Lời nói đầu
Vào cuối năm 1987, hệ thống ngân hàng Việt Nam là ngân hàng một cấp, chưa có ngân hàng thương mại ( NHTM ), ngân hàng Nhà nước thực hiện cả chức năng huy động và cho vay, nhưng chủ yếu phục vụ cho thành phần kinh tế quốc doanh còn thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không có sự hỗ trợ vốn từ ngân hàng. Sau năm 1988, ngành ngân hàng Việt Nam đã chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp đồng thời các NHTM ngoài quốc doanh cũng được thành lập nhằm thử nghiệm phương thức huy động lượng tiề
30 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng Thương mại , để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n mặt còn lưu thông ngoài ngành ngân hàng, hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thiếu vốn hoạt động. Từ đó, hoạt động kinh doanh ngân hàng ở nước ta đã bắt đầu xuất hiện tính cạnh tranh trên thị trường mà tập trung chủ yếu vào hoạt động đầu tư tín dụng, huy động vốn và các dịch vụ ngân hàng.
Trong quá trình phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách mở cửa nền kinh tế thúc đẩy bởi các chương trình tự do thương mại, phát triển kinh tế nhiều thành phần, cũng như việc chuẩn bị tham gia các khối thương mại tự do và các thị trường chung đã làm tăng thêm sức ép cạnh tranh lên các ngân hàng Việt Nam đang còn non trẻ. Mức độ cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng ngày càng cao và đối thủ cạnh tranh của mỗi ngân hàng ngày càng nhiều, đa dạng. Hơn nữa trong giai đoạn gần đây, khi hầu hết các ngân hàng đang trong tình trạng ứ đọng vốn và thiếu dự án đầu tư thì quá trình cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt. Điều đó đòi hỏi các NHTM cần phải quan tâm hơn và phải có đầu tư thích đáng để có những nghệ thuật cạnh tranh hợp lý nhằm ổn định và phát triển hoạt động kinh doanh của mình. Lúc này sức mạnh cạnh tranh của bản thân mỗi ngân hàng mang ý nghĩa sống còn. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM là hết sức cần thiết.
Trong phạm vi đề tài cho phép, đề án này nghiên cứu và giải quyết những vấn đề sau:
- Vấn đề một là: “Cơ sở lý luận”.
- Vấn đề hai là: “Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam”.
- Vấn đề ba là: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ở Việt Nam”.
Với những hiểu biết còn nhiều hạn chế, em rất mong nhận được sự giúp đỡ và chỉ dẫn của thầy giáo Trần Đăng Khâm về những sai sót trong quá trình làm bài.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I : Cơ sở lý luận
1. Cạnh tranh là gì?
Cạnh tranh là một hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nhằm giành giật những diều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
Cạnh tranh có hai hình thức là cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được trội hơn so với giá trị thặng dư bình thường nhờ giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá. Lợi nhuận siêu ngạch trong giai đoạn tự do cạnh tranh có đặc diểm là tạm thời, không ổn định. Vì vậy để cạnh tranh các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản để giá trị cá biệt của hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội.
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi tiêu thụ có lợi hơn. Biện pháp cạnh tranh là tự do di chuyển tư bản, tức là tự phát phân phối tư bản (c và v) vào các ngành sản xuất khác nhau.
Nước ta đang ở trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Mà cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải có khả năng cạnh tranh cao. Ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật này. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là cạnh tranh trong nội bộ ngành. Các ngân hàng muốn cạnh tranh tốt phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản.
