Tài liệu Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ô tô nông dụng sản xuất tại Công ty thương mại và sản xuất vật tư thiết bị giao thông vận tải: ... Ebook Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ô tô nông dụng sản xuất tại Công ty thương mại và sản xuất vật tư thiết bị giao thông vận tải
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1561 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ô tô nông dụng sản xuất tại Công ty thương mại và sản xuất vật tư thiết bị giao thông vận tải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Trong xu hướng phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay thì vai trò của ngành công nghiệp đóng vai trò quan trọng để giúp Việt Nam thoát khỏi nước nông nghiệp lạc hậu. Trong tương lai tới nhà nước sẽ chú trọng phát triển ngành công nghiệp trong đó đặc biệt là ngành công nghiệp ô tô. Nhu cầu của về ô tô của thị trường Việt Nam là rất lớn, chính vì vậy việc triển khai xây dựng các dự án nhà máy sản xuất lắp ráp ô tô của Việt Nam đang được chính phủ phê duyệt để nhanh chóng đi vào sản xuất đáp ứng nhu cầu của thị trường. Thị trường ô tô sắp tới đây dự báo sẽ rất sôi động, nhất là sau khi chính phủ đã ban hành quyết định cho phép nhập khẩu xe cũ đã qua sử dụng. Ở Việt Nam hiện nay, các công ty liên doanh nước ngoài hầu hết chỉ tập trung sản xuất các loại xe cao cấp. Còn lượng xe nông dụng phục vụ cho chuyên chở đa phần phải nhập khẩu từ nước ngoài. Đứng trước tình hình như vậy các doanh nghiệp sản xuất ô tô trong nước sẽ làm gì để cạnh tranh và tìm hướng đi cho mình nhằm mục đích tồn tại và phát triển. Nhà nước đã ban hành nghị định cấm các loại xe công nông lưu hành do đó cần có số lượng lớn xe nông dụng để thay thế phục vụ cho công việc sản xuất của người dân.
Trong quá trình thực tập ở công ty thương mại và sản xuất vật tư thiết bị giao thông vận tải TMT , đây là công ty sản xuất xe nông dụng thương hiệu Cửu Long cũng như nắm bắt được tình hình và nhu cầu của thị trường về loại xe nông dụng nên em đã lựa chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ô tô nông dụng sản xuất tại công ty thương mại và sản xuất vật tư thiết bị giao thông vận tải” làm chuyên đề thực tập của mình. Đề tài này sẽ chỉ ra những nhân tố tác động đến cạnh tranh của xe nông dụng, phân tích khả năng cạnh tranh trên thị trường Việt Nam và đề xuất những giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty TMT.
Bố cục của chuyên đề thực tập bao gồm
Chương I Đặc điểm ô tô nông dụng sản xuất tại công ty thương mại và sản xuất vật tư thiết bị giao thông vận tải - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm công ty.
Chương II Phân tích khả năng cạnh tranh của ô tô nông dụng sản xuất tại công ty thương mại và sản xuất vật tư thiết bị giao thông vận tải trên thị trường Việt Nam.
Chương III GiảI pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ô tô nông dụng sản xuất tại công ty thương mại và vật tư thiết bị giao thông vận tải.
CHƯƠNG I ĐẶC ĐIỂM Ô TÔ NÔNG DỤNG SẢN XUẤT TẠI CÔNG TY THƯƠNG MẠI VÀ SẢN XUẤT VẬT TƯ THIẾT BỊ GIAO THÔNG VẬN TẢI - NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM CÔNG TY
1. Đặc điểm về quá trình sản xuất xe ô tô nông dụng của công ty TMT
1.1. Quy định kiểm tra vật tư đầu vào
Linh kiện vật tư khi mua về đều phải được kiểm tra đầy đủ tại kho. Đối với các linh kiện vật tư mua trong nước được công ty uỷ quyền cho nhà máy kiểm tra. Các vật tư linh kiện nhập khẩu như phôi thép và một số các loại vật tư khác công ty giám định hoặc đơn vị phân tích kiểm tra đánh giá. Phòng xuất nhập khẩu và phòng nội địa hoá cùng với nhà máy kiểm tra lô hàng theo mẫu, số lượng đúng chức năng và quyền hạn đã được giám đốc công ty giao cho. Kiểm tra số lượng, đối vớI linh kiện rời nếu mua ở trong nước thì tất cả các linh kiện vật tư này khi nhập vào kho phải được kiểm tra đầy đủ về số lượng chất lượng cụ thể về từng loại linh kiện, thủ kho sẽ lập biên bản giao nhận. Đối với linh kiện vật tư nhập khẩu từ nước ngoài thì sau khi về đến kho tại nhà máy, phòng xuất nhập khẩu cùng với nhà máy và đại diện đối tác của nước ngoài sẽ tiến hành kiểm tra chất lượng và số lượng hàng hoá. Nội dung kết luận của cuộc kiểm tra, kiểm đếm sẽ được lập thành biên bản kiểm đếm hàng hoá. Bộ phận đối ngoại của công ty, bộ phận được giám đốc công ty giao cho sẽ liên hệ với các đối tác nước ngoài để xử lý mọi vấn đề có lien quan đến lô hàng đã giao. Ngoài ra đối với các vật tư khác khi mua về như nhựa đường, phôi thép, máy móc thiết bị giao thông