LỜI MỞ ĐẦU
Sau năm 1986, nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế đó có sự tham gia vào nhiều lĩnh vực kinh doanh của nhiều loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau do vậy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là một tất yếu. Thêm vào đó, với chính sách mở cửa của Đảng Nhà Nước và sự tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới hiện nay của nước ta thì sẽ càng có nhiều
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1546 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng bất động sản Lanmak, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào lĩnh vực kinh doanh trên thị trường Việt Nam và do vậy tình hình cạnh tranh càng trở nên khốc liệt hơn. Vì vậy để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, đó là con đường vững chắc để doanh nghiệp khẳng được vị trí của mình trên thị trường. Hơn bao giờ hết, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh trở thành mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp nước ta hiện nay.
Do vậy chúng ta cần có cái nhìn toàn diện hơn về cạnh tranh, hiểu nó một cách sâu sắc để từ đó tìm ra cho mình hướng đi đúng đắn nhất trên con đường chinh phục thị trường.
Công ty cổ phần đầu tư xây dựng bất động sản Lanmak là một doanh nghiệp mới tham gia vào ngành xây dựng gặp không it khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Sau một thời gian thực tập tại công ty, qua việc tìm hiểu hoạt động sản xuất kinh doanh trong những năm gần đây em đã hiểu phần nào hoạt động của công ty. Là một doanh nghiệp mới được thành lập nên các hoạt động nhằm đẩy mạnh năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần đầu tư xây dựng và bất động sản Lanmak ngày nay vẫn chưa được hoàn thiện và có sức cạnh tranh mạnh. Vì lẽ đó em quyết định chọn đề tài nghiên cứu của mình là: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần đầu tư xây dựng bất động sản Lanmak”.
Nội dung chuyên đề thực tập gồm 3 phần:
Chương I: Cơ sở lí luận về năng lực cạnh tranh
Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần đầu tư xây dựng bất động sản Lanmak
Chương III: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần đầu tư xây dựng bất động sản Lanmak
Mặc dù có nhiều cố gắng song do trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên chuyên đề tốt nghiệp này không tránh khỏi còn những thiếu sót và nhược điểm. Vì vậy em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của cô và các bạn để em có thể hoàn thiện chuyên đề tốt nghiệp hơn.
Em xin bày tỏ lời cám ơn chân thành tới PGS.TS Lê Thị Anh Vân, các cô chú và anh chị trong công ty cổ phần đầu tư xây dựng bất động sản Lanmak đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em trong quá trình làm chuyên đề!
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Cạnh tranh nói chung là sự phấn đấu, vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí hàng đầu trong một lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu quả cao nhất.
Trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều có cạnh tranh. Không có cạnh tranh sẽ không có sinh tồn và phát triển. Đó là quy luật tồn tại của muôn loài. Trong cạnh tranh nảy sinh ra kẻ có khả năng cạnh tranh mạnh, người có khả năng cạnh tranh yếu hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm có khả năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh.
Trong thực tế tồn tại rất nhiều khái niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh được xem xét ở các góc độ khác nhau như năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ nhưng chúng có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Theo quan điểm của hội đồng về sức cạnh tranh của Mỹ thì sức cạnh tranh là năng lực kinh tế về hàng hóa và dịch vụ của một nền sản xuất có thể vượt qua thử thách trên thị trường thế giới trong khi mức sống của dân chúng được nâng cao một cách vững chắc, lâu dài.
Theo từ điển thuật ngữ chính sách thương mại thì năng lực cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp hay một ngành thậm chí một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác hoặc nước khác đánh bại về kinh tế.
Một định nghĩa tương tự trong từ điển thuật ngữ kinh tế học thì năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả kinh doanh giành lại một phần hay toàn bộ thị trường đồng nghiệp.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế(OECD) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp cho cả doanh nghiệp, ngành và quốc gia thì năng lực cạnh tranh là khả năng của doanh nghiệp, ngành, quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.
Như vậy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong điều kiện hiện nay khi mà xu thế nền kinh tế thế giới đang mở cửa hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ, để có thể tồn tại và phát triển doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Một doanh nghiệp muốn có được năng lực canh tranh tốt phải trải qua quá trình xây dựng, phát triển và tạo dựng môi trường bên trong và bên ngoài tốt từ đó tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế xã hội, nó luôn tồn tại và hoạt động trong môi trường kinh tế xã hội. Do đó doanh nghiệp cần nhận thức những yếu tố tác động và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà có các biện pháp hạn chế hoặc loại trừ những ảnh hưởng tiêu cực, phát huy những ảnh hưởng tiêu cực để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể chia làm hai nhóm: những nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.
1.2.1 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
1.2.1.1 Năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp
Năng lực tổ chức, quản lý của doanh nghiệp được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp nếu có tổ chức tốt thì doanh nghiệp đó sẽ có khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Nếu một doanh nghiệp có tất cả các yếu tố khác tốt, nhưng tổ chức, quản lý tồi thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó chắc chăn không đạt hiệu quả. Năng lực trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp được thể hiện trên các mặt:
Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý: được thể hiện ở những kiến thức, kĩ năng cần thiết để quản lý và điều hành thực hiện các công việc đối nội và đối ngoại của doanh nghiệp. Năng lực của đội ngũ này không chỉ là những hiểu biết, kĩ năng về chuyên môn nghiệp vụ một lĩnh vực mà còn có những tư duy sáng tạo, những kiến thức rộng lớn và phức tạp thuộc rất nhiều lĩnh vực liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp như: pháp luật trong nước và quốc tế, thị trường, ngành hàng, tri thức tâm lý xã hội học, có văn hóa, biết sáng tạo và không bao giờ chịu bó tay trước mọi trở ngại…
Năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp: thể hiện ở việc sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận phòng, ban. Sự sắp xếp, bố trí bộ máy tổ chức của doanh nghiệp theo cách tinh giảm gọn nhẹ, linh hoạt, dễ thay đổi khi môi trường kinh doanh thay đổi quyền lực được phân chia để mệnh lệnh truyền đạt được nhanh chóng, góp phần tạo ra năng suất cao… Nhờ sự bố trí, sắp xếp đó mà năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đã ngày càng nâng lên.
Năng lực quản lý doanh nghiệp còn thể hiện trong việc hoạch định chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lập kế hoạch, điều hành tác nghiệp, nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường kinh doanh và phương pháp quản lý tốt… Điều này có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn. Vì vậy có những tác tác động mạnh mẽ tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.1.2 Năng lực máy móc thiết bị công nghệ thi công
Máy móc thiết bị công nghệ là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc xem xét các yếu tố có ảnh hưởng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có liên quan đến yếu tố máy móc, thiết bị, công nghệ người ta thường xem xét quy mô của cơ sở vật chất kĩ thuật, trình độ trang bị máy móc, thiết bị, công nghệ cho quá trình sản xuất; mức độ hiện đại của các thiết bị công nghệ, trình độ cơ khí hóa và tự động hóa. Sử dụng công nghệ hiện đại giúp cho doanh nghiệp tăng năng suất lao động, giảm giá thành, chất lượng sản phẩm tốt, do đó làm cho năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tăng.
1.2.1.3 Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện quy mô vốn, khả năng huy động và khả năng cân đối vốn, năng lực quản lý tài chính… trong doanh nghiệp. Để hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có lượng vốn nhất định bao gồm vốn chủ sở hữu, vốn vay và các loại vốn khác. Đồng thời tiến hành phân phối, quản lý và sử dụng số vốn hiện có một cách hợp lý, có hiệu quả cao nhất trên cơ sở chấp hành các chế độ, chính sách quản lý kinh tế - tài chính và kỷ luật thanh toán của Nhà nước. Vốn vừa một yếu tố sản xuất cơ bản vừa là đầu vào của doanh nghiệp, đồng thời vốn là tiền đề đối với các yếu tố sản xuất khác. Do đó, việc sử dụng vốn có ý nghĩa rất lớn trong việc giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản phẩm. Vốn là nguồn lực doanh nghiệp cần phải có trước tiên vì không có vốn không thể thành lập được doanh nghiệp và không thể tiến hành hoạt động được. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh là doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào, luôn đảm bảo huy động được vốn trong những điều kiện cần thiết, có nguồn vốn huy động hợp lý. Vì vậy doanh nghiệp muốn nâng cao năng lực tài chính của mình thì cần phải không ngừng củng cố và phát triển nguồn vốn bằng nhiều cách thức, tăng vốn tự có, mở rộng quy mô vốn vay dưới nhiều hình thức.