2. NHTM và các hoạt động cơ bản của NHTM:
2.1. Ngân hàng thương mại:
Trên quan điểm lịch sử, ngân hàng trước hết là những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ được sự tín nhiệm của khách hàng, nó trở thành trung tâm tín dụng,trung tâm tiền tệ và trung tâm thanh toán. NHTM là loại hình ngân hàng xuất hiện đầu tiên.Các NHTM huy động vốn chủ yếu dưới dạng :Tiền gửi có thể phát séc, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn.Sau đó họ dùng vốn này để thực hiện cho vay :cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay thế chấp và để mua các chứng khoán chính phủ, các trái phiếu chính quyền địa phương. Ngoài ra, NHTM còn thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, thanh toán và các dịch vụ theo quy định của nhà nước. Đây là loại hình tổ chức tài chính cung cấp 1 danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán- và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
NHTM hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng nên có liên quan đến tất cả các ngành, các mặt của đời sống kinh tế xã hội, do vậy NHTM có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. NHTM là nguồn cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng (cá nhân, hộ gia đình) và với hầu hết các cơ quan chính quyền địa phương; là nơi cung cấp séc, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng; là nơi tư vấn về các thông tin tài chính hay lập kế hoạch về tài chính. Trên toàn thế giới, NHTM là loại hình tổ chức trunh giân tài chính cung cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất. Trong mọi thời kỳ, NHTM là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phát hành đẻ tài trợ cho các công trình công cộng. NHTM cũng là một trong những tổ chức tài chính cung cấp vốn lưu động quan trọng nhất cho doanh nghiệp. NHTM dù ở quốc gia nào cũng đều là nhóm trung gian tài chính lớn nhất. Tổng tài sản có của NHTM có khối lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Các NHTM còn có vai trò quan trọng trong quá trình cung ứng tiền tệ ra lưu thông do các tài khoanr tiền gửi không kỳ hạn (dặc biệt là tài khoản séc) của chúng là bộ phận quan trọng trong tổng lượng tiền. Hơn nữa, dự trữ ngân hàng là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ. Hệ thống ngân hàng có thể tác động đến sự phát triển của tất cả mọi lĩnh vực và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Có thể nói rằng sự hoạt động hiệu quả của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự hưng thịnh của nền kinh tế.
Những vai trò to lớn của ngân hàng như đã đề cập ở trên đều xuất phát từ các hoạt động của ngân hàng. Các hoạt động này lại có tính chất đặc thù rất khác với các doanh nghiệp khác. Vì vậy, trước khi đề cập đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng chúng ta phải tìm hiểu về các hoạt động cơ bản của ngân hàng.
2.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng.
NHTM hoạt động theo ba nghiệp vụ chính đó là nghiệp vụ nợ (huy động tạo nguồn vốn), nghiệp vụ có (cho vay đối với nền kinh tế) và nghiệp vụ trung gian (thanh toán hộ khách).
2.2.1 Nghiệp vụ nợ.
Đây là nghiệp vụ huy động tạo nguồn vốn của NHTM. Việc huy động vốn được phản ánh thông qua cơ cấu nguồn vốn của NHTM. Nguồn vốn của NHTM bao gồm:
+ Vốn của ngân hàng: là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng. Nó bao gồm vốn tự có và vốn coi như tự có.
- Vốn điều lệ: là vốn ban đầu của ngân hàng, được hình thành ngay khi ngân hàng mới được thành lập. Vốn điều lệ có thể điều chỉnh tăng lên trong quả trình hoạt động ngân hàng. Nó có thể do ngân hàng cấp đối với NHTM quốc doanh, có thể là vốn góp của cổ đông đối với ngân hàng cổ phần. Quy mô vốn điều lệ của NHTM lớn hay nhỏ là tuỳ thuộc vào quy mô của NHTM và không được nhỏ hơn vốn pháp định quy định cho ngân hàng đó. Vốn điều lệ được sử dụng vào mục đích mua sắm tài sản, trang thiết bị ban đầu cần thiết cho hoạt động ngân hàng; phát triển kỹ thuật ngân hàng; hùn vốn và liên doanh; kinh doanh (cho vay) và các dịch vụ khác của ngân hàng.
- Vốn coi như tự có: bao gồm các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của ngân hàng. Thí dụ như : lợi nhuận chưa chia, tiền lương chưa đến hạn thanh toán hoặc các quỹ chuyên dùng chưa sử dụng đến như quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao tài sản cố định...
- Vốn dự trữ : được hình thành từ lợi nhuận ròng hàng năm của ngân hàng. Từ vốn này các nhà ngân hàng thành lập hai quỹ: quỹ dự trữ để bổ sung vốn điều lệ và quỹ đặc biệt để bù đắp rủi ro. Việc hình thành các quỹ này nhằm làm tăng vốn tự có của ngân hàng, đồng thời bảo đảm an toàn trong kinh doanh.