vận tải sẽ thuê cơ quan giám định như SGS, Vinacontrol giám định số lượng chất lượng. Việc kiểm tra số lượng được thực hiện bằng cách so sánh lượng thực tế với số lượng quy định trong hợp đồng, hoá đơn và phiếu đóng gói nếu có. Kiểm tra chất lượng, đối với linh kiện mua trong nước, sau khi đã nhập linh kiện về kho sẽ tiến hành lắp ráp từ 2 – 5 xe hoàn chỉnh để xác định được sự đồng nhất giữa các linh kiện nhập khẩu vớI các linh kiện mua trong nước. Việc xác định chất lượng các loạI linh kiện thực nhập so với các loại linh kiện mẫu do phòng nội địa hoá, nhà máy sản xuất lắp ráp cùng tiến hành theo đúng chức năng của từng bộ phận. Đối với các linh kiện nhập khẩu sau khi nhập linh kiện vật tư về kho thì nhà máy sẽ tiến hành kiểm tra về số lượng, chất lượng bằng cách cho lắp thử 2 – 5 sản phẩm và kiểm tra chỉ tiêu theo đúng quy định. Trong quá trình lắp ráp nếu phát sinh chất lượng không bảo đảm ngay lập tức nhà máy phải báo cáo cho giám đốc công ty để xem xét giải quyết. Các vật tư sản phẩm khác khi nhập về công ty như phôi thép, máy móc thiết bị thì thuê cơ quan giám định kiểm tra chất lượng. Với nhựa đường thuê viện khoa học kỹ thuật công nghệ giao thông vận tải thuộc bộ giao thông vận tải kiểm tra xác định. Khi nhận được kết quả kiểm tra giám định, trưởng phòng xuất nhập khẩu hoặc người uỷ quyền so sánh kết quả với yêu cầu và xử lý. Công tác ghi chép và xử lý kết quả đối với vật tư linh kiện. Tất cả các vật tư linh kiện khi nhập kho đều phải được kiểm tra đầy đủ cả về chất lượng, số lượng, nếu vật tư, sản phẩm không đạt yêu cầu, có một chỉ tiêu không đạt về chất lượng, số lượng phải có biện pháp khắc phục. Đối với hàng nhập khẩu nhà máy báo cáo giám đốc, được sự chỉ đạo của giám đốc công ty và phòng xuất nhập khẩu sẽ thông báo cho nhà cung cấp biết hoặc có kế hoạch để xử lý đồng thời mở phiếu xử lý không phù hợp. Đối với hàng mua trong nước trưởng phòng nội địa hoá báo cáo cho giám đốc nếu cần và thông báo cho nhà cung cấp, cùng với nhà cung cấp có kế hoạch xử lý sản phẩm trên đồng thời mua phiếu xử lý không phù hợp.
1.2. Quy định theo dõi nhập và xuất vật tư linh kiện
Tất cả các linh kiện vật tư vào kho phải có ý kiến chỉ đạo của ban giám đốc công ty hoặc được uỷ quyền có thể bằng văn bản hoặc điện thoại trực tiếp. Ngoài ra các vật tư linhh kiện nhập vào kho đều phải được kiểm tra về số lượng chất lượng ngay từ khi hàng về đến kho. Việc kiểm tra được thực hiện giứa ba bên là phòng xuất nhập khẩu, nhà máy và đối tác cung cấp. Kết quả kiểm tra vật tư linh kiện nhập được thực hiện trong biên bản kiểm tra, giao nhận giữa ba bên. Trong quá trình lắp ráp sản xuất nếu nhà máy phát hiện vấn đề về chất lượng vật tư linh kiện thì nhà máy sẽ thông báo cho giám đốc công ty và thông báo cho phòng xuất nhập khẩu để lập khiếu nạI nếu có đốI vớI nhà cung cấp nước ngoài đòi bồI thường thiệt hại. Những vật tư linh kiện mua trong nước nhập kho đều dựa trên đơn hàng hoặc hợp đồng mua bán đã ký. Khi nhập kho nhà máy sẽ kiểm tra về số lượng, chất lượng và những gì ghi trong biên bản giao nhận. Các hàng kém chất lượng trong quá trình kiểm tra nếu được phát hiện thì sẽ ngay lập tức trả về cho nhà cung cấp. Trong quá trình lắp ráp nếu có thêm những linh kiện, phụ tùng không đạt chất lượng thì sẽ thông báo cho nhà cung cấp để xử lý nhằm thay thế những vật tư không đạt yêu cầu. Các vật tư, linh kiện khi xuất kho phảI có lệnh xuất kho của giám đốc hoặc phó giám đốc nhà máy ký và đóng dấu. Mọi vật tư, linh kiện xuất kho đều phải ghi trong thẻ kho, sổ kho của thủ kho để theo dõi. Căn cứ vào bảng kê nhập và xuất vật tư, linh kiện thì thủ kho và phòng tài chính kế toán sẽ theo dõi số liệu tồn kho bằng việc lập thẻ kho và mở sổ theo dõi, báo cho phòng phụ trách mua vật tư linh kiện về số liệu tồn kho, số lượng thừa thiếu để phòng nghiệp vụ báo cáo cho giám đốc có kế hoạch điều chỉnh kịp thời. ĐốI vớI linh kiện nhập khẩu sau khi nhập kho đều thuộc toàn quyền và trách nhiệm quản lý của nhà máy. Nhà máy đốI chiếu thường xuyên vớI kế toán công ty về số lượng tồn, xuất, lắp ráp. ĐốI vớI linh kiện vật tư mua ở trong nước, kết thúc lô hàng phòng phụ trách mua vật tư linh kiện phốI hợp vớI nhà máy lập báo cáo tổng hợp về tình hình xuất và nhập vật tư linh kiện trình cho giám đốc để xem xét. CuốI tháng phòng tài chính kế toán tổng hợp số liệu xuất và nhập tồn trong kỳ sau đó đốI chiếu vớI sổ theo dõi xuất nhập cuả phòng phụ trách mua vật tư linh kiện đánh giá xem cả hai có khớp nhau hay không và có những điều chỉnh tức thời.
