MỤC LỤC
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Website Tổng Cục Thống Kê
2. Báo cáo tổng kết năm 2006 của Bộ Thương Mại
3. Chiến lược cạnh tranh, Micheal Porter
4. Thời Báo kinh tế Việt Nam
5. Tạp chí phát triển kinh tế
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập hiện nay cạnh tranh là một xu thế không thể tranh khỏi đối với các doanh nghiệp. Nó buộc các doanh nghiệp phải tự đổi mới mình nếu không muốn bị loại khỏi thương trường,bị loại khỏi cuộc chơi để các đối thủ là các doanh nghiệp khác vượt trên mình.
49 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1465 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp Dệt May Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng nằm trong guồng quay đó.Với quá trình hình thành và phát triển từ rất lâu và nhiều điều kiện thuận lợi có thể nói dệt may là một nghành quan trọng trong hệ thống các nghành trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân và có khả năng cạnh tranh được với các quốc gia khác trên thế giới.Chúng ta phải biết tập trung vào các ngành mũi nhọn để nó trở thành một nguồn thu ngoại tệ chính. Dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngành dệt may Việt Nam hiện nay đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển khá mạnh. Nói thế không có nghĩa là nghành dệt may của Việt Nam là thế lực trên thị trường dệt may thế giới, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là những tập đoàn mạnh về dệt may có thể vượt qua mọi đối thủ khác trong nghành. Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, ngành dệt may đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Pakixtan, Hàn Quốc.... Đặc biệt, từ 1/1/2006, thuế xuất nhập khẩu hàng dệt may từ các nước Asean vào Việt Nam sẽ giảm từ 40-50% như trước đó xuống tối đa còn 5% nên hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập từ các nước trong khu vực.Trên thế giới hiện nay nổi lên rất nhiều các doanh nghiệp tương đối lớn , đặc biệt tập trung vào nghành dệt may.Nổi bật lên đó là các quốc gia đứng đầu về dệt may như Trung Quốc, Đài Loan……liệu các doanh nghiệp dệt may của chúng ta có thể cạnh tranh được với doanh nghiệp dệt may khác trên thị trường quốc tế hay thậm chí là trên chính thi trường trong nước hay không? Đó là câu hỏi mà mỗi chúng ta đều phải suy nghĩ, trăn trở. Ngành dệt may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền đồng bộ chuyên sản xuất một mặt hàng như dây chuyền may sơ mi, may quần âu, quần Jean, complet, hệ thống giặt là... nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao. Xuất khẩu hàng dệt may tuy đạt kim ngạch cao, nhưng chủ yếu làm gia công, ngành dệt vẫn nhập khẩu nhiều và nguyên liệu cho sản xuất của ngành dệt hầu như hoàn toàn nhập khẩu từ nước ngoài.Hiện nay khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến ngành dệt may bị cắt giảm đơn hàng sản xuất, giá thành sản phẩm cũng giảm mạnh. Thị trường xuất khẩu dệt may đang bị thu hẹp, các đơn hàng xuất khẩu bị cắt giảm, và nhiều dự đoán sẽ tiếp tục cắt giảm tới đầu năm 2010. Do đó, ngành dệt may cần có nhiều biện pháp thích hợp, để vượt qua khó khăn từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong năm nay.Với ý nghĩa đó em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam “ nhằm mục đích tìm ra được những hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp dệt may khác trên thị trường dệt may trong bối cảnh cạnh tranh rất khốc liệt và xu thế trong khi nền kinh tế thế giới đang trải qua khủng hoảng.Nội dung đề án chia làm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Chương II:Phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
Chương III.Phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Em xin chân thành cám ơn cô Ts.Lê Hải Hà đã hướng dẫn chúng em có thể hoàn thành đề án môn học đầu tiên này một cách tốt nhất.Trong quá trình bắt đầu viết đề án này không tránh khỏi những sai sót em rất mong những ý kiến đóng góp của cô và các bạn để bổ sung thêm những hiểu biết của mình.
CHƯƠNG I:LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
I.Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối tác cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Cạnh tranh là một phạm trù đã xuất hiện từ rất lâu nó gắn với nền sản xuất hàng hoá,khi mà hàng hoá san xuất ra không phải chỉ đơn thuần để tiêu dùng mà là để trao đổi trên thị trường.Ai cùng muốn hàng hoá của mình được bán với giá cao, được khách hàng mua với số lượng lớn.Tuy nhiên nhu cầu của người tiêu dùng là có hạn mà số lượng các nhà cung cấp lại lớn vì vậy sẽ nổi lên những nhà cung cấp có khả năng bán được hàng hoá nhiều hơn, giá cao hơn những nhà cung cấp khác.Người ta gọi những nhà cung cấp đó những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao.Phạm trù năng lực cạnh tranh chỉ là một yếu tố trong nghĩa cạnh tranh rộng lớn.Trong quá trình nghiên cứu về cạnh tranh, người ta sử dụng khái niệm năng lực cạnh tranh.Năng lực cạnh tranh được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau như năng lực cạnh tranh của một quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ……..Vì vậy chúng ta phải phân biệt để tránh nhầm lẫn giữa năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với các góc độ năng lực cạnh tranh khác.Bản thân nó cũng đã thấy sự khác biệt về đối tượng nghiên cứu nên có lẽ sự nhầm lẫn đáng tiếc có lẽ cũng sảy ra không nhiều.
Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này và có hạn chế về mặt khác. Vần đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Những điểm mạnh và điểm yếu bên trong một doanh nghiệp được biểu hiện thông qua các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp như marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự, công nghệ, quản trị, hệ thống thông tin…Tuy nhiên, để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, cần phải xác định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ; chất lượng sản phẩm và bao gói; kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng; thông tin và xúc tiến thương mại; năng lực nghiên cứu và phát triển; thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp; trình độ lao động;thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị phần; vị thế tài chính; năng lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp hiện nay, thông qua phương pháp so sánh trực tiếp các yếu tố nêu trên để đánh giá năng lực cạnh tranh của mình so với đối tác cạnh tranh. Đây là phương pháp truyền thống và phần nào phản ánh được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là không cho phép doanh nghiệp đánh giá tổng quát năng lực cạnh tranh của mình với đối tác cạnh tranh mà chỉ đánh giá được từng mặt, từng yếu tố cụ thể. Để khắc phục nhược điểm trên, việc nghiên cứu vận dụng ma trận đánh giá các yếu tố môi trường nội bộ, qua đó giúp doanh nghiệp so sánh năng lực cạnh tranh tổng thể của mình với các đối thủ trong ngành là một giải pháp mang tính khả thi cao và được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp.
Chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề rộng hơn về cạnh tranh để từ đó hiểu sâu hơn về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ông tổ của lý luận phương Tây A.Smith cho rằng cạnh tranh có thể làm giảm giá cả sản phẩm và chi phí từ đó tăng năng suất của doanh nghiệp dẫn đên làm lợi cho xã hội. Hơn 200 năm sau thời A.Smith, quan điểm đó ăn sau vào hệ thống lý luận kinh tế ở phương Tây.Cạnh tranh được coi là động lực cho sự phát triển, cạnh tranh diễn ra các mạnh nền kinh tế càng sôi động ,càng có những điều kiện để thuân lợi phát triển trong khi các nguồn lực ngày càng hiếm.Tuy nhiên chúng ta chỉ đè cập đến những cạnh tranh mang tính công bằng, trong sự tích cực.Trong nền kinh tế tri thức, tầm quan trọng của cạnh tranh không những không thay đổi mà còn được nâng lên rất nhiều.Vì vậy vấn đề năng lực cạnh tranh sẽ trở thành vấn đề đối với doanh nghiệp khi mà trong xu thế hiện nay cạnh tranh là một điều không thể tránh khỏi.Ngày nay để đảm bảo cho yêu cầu tồn tại và phát triển người ta đã tính toán được tỷ lệ lợi nhuận đạt được phải ít nhất bằng tỷ lệ cho việc tài trợ cho những mục tiêu của doanh nghiệp.Vì thế một doanh nghiệp tham gia thị trường không có năng lực cạnh tranh hay năng lực cạnh tranh yếu thì sẽ không thể tồn tại được. Quá trình duy trì sức mạnh của doanh nghiệp phải là một quá trình lâu dài hay đó có thể coi như quá trình duy trì sự sống của doanh nghiệp.