Vốn của ngân hàng thường chiếm tỉ trọng nhỏ (không quá 10%) trong tổng nguồn vốn mà ngân hàng nắm giữ nhưng lại là nguồn vốn có ý nghĩa đặc biệt vì nó phản ánh thực lực tài chính của ngân hàng, do vậy nó quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tiến hành kinh doanh, thu hút những nguồn vốn khác và cho vay.
+ Vốn huy động: là nguồn vốn quan trọng nhất trong số vốn thu hút từ bên ngoài của các NHTM, chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong nguồn vốn của ngân hàng. Đây là tài sản của các chủ sở hữu, ngân hàng được quyền sử dụng có thời hạn cả vốn lẫn lãi. Vốn này bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào. Tiền gửi không kỳ hạn được để trong các tài khoản gọi là tài khoản vãng lai. Do tính chất có thể rút ra bất cứ lúc nào nên dạng tiền gửi này thường chỉ được hưởng lãi suất rất thấp hoặc không được ngân hàng trả lãi nhưng đổi lại người gửi tiền được sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Với loại tiền gửi này, người gửi không nhằm mục đích hưởng lãi mà chủ yếu là nhằm đảm bảo an toàn cho khoản tiền. Chính vì vậy mà loại tiền gửi này còn được gọi là tiền gửi thanh toán. Tiền gửi không kỳ hạn là một nguồn vốn quan trọng của ngân hàng. Tuy nhiên nguồn vốn này thường xuyên biến động nên ngân hàng chủ yếu dùng nó để cho vay ngắn hạn.
- Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà người gửi chỉ được rút ra sau một thời hạn nhất định từ một vài thánh đến vaì năm. Những người gửi tiền loại này không được hưởng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, nhưng được ngân hàng trả lại cao. Mục đích chủ yếu của những người gửi tiền có kỳ hạn là để lấy lãi.
- Tiền gửi tiết kiệm: là khoản tiền để dành của cá nhân được gởi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi theo định kỳ. Các kỳ hạn gởi thường là 1, 3, 6, 9, 12 tháng hoặc trên một năm, các mức lãi suất tương ứng với từng kỳ hạn gửi được ngân hàng công bố sẵn.
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng kinh doanh. Nó phản ánh bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay.
+ Vốn đi vay: bao gồm vay của ngân hàng nhà nước; vay ngân hàng nước ngoài, vay các tổ chức tín dụng, vay từ thị trường tài chính... NHTMcó trách nhiệm sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả kinh tế, đem lại lợi nhuận, hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi.
+ Các nguồn vốn khác:
- Vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn uỷ thác đầu tư để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng cơ bản tập trung của nhà nước hoặc trợ giúp cho đầu tư phát triển những chương trình dự án có mục tiêu riêng.
- Vốn hình thành trong quá trình hoạt động nghiệp vụ, sử dụng theo quy định của ngân hàng nhà nước.
2.2.2. Nghiệp vụ có.
Nghiệp vụ này bao gồm các nghiệp vụ liên quan đến việc sử dụng các khoản vốn có được từ nghiệp vụ tài sản nợ.
+ Nghiệp vụ ngân quỹ: với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, ngân hàng luôn giữ một lượng tiền mặt dưới các dạng: tiền mặt tại quỹ của ngân hàng (để thực hiện chi trả trong ngày); tiền gửi tại các NHTM khác (để thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng); tiền gửi tại ngân hàng trung ương (bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán); tiền mặt trong quá trình thu. Ngoài ra ngân hàng còn giữ các chứng khoán ngắn hạn, có thể chuyển thành tiền mặt nhanh chóng khi cần như ngân phiếu, tín phiếu, thương phiếu...
+ Nghiệp vụ cho vay và đầu tư :
- Nghiệp vụ cho vay : chiếm khoảng 2/3 tổng tài sản có, mang lại lợi nhuận chủ yếu cho NHTM. Đây là khoản mục sinh lời cao nhất nhưng nó cũng chứa rất nhiều rủi ro. Tuỳ theo từng góc độ mà người ta chia thành nhiều loại cho vay khác nhau:
Căn cứ vào thời hạn người ta chia thành:
Cho vay ngắn hạn với thời hạn dưới một năm, chủ yếu đấp ứng nhu cầu bổ sung cho vốn lưu động để tăng thêm tài sản lưu động.