1.3. Quy định phân loạI và xử lý sản phẩm không phù hợp
Công đoạn
GiớI hạn mở
Người
mở phiếu
Biện pháp
xử lý
Mua vật tư
- Nhập khẩu linh kiện ô tô
- Vật tư trong nước
-Kiểm tra nếu có vật tư tổng thành không phù hợp
-Vật tư không đạt của nhà sản xuất không được lớn hơn 3%
-Phòng XNK
-Phòng XNK
-Nhà máy sản xuất lắp ráp ô tô Cửu Long
- Báo cho giám đốc, nhà cung cấp để xử lý
- Báo cáo cho giám đốc, cơ sở sản xuất để xử lý
Vật tư sản phẩm lưu kho trong quá trình sản xuất không đạt
Phát hiện hư hỏng là mở phiếu
- Nhà máy sản xuất lắp ráp ô tô Cửu Long
- Mua bù nếu cần
- Thông báo cho nhà cung cấp để xử lý
Hồ sơ giao nhận, chứng từ không đạt yêu cầu
Vi phạm không quá 3 lần trong 1 hợp đồng mua bán
-Phòng XNK
-Phòng tài chính kế toán
Sửa lạI cho đúng
Sản phẩm vật tư trong quá trình giao cho khách hàng
Phát hiện không đạt là mở phiếu
-Phòng KHKD
-Nhà máy sản xuất lắp ráp ô tô Cửu Long
Sửa lạI cho đạt hoặc đổI sản phẩm
Sản phẩm vật tư trong các công đoạn sản xuất
Tỷ lệ hỏng trong công đoạn kiểm tra
- Nhà máy sản xuất lắp ráp ô tô Cửu Long
- Thông báo cho nhà cung cấp, nhà sản xuất, tìm nguyên nhân và sửa lạI để cung cấp
- Báo cáo cho giám đốc nhà máy, giám đốc công ty nếu cần
Sản phẩm vật tư trong quá trình kiểm tra thành phẩm
Phát hiện phụ tùng vật tư chi tiết không đạt
- Phòng QLCL báo lỗI sau lắp ráp
- Thông báo cho nhà máy, nhà cung cấp tìm nguyên nhân sửa chữa cho đạt yêu cầu
- Báo cáo cho giám đốc công ty nếu cần
1.4. Hệ thống quản lý chất lượng xe ô tô nông dụng của công ty TMT
Chính sách chất lượng và mục tiêu chất lượng của công ty TMT là nhằm đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và làm cho khách hàng hài lòng về sản phẩm của công ty. Với cơ cấu tổ chức của công ty gồm các phòng ban và các nhà máy sản xuất lắp ráp với chức năng nhiệm vụ giúp cho quá trình sản xuất xe được tiến hành mau chóng thuận lợi. Ngoài ra công ty còn lưu trữ hệ thống thông tin về thị trường, các con số dự báo thông kê để giúp công ty hoạch định các chính sách kinh doanh của mình. Kiểm soát tài liệu nội bô cũng như tài liệu bên ngoài để quản lý thống nhất theo trật tự nhằm kiểm tra theo dõi tiến độ sản xuất của công ty theo đúng thời gian yêu cầu. Phần kiểm soát hồ sơ là để sắp xếp các hồ sơ phát sinh trong quá trình thực hiện hệ thống chất lượng, đảm bảo đầy đủ hồ sơ về các quy trình lắp ráp sản xuất xe ô tô nông dụng. Từ đó công ty lập kế hoạch sản xuất kinh doanh của minh, nhập vật tư linh kiện để phục vụ cho công tác lắp ráp sản xuất của nhà máy. Tiếp tục triển khai các sản phẩm mới với các kiểu xe có tải trọng vừa và nhỏ để đáp ứng đa dạng hoá nhu cầu của thị trường. Xây dựng các quy trình công nghệ cũng như các tiêu chuẩn kỹ thuật để làm cho sản phẩm có chất lượng tốt nhất. Các tiêu chuẩn đề ra phải theo tiêu chuẩn ISO mà công ty đã xây dựng vừa qua, đây là tiêu chí đánh giá và chứng tỏ chất lượng của xe ô tô nông dụng mà công ty đã sản xuất nhằm cạnh tranh vớI các loại xe cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. Khi đã hoàn thành các quy trình kiểm tra đánh giá, xem xét thì đưa vào lắp ráp hoàn chỉnh các sản phẩm. Trong giai đoạn này tiêu chuẩn kỹ thuật phải đặt lên hàng đầu. Xe ô tô nông dụng sau khi đã hoàn chỉnh mọi công đoạn sản xuất lắp ráp thì được đưa đi kiểm tra chất lượng xem thử có phù hợp với các yêu cầu đề ra hay không. Cuối cùng sau khi giai đoạn kiểm tra hoàn tất, nếu xe ô tô nông dụng về cơ bản kiểm tra không có gì sai sót thì sẽ được nhập vào kho để chờ tiêu thụ. Tất nhiên trong thời gian nhập kho vẫn phải thường xuyên kiểm tra theo dõi cũng như có chế độ bảo dưỡng định kỳ để xe luôn đảm bảo chất lượng đề ra.