1.2.1.4 Năng lực marketing của doanh nghiệp
Năng lực marketing của doanh nghiệp bao gồm một số yếu tố: khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường, khả năng thực hiện chiến lược 4P (product, price, Place, Promotion) trong hoạt động marketing, trình độ nguồn nhân lực marketing. Năng lực marketing là nhân tố có ý nghĩa quan trọng tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bởi và khả năng marketing tác động trực tiếp tới việc sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, nắm bắt và đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng từ đó góp phần tăng doanh thu, tăng thị phần và nâng cao vị thế của công ty. Do đó để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình doanh nghiệp cần phải nâng cao năng lực marketing của doanh nghiệp.
1.2.1.5 Năng lực lao động của doanh nghiệp
Lao động là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất, có vai trò rất quan trọng trong sản xuất vì nó sáng tạo ra các nguồn khác. Điểm qua các hình thái kinh tế xã hội của loài người ta vẫn thấy vai trò của lao động là quan trọng trong tổng hòa các yếu tố lao động, đất đai, tư bản, kĩ thuật. Năng lực lao động của doanh nghiệp thể hiện về mặt số lượng và chất lượng. Ngày nay với xu hướng nền kinh tế tri thức vai trò của lao động trong doanh nghiệp ngày càng tăng lên, lao động không chỉ là yếu tố đầu vào mà còn là lực lượng trực tiếp sử dụng các phương tiện máy móc, thiết bị cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Không những thế lao động còn tham gia tích cực trong việc áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ mới, có những ý tưởng, sáng chế rút ngắn thời gian lao động, cải tiến kỹ thuật giảm giá chi phí của doanh nghiệp tăng năng suất lao đông… Vì vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình doanh nghiệp cần chú trọng bảo đảm cả chất lượng và số lượng lao động, nâng cao tay nghề của người lao động.
1.2.2 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
1.2.2.1 Nhóm các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
Các nhân tố kinh tế: mỗi doanh nghiệp là một tế bào của xã hội vì vậy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng của những tác động tích cực, cũng như những biến đổi bất thường của nền kinh tế vĩ mô. Để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, doanh nghiệp cần phải thấy rõ tác động của nhân tố kinh tế để có biện pháp điều chỉnh phù hợp. Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gồm có: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát. Thực vậy, tốc độ tăng trưởng khác nhau của nền kinh tế trong giai đoạn thịnh vượng, suy thoái, phục hồi sẽ ảnh hưởng đến mức đầu tư của mỗi doanh nghiệp. Khi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cao và ổn định thì tạo cơ hội đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại khi kinh tế ở tình trạng suy thoái, khủng hoảng làm mức thu nhập của người dân giảm khi đó việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn, cạnh tranh trở nên mãnh liệt hơn. Lãi suất cho vay của ngân hàng ảnh hưởng đến nguồn cung vốn cho các doanh nghiệp. Nếu lãi suất cao làm chi phí cho vốn vay của doanh nghiệp tăng làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính sách tiền tệ và tỉ giá hối đoái cũng ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp khi mà ngày nay nền kinh tế đang mở cửa hội nhập và quốc tế hóa, ảnh hưởng nhất vẫn là các doanh nghiệp có liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hóa nguyên vật liệu từ nước ngoài. Lạm phát ảnh hưởng giá cả, tiền công, các doanh nghiệp giảm nhiệt tình đầu tư vì việc đầu tư trỏ nên mạo hiểm. Như vậy lạm phát cũng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các nhân tố thuộc về pháp luật và chính trị: pháp luật và chính trị là tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống chính sách hoàn thiện có sửa đổi bổ sung phù hợp là cơ sở để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được ổn định và ngược lại. Mức độ ổn định về chính trị luôn là môi trường hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư.
Kết cấu hạ tầng: Kết cấu hạ tầng bao gồm toàn bộ cơ sỏ vật chất, kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Bao gồm hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống thông tin, hệ thống giáo dục đào tạo… Đây là tiền đề quan trọng, tác động mạnh đến hoạt động của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến chất lượng và giá cả sản phẩm. Để đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động bình thường và nâng cao năng lực cạnh tranh cần có hệ thống hạ tầng đa dạng và có chất lượng.
Các nhân tố về khoa học công nghệ: Trong thời đại ngày nay, nắm bắt khoa học công nghệ là một đảm bảo cho thành công. Khoa học công nghệ là yếu tố tạo nên sự khác biệt cho các doanh nghiệp. Khoa học công nghệ cũng tham gia quá trình thu thập, xử lý, truyền đạt thông tin trong nền kinh tế. Thiếu khoa học công nghệ thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ trở nên gặp khó khăn, chậm chạp, khó có thể kiểm soát được.
Các nhân tố về văn hóa, xã hội: Nhân tố về văn hóa, xã hội ở đây là phong tục tập quán, lối sống thị hiếu, thói quen tiêu dùng, tín ngưỡng tôn giáo… Đó là cơ sở hình thành những đặc điểm thị trường mà doanh nghiệp phải thỏa mãn. Do vậy doanh nghiệp cần phải có chính sách hợp lý phù hợp với điều kiện văn hóa của thị trường để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả nhằm tăng năng lực cạnh tranh.
Các nhân tố tự nhiên: Các nhân tố tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên của đất nước, sự ô nhiễm môi trường, khí hậu, thời tiết… các doanh nghiệp quan tâm nhiều hơn đến năng lượng, lãng phí tài nguyên thiên nhiên cùng các nhu cầu ngày càng lớn đối với khiến cho công chúng cũng như các doanh nghiệp phải thay đổi các quyết định và biện pháp hoạt động.
1.2.2.2 Nhóm các nhân tố thuộc môi trường vi mô
Mức độ cạnh tranh giữa các đối thủ: Khi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong một ngành nào đó thì sự bình đẳng tương đối về quy mô và sức mạnh giữa một số lớn các đối thủ cạnh tranh ảnh hưởng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong những ngành chỉ có một vài doanh nghiệp thống lĩnh thì năng lực cạnh tranh sẽ yếu bởi vì các doanh nghiệp thống lĩnh đóng vai trò chỉ đạo giá còn các doanh nghiệp nếu không phải là người thống lĩnh thì năng lực cạnh tranh sẽ kém hơn. Nhưng nếu ngành mà chỉ bao gồm một số doanh nghiệp có quy mô và thế lực tương đương nhau thì cường độ năng lực cạnh tranh sẽ cao vì các doanh nghiệp đều muốn giành vị trí thống lĩnh. Khi các ngành đó tăng trưởng chậm hoặc trì trệ của nhu cầu về sự mở rộng của một số đối thủ cạnh tranh sẽ phải trả giá bởi các đối thủ khác làm mức độ cạnh tranh trong trở nên gay gắt hơn.
Sự xuất hiện của đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: Các đối thủ cạnh tranh tiềm năng bao gồm các công ty hiện nay không ra mặt cạnh tranh nhưng vẫn có khả năng cạnh tranh trong tương lai. Sự xuất hiện của đối thủ mới đặt ra nhiều thách thức cho các đối thủ hiện tại. Khi các các đối thủ cạnh tranh mới tham gia vào kinh doanh trong ngành, số lượng các doanh nghiệp trong ngành sẽ tăng lên, nếu quy mô thị trường không thay đổi khi đó các doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh với nhau gay gắt hơn, các đối thủ cạnh tranh mới có thể làm giảm thị phần bằng cách chia nhỏ chiếc bánh ra thành các phần nhỏ khác nhau.
Nhà cung ứng đầu vào cho doanh nghiệp: Các nhà cung ứng các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp có ảnh hưởng to lớn đến chi phí sản xuất từ đó ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Nếu việc cung ứng đầu vào gặp khó khăn, các yếu tố chi phí lên cao làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có ba nhà cung ứng cơ bản bao gồm: nhà cung cấp tài chính, nhà cung cấp lao động và nhà cung cấp nguyên vật liệu, thiết bị.
Nhà cung cấp tài chính: bất kì doanh nghiệp nào trong khoảng thời gian nhất định đều phải vay vốn dù có lãi hay thua lỗ, các doanh nghiệp vay vốn trên thị trường tài chính bằng phương thức vay ngắn hạn hay dài hạn.
Nhà cung cấp lao động: việc thu hút được lao động có tay nghề, trình độ tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Nhà cung cấp nguyên vật liệu, thiết bị: gây ảnh hưởng tới chất lượng, giá cả các nguyên vật liệu, thiết bị cũng như các dịch vụ đi kèm.
Khách hàng: Khách hàng là một sự đe dọa cạnh tranh khi buộc doanh nghiệp giảm giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao và dịch vụ tốt hơn.