Cho vay trung hạn và cho vay dài hạn chủ yếu đáp ứng nhu cầu bổ sung cho vốn cố định để tăng thêm tài sản cố định.
Căn cứ vào đối tượng sản xuất chia thành:
Cho vay đối với khu vực sản xuất như cho vay đối với lĩnh vực công nghiệp, sản xuất nông nghiệp... Tạo ra sản phẩm.
Cho vay đối với khu vực sản xuất lưu thông phân phối trong lĩnh vực thương nghiệp hoặc y tế, văn hoá, thể thao.. trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp.
Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay:
Cho vay mang tính chất đầu tư là việc cung cấp vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất, là hình thức bổ sung thêm nguồn vốn vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của người có nhu cầu vay vốn.
Cho vay mang tính chất thanh toán chi trả: những khoản vay này mang tính chất tạm thời trong khoảng thời gian doanh nghiệp chưa kịp thu tiền bán hàng hoá để thanh toán cho việc mua hàng hay trả dịch vụ. Đây là khoản bổ sung tạm thời giúp cho doanh nghiệp đó thanh toán các khoản nợ nần chứ không phải làm tăng nguồn vố của doanh nghiệp.
Cho vay mang tính chất dự trữ : người có nhu cầu vay vốn không dùng vốn vay mở rộng sản xuất, mà để thanh toán tiền hàng hoá với thời gian dài nhằm phục vụ cho việc dự trữ hàng hoá.
Căn cứ vào nghiệp vụ cho vay:
Cho vay theo nghiệp vụ kỳ phiếu tức là thực hiện cho vay bằng việc chiết khấu kỳ phiếu thương mại khi các kỳ phiếu này chưa đến hạn thanh toán. Hoặc thông qua các kỳ phiếu này dùng để đảm bảo cho tiền vay là hình thức cho vay theo nghiệp vụ cầm cố kỳ phiếu.
Cho vay theo nghiệp vụ chứng khoán: đây là cấp phát vay kinh doanh chứng khoán.
- Nghiệp vụ đầu tư : NHTM có thể đầu tư theo các hình thức góp vốn liên doanh, kinh doanh bất động sản, lưu giữ chứng khoán.
2.2.3. Nghiệp vụ trung gian:
ở nghiệp vụ này NHTM không cho khách hàng vay mà thực hiện nhiệm vụ phục vụ khách như thực hiện các uỷ thác, uỷ nhiệm của khách hàng trong khâu thanh toán, đòi nợ, giữ hộ... để thu lệ phí.
Nghiệp vụ chuyển tiền.
Khách hàng mang tiền mặt tới ngân hàng nhờ chuyển đến người thứ ba, về mặt kỹ thuật các nghiệp vụ này được thực hiện nhờ các chứng từ chuyển tiền như các séc,phiếu chuyển tiền... Các chứng từ này là lệnh của một ngân hàng khác cho tài khoản của ngân hàng này mở tại đó thanh toán số tiền tương ứng.
Nghiệp vụ thanh toán chứng từ (còn gọi là nghiệp vụ thu hộ hay uỷ thác):
Ngân hàng thay mặt khách thu tiền theo uỷ nhiệm với các chứng từ kèm theo.
Nghiệp vụ thư tín dụng có hai loại: thư tín dụng hàng hoá và thư tín dụng tiền tệ.
Thực hiện nghiệp vụ thư tín dụng hàng hoá là việc người mua hàng hoá không trả trợc tiếp tiền cho bên bán mà thông qua ngân hàng, uỷ nhiệm ngân hàng trả số tiền đó với điều kiện đã nhận hàng hay chứng từ hàng hoá tương ứng.
Nghiệp vụ thư tín dụng tiền tệ khác với thư tín dụng hàng hoá. Thư tín dụng tiền tệ là một chứng từ ngân hàng cấp cho khách, chứng thực việc khách hàng có tại ngân hàng một khoản tiền, có quyền nhận trong giới hạn tổng số tiền đó (toàn bộ hay một phần) ở các thành phố khác, nước khác tại chi nhánh hay đại lý của ngân hàng đó: Thư tín dụng tiền tệ là một loại đặc biệt của chuyển tiền, được sử dụng thông dụng trong việc đi du lịch của khách.