Công tác quản lý thiết bị máy móc sản xuất là công tác quan trọng giúp cho máy móc luôn trong tình trạng hoạt động tốt, ngoài ra còn là hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho quá trinh lắp ráp sản xuất như nhà máy, phân xưởng. Nhân sự trong công ty cũng như trong nhà máy được quản lý chặt chẽ bởI phòng tổ chức hành chính, bất cứ vấn đề gì liên quan đến nhân sự đều được can thiệp kịp thờI, các chế độ khen thưởng cũng như xử phạt đều được thực hiện theo quy định của công ty. Phòng quản lý chất lượng sẽ đóng vai trò kiểm tra các xe không phù hợp vớI yêu cầu đề có những biện pháp khắc phục cũng như có chính sách phòng ngừa sai sót bằng cách luôn cảI tiến nâng cao chất lượng sản phẩm. Điều này có ảnh hưởng quyết định đến cả quá trình quản lý hệ thống chất lượng của công ty. Công ty thường xuyên đánh giá và đo lường sự thoả mãn của khách hàng về sản phẩm. Luôn thu thập thông tin ý kiến của khách hàng và lập bảng phân tích đánh giá nhằm xây dựng tốI ưu tiêu chuẩn của xe nông dụng để gia tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
ChÝnh s¸ch chÊt lîng/môc tiªu chÊt lîng
Sơ đồ các quá trình liên quan đến hệ thống quản lý chất lượng
C¬ cÊu tæ chøc
HÖ thèng th«ng tin
KiÓm so¸t tµi liÖu
KiÓm so¸t hå s¬
Sù hµi lßng cña
kh¸ch hµng
C¸c yªu cÇu cña
kh¸ch hµng
KÕ ho¹ch s¶n xuÊt
NhËp kho
KiÓm tra
L¾p r¸p
X©y dùng quy tr×nh c«ng nghÖ/tiªu chuÈn kü thuËt
TriÒn khai s¶n phÈm míi
Linh kiÖn
KiÓm so¸t
s¶n phÈm kh«ng phï hîp
Qu¶n lý
nh©n sù
Qu¶n lý
thiÕt bÞ
Kh¾c phôc/phßng ngõa/c¶i tiÕn
§o lêng sù tho¶ m·n cña kh¸ch hµng
1.5. Quy định công nghệ lắp ráp xe ô tô nông dụng
Tại phân xưởng cabin Nhà máy Ôtô Cửu Long các mảnh cabin được định vị trên thiết bị tiêu chuẩn đảm bảo độ chính xác cao. Công nghệ hàn điểm (hàn bấm) đảm bảo độ vững chắc, tính đồng nhất và nâng cao tuổi thọ của sản phẩm trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt của Việt Nam. Đây cũng là ưu điểm vượt trội của xe ôtô Cửu Long. Nhà máy Ôtô Cửu Long được thiết kế và đầu tư trang thiết bị, công nghệ và phương tiện sản xuất lắp ráp ôtô theo công nghệ tiên tiến của Khu vực. Xe ôtô tải được sản xuất, lắp ráp từ cụm tổng thành - CKD. Toàn bộ: động cơ, hộp số, trục các đăng, cầu trước và sau, khung xe ... nhập khẩu từ nước ngoài và các cụm chi tiết sản xuất trong nước, thùng hàng, bộ nhịp, săm lốp, ắc qui, vành bánh xe ...
Tại phân xưởng sơn, thùng cabin được xử lý hóa chất theo công nghệ tiên tiến xử lý bề mặt, tẩy gỉ và loại bỏ toàn bộ các tạp chất dầu mỡ... Toàn bộ 100% thùng, cabin đều được phốt phát hóa bề mặt. Tại công đoạn này, kỹ thuật công nghệ được áp dụng triệt để nhằm nâng cao tuổi thọ kim loại, đồng thời là công đoạn chuẩn bị cho sơn lót và sơn màu. Công đoạn sơn hấp (sấy khô bằng nhiệt) được áp dụng cho cả sơn lót và sơn màu.
Đồng thời hoạt động với dây chuyền hàn và sơn còn có hai dây chuyền lắp ráp khung xe và cabin. Tại dây chuyền lắp ráp, khung xe được hoàn thiện phối bộ với các cụm linh kiện chủ yếu như: cầu xe, động cơ, bộ nhíp, hộp số, hệ thống chuyền động, hệ thống lái ....
Nhà máy Ô tô Cửu Long được trang bị dây truyền lắp ráp hiện đại và linh hoạt phù hợp cho các loại xe tải trọng tải từ 500kg đến 10 tấn. Tất cả các mối ghép quan trọng của xe đều được kiểm tra lực xiết bằng thiết bị chuyên dụng ngay tại thời điểm xiết chặt bằng súng dẫn động khí nén.
Khi vật tư đưa vào nhà máy để kiểm tra, nếu không đạt thì trả lại cho người cung cấp hoặc đem đi xử lý tuỳ theo tình trạng của vật tư có thể sửa chữa được. Nếu đạt thì đưa vào phân xưởng hàn, tiếp tục kiểm tra thành phẩm sau khi hàn, đạt tiêu chuẩn tiếp tục đưa tới phân xưởng sơn, sau khi đã kiểm tra thành phẩm được sơn thì đưa vào phân xưởng cabin, tiến hành hoàn thiện ở phân xưởng cabin đạt yêu cầu thì chuyển vào phân xưởng lắp ráp. Các vật tư của cabin xe cũng vậy, khi nhập về thì đều phải tiến hạn kiểm tra, đạt chất lượng thì đưa tiếp vào phân xưởng cabin, không đạt có thể phải trả lại cho người cung cấp. Tương tự đối với thùng xe sau khi kiểm tra ở gian đoạn đầu, nếu đạt thì đưa vào phân xưởng sơn, sau khi thùng xe được sơn xong, kiểm tra đúng yêu cầu thì đưa vào phân xưởng lắp ráp. Các chi tiết, thành phẩm không đạt ở từng giai đoạn đều phải kiểm tra lại và hoàn thiện lại cho đúng với tiêu chuẩn theo hệ thống quản lý chất lượng. Các vật tư khác sau khi đã kiểm tra cùng với thành phẩm của phân xưởng sơn và phân xưởng cabin đưa vào phân xưởng lắp ráp để cho ra đời sản phẩm hoàn thiện. Chiếc xe ô tô sau khi đã lắp ráp xong, không đạt lại quay về phân xưởng lắp ráp để làm lại, nếu kiểm tra đạt thì đưa đến phòng quản lý chất lượng của công ty, phòng này sẽ kiểm tra xe và động cơ xe, phân loại và xử lý sản phẩm không phù hợp trong sản xuất ô tô. Khi đã thực hiện xong các thủ tục kiểm tra, chiếc xe đạt yêu cầu được đưa đến cục đăng kiểm để kiểm tra giám định và cấp giấy phép lưu thông. Bất cứ công đoạn nào không đáp ứng tiêu chuẩn đều phải mang về phân xưởng lắp ráp. Chiếc xe trải qua các công đoạn kiểm tra chặt chẽ như vậy đến khi không còn sai sót thì chuyển đến bộ phận bàn giao để giao xe cho khách hàng.