1.3 Tiêu thức đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Thực tế rất khó để có thể đưa ra những đánh giá chính xác năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Tuy nhiên sau đây là một số tiêu thức đo lường năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp một cách tương đối:
Thị phần của doanh nghiệp
Thị phần là phần thị trường mà sản phẩm của doanh nghiệp chiếm lĩnh hay nói cách khác đó là thị trường mà sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ rộng rãi mà không gặp khó khăn nào.
Thị phần là tiêu chí thể hiện vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Tiêu chí này được đo bằng tỷ lệ doanh thu hay số lượng sản phẩm của doanh nghiệp trong một giai đoạn nhất định so với tổng doanh thu hay sản lượng tiêu thụ trên thị trường.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh: tiêu chí này được thể hiện thông qua chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuân. Tỷ suất lợi nhuận: Là tiêu chuẩn cơ bản để xác lập vị trí và khả năng của doanh nghiệp trên thị trường. Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu, theo nguồn vốn chủ sở hữu… Đối với doanh nghiệp thì lợi nhuận không chỉ là mục tiêu của chủ đầu tư mà còn là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển. Do vậy, đây là tiêu chí thể hiện mức độ đạt được mục tiêu hoạt động, phản ánh mặt chất lượng của năng lực cạnh tranh.
Uy tín danh tiếng của doanh nghiệp: uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp cũng là yếu tố quan trọng tạo ra lợi thế và góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG NẶNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG BẤT ĐỘNG SẢN LANMAK
2.1 Giới thiệu tổng quan về công ty Lanmak
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Tên gọi đầy đủ bằng Tiếng Việt: Công ty cổ phần đầu tư xây dựng bất động sản Lanmak
Tên giao dịch Tiếng Anh: Lanmak Property Investment Construction Joint Stock Company
Trụ sở chính: P101- B3- Làng quốc tế Thăng Long- Dịch vọng- Cầu Giấy- Hà Nội.
Điện thoại: 0437930010/37932208
Fax: 0437545958
Email: contact@lanmak.vn
Website: www.lanmak.vn
Công ty hoạt động theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103017609 do sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp lần đầu 05/2007.
Tháng 07/2009 Chi nhánh khu vực phía Bắc- Tổng công ty xây dựng Hà Nội chính thức sát nhập vào Công ty cổ phần đầu tư xây dựng bất động sản Lanmak. Tổng giá trị vốn góp từ chi nhánh phía Bắc là: 5.363.025.314 đồng.
2.1.2 Chức năng nhiệm vụ
Thực hiện nhiệm vụ hoạt động kinh doanh kinh doanh bất động sản; Thi công xây lắp các công trình dân dụng công nghiệp, giao thông, thủy lợi…
Liên doanh liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước để phát triển hoạt động kinh doanh bất động sản, thi công xây lắp các công trinh dân dụng, công nghiệp, giao thông, thủy lợi … Thực hiện các dự án phát triển các cơ sở vật chất kĩ thuật đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, đảm bảo công ăn việc làm cho lao động ổn định, cải thiện đời sống công nhân viên toàn công ty. Tuân thủ các quy định của luật pháp, chính sách của nhà nước, bảo vệ doanh nghiệp, môi trường giữ gìn trật tự an toàn xã hội theo quy định của luật pháp trong phạm vi quản lý của Công ty. Khảo sát, thâm nhập và khai thác thị trường trong và ngoài nước. Lập quy hoạch, kế hoạch đầu tư và phát triển kinh doanh
2.1.3 Cơ cấu tổ chức của công ty
2.1.3.1 cơ cấu bộ máy tổ chức
Cơ cấu tổ chức là yếu tố khá quan trọng ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của công ty. Cơ cấu tổ chức thống nhất, chặt chẽ không chỉ tạo thành thế mạnh trong quá trình tồn tại của doanh nghiệp, mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Công ty hoạt động theo mô hình công ty cổ phần và người đứng đầu là đại hội đồng cổ đông, các phòng ban chức năng, các đơn vị trực thuộc công ty được sắp xếp, bố trí theo chức năng, sản phẩm. Theo kiểu cơ cấu này tổng giám đốc đóng vai trò chỉ đạo và triển khai thực hiện các kế hoạch do hội đồng quản trị đưa ra và được sự giúp đỡ của các phòng ban chức năng, các chuyên gia, các hội đồng tư vấn trong việc nghiên cứu, bàn bạc tìm ra phương án tối ưu cho các vấn đề phức tạp. Các phòng ban chức năng có trách nhiệm tham mưu cho toàn bộ hệ thống . Cơ cấu tổ chức của công ty được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1: sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty
CÁC BAN
QUẢN LÝ
DỰ ÁN
PHÒNG
TỔ CHỨC
HÀNH CHÍNH
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC PHỤ TRÁCH THI CÔNGXÂY LẮP
PHÒNG
KẾ TOÁN
TÀI CHÍNH
PHÒNG DỰ ÁN
ĐẦU TƯ
SÀN GIAO DỊCH
BẤT ĐỘNG SẢN
CÁC ĐƠN VỊ
THI CÔNG XÂY LẮP
CÁC
ĐƠN VỊ
THI CÔNG
CƠ GIỚI
TRUNG TÂM
TƯ VẤN
THIẾT KẾ
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
PHỤ TRÁCH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
PHÒNG ĐẤU THẦU
& QUẢN LÝ CTXD
2.1.3.2 Chức năng nhiệm vụ các phòng ban
Hội đồng quản trị: là bộ phận có quyền hạn cao nhất, có quyền hạn cao nhất, có quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích quyền lợi như chiến lược phát triển phương án đầu tư cũng như việc sắp xếp nhân sự của công ty.
Trách nhiệm của ban tổng giám đốc:
Tổng giám đốc công ty: là đại diện pháp nhân của công ty, có trách nhiệm điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, chịu trách nhiệm trước đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị và pháp luật nhà nước về các quyết định trong quá trình điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các phó tổng giám đốc: giúp việc cho tổng giám đôc điều hành quá trình sản xuất kinh doanh. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định trong quá trình điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực được tổng giám đốc phân công giao nhiệm vụ.
Các phòng ban chức năng:
Các phòng ban có mối liên hệ mật thiết với nhau, đồng thời có chức năng trợ giúp tham mưu cho ban lãnh đạo công ty.
Phòng tổ chức hành chính: tham mưu cho tổng giám đốc các công tác sau: giải quyết công việc hành chính văn phòng; lên kế hoach và tổ chức thực hiện các phương án sắp xếp, quản lý đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, sủ dụng lao động hợp lý; tổ chức thực hiện đúng đắn các chế độ, chính sách của nhà nước đối với người lao động; hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện chính sách pháp luật, các chế độ đối với người lao động.
Phòng kế toán tài chính: Tham mưu cho Tổng giám đốc trong công tác quản lý nguồn vốn cụ thể như sau
Trực tiếp xây dựng kế hoạch tài chính kế toán tháng, quý, năm; Lập báo cáo kế toán, quyết toán quý, năm; báo cáo thống kê tháng, quý, năm bảo đảm tính trung thực và chính xác của các số liệu báo cáo.
Chủ động lo nguồn vốn, đề xuất phương án huy động nguồn vốn để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh. Quản lý sử dụng các nguồn vốn theo đúng quy định của pháp luật; Kiểm tra việc sử dụng vốn bảo đảm không làm thất thoát vốn, bảo toàn và sử dụng vốn có hiệu quả.
Xử lý và bảo quản các chứng từ theo đúng quy định của pháp luật.
Phân tích tình hình tài chính của công ty để đề xuất những giải pháp kịp thời cho việc ra quyết định của lãnh đạo.
Phòng đấu thầu và quản lý công trình xây dựng: là đầu mối tiếp nhận thông tin, tìm kiếm, đấu thầu và triển khai thực hiện các công trình xây lắp của công ty.
Đôn đốc kiểm tra và kết hợp các đơn vị làm thanh quyết toán các công trình và thu hồi vốn tồn đọng.
Tiến hành thanh lý hợp đồng giữa công ty với chủ đầu tư sau khi công trình hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng và có đầy đủ hồ sơ được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Quản lý toàn bộ máy móc thiết bị thi công của công ty,đề xuất các phương án mua sắm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh.
Phòng dự án đầu tư: là đầu mối tiếp nhận thông tin, tìm kiếm, tiếp thị các dự án bất động sản. Triển khai công tác chuẩn bị đầu tư, lập dự án đầu tư.