2.Vai trò của cạnh tranh
Tại sao chúng ta phải cạnh tranh? tại sao chúng ta phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình? Đó chính là bởi vì vai trò rất to lớn của chúng không chỉ đối với bản thân doanh nghiệp mà còn đối với người tiêu dùng, đối với toàn bộ nền kinh tế.
Tính đến thời điểm hiện nay, cả nước có khoảng 350 nghìn doanh nghiệp (DN) đăng ký hoạt động theo Luật DN và khoảng gần bốn triệu hộ kinh doanh. Nâng cao năng lực cạnh tranh của DN là một trong những yêu cầu cấp bách hiện nay nhằm giúp DN tiếp tục trụ vững và phát triển trong những năm tới, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của cả nền kinh tế.(14/10/2008)
2.1. Đối với doanh nghiệp
Cạnh tranh như là một công cụ một “cái sàng” để lựa chọn và loại bỏ các doanh nghiệp.Vì vậy nâng cao khả năng cạnh tranh cua doanh nghiệp có vai trò rất to lớn.
Cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.Cạnh tranh tạo ra động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp tìm mọi cách nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển các dịch vụ để quảng bá cho doanh nghiệp mình, cũng như các dịch vụ để tiến hành tiêu thụ sản phẩm một cách nhanh nhất.Bắt đàu từ việc nghiên cứu thị trường, để xác định nhu cầu thị trường để từ đó đưa ra các quyết định sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp đáp ứng được nhu cầu thị trường đó.
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng.Muốn vậy các doanh nghiệp phải áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào trong quá trình sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác quản lý, nâng cao trình độ tay nghề người lao động….từ đó làm cho doanh nghiệp phát triển hơn.
2.2. Đối với người tiêu dùng
Cạnh tranh làm cho hàng hoá có chất lượng tốt hơn, mẫu ma càng ngày càng đẹp và đa dạng để đáp ứng yêu cầu ,nhu cầu phong phú của người tiêu dùng của xã hội.Vì vậy đối với người tiêu dùng cạnh tranh có các vai trò sau:
Người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn các sản phẩm dịch vụ phù hợp vứi túi tiền và sở thích của mình.
Những lợi ích mà người tiêu dùng thu được từ hàng hoá cao hơn, thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu của họ nhờ các dịch vụ đi kèm theo ngày càng được quan tâm hơn.Ví dụ như dịch vụ bảo hành cho sản phẩm …..
2.3. Đối với nền kinh tế
Cạnh tranh được coi như linh hồn của nền kinh tế, vai trò của nó đối với nền kinh tế được thể hiện như sau:
Cạnh tranh là môi trường, động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xoá bỏ nhưng độc quyền, bất bình đẳng, bất hợp lý trong kinh doanh.
Cạnh tranh đảm bảo thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội cực kỳ sâu sắc. Để có thể cạnh tranh được trên thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp các doanh nghiệp phải trang bị khoa học cho mình đồng thời thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Đồng thời trong quá trình đó, một doanh nghiệp hiếm có thể hoạt động tốt và có hiệu quả trong nhiều lĩnh vực mà trong đó có sự cạnh tranh cao, gay gắt.Vì vậy từ cạnh tranh có thể dẫn đến việc một doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động trong một hay hai lĩnh vực mà mình có thế mạnh.
Cạnh tranh thúc đẩy sự đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, kích thích nhu cầu phát triển, làm nảy sinh nhưng nhu cầu mới, góp phần nâng cao chất lượng đời sống xã hội và phát triển nền kinh tế.
Cạnh tranh làm cho nền kinh tế quốc dân vững mạnh, tạo khả năng cho doanh nghiệp vươn ra thi trường quốc tế.
Cạnh tranh giúp cho nền kinh tế nhìn nhận đúng hơn về kinh tế thị trường, rút ra được những bài học thực tiễn bổ sung vào lý luận kinh tế thụ trường của nước ta.
Tuy nhiên bên cạnh những tác động tích cực cạnh tranh cũng nảy sinh những vấn đề tiêu cực như hiện tượng làm hàng giả, buôn lậu trốn thuế……gây nên sự bất ổn của thi trường, làm thiệt hại cho lợi ích của người tiêu dùng và nhà nước.
Phát huy những yếu tố tích cực hạn chế những tác đông tiêu cực của cạnh tranh không chỉ la nhiệm vụ của nhà nước của doanh nghiệp của mà còn là nhiệm vụ của mỗi cá nhân.
III.Các yếu tố cấu thành năng lực canh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa vào các ưu thế của nó so với các doanh nghiệp khác. Ưu thế chính là những thông số hay những đặc tính của sản phẩm nhờ đó sản phẩm có được sự ưu việt sự vươt trội hơn so với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh trực tiếp.Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gồm rất nhiều yếu tố tạo nên, được hình thành nên đòi hỏi thời gian, đầu tư của chính doanh nghiệp đó:
Vị thế của doanh nghiệp trên thương trường: Được đánh giá trên cơ sở uy tín, hình ảnh, thị phần…..Những doanh nghiệp có vị thế cao trên thương trường rất dễ cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.Những doanh nghiệp này có khả năng đa dạng hoá thị trường, phát triển sản phẩm, phát triển thị trường để nâng cao năng lực cạnh tranh.Có thể nói vị thế của doanh nghiệp đó là yếu tố quan trọng trong việc hình thành nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Từ những vị thế đó sẽ tạo cho người tiêu dùng thấy an tâm khi mua san phẩm của doanh nghiệp đó, dẫn đến lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ lớn hơn các doanh nghiệp khác như thế có thể nói là doanh nghiệp đã chiến thắng trong cuộc cạnh tranh với các đối thủ của mình. Bởi vì mục đích của cạnh tranh chính là kiếm được lợi nhuận, bán được sản phẩm do mình làm ra.
Lợi thế về vốn và chi phí: Đây là yếu tố quan trọng trong quá trình cạnh tranh của các doanh nghiệp vì sản phẩm trên thị trường là tương đối đồng nhất thì việc giảm giá bán là một biện pháp rất hiệu quả để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.Trong quá trình kinh doanh lợi thế về vốn khiến cho doanh nghiệp không bị hụt hơi trong những cuộc đua với các doanh nghiệp khác. Đối với một số doanh nghiệp họ chấp nhận thua lỗ trong một vài năm để có thể đánh bại các doanh nghiệp khác bằng cách cạnh tranh về giá.Với tiềm lực vốn lớn họ co thể làm được điều đó, mục tiêu đầu tiên đó là chiếm lĩnh thị trường, khi mà các doanh nghiệp khác với giá bán cao hơn không thể tiêu thụ được sản phẩm chắc chắn sẽ phải rút khỏi thị trường.Mặc dù cũng muốn cạnh tranh về giá hay muốn tạo ra sự khác biệt về sản phẩm nhưng vì nguồn vốn có hạn và cũng không có cách nào giảm chi phí sản phẩm nên cũng đành phải chấp nhận điều đó.
Văn hoá doanh nghiệp: đây là một phạm trù tương đối mới mẻ đối với doanh nghiệp.Tuy nhiên hiện nay nó cũng trở thành yếu tố cấu thành nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đó chính là môi trường trong doanh nghiệp, văn hoá ứng xử của các thành viên trong công ty, các chiến lược, khâủ hiệu, phương châm làm việc của các thành viên…Từ đó tạo ra môi trường làm việc có hiệu quả, giúp cho nhân viên ý thức được trách nhiệm của mình trong việc góp phần xây dựng công ty, doanh nghiệp ngày càng vững mạnh.Có thể đó chỉ là việc rất đơn giản chẳng hạn như tổ chức những buổi vui chơi tập thể cho nhân viên trong những ngày nghỉ hay nhân dịp nào đó……
Sự linh hoạt, nhạy bén của người quản lý doanh nghiệp:Trong bất kỳ một thời đại nào từ trước đến nay, vai trò của người quản lý vẫn luôn luôn được đề cao, quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Sự nhạy bén của người quản lý tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có thể nắm bắt được các cơ hội sản xuất kinh doanh, cơ hội phát triển thị trường. Khi mà thị trương luôn biến động thì người quản lý giỏi phải biết tìm ra những lối đi cho doanh nghiệp của mình. Đồng thời phải biết sử dụng những người, nhân viên co năng lực thực sự, kết hợp họ lại với nhau thành một tập thể vững mạnh để đóng góp cho sự phát triển của công ty.