VËt t
Sơ đồ quy định công nghệ lắp ráp ô tô nhà máy ô tô Cửu Long
VËt t
Xö lý
Tr¶ l¹i NCC
Xö lý
KiÓm tra
Ph©n xëng
l¾p r¸p
Kh¸ch hµng
Bé phËn
giao xe
§¨ng kiÓm VN
Qu¶n lý
chÊt lîng
KiÓm tra
Xö lý
KiÓm tra
VËt t
Tr¶ l¹i NCC
Ph©n xëng cabin
KiÓm tra
KiÓm tra
Xö lý
KiÓm tra
Tr¶ l¹i NCC
Thïng xe
Ph©n xëng S¬n
KiÓm tra
Ph©n xëng Hµn
KiÓm tra
Tr¶ l¹i NCC
KiÓm tra
Số người cho phép
02 (120)kg
Tải trọng(Kg)
620
Trọng lượng không tải
680
Trọng lượng toàn phẩn
1420
Dài toàn bộ(mm)
3560
Rộng toàn bộ(mm)
1380
Cao toàn bộ
1710
Chiều dài cơ sở
2000
Khoảng sáng gầm xe(mm)
130
Kích thước bên trong thùng hàng
Chiều dài(mm)
2200
Chiều rộng(mm)
1320
Chiều cao(mm)
340
Tốc độ tối đa(km/h)
91
Khả năng leo dốc(trên đường thô và bằng phẳng)
20.55
Kiểu loại động cơ
JI462Q3
Đường kính xi lanh (mm)
62
Hành trình piston (mm)
66
Dung tích động cơ
797
Tỷ số nén
8.8:1
Công suất cực đại Kw/v/p
29/5000
Mô men xoắn cực đại Nm/v/p
57/3000-3500
Tỷ số truyền lực chính
5,125
Cỡ lốp (inch)
145R12LT
Hệ thống lái
Trục vít ê cu bi
Mô men đầu ra max (Nm)
2500
1.6. Thông số kỹ thuật của các loại xe
1.6.1. Thông số kỹ thuật xe ôtô Cửu Long trọng tải 500KG - CL10104
1.6.2. Thông số kỹ thuật xe ôtô Cửu Long trọng tải 1,5 Tấn - CL2815D
Số người cho phép
03 (195)kg
Tải trọng (kg)
1.305
Dài toàn bộ (mm)
4.720
Rộng toàn bộ (mm)
1.900
Cao toàn bộ (mm)
2.320
Chiều dài cơ sở (mm)
2.520
Khoảng sáng gầm xe (mm)
205
Ắc qui
6 - QA - 120Ah
Khung xe (sát xi)
200 x 65 x 6
Sức chịu tải lớn nhất (kg)
10.000
Vật liệu chính làm khung
16 Mn
Tốc độ tối đa (km/h)
74
Khả năng leo dốc (trên đường khô và bằng phẳng)
24045’
Điện áp định mức
12V
Kiểu loại động cơ
YN490Q(D1),4 kỳ
Đường kính xi lanh (mm)
90
Hành trình piston (mm)
100
Dung tích động cơ (cm3)
2.540
Tỷ số nén
18:1
Công suất cực đại (Kw/v/p)
45,6/3.200
Mô men xoắn cực đại (N.m/v/p)Oe
156,8/2.240
Lượng tiêu hao nhiên liệu (L/100km)
9,8
Cỡ lốp (inch)
7.00 16 - 10PR
Hệ thống lái
609W1 trục vít-ecu bi
Mô men đầu vào max (Nm)
1.610
Kiểu loại Cabin
Cabin đơn
1.6.3. Thông số kỹ thuật xe ôtô Cửu Long trọng tải 2 tấn CL4012D
Số người cho phép
02 (120)kg
Tải trọng(Kg)
620
Trọng lượng không tải
680
Trọng lượng toàn phẩn
1420
Dài toàn bộ(mm)
3560
Rộng toàn bộ(mm)
1380
Cao toàn bộ
1710
Chiều dài cơ sở
2000
Khoảng sáng gầm xe(mm)
130
Kích thước bên trong thùng hàng
Chiều dài(mm)
2200
Chiều rộng(mm)
1320
Chiều cao(mm)
340
Tốc độ tối đa(km/h)
91
Khả năng leo dốc(trên đường thô và bằng phẳng)
20.55
Kiểu loại động cơ
JI462Q3
Đường kính xi lanh (mm)
62
Hành trình piston (mm)
66
Dung tích động cơ
797
Tỷ số nén
8.8:1
Công suất cực đại Kw/v/p
29/5000
Mô men xoắn cực đại Nm/v/p
57/3000-3500
Tỷ số truyền lực chính
5,125
Cỡ lốp (inch)
145R12LT
Hệ thống lái
Trục vít ê cu bi
Mô men đầu ra max (Nm)
2500
1.6.4. Thông số kỹ thuật xe ôtô Cửu Long trọng tải 3 Tấn - CL5830D
Số người cho phép
03
Tải trọng (kg)
2800
Trọng lượng không tải (kg)
4325
Trọng lượng toàn phẩn (kg)
7230
Dài toàn bộ (mm)
5470
Rộng toàn bộ (mm)
2160
Cao toàn bộ (mm)
2465
Chiều dài cơ sở (mm)
2960
Khoảng sáng gầm xe (mm)
200
Kích thước bên trong thùng hàng
Chiều dài (mm)
3430
Chiều rộng (mm)
1980
Chiều cao (mm)
450
Tốc độ tối đa (km/h)
80
Khả năng leo dốc (trên đường khô và bằng phẳng)
25,14
Động cơ
4100QB-2
Đường kính xi lanh (mm)