Kiểm tra, giám sát, đánh giá quá trình triển khai thực hiện các dự án đầu tư.
Đề xuất các phương án sản xuất kinh doanh khác theo ngành nghề đã đăng ký.
Các ban quản lý dự án: Tổ chức triển khai và quản lý các dự án đầu tư của công ty theo đúng quy định của pháp luật; đảm bảo các dự án được triển khai nhanh nhất, an toàn nhất, chất lượng nhất và hiệu quả nhất.
Các đơn vị trực thuộc:
Các đơn vị xây lắp:
Phối hợp với phòng đấu thầu và quản lý công trình xây dựng để triển khai làm hồ sơ dự thầu khi có yêu cầu.
Nghiêm chỉnh chấp hành đầy đủ các điều khoản của hợp đồng giao khoán, các quy định về tài chính, quy định về chất lượng, tiến độ và an toàn lao động.
Nghiêm chỉnh thực hiện đầy đủ các chế độ Nhà nước đã được quy định đối với người lao động.
Các đơn vị ngoài xây lắp:
Tùy thuộc vào chức năng nhiệm vụ của từng đơn vị, Tổng giám đốc công ty sẽ ban hành những quy định quản lý tài chính cụ thể đảm bảo các đơn vị hoạt động tuân thủ các quy định của pháp luật và mang lại hiệu quả cao nhất cho công ty, cho các cổ đông và người lao động.
2.1.4 Kết quả sản xuất kinh doanh trong 3 năm 2007-2009
Trong những năm qua với sự đúng hướng và sự chỉ đạo sát sao của ban lãnh đạo công ty, cùng với sự cố gắng nỗ lực của cán bộ công nhân viên, doanh thu của công ty tăng nhanh, công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể. Kết quả kinh doanh của công ty từ năm 2007-2009 được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty từ năm 2007-2009
Đơn vị: đồng
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ
12.622.755.587
69.571.732.422
72.827.451.213
Giá vốn hàng bán
11.924.928.348
67.207.240.270
68.187.294.586
Lợi nhuận gộp
697.827.239
2.364.492.152
4.640.156.627
Doanh thu hoạt động tài chính
25.219.110
125.473.240
320.205.310
Chi phí tài chính
5.213.589
110.698.563
216.456.398
Chi phí bán hàng
0
0
0
Chi phí quản lý doanh nghiệp
658.256.231
1.855.355.423
2.045.253.321
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
59.576.529
523.911.406
2.698.652.218
Thu nhập khác
0
0
0
Chi phí khác
0
0
0
Lợi nhuận khác
0
0
0
Tổng lợi nhuận trước thuế
59.576.529
523.911.406
2.698.652.218
Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp
16.681.571
146.695.194
755.622.621
Lợi nhuận sau thuế
42.894.958
377.216.212
1.943.029.597
Nguồn: Phòng kế toán tài chính
Qua bảng số liệu trên ta thấy công ty có sự thay đổi về doanh thu và lợi nhuận qua các năm.Theo bảng số liệu ta thấy doanh thu của công ty có sự biến đổi bất thường không ổn định qua các năm, doanh thu của công ty năm 2008 so với năm 2007 tăng khoảng 66.994 triệu đồng tương ứng tăng hơn 4 lần. Doanh thu năm 2009 so với năm 2008 thì tăng khoảng 3.256 triệu đồng tương ứng tăng 4,7%. Sự biến đổi này là do năm 2008 công ty mở rộng quy mô hoạt động, năm 2009 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế nên nhu cầu về xây dựng giảm. Giá vốn hàng bán qua các năm cũng có sự biến đổi không ổn định ta thấy, giá vốn hàng bán năm 2008 tăng gấp hơn 4 lần so với năm 2007, giá vốn hàng bán năm 2009 so với năm 2008 1,5% sự biến đổi bất thường là do năm 2008 doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, giá các loại thiết bị vật tư tăng, công ty mới chưa có nhiều kinh nghiệm trong quản lý khi mở rộng nên dẫn đến tình trạng thất thoát, lãng phí nguyên vật liệu.
Chi phí quản lý doanh nghiệp năm 2008 tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2007, tuy nhiên đến năm 2009 chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 10,2% so với năm 2008. Sự tăng lên không ổn định qua các năm là do năm 2008 doanh nghiệp tiến hành mở rộng quy mô sản xuất. Sự tăng lên của chi phí quản lý doanh nghiệp chứng tỏ công ty chưa hiệu quả, công ty chưa có biện pháp hữu hiệu làm giảm các khoản chi phí này.
Lợi nhuận sau thuế của công ty qua các năm đều tăng nhanh, không những thế tốc độ tăng của lợi nhuận sau thuế còn cao hơn nhiều với tốc độ tăng doanh thu. Lợi nhuận sau thuế năm 2008 so với năm 2007 tăng khoảng 334 triệu đồng tương ứng gấp khoảng 7,79 lần. Lợi nhuận sau thuế năm 2009 so với năm 2008 tăng khoảng 1566 triệu đồng tương ứng tăng gấp hơn 4,15 lần. Đồng thời với sự tăng lên của lợi nhuận sau thuế, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng tăng lên. Thuế thu nhập doanh nghiệp nộp năm 2008 gấp khoảng 8 lần so với năm 2007, năm 2009 gấp khoảng 4 lần so với năm 2008.
Lợi nhuận của doanh nghiệp tăng qua các năm qua chủ yếu là do công ty nhận được các dự án lớn giá trị cao như: Gói thầu cung cấp và lắp đặt các hạng mục thiết bị - Trung tâm điều hành khai thác và phát triển các dịch vụ tin học viễn thông giá trị hợp đồng 64.833 tỷ đồng, dự án Nghi Sơn dây chuyền 2 giá trị hợp đồng 114 tỷ đồng, thi công xây lắp tòa nhà Viettel Lạng Sơn giá trị hợp đồng xấp xỉ 34 tỷ đồng… Chính các hợp đồng cho các dự án lớn đó đã giúp công ty có sự tăng nhanh về doanh thu, khiến lợi nhuận cũng tăng nhanh. Không những thế trong những năm qua doanh thu ho._.ạt động tài chính của công ty cũng tăng: năm 2008 tăng 400% so với năm 2007, năm 2009 tăng 156% so với năm 2008. Lợi nhuận thuần của công ty có sự thay đổi đáng kể như vậy một phần cũng là do có sự gia tăng của doanh thu hoạt động tài chính.
2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty
2.2.1 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty
2.2.1.1 Các nhân tố bên trong
2.2.1.1.1 Năng lực tổ chức, quản lý của công ty
Tuy là doanh nghiệp mới thành lập, đội ngũ lãnh đạo của công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Lanmak không những có trình độ chuyên môn cao 100% cán bộ lãnh đạo chủ chốt của công ty đều đạt trình độ chuyên môn là kĩ sư hoặc cử nhân theo đúng chuyên môn hoạt động của mình và có khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh. Không chỉ đáp ứng được yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ mà đội ngũ lãnh đạo còn có trình độ quản lý cao, có cán bộ đạt trình độ MBA và những kinh nghiệm trong quản lý, nhạy cảm với những thay đổi của môi trường kinh doanh. Đội ngũ lãnh đạo của công ty luôn tạo điều kiện phát triển tốt nhất cho mỗi cá nhân trong toàn công ty, luôn duy trì môi trường bình đẳng, không phân biệt đối xử với mọi người tạo điều kiện phát huy sở trường của từng người. Ngoài ra, ban lãnh đạo công ty còn có mối quan hệ tốt với đối tượng hữu quan bên ngoài như:các cơ quan nhà nước, nhà đầu tư, cộng động địa phương, nhà cung ứng, các ngân hàng…
Là công ty cổ phần, đại hội đồng cổ đông thường họp thường niên mỗi năm một lần nhằm thông qua các chính sách quan trọng nhất của công ty: thông qua các báo cáo hàng năm, thông qua mức cổ tức thanh toán hàng năm, quyết định chia, tách, sát nhập hay chuyển đổi công ty… Dưới đại hội đồng cổ đông là hội đồng quản trị chịu trách nhiệm trong việc đề ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh và ngân sách hàng năm cùng với đó đứng ra tổ chức chỉ đạo và triển khai các kế hoạch. Bộ máy công ty các phòng ban được bố trí theo chức năng, sản phẩm. Cơ cấu đó có ý nghĩa quan trọng đảm bảo hiệu quả quản lý cao, ra quyết định nhanh chóng, đồng thời vừa phát huy năng lực chuyên môn của các bộ phận chức năng vừa đảm bảo được quyền chỉ huy trong toàn hệ thống. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ công nhân viên đồng thời là cổ đông của công ty gắn quyền lợi và trách nhiệm của toàn thể nhân viên nên đã đoàn kết, năng động sáng tạo, hăng hái thi đua trên mọi lĩnh vực vì lợi ích của công ty và cũng là lợi ích của bản thân họ. Do đó hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty hiệu quả hơn nhờ vậy mà năng lực cạnh tranh được nâng lên.