Khả năng thích ứng: đó chính là khả năng thích nghi với sự thay đổi của môi trường kinh doanh để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Hệ thống đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ: tiêu chuẩn chất lượng mà doanh nghiệp áp dụng nhằm đảm bảo cho chất lượng sản phẩm của mình. Qua việc áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng, hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm làm cho khác hàng tin tưởng vào sản phẩm của doanh nghiệp mình. Đó chính là những quy trình chẳng hạn như tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng an toàn thực phẩm…..
Các dịch vụ hậu mãi sau khi bán: chẳng hạn như các dịch vụ bảo hành sau khi bán, dịch vụ giao hàng tận nhà, các chương trình khuýên mại cho khách hàng khi mua sản phẩm của doanh nghiệp….Từ đó khiến cho khách hàng cảm thấy yên tâm khi mua các sản phẩm của doanh nghiệp.
Kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường: Bao gồm những phương pháp chiến thuật, chiến lược trong kinh doanh. Đây là tài sản vô hình tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
IV:Nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
1.1:Nguồn vật lực và tài chính:
Khả năng tài chính của doanh nghiệp:
Khả năng tài chính của doanh nghiệp quyết định đến việc thực hiện hay không thực hiện một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối của doanh nghiệp.Doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính có khả năng thuận lợi đổi mới công nghệ, đầu tư trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.Khi doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh thì sẽ dễ dàng tham gia những vụ đầu tư có giá trị lớn, từ đó lợi nhận chắc chắn sẽ rất cao. Đồng thời doanh nghiệp cũng có khả năng đa dạng hoá các loại hình kinh doanh của mình.Việc có một tiềm lực tài chính mạnh sẽ giúp doanh nghiệp có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác đặc biệt là cạnh tranh về giá.
Máy móc và thiết bị của doanh nghiệp:
Tình trạng máy móc và công nghệ có ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của mỗi doanh nghiệp và tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, đến giá thành, giá bán sản phẩm.
Có thể khẳng định rằng một doanh nghiệp với một hệ thống máy móc thiết bị và công nghệ tiên tiến cộng với khả nang quản lý tốt sẽ tạo ra được sản phẩm chất lượng tốt, giá thành hạ từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.Ngược lại một doanh nghiệp trong tay sở hữu một công nghệ cũ kỹ lạc hậu sẽ không có khả năng cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác vì chất lượng thì kém hơn rất nhiều nếu không thì giá thành cũng sẽ đắt hơn.Ngày nay việc sở hữu công nghệ tiên tiến có lẽ là điều kiện quan trọng để giúp doanh nghiệp có thể cạnh tranh được với nhau.
Ngày nay việc trang bị công nghệ cho quá trình sản xuất cũng như quy trìnhquản lý diễn ra một cách dễ dàng tuy nhiên doanh nghiệp cần sử dụng với quy mô hợp lý mới đạt được hiệu quả cao.Doanh nghiệp phải biết cách ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào trong chính doanh nghiệp mình.Chẳng hạn như đưa tin học vào trong cách quản lý của mình, thay thế những văn phòng lưu trữ dữ liêu cồng kềnh bằng những phần mềm gọn nhẹ, chính sác và có thể dễ dàng tìm kiếm chỉ bằng những thoa tác rất đơn giản trên máy tính…..
Hệ thống phân phối của doanh nghiệp:
Mạng lưới quản lý phân phối của doanh nghiệp được quản lý điều hành một cách hợp lý thì nó sẽ trở thành phương tiện hiệu quả để tiếp cận khách hàng.Doanh nghiệp chinh phục khách hàng bằng các hình thức mua bán, vận chuyển, thanh toán một cách hợp lý nhất.
1.2.Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực quyết định đến quá trình sản xuất kinh doanh, nó bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Ban giám đốc doanh nghiệp:
Là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất trong doanh nghiệp, những người vạch ra chiến lược, trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với những công ty cổ phần, những tổng công ty lớn ngoài ban giám đốc còn có Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị là người đại diện cho những người chủ sở hữu của doanh nghiệp, quyết định phướng hướng kinh doanh của doanh nghiệp.
Các thành viên của ban giám đốc có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm và khả năng đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ không chỉ đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích trước mắt như: tăng doanh thu, tăng lợi nhuận mà còn uy tín lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp. Đây mới là yếu tố quan trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của doan nghiệp.
Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thành viên ban giám đốc phải là những người gương mẫu tuân theo kỷ luật của doanh nghiệp để cho các thành viên khác noi theo.
Đội ngũ cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp:
Là những người quản lý chủ chốt có kinh nghiệm công tác, phong cách quản lý, khả năng ra quyết định, khả năng xây dựng ê kíp quản lý và hiểu biết sâu rộng lĩnh vực kinh doanh sẽ là một lợi thế quan trọn cho doanh nghiệp.Người quản lý làm việc trực tiếp với nhân viên cấp dưới , với chuyên viên vì vậy trình độ làm việc của họ sẽ giúp họ nảy sinh những ý tưởng mới, sáng tạo phù hợp với sự phát triển và trưởng thành của doanh nghiệp.
Các cán bộ quản lý cấp phân xưởng, đốc công, công nhân:
Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say làm việc của họ là yếu tố tác động rất lớn đến năng lực cạnh tranh cảu doanh nghiệp.Bởi vì khi tay nghề cao kết hợp với lòng hăng say làm việc thì năng suất lao động chắc chắn sẽ cao trong khi chất lượng sản phẩm được bảo đảm. Đây là tiền đề để doanh nghiệp tham gia và đứng vững trong cạnh tranh. Muốn làm được điều này doanh nghiệp cần phải tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động của mình, giáo dục cho họ lòng nhiệt tình, hăng say làm việc phục vụ cho lợi ích công ty và cũng cính là cho lợi ích của chính họ.Tuy nhiên để đạt được điều đó thì doanh nghiệp cần phải có những chế độ đãi ngộ hợp lý cho người lao động: chẳng hạn như tăng lương, chế độ thưởng hợp lý, chế độ lương bổng khi về hưu, công tác bảo hiểm lao động……
2.Các nhân tố bên ngoài
2.1.Các nhân tố về chính trị, pháp luật
Các nhân tố về phát luật có ảnh hưởng mạnh mẽ đên khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nó bao gồm hệ thống luật và các văn bản dưới luật, các công cụ chính sách của nhà nước, tổ chức bộ máy điều hành của chính phủ và các tổ chức chính trị xã hội.
Một thể chế chính trị ổn định, luật pháp rõ ràng rông mở là cơ sở cho việc đảm bảo thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh có hiệu quả.Ví dụ luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến cạnh tranh, đảm bảo sự bình đẳng của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau và trên mọi lĩnh vực; thuế xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Các yếu tố được lưu ý cơ bản:
-Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển xã hội và nền kinh tế của Đảng cầm quyền.
-Chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện các quan điểm mục tiêucủa chính phủ và điều hành của chính phủ.
-Mức độ ổn định chính tri- xã hội
-Thái độ phản ứng của các tổ chức xã hội các nhà phê bình xã hội
-Thái độ phản ứng của dân chúng
2.2.Các nhân tố về mặt kinh tế
Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước:
Nhân tố này có tác đông sâu sắc và nhanh chón đối với từng quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở.Nếu đồng nội tệ tăng lên, giá cả của doanh nghiêp sẽ giảm, khả năng cạnh tranh của nước ngoài kém, khi đó giá bán tính bằng ngoại tệ sẽ cao hơn các đối thủ cạnh tranh.Hơn nữa, khi đông nội tệ lên giá khuyến khích nhập khẩu vì giá cả hàng nhập khẩu sẽ giảm ngay trên thi trường trong nước.Ngược lại khi đồng nội tệ giảm giá khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng trên thị trường trong nước và thi trường nuớc ngoài vì khi đó giá bán hàng hoá sẽ giảm hơn so với đối thủ cạnh tranh kinh doanh hàng hoá do nước khác sản xuất.
Tốc độ tăng trưởng:
Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh toán của họ tăng dẫn đến sức mua tăng. Đây là cơ hội tốt cho các nhà doanh nghiệp, nếu nhà doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng nhu cầu của kháh hàng ( về mặt số lượng, chất lượng, giá bán, mẫu mã) thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công và có khả năng cạnh tranh cao .