Các nghiệp vụ thu hộ là nghiệp vụ mà ngân hàng thay mặt khách hàng nhận tiền theo các chứng khoán khác nhau như séc, kỳ phiếu, các chứng từ hàng hoá và chứng khoán có giá. Thu hộ séc có liên quan đến việc các khách hàng nhận chi trả bằng séc lập tại ngân hàng khác. Việc chuyển séc đến ngân hàng thu hộ có nghĩa là khách hàng uỷ nhiệm cho ngân hàng của mình nhận tiền chi trả. Thu hộ là nghiệp vụ trung gian với diều kiện kèm theo các chứng từ.
Đối với các nghiệp vụ uỷ thác ngân hàng thực hiện uỷ nhiệm của các khách hàng gồm có: Tạm thời quản lý tài sản hộ khách hàng, thực hiện các uỷ nhiệm về chuyển quyền thừa kế tài sản.
Nghiệp vụ phát hành chứng khoán.
Đây là nghiệp vụ quan trọng nhất trong các nghiệp vụ trung gian. Các công ty cổ phần, các doanh nghiệp muốn phát hành chứng khoán có giá trị như cổ phiếu, kỳ phiếu đầu tư có mục đích, trái khoán xí nghiệp nhằm thu hút vốn để tăng nguồn vốn, bổ sung vào vốn. Hay khi Nhà nước phát hành công trái thì thường nhờ các ngân hàng, thông qua NHTM làm trung gian tiêu thụ các chứng khoán có giá đó, và được nhận số tiền thù lao tỷ lệ quy định từ người phát hành. Nghiệp vụ này ngày càng phát triển trong nền kinh tế hiện đại.
3. Các yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh.
Hoạt động của các NHTM rất phong phú và đa dạng nên có rất nhiều yếu tố ảnh hưởn đến khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng (bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan). Hơn nữa, các quan điểm khác nhau cũng sẽ dẫn đến các cách phân chia yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng khác nhau. Vì khuôn khổ đề án có hạn và kiến thức hạn chế, em xin chỉ đề cập đến một vài yếu tố cơ bản sau:
3.1. Quy mô vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu của NHTM đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và bảo đảm cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài.
Nguồn vốn này đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản, vì vốn giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề và đưa ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động sinh lời.
Vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ (kể cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cần phải đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng được các nhu cầu tín dụng của họ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn. Hơn nữa, quy mô vốn lớn mạnh sẽ giúp cho ngân hàng huy dộng được nhiều vốn hơn, do các khách hàng thường có quan niệm gửi tiền vào các ngân hàng lớn thì sẽ yên tâm hơn.
Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi một ngân hàng phát triển, nó cần vố bổ sung để thúc đảy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn với sự ra đời của những dịch vụ mới và những trang thiết bị mới. Sự bổ sung vốn sẽ cho phép ngân hàng mở rộng trụ sở, xây dựng thêm những văn phòng chi nhánh để theo kịp với sự phát triển của thị trường và tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng.
Vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì ổn định, lâu dài. Có nghĩa là vốn ngân hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và của những tài sản rủi ro khác.
Ngoài ra, quy mô vốn lớn giúp cho ngân hàng có thể đáp ứng được mọi nhu cầu về vốn của doanh nghiệp. Với các khoản cho vay kinh doanh giá trị lớn thì chỉ có những ngân hàng hàng đầu với trạng thái vốn chủ sở hữu dồi dào mới có thể đáp ứng được. Những ngân hàng có quy mô vốn giảm sút sẽ mất đàn vị trí trên thị trường cho vay kinh doanh giá trị lớn. Như vậy, quy mô vốn của một ngân hàng càng cao khả năng tham gia vào thị trường càng lớn và ngược lại. Hay nói cách khác, quy mô vốn của một ngân hàng xác định phạm vi cạnh tranh của ngân hàng đó.
3.2. Hệ thống thông tin.
Khó có thể tưởng tượng nổi một doanh nghiệp kinh doanh trong môi trường luôn biến động và cạnh tranh gay gắt như ngày nay mà không cần đến thông tin. Thông tin đã trở thành vấn đề thiết yếu, không thể thiếu bởi các lý do sau:
- Thông tin là cơ sở quan trọng trong hoạch định chiến lược kinh doanh cũng như xây dựng kế hoạch tác nghiệp mang tính khả thi cao.