100
Hành trình piston (mm)
105
Dung tích động cơ (cm3)
3298
Tỷ số nén
17,5-1
Công suất cực đại Kw/v/p
62,5/3400
Lực xoắn cực đại Nm/v/p
201/2000-2200
Tỷ số truyền hộp số
7,31;4,31;2,45;1,54;1,0. Số lùi:7,66
Cỡ lốp (inch)
8.25-16
Hệ thống lái
Trục vít ecubi
Mô men đầu vào max (Nm)
10500
1.6.5. Thông số kỹ thuật xe ôtô Cửu Long trọng tải 4 Tấn - CL5840D
Số người cho phép
02 (120)kg
Tải trọng(Kg)
620
Trọng lượng không tảI
680
Trọng lượng toàn phẩn
1420
Dài toàn bộ(mm)
3560
Rộng toàn bộ(mm)
1380
Cao toàn bộ
1710
Chiều dài cơ sở
2000
Khoảng sáng gầm xe(mm)
130
Kích thước bên trong thùng hàng
Chiều dài(mm)
2200
Chiều rộng(mm)
1320
Chiều cao(mm)
340
Tốc độ tối đa(km/h)
91
Khả năng leo dốc(trên đường thô và bằng phẳng)
20.55
Kiểu loại động cơ
JI462Q3
Đường kính xi lanh (mm)
62
Hành trình piston (mm)
66
Dung tích động cơ
797
Tỷ số nén
8.8:1
Công suất cực đại Kw/v/p
29/5000
Mô men xoắn cực đại Nm/v/p
57/3000-3500
Tỷ số truyền lực chính
5,125
Cỡ lốp (inch)
145R12LT
Hệ thống lái
Trục vít ê cu bi
Mô men đầu ra max (Nm)
2500
2. Khả năng cạnh tranh của xe ô tô nông dụng
2.1. Nhu cầu tiêu thụ của thị trường rất lớn
Theo Cục Đăng kiểm Việt Nam, tính đến hết tháng 3/2003, Việt Nam có 543 ngàn xe ôtô các loại, trong đó xe nông dụng chiếm 43,1% (tương đương 233 ngàn xe). Dự báo của Bộ Công nghiệp, năm 2005 Việt Nam cần thêm 36 ngàn xe nông dụng các loại và năm 2010 là 72 ngàn xe.
Trong khi đó có nguồn tin từ Bộ GTVT về một đề xuất mới đối với niên hạn sử dụng ôtô nông dụng và ôtô nông dụng chuyên dùng, ôtô chở khách trên 10 chỗ ngồi. Nếu đề xuất được phê duyệt (dự kiến áp dụng từ 1/7/2004) sẽ có tới 31,5 ngàn ôtô 2 loại này quá niên hạn sử dụng không đảm bảo an toàn kỹ thuật cần bị loại bỏ (hiện số phương tiện có độ tuổi sử dụng trên 20 năm là 91,5 ngàn chiếc, chiếm 21,5%). Như thế, năm 2005 Việt Nam sẽ cần thay thế khoảng 42 ngàn xe nông dụng các loại, nâng nhu cầu xe nông dụng lên thêm 78 ngàn chiếc năm 2005 và năm 2010 là 132 ngàn chiếc. Hơn nữa, Việt Nam cũng còn khoảng 100 ngàn xe công nông đang sử dụng ở các vùng nông thôn, miền núi cần được thay thế trong tương lai. Nhu cầu của thị trường xe nông dụng các loại của Việt Nam là rất lớn.
2.2. Sản xuất trong nước chưa đáp ứng nhu cầu
Việt Nam có 160 DN nhà nước lắp ráp - sửa chữa ôtô nhưng chỉ có 19 đơn vị trực tiếp lắp ráp. Trong đó, một số rất ít DN lắp ráp - sản xuất xe nông dụng là Công ty Cơ khí xe máy với công trình sản xuất xe nông dụng dưới 3 tấn, Công ty Cơ khí ôtô Sài Gòn Samco, Công ty Cơ khí ôtô Ba Thành (Hải Phòng)… sản xuất xe nông dụng dưới 3 tấn. Các DN này đều có quy mô nhỏ, công suất vài trăm xe một năm, công nghệ thấp và lắp ráp là chủ yếu.
Còn 11 DN liên doanh sản xuất và lắp ráp ôtô có vốn đầu tư nước ngoài lại mới chỉ chú trọng đến sản xuất xe du lịch. Ba công ty liên doanh chuyên về xe nông dụng là: Isuzu, Suzuki lắp ráp sản xuất xe nông dụng nhẹ và Công ty Hino chuyên xe nông dụng nặng với sản lượng khiêm tốn, năm 2001 được 103 xe, 2002 là 156 xe... Một vài DN FDI khác cũng có sản xuất lắp ráp xe nông dụng nhưng chủ yếu là xe nông dụng nhỏ và sản lượng không nhiều. Cụ thể số DN này mới chỉ sản xuất khoảng 1.900 xe nông dụng các loại (chủ yếu xe 1 tấn và 1/2 tấn (khoảng 100 xe), trên 6 tấn chỉ 38 xe.
