo ra nhiều lợi nhuận càng tốt. Chính vì thế doanh nghiệp không được phép bỏ qua bất cứ cơ hội thị trường nào, nhất là những thị trường tiềm năng, cũng như không được phép bỏ qua bất cứ cơ hội sản phẩm nào có khả năng đem lại lợi nhuận cho công ty. Để đạt được những mục tiêu trên và làm bàn đạp cho sự phát triển của những năm tiếp theo cần xây dựng được hệ thống thị trường vững mạnh. + Phát triển thị trường: - Củng cố và thâm canh thị trường truyền thống, mở rộng khai thác theo chiều sâu và rộng với thị trường mới và thị trường một số nước lân cận như Lào và Camphuchia. Thị trường bảo đảm lưu thông hàng hoá thông suốt, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng. Hiện tại, thị phần của công ty chiếm khoảng 14% tổng thị trường TACN cả nước, mục tiêu trong thời gian tới, phấn đấu tăng thị phần bình quân 3 - 5%/năm. Mở rộng mạng lưới đại lý trên tất cả các địa bàn đặc biệt là địa bàn nông thôn và các vùng trọng điểm chăn nuôi, thu hút sự tham gia mạng lưới của nhiều thành phần kinh tế với nhiều quy mô, hình thức, tổ chức bằng các chính sách hỗ trợ đầu tư, chính sách bán hàng. + Phát triển sản phẩm: đặt khách hàng là trọng tâm để ngày càng hoàn thiện công ty, thường xuyên cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của ngời tiêu dùng. - Mục tiêu luôn luôn đổi mới công nghệ để đáp ứng nhu cầu ngày một cao của khách hàng. Thờng xuyên nghiên cứu và cải tiến công nghệ, đầu tư dây chuyền công nghệ mới, hiện đại để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tốt; sản phẩm cao cấp, chất lượng cao. Mục tiêu giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm: Tiết kiệm tối đa các chi phí quản lý hành chính, chi phí dự trữ, chi phí sản xuất; Tăng cường đầu tư các thiết bị tự động ở những khâu sản xuất còn nặng tính thủ công để tăng năng lực sản xuất, quản lý chặt chẽ quá trình sản xuất, giảm tiêu hao nguyên vật liệu, mạnh dạn tinh giảm lao động dư thừa, lao động không có hiệu quả, ... nhằm mục đích giảm giá thành sản phẩm từ 3 -5%, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. 4.7.2 Giải pháp nâng cao năng lực cạnh trạnh của công ty và năng lực cạnh tranh về sản phẩm của công ty Qua phân tích thực trạng cạnh tranh của công ty VIC chúng tôi thấy nguy cơ tụt hậu vẫn có thể xảy ra nếu công ty không tìm hướng đi thích hợp. Để công ty không ngừng cải thiện vị trí và nâng cao năng lực lực cạnh tranh trên thị trường và phát triển bền vững chúng tôi đưa ra một số giải pháp để tăng cường khả năng cạnh tranh của công ty VIC trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh cụ thể như sau 4.7.2.1 Giải pháp về mặt thị trường 1. Tăng cường mở rộng và hoàn thiện hệ thống kênh phân phối: Như chúng ta đã biết sản phẩm TACN có tới tận nơi người chăn nuôi hay không là phụ thuộc vào hệ thống phân phối và công ty nào có được hệ thống phân phối mà tiếp cận được càng gần người chăn nuôi và càng thuận lợi cho người chăn nuôi mua thì càng dễ tiêu thụ được nhiều sản phẩm. - Tăng cường khai thác phát triển thị trường theo chiều sâu. Chú trọng thâm canh những thị trường trọng tâm của vùng chăn nuôi và khai thác những thị trường mới. - Củng cố phát triển, mở rộng hệ thống mạng lưới bán lẻ rộng khắp. - Tạo ra kênh phân phối mới phát triển song song với hệ thống phân phối hiện tại như: Xây dựng các tổ hợp chăn nuôi, câu lạc bộ chăn nuôi để cung cấp hàng trực tiếp từ nhà máy xuống tổ hợp, câu lạc bộ và các trang trại chăn nuôi qui mô lớn. Theo chúng tôi nếu thực hiện tốt gải pháp này thì sản phẩm của công ty sẽ có mặt ở tất cả các thị trường và tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho người chăn nuôi lựa chọn, có nhiều cơ hội giảm giá thành sản phẩm do giảm bớt khâu trung gian và đáp ứng một cách thoả đáng nhu cầu lựa chọn sản phẩm của khách hàng. 2. Phân tích khả năng nhu cầu của thị trường. Tìm cách phát hiện những khả năng mới mở của thị trường và thị trường mới. Không một công ty nào có thể chỉ phát triển và mãi trông cậy vào các sản phẩm và thị trường truyền thống, thị trường ngày hôm nay của mình. Vì thế cần, phát triển và tìm kiếm thị trường mới, tạo ra sản phẩm mũi nhọn có sức cạnh tranh, có thương hiệu để kkhẳng định vị thế trên thị trường. 