Lãnh đạo công ty có chiến lược phát triển phấn đấu trở thành doanh nghiệp lớn trong ngành xây dựng, phát triển mạnh và bền vững. Để biến mục tiêu đó thành hiện thực ban lãnh đạo công ty đã vạch ra đường lối, chiến lược, kế hoạch hoạt động cho từng thời kỳ cùng vói đó tổ chức, lãnh đạo, giám sát và kiểm tra các hoạt động của các phòng, ban, đơn vị, đội, tổ để hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đạt hiệu quả qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong giai đoạn mới thành lập nhưng công ty cũng gặp không ít những khó khăn đó là do mới đi vào hoạt động trong những năm gần đây cùng với đó là sự mở rộng quy mô hoạt động nên một số các quyết định đưa ra của hội đồng quản trị còn dè dặt, e ngại thiếu quyết đoán. Phần nhỏ các chỉ huy trưởng, đội trưởng còn thiếu kinh nghiệm trong quản lý nên dẫn đến tình trạng thất thoát gây nên tình trạng lãng phí làm tăng chi phí của doanh nghiệp.
Trong những năm tiếp theo, công ty tiếp tục đầu tư nâng cao năng lực của mình duy trì và khẳng định bằng những công trình đạt an toàn, chất lượng, hiệu quả và đúng tiến độ.
2.2.1.1.2 Máy móc, thiết bị, công nghệ
Máy móc, thiết bị, công nghệ là yếu tố rất cơ bản góp phần tạo nên năng lực cạnh tranh của công ty. Trong ngành xây dựng, để đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư, của khách hàng đảm bảo công trình đạt được an toàn, chất lượng ngoài việc đảm bảo các yêu cầu về nhân công, nguyên vật liệu thì việc sử dụng máy móc thiết bị như thế nào cũng có vai trò quan trọng. Do yêu cầu đặc thù của ngành xây dựng là sản phẩm mang tính đơn chiếc, mặc dù công ty đã trang bị nhiều máy móc thiết bị phục vụ thi công các loại công trình nhưng khi nhiều dự án cùng tiến hành hoạt động đồng thời có thể xảy ra tình trạng thiếu máy móc phục vụ cho thi công thì công ty sẽ có biện pháp thuê các đơn vị khác.
Công ty đã xây dựng hệ thống mạng thông tin nội bộ và đã nối mạng quốc gia và quốc tế phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Chính mạng thông tin hiện đại đã góp phần quan trọng trong việc giảm chi phí và thời gian giao dịch, chi phí của công ty, tăng năng suất lao động. Nhờ vậy giúp công ty nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty.
Phần lớn các máy móc thiết bị thi công của công ty đều có công suất thiết kế lớn và chủ yếu được mua từ nước ngoài. Một số nước chủ yếu mà công ty nhập khẩu máy móc là: Nhật, Trung Quốc… Về chất lượng, hầu hết các máy móc thiết bị của công ty đều ở tình trạng hoạt động tốt, thời gian khấu hao vẫn còn dài, giá trị còn lại của thiết bị đều khá lớn đáp ứng công nghệ thi công ngày một tiến bộ, đảm bảo đúng tiến độ thi công, đạt tiêu chuẩn kĩ thuật và chất lượng, an toàn theo yêu cầu. Để nâng cao vị thế của mình công ty còn mạnh dạn nghiên cứu và ứng dụng những công nghệ tiên tiến trong xây dựng, công ty đã đầu tư thiết bị thi công khoan cọc nhồi đồng bộ, hiện đại…
Để hoạt động thi công, xây lắp của công ty được tiến hành đảm bảo hiệu quả, an toàn, chất lượng công ty đã đầu tư nhiều vốn mua sắm máy móc thiết bị như thiết bị xe máy, thiết bị dụng cụ thi công. Không những thế hằng năm, công ty tiến hành bảo dưỡng định kỳ nhằm đảm bảo cho máy hoạt động với hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên cũng giống như tình trạng của đa số các doanh nghiệp Việt Nam, việc đầu tư đổi mới công nghệ vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế và so với mức độ đầu tư của các doanh nghiệp trên thế giới. Năng lực thiết bị, máy móc, công nghệ đã góp phần làm tăng năng lực cạnh tranh và uy tín của công ty. Nhờ khoa học công nghệ mà công ty đã nhập khẩu nhiều thiết bị hiện đại đảm bảo chất lượng thi công nhà ở, đô thị, khu công nghiệp, cầu cống, đường sá… Việc áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ trong việc thi công, quản lý vật tư, thiết bị, thực hiện các giao dịch được diễn ra thuận lợi và giảm chi phí, thời gian giao dịch, tiết kiệm nguyên vật liệu, tránh tình trạng thất thoát nguyên vật liệu. Cụ thể tình hình máy móc, thiết bị của công ty đến thời điểm hiện nay được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.3: Thống kê năng lực máy móc, thiết bị
TT
Tên thiết bị, xe máy
Nước sản xuất
Số lượng
Đặc tính kĩ thuật
I. Thiết bị thi công hạ tầng
1
Máy khoan cọc nhồi KH 125
Nhật Bản
02
Dmax = 1,8 m
2
Đầu khoan R9G
Italia
01
Dmax = 2 m
3
Gầu khoan D1200
Việt Nam
02
D 1200
4
Gầu khoan D1000
Việt Nam
02
D 1000
5
Gầu vét D1200
Việt Nam
01
D 1200
6
Gầu vét D1000
Việt Nam
01
D 1000
7
Cần trục bánh xúc KOBELCO 7055
Nhật Bản
01
Sức nâng 55 tấn
8
Máy đào Komatsu PC 530
Nhật Bản
01
1,85 m3
9
Máy ủi Komatsu D31
Nhật Bản
01
Ben KT
II Phương tiện vận tải
1
Ô tô Ben Huyndai
Hàn quốc
02
15 tấn
III Máy xây dựng
1
Máy đầm đất MIKASA
Nhật Bản
06
2
Máy đầm đất TACOM
Nhật Bản
02
3
Máy trộn bê tông
Trung Quốc, Việt Nam
05
5,5KW-500L
Loại JSC – 500
Trung Quốc
02
4,5KW – 350L
4
Máy trộn vữa
Trung Quôc, Việt Nam
03
5 tấn
5
Máy nén khí
Động cơ Diezen D24
Trung Quốc
05
2x10m3/ph
2BM 10-05/8
Nga
01
50m3/ph
6
Máy nghiền sàng đá
Trung Quốc
04
30m3/ph
7
Máy sàng cát
Nhật Bản
01
1.96x870x1.530 mm
8
Máy cắt uốn thép
Nhật Bản
05
2,2 – 5.5KW
9
Máy khoan bê tông
Nhật Bản
12
2,2KW
IV Máy phát điện
1
Máy phát điện
Đức
01
75 – 175KVA
2
Máy phát điện Honda
Nhật Bản
02
4,5KVA
V Máy đo đạc
1
Máy kinh vĩ Topkon
Nhật Bản
02
30x10”
2
Máy thủy bình Sokia
Nhật Bản
01
30x10”
3
Máy toàn đạc điện tử Leika, Sopkon
Thụy Sĩ, Nhật Bản
02
30x5”
4
Bộ đàm
Nhật Bản
06
R 5km
VI Máy móc thiết bị khác
1
Máy Hàn Việt Đức
Việt Nam
12
2
Máy đầm dùi
Trung Quốc
10
3
Máy đầm bàn
Trung Quốc
05
4
Tời điện
Trung Quốc
02
5
Máy bơm hố móng TSURUMI
Nhật Bản
01
KTZ 67.5: Q=2,1 m3/min, H=31m
6
Máy bơm hố móng TSURUMI
Nhật Bản
01
KTZ 411: Q=1,44 m3/min, H=32,5 m
7
Máy bơm hố móng TSURUMI
KTZ 611: Q=2,44 m3/min, H=32,5m
8
Máy bơm nước
Nhật Bản
02
9
Máy bơm Đài Loan
Đài Loan
05
10
Máy bơm xăng Honda
Nhật Bản
02
11
Máy bơm dầu
Trung Quốc
02
12
Máy trộn Bentonit
Nhật Bản
02
110KW
13
Cột chống thép
Việt Nam
150
14
Dàn giáo (bộ)
Việt Nam
50
15
Cốp pha tôn (m3)
Việt Nam
3000
16
Container
04
Nguồn: Phòng đấu thầu và quản lý công trình
Với năng lực hiện có về máy móc thiết bị công ty có khả năng tự chủ cả trong việc đáp ứng nhu cầu xây dựng, đảm bảo công việc diễn ra liên tục, đáp ứng yêu cầu cơ bản về máy móc thi công trong phần lớn các công trình. Tuy nhiên, với năng lực hiện có công ty chỉ có thể giành được ưu thế trong việc tham gia tranh thầu ở những công trình có giá trị vừa và nhỏ ở thị trường trong nước. Khả năng của công ty còn hạn chế nên chưa đủ tầm ở những công trình lớn hoặc tầm quốc tế.