2.3. Khả năng cạnh tranh của xe ô tô nông dụng Cửu Long
Như vậy với nhu cầu ngày càng lớn về xe nông dụng như hiện nay và sắp tới cộng với việc những công ty sản xuất lắp ráp ô tô nông dụng chưa đáp ứng được về quy mô sản xuất thì có thể thấy khả năng cạnh tranh của xe ô tô nông dụng Cửu Long là rất cao. Đây là một tín hiệu vui cho công ty TMT vì sau khi xây dựng nhà máy sản xuất, lắp ráp Cửu Long công suất sản xuất xe được cải thiện, số lượng xe bán ra thị trường ngày càng nhiều. Thị trường xe ô tô của Việt Nam chủ yếu là các loại xe hơi, xe du lịch, còn xe ô tô nông dụng vẫn còn đang bỏ ngỏ và rất ít những doanh nghiệp có khả năng cũng như năng lực để sản xuất. Đứng trước cơ hội này công ty TMT đang có trong tay rất nhiều lợi thế để cạnh tranh và chiếm lĩnh thị phần ô tô nông dụng trên thị trường Việt Nam. Hiện tại công ty đang chú trọng phát triển ở thị trường trong nước, cố gắng đẩy mạnh công tác tiêu thụ. Việc xây dựng nhà máy là bước mở đầu cho sự phát triển của công ty, chứng tỏ khả năng lớn mạnh và tạo ra sức ép cạnh tranh lên các đốI thủ khác trên thị trường. Thị trường chính của công ty vẫn là thị trường trong nước nhưng vẫn kết hợp với thị trường nước ngoài nếu tìm được đối tác thích hợp. Đó là xu hướng phát triển lâu dài của công ty để có thể phát triển vững mạnh.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả cạnh tranh chủ yếu của xe nông dụng
3.1. Chất lượng sản phẩm:
Chất lượng sản phẩm là vấn đề mang tính chất cốt lõi, quyết định trong cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng chính là cái mà khách hàng quan tâm nhất đối với sản phẩm. Một sản phẩm không có chất lượng hay chất lượng không đáp ứng được tiêu chuẩn nhất định tối thiểu cần phải có thì sản phẩm đó sẽ không có chỗ đứng trên thị trường vì không người tiêu dùng nào có thể sử dụng được chúng. Như thế nên hiểu là người sản xuất khi bán sản phẩm họ phải biết người tiêu dùng cần những gì ở sản phẩm của mình, nếu như không đáp ứng được những tiêu chí đó thì sản phẩm sẽ bị tồn kho và hậu quả mà doanh nghiệp hứng lấy sẽ là không nhỏ.
Mọi người đều có thể biết rằng sẽ không có hàng hoá cho tất cả mọi người tức là một sản phẩm được đưa ra không thể đáp ứng được hầu hết tất cả khách hàng do nhu cầu và tâm lý tiêu dùng là khác nhau. Khả năng xác định thị trường mục tiêu cho sản phẩm của doanh nghiệp phải là vấn đề đặt lên hàng đầu và hết sức quan trọng, điều này quả không thật là dễ dàng gì. Chính công việc xác định thị trường của sản phẩm mới là công việc đầu tiên khi tung sản phẩm ra thị trường, khi đã cơ bản hoàn thành bước đầu này mới tính đến việc đưa sản phẩm ra có phù hợp và đáp ứng được với đặc điểm của thị trường đã chọn hay không, để có bước điều chỉnh thích ứng một cách nhanh chóng. Chỉ có như thế thì sản phẩm của doanh nghiệp mới có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng và được họ chấp nhận và sản phẩm sẽ có tính cạnh tranh cao hơn so với các loại sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Nói đến chất lượng là nói đến một khái niệm trừu tượng, có những tiêu chuẩn được đưa ra để kiểm tra chất lượng của sản phẩm tuy nhiên có những trường hợp không có một tiêu chuẩn nào để đánh giá. Đối với khách hàng này họ có thể hài lòng với sản phẩm của doanh nghiệp nhưng cũng chính sản phẩm đó nếu đưa cho khách hàng khác chưa chắc họ đã chấp nhận vì như đã nói ở trên quan điểm của mỗi người mỗi khác. Chất lượng của sản phẩm chỉ có thể dần hoàn thiện thông qua cách đánh giá cũng như phản hồi của người tiêu dùng. Đây là yếu tố quyết định đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà các đối thủ cạnh tranh ngày càng nhiều thì việc nâng cao khả năng cạnh tranh là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Chỉ có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, coi chất lượng sản phẩm là thước đo mức độ hài lòng của khách hàng. Chất lượng sản phẩm là một quá trình từ quá trình sản xuất, trải qua nhiều công đoạn. Phải có một đội ngũ lành nghề để có thể cải thiện được chất lượng sản phẩm và cần thiết phải hoàn thành trong thời gian ngắn vì nếu cải tiến quá lâu sẽ bỏ mất cơ hội và bị đối thủ cạnh tranh vượt mặt.