Lãi suất cho vay của ngân hàng:
Nhân tố này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh cảu doanh nghiệp bởi vì vôn vay nằm tronh cơ cấu vốn của doanh nghiệp là không thể không thiếu được.Khi lãi suất cho vay của ngân hàng cao dẫn đến chi phí của doanh nghiệp tăng lên do phải trả tiền vay lớn hơn, khả năng cạnh tranh cảu doanh nghiệp kém đi nhất là khi các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực về vốn mạnh.
2.3.Môi trường kinh doanh công nghệ
Nhóm các yếu tố này ngày càng quan trọng và có ý nghĩa chiến lược quyết định đên môi trường cạnh tranh, tác động một cách quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thi trường đólà chất lượng và giá bán. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của các doanh nghiệp, qua đó tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm nói riêng và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung.Hiện nay xu hướng trên thế giới đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh vè chất lượng sản phẩm,cạnh tranh giữa các sản phẩm dịch vụ có hàm lượng khoa học kĩ thuật cao, bởi vì trên thế giới đã có luật chống bán phá giá để khống chế điều này.
Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp các cơ sở sản xuất trong nước tạo ra được những thế hệ công nghệ và kỹ thuật tiếp theo nhằm trang bi và tái trang bị toàn bộ cơ sở sản xuât kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân, đây là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Các yếu tố quan trọng của môi trường này bao gồm:
Tiềm năng của nền kinh tế: là một yếu tố tổng quát phản ánh nguồn lực có thể huy động và chất lượng của nó. Bao gồm: tài nguyên con người, vị trí địa lý và tiềm lực quốc gia.
Hoạt động ngoại thương, xu thế đóng mở của nền kinh tế: tác động mạnh mẽ đến các cơ hội phát triển của doanh nghiệp, các điều kiện của cạnh tranh, khả năng sử dụng ưư thế quốc gia và thế giới công nghệ, nguồn vốn, hàng hoá mở rộng quy mô hoạt động.
Hệ thống thuế, mức độ hoàn thiện và thực thi: liên quan đến sự công bằng trong cạnh tranh, thể hiện ưư thế phát triển trong nền kinh tế và cần được xem xét khi đánh giá cơ hội kinh doanh.
Trình độ trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ của ngành của nền kinh tế :ảnh hưởng đến khả năng sản xuất sản phẩm với các cấp chất lượng, năng suất lao động, khả năng cạnh tranh.
Khả năng nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nền kinh tế: phản ánh tiềm năng phát triển và đổi mới công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý liên quan đến đổi mới ssản phẩm, chu kỳ sống của sản phẩm, khả năng cạnh tranh có tính tiên phong.
2.4.Môi trường cạnh tranh
Cạnh tranh là nhân tố được xác định là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế thi trường với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn, ai thoả mãn tốt hơn nhu cầu, hiệu quả tốt hơn thì người đó sẽ thắng tồn tại và phá triển.Duy trì cạnh tranh bình đẳng, đúng pháp luật là nhiệm vụ của chính phủ. Trong điều kiện đó vùă mở ra các cơ hội để doanh nghiệp kiến tạo hoạt động của mình vừa yêu cầu donh nghiệp phải vươn lên phía trước để vượt qua đối thủ. Các doanh nghiệp cần phải xác định cho mình một chiến lược cạnh tranh hoàn hảo. Chiến lược cạnh tranh cần phải phản ánh được các yếu tố ảnh hưởng của môi trường cạnh tranh bao quanh doanh nghiệp.
Các nhân tố của môi trường cạnh tranh bao gồm:
Điều kiện chung về cạnh tranh trên thị trường:
Các quan điểm khuyến khích hay hạn chế cạnh tranh, vai trò và khả năng của chính phủ trong việc điều kiển cạnh tranh, các quuy định về cạnh tranh và ảnh hưởng của nó trong thực tiễn sản suất kinh doanh có liên quan đến quá trình đánh giá cơ hội kinh doanh và lựa chọn giải pháp kinh doanh.
Số lượng đối thủ:số lượng đối thủ bao gồm
+Các đối thủ cạnh tranh sơ cấp: cùng tiêu thụ một mặt hàng, một loại sả phẩm đồng nhất.
+Các đối thủ cạnh tranh thứ cấp: sản xuất và tiêu thụ những sản phẩm có khả năng thay thế.
Đây là cơ sở để xác định mức độ khốc liệt của cạnh tranh trên thị trường thôngqua đánh giá trạng thái cạnh tranh trên thị trường mà doanh nghiệp tham gia.
Điểm mạnh điểm yếu của các đối thủ cạnh tranh:
Liên quan đến sức mạnh cụ thể của từng đối thủ trên thị trường: quy mô, thị phần, tiềm lực tài chính, kỹ thuật công nghệ, tổ chức quản lý, lợi thế cạnh tranh qua đó xác định được vị thế của đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Chiến lược cạnh tranh của các đối thủ trên thị trường: Liên quan đến mục tiêu, giải pháp cách thức cạnh tranh của từng doanh nghiệp trên thị trường, mỗi doanh nghiệp có thể lụă chọn chiến lược kinh doanh được xây dựng theo vị thế củ._.a doanh nghiệp trên thị trường.
2.5.Các nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp:
Các nhân tố tự nhiên bao gồm tai nguyên thiên nhiên của đát nước, vị trí địa lý, phân bố của chính doanh nghiệp đó.Các nhân tố này tạo ra những điều kiện thuận lợi hay kho khăn ban đầu cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.Nếu tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí ( nguyên vật liệu, chi phí vận chuyển) do đó năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ tăng. Hơn nũă vị trí địa lý tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khuếch trương sản phẩm, mở rộng thị trường. Ngược lại những yếu tố tự nhiên không thuận lợi sẽ tạo ra khó khăn ban đầu cho doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ giảm.
3.Các nhân tố thuộc môi trường ngành
3.1.Các đối thủ tiềm năng
Việc gia nhập ngành của một doanh nghiệp dù không trực tiếp nhưng cũng ảnh hưởng ít nhiều đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khác.Sự xuất hiện của những đối thủ mới thường gây những khó khăn cho doanh nghiệp vì thông thường người đi sau thường có nhiều căn cứ cho việc ra quyết định và những chiêu bài của họ thường mang tính bất ngờ.
3.2.Sức ép của nhà cung ứng
Với vai trò là người cung ứng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, quyền lực của nhà cung ứng thể hiện thông qua sức ép về giá từ đó ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp bị lệ thuộc vào nhà cung ứng quá nhiều.Một số những đặc điêm sau có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiêp thông qua các nhà cung ứng:
Số lượng người cung ứng:Thể hiện mức cung nguyên vật liệu và mức độ lựa chọn nhà cung ứng của các doanh nghiệp cao hay thấp.Nhiều nhà cung ứng tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường nguyên vật liệu nó có tác dụng làm giảm chi phi đầu vàotừ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tính độc quyền của nhà cung ứng: tạo ra cho họ những điều kiện để ép giá các nhà sản xuất, làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua việc gây ra những khó khăn về gía.
3.3.Sức ép của người mua
Người mua tranh đua với các doanh nghiệp bằng cách bắt ép giá giảm xuống mặc cả để có chất lượng tốt hơn, được phục vụ tốt hơn và đồng thời làm cho các đối thủ chống lại nhau.Tất cả đều làm cho doanh nghiệp những thiệt hại dù ít hay nhiều.
3.4. Sự xuất hiện của các sản phẩm thay thế
Sự ra đời của các sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm đáp ứng sự biến động của ngu cầu thị trường theo hướng ngày càng đa dạng hơn, phong phú hơn cao cấp hơn và chính đó lại làm giảm khả năng của các sản phẩm thay thế.Các sản phẩm thay thế đáng quan tâm nhất là :những sản phẩm thuộc về xu thế cải thiện việc đánh đổi tình hình giá cả chung lấy của ngành và hai là do lợi nhuận của ngành cao.Trong trường hợp đó các sản phẩm thay thế sẽ ồ ạt nhảy vào cuộc từ đó doanh nghiệp phải cạnh tranh với các doanh nghiệp có sản phẩm thay thế.Sản phẩm thay thế thường có sức cạnh tranh cao hơn do được sản xuất trong những dây chuyền hiện đại hơn, tiên tiến hơn. Mặc dù chịu sự chống trả của các sản phẩm bị thay thế nhưng các sản phẩm thay thế có nhiều ưu thế hơn do đó sẽ làm thu hẹp thị trường của các sản phẩm bị thay thế. Cách khắc phục của doanh nghiệp là tìm kiếm sản phẩm mới hay tìm kiếm nhu cầu của người tiêu dùng mới.