3. Tăng thị phần trong tổng thị trường khu vực. trong phân tích thị phần sản phẩm của công ty VIC ta thấy tại thị trường khu vực nghiên cứu năm 2007 sản lượng bán hàng của công ty đạt 6.210 tấn, chiếm 23,9% thị phần, tuy hiện tại thị phần của công ty đang đứng đầu và ở vị trị cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh nhưng với thị phần như vậy chưa có gì để khẳng định công ty có vị trí vững chắc và phát triển lâu dài được mà cần thiết phải tiếp tục nâng sản lượng để thị phần của công ty chiếm khoảng 40 - 45% thị phần. Theo các chuyên gia nghiên cứu thị trường và kinh nghiệm của các công ty lớn thì khi nào thị phần của công ty chiếm trên 40% thị phần khu vực thì lúc đó công ty mới có thể làm chủ được thị trường. 4.7.2.2 Tăng cường tiềm lực nội bộ của công ty * Phát huy nhân tố con người, nâng cao trình độ nghiệp vụ và phát triển đội ngũ nhân viên có trình độ cao. Con người là là trung tâm của mọi hoạt động, quyết định và ảnh hưởng lớn đến sự thành bại của công ty vì vậy công ty cần phải chú trọng nhiều hơn đến khâu tổ chức đào tạo, nâng cao nghiệp vụ trình độ nhân viên, đồng thời sắp xếp lao động hợp lý để phát huy tính sáng tạo và sự nhiệt tình khi làm việc. Công ty cần phát huy và xây dựng tốt hơn môi trường làm việc và nền văn hoá của công ty để tăng thêm tinh thần đoàn kết, hợp tác giữa các bộ phận. Tăng cường công tác thi đua khen thưởng và khuyến khích kịp thời đối với nhân viên nhằm thúc đẩy hiệu quả làm việc của nhân viên và sự thi đua giữa các bộ phận các cá nhân với nhau. Thị trường thì luôn luôn biến động và nhu cầu luôn thy đổi do vậy người bán hàng, tiếp thị cần phải nắm bắt được nhanh chóng sự thay đổi này để điều chỉnh chính sách và đáp ứng kịp thời các yêu cầu của thị trường. Ngoài ra do đặc thù của thị trường TACN đòi hỏi người bán hàng tiếp thị phải hiểu về kỹ thuật chăn nuôi, chuyên môn thú y. Hiện nay khâu xử lý theo dõi phản hồi ở Nghệ An và Hà Tĩnh còn mỏng nên vì vậy công ty cần có giải pháp khắc phục để đảm bảo số lượng và chất lượng nhân sự phục vụ thị trường. Tuy nhiên do sự đa dạng và chiến lược thu hút sử dụng con người của các công ty là khác nhau nên Công ty VIC cần chú ý vần đề sử dụng nhân sự sau đào tạo tránh tình trạng chảy máu nguồn nhân sự. * Nâng cấp hệ thống máy móc dây truyền sản xuất. Trong lĩnh vực sản xuất TACN, quá trình sản xuất ra sản phẩm cho thấy; chất lượng sản phẩm, mẫu mã, kích cỡ, màu sắc sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào dây truyền, công nghệ sản xuất, ngoài ra với hệ thống máy móc dây truyền hiện đại sẽ tạo ra năng suất cao và tiết kiệm nhiều chi phí. Công ty VIC là một doanh nghiệp mới chỉ tập trung đầu tư sản xuất các sản phẩm chủ đạo là hàng đậm đặc nên hệ thống máy móc cũng mới dừng lại ở việc phù hợp với xu hướng sản xuất hiện tại của công ty. Chính vì vậy Công ty VIC cần đầu tư, đổi mới, nâng cấp công nghệ và thay thế một số hệ thống dây truyền sản xuất cũ, áp dụng các giải pháp kỹ thuật công nghệ tiến bộ để có thể tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm và tăng năng suất lao động từ đó giảm giá thành sản xuất. 4.7.1.2.3 Hoạch định chiến lược sản phẩm Nâng cao chất lượng sản phẩm: Duy trì và ổn định và phát triển các sản phẩm mũi nhọn có chất lượng mà đã được thị trường khẳng định. Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, đặc biệt là cần phải chú trọng phát triển đầu tư để đưa ra thị trường các sản phẩm hỗn hợp nhằm đáp ứng nhu cầu thị hiếu hiếu người tiêu dùng giúp công ty tăng sản lượng, doanh số bán và dễ mở rộng thị trường. Trong chiến lược kinh doanh, công ty cần phải tính đến việc phát triển sản phẩm mới, do vậy cần phải nghiên cứu thái độ phản ứng của người tiêu dùng đối với sản phẩm để kịp thời có chiến lược giải pháp cần thiết. Phát triển sản phẩm mới nhằm tăng cường khả năng nắm bắt các cơ hội thị trường mới nhằm giảm bớt rủi ro gắn liền với những thay đổi của nhu cầu và thị trường. 4.7.1.2.4 Tăng cường các biện pháp tiếp thị, quảng cáo bán hàng. - Đẩy mạnh các dịch vụ trước và sau bán hàng: Tăng cường các hoạt động tư vấn, hội thảo, khảo nghiệm, phản hồi .... từ đó giúp người chăn nuôi biết cách chọn giống, thay đổi tập quán và phương thức chăn nuôi truyền thống, áp dụng kỹ thuật chăn nuôi mới nhằm sử dụng hiệu quả thức ăn chăn nuôi, tuyên truyền tư vấn giúp người chăn nuôi phân biệt hàng giả, hàng nhái tránh.... Nếu làm tốt dịch vụ hỗ trợ sau bán hàng và can thiệp hỗ trợ người chăn nuôi kịp thời giúp họ giải quyết các khó khăn vướng mắc và tạo được mối quan hệ gắn bó lâu dài giữa người chăn nuôi và công ty. Dịch vụ đóng vai trò quan trọng, khách hàng sẽ cảm thấy an tâm tin tưởng khi được phục vụ tốt và công ty sẽ đạt được mục tiêu là bán hàng và xây dựng uy tín với khách hàng. - Tăng cường đầu tư chiều sâu các hoạt động quảng cáo: Công ty cần tăng cường các hoạt động quảng cáo hấp dẫn, gây ấn tượng để thu hút khách hàng và kích thích sự chú ý của người mua thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức quảng cáo khác. Quảng cáo và tuyên truyền trong truyền tin phải hướng tới đồng thời ba mục tiêu: Thông tin, tính thuyết phục và gợi nhớ. Các thông điệp đưa ra phải dựa vào đặc tính và nguồn gốc sản phẩm, gây chú ý đến điều gì đó của sản phẩm đối với khách hàng - Cần tăng cường các chương trình khuyến mại để kích thích và tăng thêm sự hấp dẫn về chế độ chính sách đối với các đại lý và người chăn nuôi khi lựa chọn sử dụng sản phẩm. - Chú trọng công tác nghiên cứu thị trường, phân tích đối thủ cạnh tranh một cách rõ ràng có hệ thống bởi vì có nghiên cứu thị trường và đối thủ cạnh tranh mới giúp công ty đưa ra giải pháp thích hợp để gành chiến thắng trong cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. 4.7.1.2.5 Tăng cường mối quan hệ hợp tác với đối tác liên quan * Tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài: Trong lĩnh vực TACN thì nguyên liệu để phục vụ sản xuất của các doanh nghiệp chủ yếu là nhập ngoại vì vậy để có nguồn nguyên liệu kịp thời, chất lượng phục vụ sản xuất cũng như chủ động được nguồn nguyên liệu với giá thành thấp thì công ty cần tăng cường mở rộng mối quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp, tổ chức đối tác nước ngoài nhằm tạo dựng được mối quan hệ chặt chẽ giúp cho công tác thu nua nguyên liệu được thuận lợi dễ dàng. * Tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác với các tổ chức hội đoàn thể trong nước như Hội nông dân, hội phụ nữ, đoàn thanh niên ... để phối kết hợp trong công tác tuyên truyền, quảng bá sản phẩm một cách hiệu quả, tiết kiệm. 4.7.1.2.6 Tăng cường mở rộng các hoạt động kinh doanh khác có liên quan nhằm hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh TACN Để thực hiện chiến lược cạnh tranh lâu dài và đạt mục tiêu thị phần lớn Công ty VIC nên xem xét thêm việc liên kết mở rộng đàu tư sang lĩnh vựac cung cấp con giống và thuốc thú y vì đây là 2 vấn đề liên quan mật thiết đến việc tiêu thụ TACN. Thực tế cho thấy bán được con giống là bán được TACN đi theo nên câng ty cần xem xét đầu tư thêm vào lĩnh vực này. Công ty cần quan tâm và xây dựng kênh thu mua lại sản phẩm của người chăn nuôi để tạo niềm tin cho người chăn nuôi khi quyết định đầu tư thêm vì đây là một vấn đề khó khăn mà chưa có hướng giải quyết. Nếu công ty tổ chức thu mua được sản phẩm cho người chăn nuôi thì sẽ tạo được nhiều hơn niềm tin cho họ và khách hàng sẽ yên tâm và quan tâm dùng nhiều hơn đến sản phẩm của công ty. Giải quyết được đầu ra cho người chăn nuôi sẽ giúp công ty tăng nhiều hơn uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường. 8. Thiết lập hệ thống tiêu thụ sản phẩm và bảo hiểm đàn vật nuôi. 5. Kết luận 5.1. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi rút ra một số kết luận sau. Thứ nhất: Công ty có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc sản xuất TACN vì: Địa điểm xây dựng công ty gần cảng biển, giao thông thuận lợi. Công ty có nhiều cơ sở sản xuất nên công tác phục vụ thị trường nhanh chóng, nguồn nhân lực rồi rào, chi phí nhân công, quản lý thấp. Thứ hai: Công ty VIC đã tạo được chỗ đứng nhất định trên thị trường, sản phẩm của công ty đã tạo được sự tin dùng, ủng hộ của người chăn nuôi , có sản phẩm mũi nhọn vượt trội. Tuy nhiên, cơ cấu sản phẩm của công ty chưa đa dạng và phong phú. Bên cạnh đó thì hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh là 2 tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ nên có nhiều bất lợi về địa hình, điều kiện khí hậu thời tiết khắc nhiệt, tập quán và qui mô chăn nuôi còn hạn chế ... nên khó khăn trong công tác tuyên truyền và cung cấp thông tin kịp thời để kích thích người tiêu dùng làm hạn chế và ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ sản phẩm. Thứ ba: Thị trường TACN trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh rất đa dạng: Đa dạng về chủng loại TACN, đa dạng về các công ty kinh doanh trên địa bàn, đa dạng về hệ thống phân phối, tập quán chăn nuôi và công ty VIC đã có chiến lược cạnh tranh khá phù hợp để áp dụng trên địa bàn, đặc biệt là đã đặt nhà máy sản xuất tại khu vực này và với chỉ hơn 2 năm hoạt động và tham gia vào thị trường kết quả sản lượng đã tăng nên dáng kể và năm 2007 đã vươn nên đứng đầu về sản lượng TACN tại địa bàn. Tuy nhiên với vị trí đó cũng không thể chủ quan được và cần phải có mục tiêu nâng cao thị phần hơn 40 đến 50%. Thứ tư: Cơ chế chính sách của Đảng và chính quyền hai tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tự do hội nhập và tham gia vào kinh doanh trong lĩnh vực TACN. Có nhiều ưu tiên và quyết định hỗ trợ cho ngành chăn nuôi phát triển với mục tiêu tăng nhanh và đẩy mạnh tỷ trọng ngành chăn nuôi thành ngành nghề chính, đây là tiền đề cho quá trình sử dụng TACN. Thứ năm: Qua phân tích thực trạng cạnh tranh trên thị trường TACN tại hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh chúng tôi thấy tiềm năng tiêu thụ TACN càn lớn, Trình độ nhận thức của người kinh doanh và người chăn nuôi ngày càng tốt hơn và có nhiều xu thế chuyển sang tiêu thụ, kinh doanh các mặt hàng sản phẩm có thương hiệu, uy tín và có chất lượng cao, đây là cơ hội nhưng cũng là thách thức cho công ty VIC trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường. Bộ giáo dục và đào tạo Trường đại học Nông nghiệp hà nội ---------------  phạm thành long giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty TNHH Thương mại VIC tại thị trường 2 tỉnh nghệ An - Hà tĩnh luận văn thạc sĩ kinh tế Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 60.31.10 Người hướng dẫn khoa học: ts. trần hữu cường   Hà nội – 2008 Bộ giáo dục và đào tạo Trường đại học Nông nghiệp hà nội ---------------  nguyễn thị thuý vinh nghiên cứu năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản trên địa bàn tỉnh nghệ an tóm tắt luận văn thạc sĩ kinh tế Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 60.31.10 Người hướng dẫn khoa học: ts. trần hữu cường   Hà nội – 2008 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBAO CAO TN CH - LONG 08.doc
Tài liệu liên quan