2.2.1.1.3 Năng lực tài chính của công ty
Sản phẩm xây lắp có giá trị lớn, để xây dựng nên chúng cần một lượng vốn dồi dào, lớn mà thời gian thu hồi lại lâu, trong khi đơn vị thực hiện thi công không được trả trước toàn bộ số tiền đã sản xuất ra sản phẩm đó mà vốn chỉ được cấp một phần theo tiến độ, một phần kinh phí còn lại do nhà thầu tự ứng. Vì vậy, nguồn vốn kinh doanh của các công ty xây dựng thường phải tương đối lớn mới có thể đáp ứng yêu cầu vốn cho thi công trong suốt thời gian trước khi công trình được quyết toán. Do vậy, năng lực tài chính góp phần nâng cao năng lực cạnh cạnh của công ty. Ta có thể theo dõi vốn của công ty theo nội dung và nguồn vốn qua một số năm như sau:
Bảng 2.4: Tình hình đảm bảo vốn kinh doanh của Lanmak (2007-2009)
Đơn vị: Đồng
TT
Chỉ tiêu
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
1
Tổng tài sản
25.802.088.555
57.654.853.375
284.438.502.562
2
Tài sản ngắn hạn
24.942.184.938
51.288.315.429
237.897.643.432
3
Tài sản dài hạn
859.903.617
6.366.437.846
46.540.859.130
4
Nguồn vốn
25.802.088.555
57.654.853.375
284.438.502.562
5
Tổng nợ phải trả
23.219.110.634
54.725.359.242
238.308.848.850
6
Nợ ngắn hạn
20.605.572.240
48.553.930.670
213.756.542.714
7
Vốn chủ sở hữu
2.582.977.920
2.929.494.133
46.129.653.612
Nguồn: Phòng kế toán- tài chính
Theo bảng trên thì tổng nguồn vốn của công ty qua 3 năm 2007-2009 đã tăng lên năm 2007 tổng nguồn vốn của công ty là 25.802.088.555 đồng năm 2008 quy mô vốn của doanh nghiệp đã tăng lên gấp hơn 2 lần năm 2007 (57.654.853.375 đồng), đến năm 2009 thì quy mô vốn của doanh nghiệp tăng lên 284.438.502.562. Sự tăng lên nhanh chóng về quy mô vốn là do doanh nghiệp là đơn vị mới thành lập do đó cần huy động nguồn vốn bổ sung cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trang bị thiết bị máy móc; tháng 07/2009 Chi nhánh phía Bắc – Tổng công ty xây dựng Hà Nội sát nhập với công ty.
Bảng 2.5: phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn
TT
Chỉ tiêu
Năm 2007
Nắm 2008
Năm 2009
1
Hệ số nợ/tài sản(%)
90
94,91
83.8
2
Hệ số nợ/ vốn chủ sở hữu
8,9
18,68
4,16
3
Tỉ trọng vốn lưu động so với tổng vốn(%)
96
88
83
4
Tỉ trọng vốn cố định so với tổng vốn(%)
4
12
17
Nguồn: Phòng tài chính kế toán
Mức độ độc lập tự chủ về tài chính của công ty đã tăng lên, nhưng vẫn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài. Qua 3 năm ta thấy tỉ trọng của nguồn vốn chủ sở hữu năm 2007 chiếm khoảng 10% đến năm 2009 tăng lên và chiếm khoảng 16,2% . Sở dĩ, tỷ số này tăng lên là do công ty đã tiến hành huy động nguồn vốn bằng việc phát hành cổ phiếu, huy động những đồng tiền nhàn dỗi công nhân viên trong công ty mua cổ phần.
Khả năng cân đối vốn thể hiện thông qua tỉ số nợ trên tổng tài sản. Qua 3 năm qua tỷ số này đã giảm xuống năm 2007 chiếm khoảng 90% đến năm 2009 đã giảm xuống còn hơn 80% nhưng vẫn ở mức cao so với mức an toàn mà chuyên gia kinh tế nhận định là 40%. Tỷ số nợ của công ty giảm qua các năm cho thấy khả năng tài chính của doanh nghiệp qua các năm đã tăng lên song vẫn ở mức cao tạo cho công ty gia tăng lợi nhuận một cách nhanh chóng nhưng nó có phần hạn chế là chưa đảm bảo khả năng thanh toán công ty dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán khi gặp rủi ro. Có thể nói mức độ độc lập về mặt tài chính của công ty ngày càng tăng. Điều này chứng tỏ công ty đã tích cực trả các khoản nợ.
Hệ số nợ so với vốn chủ sở hữu cho biết mối quan hệ giữa các nguồn vốn của công ty trong việc hình thành các tài sản. Qua 3 năm qua từ 2007-2009 hệ số nợ so với tổng vốn chủ sở hữu của công ty đã giảm xuống từ 8,9 năm 2007 xuống còn 5,2 năm 2009 nhưng còn cao hơn mức trung bình ngành(2,5). Sự bị động đó khiến công ty phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với các nguồn vốn vay hình thành nên tài sản phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Về nguồn vốn qua bảng trên ta thấy tỉ trọng vốn lưu động của công ty năm 2007 là 96% trên tổng vốn; năm 2008 giảm xuống ở mức đạt tới 88% so với tổng vốn, năm 2009 là 83% so với tổng vốn. Tỉ trọng vốn lưu động trên tổng vốn năm 2009 giảm so với năm 2008 cho thấy năm 2009 công ty ít bị chiếm dụng vốn hơn so với năm 2008. Tuy nhiên tỷ trọng vốn lưu động như vậy là rất cao, chứng tỏ các khoản phải thu của công ty là lớn và công ty bị chiếm dụng vốn nhiều, dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn.Việc thu hồi vốn chậm cho thấy công ty đã phải chịu áp lực tài chính khá nặng nề. Đây có thể là nguyên nhân làm giảm hiệu quả sản xuất, kinh doanh của công ty. Do công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng nên việc ứ đọng vốn là không thể tránh khỏi vì tiền chỉ có thể thu về khi hoàn thành công trình và bàn giao. Mặt khác những công trình mà công ty đang thực hiện là những công trình đòi hỏi mức đầu tư lớn thời gian thi công dài thường là vài năm nên việc thu hồi được tiền vốn của công ty sẽ gặp khó khăn.
Năng lực tài chính của bất kì doanh nghiệp nào được gắn với vốn – yếu tố cơ bản và là một đầu vào của doanh nghiệp. Việc huy động vốn kịp thời nhằm đáp ứng nhu cầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty như: mua sắmvật tư, nguyên liệu, thuê nhân công, mua sắm máy móc thiết bị công nghệ, hiện đại hóa tổ chức quản lý… Như vậy để nâng cao năng lực tài chính, công ty cần củng cố và phát triển nguồn vốn, tăng vốn tự có, mở rộng vốn vay dưới nhiều hình thức như vay ngắn hạn, vay dài hạn, huy động phát hành cổ phiếu, chiếm dụng doanh nghiệp khác… Đồng thời, một điều quan trọng là công ty phải sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, hoạt động kinh doanh có hiệu quả để tạo uy tín đối với khách hàng, với ngân hàng và với những người cho vay vốn.
Nhìn một cách tổng thể thì trong những năm gần đây tình hình tài chính của công ty có sự biến động qua mỗi năm nhưng vẫn đảm bảo được khả năng tài chính. Một số chỉ tiêu có chiều hướng tốt trong những năm gần đây, không tồn đọng nợ xấu. Vì thế, tuy việc sản xuất kinh doanh có phụ thuộc nhiều vào vốn vay nhưng với uy tín và năng lực sản xuất của mình công ty luôn tin tưởng và đảm bảo được độ ổn định về vốn từ nguồn tín dụng như: chiếm dụng của khách hàng, nhà cung cấp, hợp đồng vốn vay tín dụng của ngân hàng.