3.5.Sức ép của các đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong ngành
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trong ngành là một trong những yếu tố phản ánh bản chất của môi trường này .Sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh chính trên thi trường và tình hình hoạt động của chúng là lực lượng tác động mạnh mẽ tức thì tới quá trình hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Trong một ngành bao giờ cũng tồn tại nhiều doanh nghiêp khác nhau nhưng trong đó chỉ có một số đóng vai trò chủ chốt như những đôis thủ cạnh tranh chính có thể khống chế thị trường.
Các ngành mà có một hay một và doanh nghiệp khốngchế thị trường thì cường độ cạnh tranh ít hơn bởi doanh nghiệp thống lĩnh trong việc chỉ đạo giá.Trong trường hợp doanh nghiệp không phai là người thống lĩnh thì khả năng cạnh tranh hầu như là không có hay nói cách khác là năng lực cạnh tranh của doanh nghiêp là yếu.Nhưng nếu ngành chỉ bao gồm một số doanh nghiệp và các doanh nghiệp này có quy mô,thế lực tương đương nhau thì cường độ cạnh tranh sẽ cao để giành thị trường.Khi đó năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ cao khi có lợi thế về sản phẩm, giá cả chất lượng và ngược lại.Cạnh tranh cũng trở nên căng thẳng khi trong mộy ngành có lượng lớn doanh nghiệp vì khi đó một số doanh nghiệp sẽ tăng cường cạnh tranh mà các doanh nghiệp khac không thể nhận ra ngay.
Chú ý chúng ta chỉ quan tâm đên năng lực cạnh tranh của các doanh nghiTệp mà dựa vào các điều kiện chính đáng chứ không phải vì những may mắn hay sự giúp đỡ của thế lực nào đó để có được năng lực cạnh tranh với các đối thủ khác.
CHƯƠNG II:PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM
1.Khái quát thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
Trong những năm qua, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành công trong việc giải quyết việc làm cho người lao động cũng như đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước, từng bước đưa nước ta trở thành một trong 10 quốc gia có ngành dệt may phát triển nhất thế giới. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam không ngừng được gia tăng qua các năm. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này mới chỉ dừng ở 3,6 tỷ USD; thì sang năm 2004 đạt 4,3 tỷ USD và cho đến năm 2008 kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam đặt ra là 9,5 tỷ USD.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trải qua cuộc khủng hoảng thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng không tránh khỏi tình trạng chung đó.
Ngành Dệt may bước vào thực hiện kế hoạch năm 2009 trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục có nhiều diễn biến xấu: ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế ngày càng nặng nề và khó dự đoán. Thị trường xuất khẩu ngày càng thu hẹp do sức mua tại các nước nhập khẩu tiếp tục giảm mạnh, cùng với Ấn Độ, Bănglađet và việc Trung Quốc vừa được dỡ bỏ hạn ngạch đã gây áp lực rất lớn đối với hàng dệt may, da giày của Việt Nam .Bên cạnh đó, từ tháng 2/2009, Ủy ban an toàn sản phẩm tiêu dùng của Hoa Kỳ sẽ kiểm tra nghiêm ngặt hơn các quy định an toàn sản phẩm như tính dễ cháy của vải, cấm tuyệt đối các sản phẩm có thắt dây ở vùng cổ trên áo... Việc giám sát hàng dệt may vẫn còn nguy cơ bị áp đặt trở lại. Tại thị trường EU, các doanh nghiệp Việt Nam không được hưởng quy chế GSP cho mặt hàng da giày Việt Nam nhập khẩu vào EU, việc kiện chống phá giá với giày mũ da chưa được giải quyết đã ảnh hưởng lớn đến mặt hàng này của Việt Nam.Nền kinh tế Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản đều có mức tăng trưởng âm trong năm 2009, ngành Dệt may đã cảm nhận sẽ có những ảnh hưởng không nhỏ đến kim ngạch xuất khẩu. Vì đây là những thị trường nhập khẩu hàng dệt may chính của Việt Nam, nên theo ước tính của ngành dệt may, trong năm 2009, nhu cầu sử dụng hàng dệt may ở các nước trên có khả năng giảm 15%. Thị trường sẽ chật hẹp hơn rất nhiều, và các nhà sản xuất trong và ngoài nước cũng phải cạnh tranh gay gắt hơn. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ phải đối mặt với hai nguy cơ chính trong năm 2009. Thứ nhất: Từ trước tới nay sản phẩm của Việt Nam lấy trọng tâm phát triển hàng cao cấp khá nhiều, nhưng trong bối cảnh kinh tế suy giảm, phân khúc hàng cao cấp cũng sẽ bị thu hẹp bởi người tiêu dùng tiết kiệm chi tiêu từ cao cấp xuống trung cấp.
Thứ hai: Sự cạnh tranh về giá đối với những nước sản xuất lớn như Trung Quốc, Banglades, Indonesia, Ấn Độ… Ngay với thị trường trong nước, đã có những dự báo trong khoảng 3 – 6 tháng tới, hàng dệt may Trung Quốc sẽ được đẩy sang Việt Nam với khối lượng tương đối lớn. Nhiệm vụ trọng tâm được xác định năm 2009 của ngành là duy trì được vị trí trên thị trường, nhiều hơn là thu lợi cao. Vì nếu không biết cách giữ thì qua giai đoạn này, thậm chí còn mất cả vị trí trên thị trường, mất cả doanh nghiệp, mất cả người lao động. Đứng trước khó khăn về thị trường, các Hiệp hội dệt may, da giày dự báo năm 2009: Xuất khẩu hàng dệt may phấn đầu đạt khoảng 9,5 tỷ USD tăng 5% so với thực hiện năm 2008. Xuất khẩu hàng da giày phấn đấu đạt khoảng 5,3 tỷ USD tăng 12% so với thực hiện năm 2008. Ngay cả dịp Tết, các doanh nghiệp (DN) dệt may cũng thất thu đáng kể. Cộng với những khó khăn của các thị trường xuất khẩu đã khiến nhiều DN đứng trước nguy cơ phải đóng cửa, hơn chục nghìn người lao động có khả năng mất việc làm.
Mặc dù Tết là dịp đẩy mạnh bán hàng và đã có nhiều nỗ lực quảng bá tiêu thụ nhưng theo thống kê từ Bộ Công Thương cho thấy, ngành dệt may tháng Tết đã thất thu đáng kể.
Nhóm sản phẩm quần áo cho người lớn bán ra tháng 1/2009 chỉ đạt 94,1% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài lý do người dân tiết kiệm chi dùng, hàng dệt may trong nước đã tỏ ra yếu thế trong cuộc cạnh tranh với quần áo Trung Quốc giá rẻ và mẫu mã đa dạng. Đó là chúng ta đề cập đên tình hinh sản xuất, tiêu thụ của ngành dệt may trong nước còn đối với thị trường xuất khẩu thì ra sao liệu có khả quan hơn không?
Trong lĩnh vực xuất khảu, ngành dệt may đang đối diện với nguy cơ đóng cửa nhiều nhà máy do đơn hàng bị cắt giảm mạnh. Hiện một số doanh nghiệp nước ngoài tại Đồng Nai, Bình Dương, Vũng Tàu, Long An… phải đóng cửa, sa thải hàng loạt công nhân. Tình hình sẽ còn khó khăn hơn khi giá hàng hóa tại các thị trường xuất khẩu chính giảm trên 20%, riêng thị trường nhập khẩu dệt may lớn nhất Hoa Kỳ sẽ cắt giảm nhập khẩu 15% hàng dệt may.. Do đó, số nhân công mất việc trong toàn ngành ước tính có thể lên đến hơn chục ngàn người. Các doanh nghiệp dệt may đã kiến nghị Chính phủ trích 1% từ kim ngạch xuất khẩu để hỗ trợ tài chính cho người lao động trong các xí nghiệp đang gặp khó khăn và có nguy cơ đóng cửa. Kiến nghị này dành cho các doanh nghiệp có thành tích trong xuất khẩu.
Theo số liệu thống kê, trong tháng 2/2009, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta đạt 563 triệu USD, giảm 24% so với tháng 1 và tăng 23% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 2 tháng năm 2009, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,3 tỷ USD, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm ngoái và bằng 11,3% kế hoạch xuất khẩu năm.