- Thông qua thông tin p0hản hồi người quản lý theo dõi được tốc độ thực hiện kế hoạch, phát hiện những lệch lạc trong xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch; từ đó đưa ra những điều chỉnh kịp thời.
- Dựa vào thông tin trong quá khứ, hiên tại và các phương pháp dự đoán thích hợp, người quản lý tiên đoán được hiện tượng trong tương lai, giúp cho họ chủ động hơn trong điều hành công việc.
Có hai luồng thông tin cơ bản mà người quản lý quan tâm. Đó là thông tin bên ngoài doanh nghiệp và thông tin bên trong doanh nghiệp.
Luồng thông tin bên ngoài sẽ cung cấp cho người quản lý những diễn biến thay đổi của môi trường kinh tế, dân số, văn hoá, xã hội, chính trị, luật pháp, tự nhiên, công nghệ, đối thủ cạnh tranh, nhu cầu khách hàng... từ đó người quản lý sẽ thấy được các cơ hội kinh doanh tốt cũng như những mối đe doạ đối với ngân hàng mình.
Luồng thông tin bên trong cung cấp cho người quản lý biết rõ các điểm mạnh và điểm yếu của các nguồn lực khác nhau trong ngân hàng mình.
Trên cơ sở hai luồng thông tin đó, người quản lý có thể dự đoán trước được những điều gì sẽ xảy ra đối với ngân hàng mình nếu cứ tiếp tục kinh doanh như hiện tại và chủ động đề ra các phương án huy động các nguồn lực một cách tối ưu nhất, nhằm đối phó thành công với những biến đổi bất lợi của môi trường kinh doanh, giữ vững vị thế cạnh tranh của ngân hàng mình.
Ngày nay thông tin được sử dụng như một nguồn lực kinh tế, một vũ khí trong môi trường cạnh tranh. Các tổ chức kinh tế nói chung, ngân hàng nói riêng phải sử dụng thông tin ngày càng nhiều để tăng năng lực, tăng hiệu quả trong hoạt động và đem lại lợi ích cho nền kinh tế cũng như cho ngân hàng.
3.3. Khả năng cung ứng dịch vụ ngân hàng.
Khả năng cung ứng dịch vụ ngân hàng thể hiện ở việc phục vụ kịp thời, thuận tiên và tính linh hoạt của dịch vụ. Muốn vậy, các ngân hàng phải mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả các dịch vụ ngân hàng hiện có, đồng thời đa dạng hoá các sản phẩm cung cấp cho nền kinh tế và các kênh phân phối dịch vụ với công nghệ tiên tiến.
Các ngân hàng mạnh không chỉ thể hiện ở chỗ cung ứng một khối lượng tín dụng lớn cho thị trường mà là ở chỗ phương thớc cấp tín dụng như thế nào. Đối với các ngân hàng tiên tiến, họ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp với một lãi suất đầu vào - đầu ra tối thiểu, bùlại họ có rất nhiều nguồn thu nhập từ các dịch vụ khác, giúp cho doanh nghiệp chuyển tải vốn vay một cách kịp thời đúng lúc, đúng nơi và trôi chảy. Hơn nữa một doanh nghiệp kinh doanh đa năng sẽ có nhiều lợi thế trong nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bởi vì:
- Đa dạng hoá nghiệp vụ giúp ngân hàng phân tán và giảm rủi ro. Theo nghiệp vụ truyền thống và cổ điển, ngân hàng thu lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín dụng, nhưng tín dụng lại là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro và bất trắc. Vì thế, thực hiện kinh doanh nhiều nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng khác bên cạnh nghiệp vụ tín dụng sẽ giúp phân tán và giảm rủi ro.
- Đa dạng hoá nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng sẽ làm tăng lợi nhuận của NHTM: khi thực hiên đa dạng hoá nghiệp vụ, dịch vụ NHTM sẽ sử dụng triệt để, có hiệu quả cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ của mỗi ngân hàng; do vậy giảm chi phí quản lý và chi phí hoạt động, tăng lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.
- Chỉ khi thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng mới cung cấp đượcnhiều loại dịch vụ ngân hàng một cách nhanh chóng, linh hoạt, có chất lượng cho khách hàng và cho nền kinh tế. Hơn nữa, việc phục vụ khách hàng theo phương thức “trọn gói” bao giờ cũng ưu việt hơn phương thức riêng lẻ.