2.2.1.1.4 Năng lực marketing của công ty
Để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả, đối với doanh nghiệp công tác quảng bá hình ảnh, danh tiếng của mình có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm tạo niềm tin cho đối tác, khách hàng vào năng lực nhân lực, tài chính, máy móc thiết bị, kinh nghiệm của công ty… Để giữ vững và phát triển mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng của công ty hàng năm các phòng ban lập danh sách khách hàng gửi về phòng tổ chức hành chính đề nghị gửi thư chúc tết hoặc tặng lịch hoặc gửi thiếp chúc mừng thăm hỏi dịp lễ tết. Các bộ phận trưởng phòng hoặc cán bộ nhân viên được lãnh đạo công ty giao nhiệm vụ trực tiếp nhằm xây dựng mối quan hệ giữa công ty với khách hàng càng tốt đẹp. Công ty đã xây dựng trang website của công ty để khách hàng, đối tác có thể tiếp cận, nắm bắt nhanh thông tin, dễ dàng truy nhập.
Hiện nay, công ty Lanmak chưa đầu tư nhiều vào công tác marketing, cụ thể là nhân lực trong lĩnh vực này chỉ có vài người và cũng không có chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực marketing. Việc công ty có nhận được hợp đồng kinh tế lớn, được các đối tác tín nhiệm là do công ty có mối quan hệ tốt với các đối tác. Trình độ nắm bắt thị trường của công ty còn hạn chế, chi phí cho hoạt động marketing chưa nhiều, điều đó khiến cho việc nắm bắt nhu cầu thị trường đặc biệt nhu cầu thị trường trong dài hạn còn yếu kém. Hoạt động marketing của công ty chưa được chú trọng, cụ thể là công tác quảng bá hình ảnh của công ty được thực hiện đồng thời với bộ phận làm công tác đầu thầu. Sàn giao dịch bất động sản đã thành lập nhưng vẫn chưa chính thức đi vào hoạt động. Là thành viên của Tổng công ty xây dựng Hà Nội, công ty Lanmak thừa hưởng những thành tựu về hình ảnh thương hiệu của Tông công ty xây dựng Hà Nội bằng chứng là tháng 7 năm 2009 chi nhánh Hà Nội của Tổng công ty đã sát nhập vào công ty Lanmak trong đó có 500 triệu giá trị thương hiệu. Chính những điều đó, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Lanmak.
2.2.1.1.5 Năng lực lao động của công ty
Đối với bất kì loại hình kinh doanh nào thì lực lượng lao động luôn là yếu tố sản xuất quan trọng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh. Với ngành nghề kinh doanh đa dạng nên lực lượng lao động của công ty rất đa ngành nghề. Lực lượng lao động của công ty bao gồm hai nhóm: Lực lượng lao động thường xuyên trong danh sách và lực lượng thuê ngoài theo mùa vụ. Hiện nay công ty duy trì mức lao động vào khoảng 262 lao động, với trình độ khác nhau.
Bảng 2.6: Lao động của công ty năm 2007-2009
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2007
Năm 2008
Năm2009
Lao động sử dụng bình quân
Người
249
254
262
Nguồn: Phòng tổ chức- hành chính
Bảng 2.7: Thống kê công nhân kĩ thuật lành nghề
TT
Chuyên môn
đào tạo
Tổng số
Trình độ cấp bậc
Cấp bậc BQ
1
2
3
4
5
6
7
1
Công nhân điện, nước
24
3
12
5
2
1
1
3,54
2
Công nhân xây dựng
69
2
23
17
23
3
1
4,07
3
Công nhân sữa chữa
7
2
2
3
4,14
4
Công nhân đo đạc khảo sát
2
1
1
3,5
5
Công nhân lái xe con
3
1
2
3,67
6
Công nhân lái xe tải
3
1
1
1
3
7
Công nhân lái cẩu
12
5
5
1
1
3,83
8
Công nhân lái máy xúc, cẩu
7
1
3
3
3,29
9
Công nhân sắt
25
1
4
7
8
3
1
1
3,6
10
Thợ thông gió
15
2
3
4
5
1
4
11
Thợ cơ khí, kết cấu
24
3
3
9
7
1
1
4,13
12
Công nhân viễn thông
9
1
1
4
3
4
13
Thợ hàn
12
2
4
4
1
1
3,58
TỔNG CỘNG
212
1
19
66
65
48
9
4
3,86
Nguồn: Phòng tổ chức hành chính
Bảng 2.8: Cơ cấu trình độ lao động của công ty Lanmak năm 2009
Nội dung
Số lượng(người)
Tỉ lệ(%)
Đại học
38
14,5
Cao đẳng
7
3
Trung cấp
5
2
Công nhân kĩ thuật, nghề
212
80,5
Nguồn: Phòng tổ chức- hành chính
Qua bảng trên, số lượng lao động sử dụng bình của công ty qua các năm biến đổi không nhiều. Cụ thể, số lao động sử dụng bình quân năm 2007 là 249 người, đến năm 2008 là 254 và đến năm 2009 là 262 lao động. Nếu đem so sánh với quy mô lao động của các doanh nghiệp trong cả nước thì quy mô lao động của doanh nghiệp thuộc vào doanh nghiệp có quy mô vừa.
Về chất lượng, theo báo cáo tổng hợp nhân sự tháng 12/2009 thì tổng số lao động của công ty đang làm ở văn phòng và các đội của toàn công ty thì có 38 người có trình đại học, số lao động trình độ cao đẳng 7 người, số lao động trình độ trung cấp, số lao động trình độ công nhân kĩ thuât, nghề 212 người. Như vậy, tỉ lệ lao động đạt trình độ kỹ sư, cử nhân là 14,5%; trình độ cao đẳng là 3%; trình độ trung cấp là 2%; và 80,5 % là công nhân kĩ thuật và nghề. Các con số tương ứng về trình độ lao động của ngành xây dựng trong năm 2008 của tổng cục thống kê là 10,73% đạt trình độ kĩ sư, cử nhân; 11,5% đạt trình độ cao đẳng; 7,1% đã qua đào tạo tại các trường trung học chuyên nghiệp và 33,5% lao động ở trình độ công nhân kĩ thuật. Nhìn khái quát có thể thấy tất cả công nhân làm việc trực tiếp đều được đào tạo nghề. Tuy nhiên trình độ bậc thợ bình quân đạt mức trung bình 3,86(mức bậc thợ công nhân cao nhất hiện nay là 7). Số lượng công nhân có bậc thợ 6, bậc 7 chiếm tỷ lệ thấp chiếm khoảng 6% trong tổng số công nhân kỹ thuật lành nghề. Trong khi đó chỉ tập trung ở mức 3, 4, 5 là chủ yếu vẫn có thợ bậc 1, có tới 19 công nhân bậc 2.
Như vậy, so với mặt bằng của toàn ngành thì lao động đã qua đào tạo của công ty có chỉ tiêu đạt mức trên trung bình của toàn ngành, có chỉ tiêu đạt thấp hơn trung bình của toàn ngành. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và chất lượng sản phẩm do đó cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh trong những năm tới công ty cần phải nâng cao năng lưc lao động của công ty, mà cụ thể là nâng cao chất lượng lao động. Với phương châm hoạt động con người là tài sản vô giá, nên ngay từ khi mới thành lập công ty đã chú trọng việc chăm lo đời sống tinh thần của người lao động. Do đó, tuy mới được thành lập những năm gần đây nhưng Lanmak đã thu hút những lao động có tay nghề và tạo ra không khí lao động hăng say hiệu quả góp phần tăng năng suất lao động từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. Một số phương pháp công ty đã sử dụng để nâng cao trình độ lao động:
Đào tạo theo kiểu chỉ dẫn công việc:
Việc đào tạo được bắt đầu bằng sự giới thiệu và giải thích của người dạy cho người học về mục đích của công việc, của hoạt động đồng thời chỉ dẫn tỉ mỉ về cách quan sát, trao đổi, làm thử cho tới khi thành thạo.
Công ty sử dụng để dạy các kỹ năng cho người lao động thời vụ và lao động phổ thông.
Đào tạo theo kiểu học nghề:
Chương trình đào tạo bắt đầu bằng việc học lý thuyết ở trên lớp, tiếp theo các học viên được đưa đến làm việc với sự hướng dẫn của công nhân lành nghề.
Công ty sử dụng phương pháp này để đào tạo tất cả các kỹ năng cần thiết để thực hiện một công việc cho các công nhân kỹ thuật.