Trong tháng 2/2009, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang hầu hết các thị trường chủ chốt đều giảm rất mạnh. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Mỹ giảm 23,67% so với tháng trước, đạt 300,4 triệu USD. Như vậy, hai tháng đầu năm, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị trường Mỹ giảm 4,4% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 700,1 triệu USD.
Do xuất khẩu giảm mạnh trong tháng 2/2009, chỉ đạt 90,7 triệu USD, giảm 37% so với tháng trước, nên kim ngạch xuất khẩu hai tháng đầu năm của nước ta sang EU chỉ tăng 0,71% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 235 triệu USD.
Đáng chú ý, trong khi xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp nước ta sang các thị trường chủ chốt đều giảm mạnh, thì xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và các nước trong khối ASEAN vẫn tăng khá. Tháng 2/2009, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của ta sang Nhật Bản tăng 3,2% so với tháng 1 và tăng 53% so với cùng kỳ năm ngoái. Nâng tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của ta sang Nhật tăng 26,8% so với 2 tháng năm 2008, đạt 138 triệu USD. Đây là tín hiệu tích cực đối với ngành dệt may nước ta. Dự đoán, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt, nhờ việc thực thi Hiệp định miễn thuế hàng hoá xuất nhập khẩu.
Tương tự, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang các nước trong khối ASEAN trong tháng 2/2009 cũng tăng trưởng cao, tăng 19,79% so với tháng 1 và tăng 69,58% so với cùng kỳ năm ngoái . Tính chung 2 tháng, kim ngạch xuất khẩu tăng 31% so với 2 tháng năm 2008, đạt 26,7 triệu USD.Xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang Đài Loan phục hồi mạnh. 2 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu đạt 51,4 triệu USD, tăng 160,81% so với cùng kỳ năm ngoái.Xuất khẩu sang Hàn Quốc cũng tăng khá. Trong 2 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của ta sang Hàn Quốc đạt trị giá 26,1 triệu USD, tăng 41,79% so với 2 tháng năm 2008.
Như vậy, với kết quả xuất khẩu đạt được trong hai tháng đầu năm của ngành dệt may nước ta là khá cao, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu tiếp tục lan rộng làm sức mua tại các thị trường chính giảm mạnh. Về lâu dài, ngoài việc cố gắng giảm thiểu tác động từ cuộc khủng hoảng xuống mức thấp nhất, các doanh nghiệp bên cạnh việc chủ động tìm kiếm phát triển thị trường mới cũng phải quan tâm tới việc phát triển thị trường nội địa.Như vậy chúng ta cũng đã có được những hình dung tổng quan về thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa qua đặc biệt là trong những tháng đầu năm 2009. Nhận định về tình hình sản xuất kinh doanh của các DN dệt may, Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) Vũ Ðức Giang cho biết, sáu tháng đầu năm nay, ngành dệt may Việt Nam có thể bị giảm 10%-15% sản lượng, 20%-30% kim ngạch xuất khẩu và số lao động bị cắt giảm tạm thời có thể khoảng 100 nghìn người. Chỉ có một số ít DN có thương hiệu và mối quan hệ truyền thống với các nhà nhập khẩu lớn mới có thể thu xếp đơn hàng để sản xuất đến tháng 4 (so với những năm trước là đến tháng 6), còn lại hầu hết các DN vừa và nhỏ, DN có 100% vốn đầu tư nước ngoài không thu xếp đủ đơn hàng sản xuất trong quý I. Một số DN phải tạm ngừng hoạt động, một số khác phải giảm lao động và giảm thời gian sản xuất khiến cho một bộ phận nhỏ công nhân giảm thu nhập, mất việc làm.
Với các DN may, đơn hàng tiếp tục giảm khoảng 20% trong quý I, giảm 15% trong quý II so với năm 2008. Còn với các DN sợi, năm 2009, thị trường sợi đã khá hơn về sức mua, nhưng giá bán tiếp tục giảm do giá vật liệu thấp và cạnh tranh giá gay gắt nên có thể sản lượng của DN sợi tăng 5%-7%, nhưng doanh thu lại có khả năng không tăng, thậm chí giảm 5-7%. Các DN dệt nhuộm đang là những DN yếu nhất của ngành, tuy nhiên đây lại là lĩnh vực hy vọng có thể phục hồi nếu giải quyết tốt vấn đề quản lý công nghệ và đáp ứng được yêu cầu của các DN Nhật Bản. Riêng các DN phân phối sản phẩm dệt may (hệ thống siêu thị và các công ty thương mại) lại chịu sức ép trực tiếp của việc mở cửa thị trường bán lẻ, do vậy cần có bước chuyển biến mạnh mẽ về phương thức kinh doanh, mạng lưới bán hàng, cũng như các hoạt động quảng bá, truyền thông "Người Việt Nam sử dụng hàng dệt may Việt Nam". Việc hình thành các chuỗi liên kết từ sản xuất nguyên liệu - sản xuất may mặc - kênh phân phối chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra nên chưa phát huy hết lợi thế cạnh tranh của toàn hệ thống.
Trong bối cảnh khó khăn đó nhiều doanh nghiệp dệt may đã tìm ra cho mình những hướng đi tương đối đúng đắn.Trong đó, bên cạnh việc chú trọng khai thác thị trường nội địa, thì tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu là giải pháp được nhiều DN dệt may triển khai. Chẳng hạn như tập đoàn Dệt may Việt Nam, Tập đoàn đã chỉ đạo các DN thành viên bám sát thị trường, khách hàng xuất khẩu hiện có, làm tốt công tác chăm sóc khách hàng để giữ vững những thị trường xuất khẩu truyền thống. Tập trung khai thác thế mạnh làm hàng chất lượng cao để tăng giá trị gia tăng, giao hàng đúng hạn, đáp ứng cả những đơn hàng số lượng ít và nhất là đáp ứng các yêu cầu tiêu chuẩn môi trường, quan hệ lao động hài hòa... là những lợi thế để DN dệt may giữ chân khách hàng truyền thống và thu hút khách hàng mới. Bên cạnh đó, DN cũng cần tìm mọi cách giảm giá thành để có được giá bán phù hợp thị trường nhưng vẫn duy trì được lao động, thu nhập. Trong giai đoạn khó khăn hiện nay, sự liên kết, hỗ trợ giữa các DN là rất quan trọng. Các DN lớn có thể hỗ trợ, giúp đỡ DN vừa và nhỏ tại các địa phương, các đơn vị liên kết của tập đoàn để có đơn hàng ổn định.
Ngoài các thị trường truyền thống, các DN cũng cần năng động tìm kiếm thị trường ngách mà Việt Nam có lợi thế, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến nghiên cứu thị trường ngoài nước và đặc biệt quan tâm tổ chức mời khách hàng tiềm năng vào thương lượng tại Việt Nam. Có chiến lược tiếp cận với thị trường Nhật Bản để khai thác tốt Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản, đồng thời khai thác thị trường mới đầy tiềm năng tại Trung Ðông, Nam Phi, Nga.
Với sự nỗ lực của nhiều doanh nghiệp, ngay từ những tháng đầu năm nay, nhiều doanh nghiệp trong nước đã ký được những hợp đồng xuất khẩu mặt hàng sợi cao cấp, sợi trung bình sang thị trường Trung Ðông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-li-pin, Trung Quốc... Các mặt hàng áo giắc-két, măng-tô, vét-xtông, khăn các loại, vải cao cấp đã có thêm hợp đồng mới tại thị trường EU, Trung Ðông, Nhật Bản... Tỷ trọng sản xuất hàng FOB tăng do nhiều doanh nghiệp đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, nguyên phụ liệu. Sản phẩm vải 100% cốt-tông cao cấp của Công ty Pang-rim, do Hàn Quốc đầu tư 100% vốn, đã được khách hàng Nhật Bản, Hàn Quốc, EU chấp nhận làm nguyên liệu đặt hàng may mặc xuất khẩu; vải lụa, tơ tằm của Công ty dệt Thái Tuấn được xuất khẩu sang thị trường Trung Ðông; khăn cao cấp của TCT Phong Phú xuất khẩu sang Nhật Bản, EU. TCT cổ phần may Việt Tiến đã đầu tư 11 nhà máy sản xuất các sản phẩm cho hệ thống của NIKE, xuất khẩu không chỉ sang thị trường Mỹ, EU mà năm nay còn mở thêm thị trường châu Á.