- Tăng khả năng cạnh tranh của NHTM trong nền kinh tế thị trường: để thu hút được nhiều khách hàng hơn, các ngân hàng phải thay đổi, cải tiến hoạt động sao cho đáp ứng kịp thời, thuạn tiên các nhu cầu của khách hàng. Những ngân hàng hoạt động đơn điêu dễ bị phá sản hoặc tự đóng cửa do không dễ dàng chuyển hướng kinh doanh hay giữ cho ngân hàng luôn hoạt động ổn định.
Ngoài việc đa dạng hoá dịch vụ thì đa dạng hoá các kênh phân phối cũng là một trong những yếu tố quan trọng trong việc nâng coa khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Đa dạng hoá các kênh phân phối sẽ giúp cho các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng nhanh chóng đến tay khách hàng.
3.4. Chiến lược khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng chính là người đóng vai trò quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của một công ty, một tổ chức hoặc cá nhân tiến hành kinh doanh, cung cấp các sản phẩm dịch vụ trong thị trường. Khách hàng là người lựa chọn sản phẩm, hãng kinh doanh trên thị trường phù hợp với nhu cầu của mình. Nếu doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm không phù hợp với thị trường thì dù cho sản phẩm đó có chất lượng tốt đến đâu đi chăng nữa nó cũng không thể tiêu thụ được, doanh nghiệp sẽ lỗ thậm chí sẽ phá sản.
Trong kinh doanh ngân hàng cũng vậy, sự thành công hay thất bại của ngân hàng đều liên quan đến khách hàng. Khách hàng có quyền chọn bất kỳ một ngân hàng nào để gửi tiền, vay tiền hoặc giao dịch. Trước đây, khi chưa có sự thay đổi trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, ngân hàng quốc doanh giữ vai trò độc quyền. Khách hàng muốn có vốn vay hoặc đầu tư bắt buộc phải đến một ngân hàng nhất định tuỳ theo từng lĩnh vực như ngân hàng Công thương Việt Nam chuyên cho vay trong lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chuyên cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp... Khách hàng không có quyền lựa chọn nên các ngân hàng không cần phải quan tam đến khách hàng, họ chỉ cung cấp những dịch vụ mà họ có. Ngày nay, với sự thay đổi lớn trong hệ thống ngân hàng và sự xuất hiện của hàng chục ngân hàng mới, cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng ngày càng trở nên khốc liệt. Nếu các ngân hàng không quan tâm đến nhu cầu của khách hàng, đến khả năng phục vụ, cách tiếp thị, giới thiệu sản phẩm và ngân hàng mình... hay nói ngắn gọn hơn là quan tâm đến chiến lược khách hàng, thì các ngân hàng đó khó mà tồn tại và phát triển được. Các nhà ngân hàng buộc phải chủ động quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu và mong muốn của khách hàng, ngân hàng cần phải nắm bắt nhanh chóng, chính xác nhu càu của khách hàng để có thể đáp ứng kịp thời. Hơn nữa, sản phẩm mà các ngân hàng cung cấp cho khách hàng thường ít có tính khác biệt, vì vậy chỉ cần ngân hàng có chiến lược khách hàng tốt như thái độ nhân viên hoà nhã, dịch vụ thuân tiện, quảng cáo rộng rãi...thì ngay lập tức ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn.
3.5. Chất lượng nhân viên ngân hàng.
Chúng ta đều biết ngân hàng thuộc ngành kinh doanh dịch vụ, vì vậy có thể nói chất lượng nhân viên ngân hàng là một yếu tố quan trọng để kiến tạo sức mạnh cạnh tranh của các NHTM.
Nhân viên ngân hàng là người trực tiếp thực hiện các chiến lược kinh doanh (bao gồm cả chiến lược cạnh tranh) của các NHTM.
Trong quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàng, nhân viên ngân hàng chính là một “hiện hữu” chủ yếu của dịch vụ. Vì vậy với kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, nhân viên ngân hàng có thể làm tăng thêm giá trị cho dịch vụ cũng như làm giảm đi, thậm chí làm hỏng giá trị của dịch vụ.