Kèm cặp và chỉ bảo:
Công ty sử dụng để những người có trình độ giỏi, có kinh nghiệm kèm cặp, chỉ bảo cho các nhân viên giám sát để thực hiện công việc trước mắt và tương lai.
Các bài giảng, các hội nghị và hội thảo:
Trong các buổi giảng và hội nghị, hội thảo sẽ có những bài thuyết minh theo những chuyên đề và hình thành các nhóm làm việc với nhau.
2.2.1.2 Các nhân tố bên ngoài
2.2.1.2.1 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
Nhân tố kinh tế: Trong hai năm 2008 và 2009 nền kinh tế thế giới co nhiều biến động. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới Việt Nam cũng không tránh khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng và suy thoái. Năm 2009, mặc dù nền kinh tế trong nước cũng đạt mức tăng trưởng nhất định, tuy nhiên có nhiều biến động. Với hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực thi công xây lắp, lý do tài chính đã khiến số lượng công trình khởi công ít, bên cạnh đó với các công trình công ty đang thi công, biến động về giá cả thị trường của một số mặt hàng nguyên vật liệu chính đã ảnh hưởng đến hoạt động xây lắp của công ty. Do công ty mới thành lập và ngay từ giai đoạn mới thành lập tình hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến động mà hoạt động dự án và giao dịch bất động sản chu kì kinh doanh kéo dài( từ 3 năm đến 5 năm), nên kết quả hoạt động của những năm qua hầu như chưa được ghi nhận. Gói kích cầu bằng hỗ trợ lãi suất đã tạo ra hơn 400.000 tỷ đồng vốn giá rẻ cho người đi vay. Nhiều doanh nghiệp tìm mọi cách để vay tiền bất chấp nhu cầu thực tế khiến tăng trưởng tín dụng năm 2009 lên mức 37.4%, vượt xa mục tiêu 25% của ngân hàng Nhà Nước. Năm 2010, áp lực trả nợ đè nặng lên nhiều doanh nghiệp bởi việc chi tiêu "quá đà" trong năm trước. Ngoài ra, ngân hàng Nhà Nước đặt mục tiêu kiểm soát tín dụng ở mức 25% để phòng ngừa nguy cơ lạm phát khiến cho nguồn vốn ngân hàng càng trở nên khan hiếm. Do vậy lãi suất cho vay của các ngân hàng chạm đỉnh, lãi suất cao đã ảnh hưởng chi phí cho doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nhân tố thuộc pháp luật và chính trị:
Thị trường có tác dụng như một “bàn tay vô hình” điều tiết nền kinh tế. Song nếu chỉ cần phó mặc cho thị trường thì rất dễ đi đến khủng hoảng thừa hoặc thiếu. Vì vậy cần một “bàn tay hữu hình” can thiệp đúng hướng dẫn nền kinh tế đi đúng mục tiêu chiến lược đã chọn, đó chính là sự điều tiết của Nhà nước. Sự ổn định về chính trị và hệ thống pháp luật hoàn thiên có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của công ty.
Hệ thống chính sách của nước ta đã và đang được sửa đổi, bổ sung, dần hoàn thiện với quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Các quy định của quản lý vĩ mô của chính phủ như:
Quy định về chống độc quyền, thuế…
Luật đấu thầu, luật xây dựng, bảo vệ môi trường, doanh nghiệp, luật sáng chế…
Các chế độ đãi ngộ đặc biệt
Quy định về thuê mướn và khuyến mãi
Quy định về bảo hộ và an toàn trong lao động…
Là yếu tố quan trọng để xác lập môi trường kinh doanh cho công ty hoạt động, nó có thể tạo ra cơ hội hoặc nguy cơ cho công ty. Những chính sách, cơ chế của Nhà Nước trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tạo điều kiện phát triển các ngành trong nền kinh tế, ngành xây dựng, các doanh nghiệp xây dựng nói chung và công ty Lanmak nói riêng tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính sách hỗ trợ đào tào nguồn nhân lực, hỗ trợ trong sản xuất kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng tạo điều kiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm chi phí sản xuất nâng cao sức mạnh cạnh tranh của công ty. Và các nghị định, văn bản hướng dẫn như:
Nghị định 16/2005/NĐ-CP ngày 07/2/2005 về quản lý các dự án đầu tư và xây dựng công trình
Nghị định 112/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư và xây dựng công trình
Thông tư của Bộ xây dựng số 08/2005/TT-BXD ngày6/5/2005 hướng dẫn một số nội dung về lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình và xử lý chuyển tiếp thực hiện nghị định số16/2005/NĐ- CP ngày 7/2/2005 của Chính phủ.
Bên cạnh những thuận lợi các nghị định, quy chế, chính sách về đấu thầu gây ra không ít khó khăn cho các công ty, bởi hiện nay văn bản pháp luật của nước ta trong các lĩnh vực nói chung và trong lĩnh vực xây dựng nói riêng còn nhiều hạn chế và bất cập. Mặc dù, Chính phủ đã rất nhiều lần sửa đổi nhưng những bất cập đó vẫn chưa được khắc phục.
Chính sách cắt giảm các thủ tục liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản tạo điều kiện các dự án khả thi nhanh được triển khai.
Không những thế còn xuất hiện những hiện tượng tiêu cực trong công tác đấu thầu vẫn còn nạn tham ô, tham nhũng, quan liêu, bao cấp, một số nhà quản lý cứng nhắc trong quá trình điều hành khiến cho hiệu công tác đầu thầu chưa thật sự hiệu quả.
Cạnh tranh mang tính toàn cầu muốn “hòa nhập mà không hòa tan” thì các quy chế, quy định của Nhà nước cần phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh ở trong nước, từ đó mới có thể vươn ra đứng vững trên thị trường quốc tế.
Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng nói chung, của công ty Lanmak nói riêng. Hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống thông tin… phát triển sẽ góp phần làm giảm chi phí vận chuyển nguyên vật liệu cho việc thi công, xây lắp tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. Sự phát triển của hệ thống giáo dục đào tạo tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế nói chung cho công ty nói riêng. Ngược lại, hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển làm tăng chi phí của công ty làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty. Công ty có điều kiện thuận lợi đặt ở khu vực có nhiều điều kiện về cơ sỏ vật chất kĩ thuật ở trung tâm thành phố, hạ tầng giao thông thuận lợi cho hoạt động giao dịch, Mặt khác có thể thu hút các nguồn lực dồi dào. Bên cạnh đó công ty gặp khó khăn là sự cạnh tranh của rất nhiều công ty hoạt động trong ngành đóng trên địa bàn.
Các nhân tố về khoa học công nghệ
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã đem lại ứng dụng cho các ngành trong nền kinh tế. Đặc biệt là những ứng dụng của khoa học công nghệ trong ngành xây dựng góp phần giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian thi công xây dựng, nâng cao độ chính xác của công việc tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. Nhờ có khoa học công nghệ phát triển góp phần cho công ty trong việc nắm bắt, xử lý, truyền đạt thông tin như nhu cầu của thị trường, những biến động của nền kinh tế…
Các nhân tố tự nhiên
Yếu tố tự nhiên cũng là một trong các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những biến đổi bất thường của khí hậu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành xây dựng nói chung của Lanmak nói riêng. Ngày nay, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với sự khan hiếm của các nguồn lực đầu vào, thiếu năng lượng… làm cho chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng làm gây ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.2.1.2.2 Nhóm các điều kiện vi mô
Mức độ cạnh tranh giữa các đối thủ
Thực hiện chương trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cùng với sự tiến bộ của đời sống nhân dân. Điều này làm cho hoạt động xây dựng tại Việt Nam những năm gần đây rất sôi động và đa dạng ở nhiều lĩnh vực như xây dựng các khu công nghiệp, đô thị, giao thông đô thị, cầu cống… đã tạo cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp xây dựng nói chung và cho công ty nói riêng. Hiện nay trên thị trường xây dựng xuất hiện nhiều công ty, tổng công ty, tập đoàn.
Trong ngành xây dựng công ty Lanmak gặp rất nhiều trở ngại do đây là ngành mà có rất nhiều công ty tham gia và sức cạnh tranh của họ cũng rất lớn về mặt nhân lực, tài chính cũng như kinh nghiệm trong thi công xây lắp. Các đối thủ cạnh tranh của công ty không những là các tổng công ty lớn: Tổng công ty Sông Đà; Tổng công ty Vinaconex; Tổng công ty xây dựng Trường Sơn, Lũng Lô; Tổng công ty xây dựng Thăng Long… Và một số công ty khác như: Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Thanh Nam, công ty cổ phần đầu tư và xây dựng Licogi 18, công ty cổ phần._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26751.doc