Đặc biệt trong đó các doanh nghiệp dệt may trong nước vẫn tiến hành phát triển thương hiệu của mình bởi vì những nhà sản xuất có thương hiệu, bảo đảm thời gian giao hàng thường được các khách hàng nước ngoài nhắm tới. Trong đó chúng ta đề cập đến Hanosimex, một doanh nghiệp dệt may có lợi thế chủ động được nguồn nguyên liệu trong nước (sản phẩm sợi, vải), đáp ứng yêu cầu khách hàng đặt đơn hàng với thời gian ngắn nên Tổng công ty vẫn giữ chân khách hàng Mỹ, tăng thêm các khách hàng EU. Phó Tổng giám đốc Vinatex, kiêm Chủ tịch HÐQT Công ty cổ phần may Hồ Gươm Ninh Thị Ty cũng khẳng định việc chủ động tìm nguồn nguyên liệu trong nước để sản xuất đã giúp DN giảm lượng nguyên liệu nhập khẩu, bảo đảm thời gian giao hàng. DN hợp tác với khách hàng, lựa chọn nguyên liệu trong nước sản xuất đáp ứng yêu cầu chất lượng sản phẩm, cho nên công ty có đơn hàng sản xuất cho nhiều khách hàng có thương hiệu lớn như Mango, Zaza, Banala, Lafema, Millet của Tây Ban Nha, CHLB Ðức, Anh, Mỹ, Nhật Bản. Chẳng hạn như Công ty cổ phần Ðồng Tiến, doanh nghiệp đã thu hút khách hàng từ các thị trường mới khai thác bằng những sản phẩm riêng biệt, ít bị cạnh tranh như quần áo trượt tuyết, quần lót nam, nữ... Phó Tổng giám đốc Công ty Nguyễn Thị Hồng Ðức cho biết, năm 2009, mặc dù các đơn hàng vào thị trường Mỹ giảm sút nhưng do đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường Nhật Bản, EU, cho nên các sản phẩm áo giắc-két, quần áo thể thao là những sản phẩm chủ lực của công ty vẫn có hợp đồng xuất khẩu ổn định. Hiện nay, số sản phẩm vào thị trường Nhật Bản chiếm 60%, Mỹ và EU chiếm 40%.
Chẳng han như đối với Công ty may Ðức Giang, các khách hàng lớn tại thị trường Mỹ không hề giảm đơn hàng. Theo Chủ tịch HÐQT Hoàng Vệ Dũng, công tác thị trường được công ty đặc biệt quan tâm, từ khâu nghiên cứu, phân tích đến dự báo để có biện pháp kịp thời ứng phó. Từ quý II-2008, công ty nắm bắt thị trường để sớm chủ động cử cán bộ sang các thị trường đàm phán ký hợp đồng sản xuất năm 2009 trực tiếp với khách hàng, không qua trung gian, nên chi phí giảm, giá thành hạ. Nhờ đó, công ty có hợp đồng sản xuất đến quý II-2009 ngay từ đầu năm.
Như vậy chả lẽ chúng ta lại quên một điều rằng trong lịch sử hội nhập kinh tế của các ngành kinh tế, ngành dệt là một ngành đầu tiên, lịch sử phát triển xuất khẩu của ngành dệt bắt đầu từ khi chúng ta bắt đầu gia hướng ra thị trường thế giới.Chúng ta xem xét xem trước đây ngành dệt phát triển như thế nào, đặc biệt là trong vấn đề xuất khẩu, đóng góp của nó vào trong GDP của nước ta.Chúng ta hãy xem xét kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt qua các năm để thấy được hoạt động của các doanh nghiệp dệt may nước ta như thế nào trong thị trường xuất khẩu?
Kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt may tới một số thị trường
(Đơn Vị Triệu USD)
STT
Thị trường
Năm 2006 (tr USD)
Năm 06 so với 05 (%)
Tỷ trọng KN năm 2006
Năm 2007 (tr USD)
Năm 07 so với 06 (%)
Tỷ trọng KN năm 2007
1
Hoa Kỳ
3044,6
16,97
52,18
4464,8
46,65
57,39
2
EU
1243,8
37,46
21,32
1489,3
19,74
19,14
3
Nhật Bản
627,6
3,93
10,76
703,8
12,14
9,05
4
Đài Loan
181,4
-0,95
3,11
161,1
-11,18
2,07
5
Canada
97,3
20,23
1,67
135,5
39,25
1,74
6
Hàn Quốc
82,9
67,55
1,42
85,0
2,49
1,09
7
Nga
62,4
30,33
1,07
79,0
26,59
1,02
8
Mêhicô
000
54,5
0,70
9
Trung Quốc
29,7
265,92
0,51
43,1
45,17
0,55
10
Thổ Nhĩ Kỳ
5,7
134,99
0,10
37,8
563,80
0,49
11
Hồng Kông
31,1
148,75
0,53
36,6
17,60
0,47
12
UAE
27,4
351,44
0,47
28,5
4,15
0,37
13
Campuchia
18,5
564
0,32
28,5
54,15
0,37
14
Malaysia
33,7
37,78
0,58
25,3
-24,79
0,33
15
Singapore
19,1
285,40
0,33
24,2
26,40
0,31
16
Inđônêxia
17,4
1,04
0,30
24,8
42,40
0,32
17
ả Rập Xê út
18,1
166,95
0,31
27,2
49,91
0,35
18
Ôxtrâylia
23,7
-4,54
0,41
24,2
2,08
0,31
19
Ukraina
12,2
284,32
0,21
21,4
75,20
0,28
20
Thái Lan
10,7
367,75
0,18
16,4
53,24
0,21
21
Nam Phi
3,4
124,38
0,06
13,3
294,27
0,17
22
Thụy Sỹ
10,8
31,97
0,19
11,3
4,80
0,15
23
Philipine
6,4
373,29
0,11
11,2
76,14
0,14
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam
Bảng so sánh kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt may với tổng kim ngạch xuất khẩu và GDP
(ĐV: Ngàn USD)
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
XKDM (1)
1892
1975
2732
3609
4385
4862
5784
7780
KNXK (2)
14482
15029
16706
20149
26485
32447
39600
48000
GDP (3)
27600
30000
33500
38300
44700
52900
60800
65900
(1)/(2) ĐV: %
13,1
13,1
16,3
17,9
16,5
15
14,9
16
(1)/(3)
ĐV: %
6,8
6,6
8,1
9,4
9,8
9,3
9,5
11,8
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn chung hoạt động của các doanh nghiệp dệt may nước ta trong các năm vừa qua là tương đối hiệu quả, với kim ngạch xuất khẩu qua các năm luôn luôn tăng lên.Tuy nhiên chúng ta phả đề cập đến thị trường trong nước, thị trường mà ở đó những người tiêu dùng chủ yếu là người dan Việt Nam với thu nhập bình quân chưa được cao. Phải thừa nhận rằng trong suốt một thời gian dài vừa qua, nhiều doanh nghiệp trong ngành dệt may chưa thật sự chú trọng đến thị trường nội địa, đã bỏ ngỏ sân chơi cho Trung Quốc thao túng sản phẩm tầng thấp, các thương hiệu nước ngoài thì thống lĩnh sản phẩm tầng cao và trung, còn trong nước chỉ có vài doanh nghiệp như Việt Tiến, Nhà Bè, An Phước, May 10, T&T, .... Do ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới nên hoạt động xuất khẩu của Ngành Dệt May Việt Nam vào các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản đang gặp khó khăn. Trước tình hình này, các doanh nghiệp cũng đang tăng cường phát triển thị trường trong nước.Tập trung phát triển thị trường trong nước được coi là chiến lược phát triển dài hạn của toàn ngành dệt may. Ông Lê Quốc Ân Chủ tịch hiệp hội Dệt May Việt Nam cho biết, tiếp cận mạnh hơn thị trường trong nước là hướng đi của hầu hết các DN Việt Nam trong tình hình xuất khẩu đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay, tiếp cận thị trường nội địa các doanh nghiệp dệt may của Vinatex đang chiếm ưu thế còn hầu hết các DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì thiếu khả năng này, do trước đây tập trung hết cho xuất khẩu theo đơn hàng của công ty mẹ.