Bằng việc gây thiện cảm với khách hàng trong quá trình giao dịch, nhân viên ngân hàng đã trực tiếp tham gia quá trình xúc tiến bán dịch vụ.
Đa số các ý tưởng cải tiến dịch vụ hoặc cung ứng dịch vụ được đề xuất bởi một nhân viên ngân hàng.
Là lực lượng chủ yếu chuyển tải những thông tin tín hiệu từ thị trường, từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh đến các nhà hoạch định chính sách ngân hàng.
Nhân viên ngân hàng có trình độ chuyên môn cao thì sẽ làm giảm rủi ro trong các khoản vay. Ngoài ra, họ còn có khả năng thực hiện tốt vai trò tư vấn, giúp đỡ khách hàng trong việc thực hiện các dự án, phương án sản xuất kinh doanh.
Tóm lại, chất lượng nhân viên ngân hàng càng cao, lợi thế cạnh tranh của ngân hàng càng lớn.
3.6.Các yếu tố khác.
- Hiện đại hoá công nghệ: hiện đại hoá công nghệ sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác. Ngoài ra, công nghệ hiện đại còn giúp cho ngân hàng mở rộng thêm loại hình dịch vụ cũng như thị trường hoạt động của mình.
- Vị trí, địa điểm kinh doanh: ngân hàng có địa điểm kinh doanh tốt, ở những nơi tập trung dân cư, gần những trung tâm thương mại lớn sẽ có nhiều khả năng tiếp cận với khách hàng hơn. Nếu ngân hàng đặt trụ sở ở cạnh ngân hàng khác có nhiều ưu thế hơn hoặc nơi đặt trụ sở không phù hợp thì sẽ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, làm giảm khả năng cạnh tranh.
- Danh tiếng và uy tín ngân hàng: được tạo ra từ chính mức độ thoả mãn của khách hàng trong các lần giao dịch trước, từ những người quen biết, truyền miệng, từ quảng cáo... Dịch vụ ngân hàng là vô hình, khách hàng không thể thử trước dịch vụ mình định mua, vì vậy cơ sở dẫn đến quyết định giao dịch với ngân hàng của khách hàng là hoàn toàn dựa vào danh tiếng và uy tín của ngân hàng. Vì thế đây là nguồn lực vô hình có giá trị lớn lao tạo nên sức mạnh cạnh tranh cho các NHTM.
- Giá cả dịch vụ: cơ chế lãi suất hợp lý sẽ là một cơ hội để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế đồng thời NHTM sẽ phải hạ thấp lãi suất đầu ra nhằm tăng trưởng tín dụng trên cơ sở hạn chế tối đa các chi phí không cần thiết.
Chương II : Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng ở việt nam
1. Hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam.
1.1. Tổng quan về hệ thống NHTM Việt Nam.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phát triển và biến đổi qua một quá trình lịch sử lâu dài, đến nay nó bao gồm nhiều loại hình NHTM với những hình thức sở hữu khác nhau, tổ chức và hoạt động dưới một hành lang pháp lý với văn bản quy phạm pháp luật cao nhất là luật các tổ chức tín dụng. Theo luật các tổ chức tín dụng cũng như trên thực tiễn hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã bao gồm nhiều loại hình ngân hàng khác nhau: ngân hàng quốc doanh (100% sở hữu của Nhà nước); chi nhánh ngân hàng nước ngoài (100% sở hữu của ngân hàng nước ngoài); ngân hàng liên doanh (sở hữu hỗn hợp giữa ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài); ngân hàng cổ phần (sở hữu cổ phần giữa Nhà nước, nhân dân, có thể có sở hữu cổ phần của nước ngoài); ngân hàng hợp tác (sở hữu tập thể).
Tính đến thời điểm 31.7.1999, hệ thống NHTM Việt Nam có 6 ngân hàng quốc doanh, 51 NHTM cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh và 22 chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Ngân hàng quốc doanh: trong số 6 ngân hàng quốc doanh, chúng ta có 4 NHTM quốc doanh (ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng Công thương Việt Nam, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam). Các NHTM quốc doanh hoạt động kinh doanh đa năng, phục vụ mọi ngành, mọi lĩnh vực. Còn 2 ngân hàng quốc doanh là Ngân hàng phục vụ người nghèo và ngân hàng phát triển nhà đồng bằng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35142.doc