Bà Nguyễn Thị Hồng Hương, giám đốc Công ty kinh doanh hàng thời trang Việt Nam, cho biết, hiện nay hệ thống siêu thị của Vinatex Mart đã phát triển tới 22 tỉnh, thành phố với tổng số 55 siêu thị. Ngoài ra, Vinatex còn mở ra hơn hai chục cửa hàng thời trang và tận dụng các hệ thống phân phối đang có, nhất là hệ thống siêu thị Vinatex, các cửa hàng của các doanh nghiệp lớn đã đầu tư từ nhiều năm như các Tổng công ty Cổ phần: May Việt Tiến, Phong Phú, May Nhà Bè, Dệt May Hà Nội (Hanosimex), và các Công ty Cổ phần: May 10, May Đức Giang, May Thăng long,…. để bán hàng hóa của các DN trong ngành ra thị trường với chi phí lưu thông thấp nhất.
Tổng công ty Cổ phần May Việt Tiến, là doanh nghiệp thành công nhất trong việc chiếm lĩnh thị thị trường nội địa, nhiều năm qua, DN đã thực hiện chiến lược phát triển thị trường trong nước với mức tăng trưởng lên 40%. Việt Tiến đã triển khai và đưa ra thị trường hàng loạt sản phẩm mới, nhất là các mặt hàng thời trang cao cấp như Viettien, Vee Sendy, T-Tup, Sciaro, Manhattan, hàng may sẵn cho học sinh, công nhân nhãn hiệu Vie-Laross, ngoài 17 cửa hàng và gần 600 đại lý bán sản phẩm của Việt Tiến, DN này đang tiếp tục mở rộng, phát triển kênh phân phối, đưa sản phẩm vào 48 trung tâm thương mại.
Công ty Cổ phần May 10 cũng là doanh nghiệp rất tiên phong trong việc chiếm lĩnh thị trường trong nước, đặc biệt là thị trường khu vực phía Bắc. Ngoài đội ngũ thiết kế thời trang dày dạn kinh nghiệm, May 10 đã mạnh dạn thuê độc quyền một công ty người mẫu chuyên quảng bá sản phẩm của đơn vị. Trước tình hình thị trường xuất khẩu gặp khó khăn, năm nay May 10 sẽ tăng tỉ lệ tiêu thụ nội địa lên 30% và khai thác triệt để việc may đo Veston cao cấp và đồng phục cho các cơ quan và doanh nghiệp chuyên ngành trong nước.
Một trong những kinh nghiệm khai thác thành công thị trường trong nước, đem lại giá trị gia tăng cao cho sản phẩm của nhiều DN dệt may chính là quan tâm, củng cố đội ngũ các nhà thiết kế thời trang chuyên nghiệp để có thể đưa ra thị trường những sản phẩm đa dạng, đáp ứng nhu cầu mọi đối tượng tiêu dùng từ thành thị đến nông thôn. Tổng công ty Cổ phần Dệt May Hà Nội (Hanosimex) đã thành lập Công ty Cổ phần Thời trang trên cơ sở tách bộ phận kinh doanh may mặc nội địa trước đây của Tổng công ty. Hiện công ty có 9 nhà thiết kế thời trang có tên tuổi trong nước, đã thiết kế và sản sản xuất nhiều sản phẩm dệt kim thông dụng, đáp ứng nhiều đối tượng khách hàng với nhiều mức giá khác nhau, được người tiêu dùng chấp nhận.
Công ty CP May Đức Giang cũng xác định tăng thị phần trong nước trong năm nay từ 20% đến 25%. Để quảng bá cho sản phẩm phục vụ người tiêu dùng trong nước, Công ty đã bỏ ra một khoản chi phí tương đối lớn để tài trợ toàn bộ trang phục cho diễn viên trong 35 tập phim "Mùa cưới” của đạo diễn Đỗ Minh Tuấn.
Về hoạt động nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp: theo một điều tra với 175 doanh nghiệp, có 16% số doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu thị trường một cách thường xuyên, 84% số doanh nghiệp còn lại cho rằng công tác nghiên cứu thị trường không nhất thiết phải làm thường xuyên, họ chỉ tiến hành nghiên cứu trước khi có ý định xâm nhập thị trường.
2. Phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
Trong quá trình hội nhập thị trường khu vực và thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam đang có nhiều cơ hội, song song với điều đó cũng có rất nhiều thách thức mới và lớn.Chúng ta hãy phân tích điểm mạnh, điểm yếu,cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp dệt may để thấy được năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp đó.Trên cấp độ doanh nghiệp thì khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may chủ yếu được tạo ra bởi ưu thế có nguồn nhân lực với đội ngũ công nhân có tay nghề khéo léo cộng với chi phí tiền lương thấp. Giá nhân công dệt may Việt Nam hiện nay thuộc nhóm rẻ nhất thế giới, chỉ từ 0,3 - 0,6 USD/giờ. Cùng thuộc nhóm này còn có Trung Quốc, Indonesia, Bangladesh, Campuchia.(năm 2007).
Ở cấp độ doanh nghiệp và sản phẩm thì khả năng cạnh tranh của chúng ta là rất thấp do các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc xây dựng và phát triển thương hiệu, mẫu mã sản phẩm, chưa chú trọng đến khâu thiết kế sản phẩm và kiểu dáng của sản phẩm.Cũng phải nhấn mạnh rằng một số điểm mạnh cũng như cơ hội của các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam chỉ mang tính tạm thời. Đó không phải là năng lực cạnh tranh thực sự của các doanh nghiệp khi mà trong bối cảnh Việt Nam đã tham gia tổ chức Thương Mại Thế Giới(WTO). Trong tương lai nó có thể không trở thành nguy cơ được.
ĐIỂM MẠNH
-Các doanh nguồn nhân công dồi dào và có trình độ.
-Lương giờ bình quân thấp. Mức lương được các doanh nghiệp dệt may đưa ra tại sàn giao dịch việc làm dao động từ 900.000 đồng đến 1,6 triệu đồng, tùy từng vị trí và thời gian làm việc.
-Chi phí sản xuất/phút thấp hơn các nước trong khu vực
-Phương tiện gửi hàng và chi phí vận chuyển quốc tế thuận lợi và giá thấp.
-Được miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư dùng để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
-Hầu hết các doanh nghiệp được trang bị tốt, người quản lý có trình độ
-Đội ngũ quản lý có kỹ năng kinh doanh và đang chuyển sang hình thức tiếp cận trực tiếp với khách hàng
ĐIỂM YẾU
-Các doanh nghiệp dệt may chưa chủ động tạo được nguồn nguyên liệu trong nước phù hợp yêu cầu hàng xuất khẩu
-Sự liên kết của doanh nghiệp với khách hàng còn kém phát triển: quá phụ thuộc vào đối tác nước ngoài, ít mối liên hệ với khách hàng cuối cùng.
-Khả năng tiếp thị của doanh nghiệp dệt may còn yếu, đặc biệt trong việc đột phá thị trường mới.
-Hầu như các doanh nghiệp dệt may chưa có thương hiệu riêng, chủng loại còn hạn chế
-Việc đào tạo của các doanh nghiệp còn hạn chế đặc biệt là nhà ưủan lý chuyên ngành
DN xuất khẩu VN có những mặt hạn chế vẫn còn tồn tại như trình độ công nghệ lạc hậu, năng lực sản xuất hạn chế (ít DN có khả năng đáp ứng đơn đặt hàng có giá trị 1 triệu USD trở lên), mẫu mã xấu, giá cả thiếu tính cạnh tranh, thời gian giao hàng chậm...
CƠ HỘI
-Tỷ giá hối đoái của VND đang yếu đi trên một số thị trường từ đó làm tăng xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiẹp vào trong thị trường đó
-Xu hướng chuyển dịch hàng cạnh tranh sang các nước phá triển tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may trong việc mở rộng thi trường mới, tiềm năng
-Xu thế khu vực hoá toàn cầu hoá, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hoá thương mại trong đó có thương mạidệt may theo ATC/ WTO
-Việt Nam tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA)
-Việt Nam tham gia Tổ chức Thương Mại Thế Giới(WTO)
-Các số liệu xuất khẩu quá khứ cho thấy thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may là EU, Nhật Bản
-Các thị trường mới như Nga, các nước Tây Âu đang rất thiếu chủng loại hang dệt may
NGUY CƠ, THÁCH THỨC
-Tính khốc liệt về cạnh tranh giữa._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22371.doc