3.2. Giá bán của sản phẩm
Đời sống ngày càng được nâng cao và nhu cầu của con người càng ngày càng thay đổi theo chiều hướng gia tăng nhưng nếu xét chung thì giá cả vẫn là một yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến tâm lý người tiêu dùng khi quyết định mua một sản phẩm nào đó. Giá sản phẩm của doanh nghiệp đưa ra nếu thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh thì là mội ưu thế lớn để thu hút khách hàng. Vấn đề định giá của sản phẩm hiện nay không chỉ đơn thuần là phụ thuộc vào chi phí mà còn bị chi phối vào những biến động xảy ra trên thị trường, căn cứ vào sự thay đổi giá của các đối thủ cạnh tranh và dựa trên nhu cầu của người mua.
Giá thành của sản phẩm nếu thấp thì doanh nghiệp sẽ mất đi một phần lợi nhuận đáng kể. Ngược lại nếu giá cao thì khách hàng sẽ không có nhu cầu hoặc là họ sẽ chuyển sang dùng sản phẩm của doanh nghiệp có mức giá thấp hơn. Trong khi giá thành lại phải phụ thuộc vào chi phí, có những chi phí có thể tiết kiệm, cắt giảm nhưng có những chi phí là bất biến, phụ thuộc vào nguyên liệu vật tư đầu vào và hàng trăm thứ khác có liên quan đến quá trình sản xuất. Hơn nữa cần phải dựa trên giá của các doanh nghiệp khác cạnh tranh với mình và của hàng thay thế. Đây là cách để cạnh tranh với nhau. Cần phải đưa ra mức giá phù hợp so với đối thủ để vừa đảm bảo thu được lợi nhuận và thu hút khách hàng, đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. Khách hàng sẽ là người đánh giá về đặc tính của sản phẩm. Nếu sản phẩm đó đáp ứng được yêu cầu khách hàng thì họ sẽ đồng ý với mức giá mà nhà sản xuất đưa ra. Tất nhiên là mức giá đó không thể là mức giá trên trời, và phải tuỳ thuộc vào mặt bằng chung của người dân, khả năng và mức tiêu thụ của họ.
Giá cả của sản phẩm cần phải được điều chỉnh một cách linh hoạt, thay đổi làm sao để cho phù hợp với mọi hoàn cảnh và khách hàng vẫn có thể lựa chọn cho mình sản phẩm của doanh nghiệp. Đây là điều đảm bảo cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm công ty.
Giá là một trong những công cụ quan trọng trong cạnh tranh và thường được sử dụng trong các giai đoạn đẩu của doanh nghiệp khi mà doanh nghiệp mới bước vào một thị trường mới nào đó. Ngày nay mặc dù mức sống của người tiêu dùng Việt Nam chúng ta ngày càng được cải thiện tuy nhiên độ nhạy của cầu khi giá cả sản phẩm thay đổi còn rất lớn. Do vậy công cụ này được sử dụng cho hầu hết các sản phẩm đang có mặt trên thị trường. Cạnh tranh về giá thường được thể hiện thông qua các biện pháp sau:
Kinh doanh với chi phí thấp, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động trong việc thu mua nguyên vật liệu đầu vào của sản phẩm, tiết kiệm và giảm các chi phí phát sinh không đáng có trong quá trình._. sản xuất cũng như trong quá trình đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Để làm được điều này không phải là dễ khi mà với những trang thiết bị chưa thực sự hiện đại so với nước ngoài nên năng suất không thể đạt tối đa và ngoài ra các chi phí phát sinh còn do phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan về phía doanh nghiệp trong khi sản xuất chế tạo sản phẩm.
Bán với mức giá hạ hoặc mức giá thấp. Với cách làm này thì doanh nghiệp phải tính toán rất kỹ khi đưa ra giá cả thấp của sản phẩm. Liệu đây có phải là phương pháp tối ưu. Có thể cạnh tranh về giá thấp trong một thời gian nhưng nếu duy trì như vậy trong thời gian dài có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp hay không? Trong một chừng mực nào đó việc bán giá thấp là để chiếm lĩnh thị phần, hất cẳng đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường. Tuy nhiên đây cũng như con dao hai lưỡi, nếu đối thủ cạnh tranh có tiềm lực thì việc chạy đua về giá có thể khiến doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn thậm chí là có thể bị thua cuộc. Quan trọng hơn hết là đảm bảo một mức giá hợp lý trên thị trường kèm theo những chiến thuật hợp lý nhằm giúp sản phẩm của công ty có thể cạnh tranh được trên thị trường.
Mức giá có một vai trò quan trọng trong cạnh tranh. Nếu như có sự chênh lệch về giá của doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh, lớn hơn so với chênh lệch về giá trị sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp thì có thể nhận thấy doanh nghiệp đã đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so với các đối thủ khác. Do đó sản phẩm của doanh nghiệp sẽ càng ngày càng chiếm được lòng tin của khách hàng, của người tiêu dùng và cũng có nghĩa là sản phẩm của doanh nghiệp chắc chắn đạt được vị trí cạnh tranh cao trên thị trường.
Để có thể đạt được mức giá thấp thì doanh nghiệp cần phải xem xét khả năng hạ giá sản phẩm của đơn vị mình. Nếu như có càng nhiều khả năng hạ giá thành sản phẩm thì sẽ càng có nhiều lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ cạnh tranh khác. Và khả năng hạ giá sản phẩm phụ thuộc vào những yếu tố sau đó là:
Chi phí về kinh tế thấp.
Khả năng bán hàng tốt do vậy khối lượng bán lớn hơn.
Khả năng về tài chính của doanh nghiệp mạnh.
Giá cả sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận thu được của doanh nghiệp do vậy khi sử dụng đến khả năng này thì phải chọn thời điểm thích hợp như thế sẽ mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Ngược lại nếu không có những kế hoạch cụ thể thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn lớn về tài chính. Nên cách tốt nhất là doanh nghiệp cần phải kết hợp nhuần nhuyễn và thành thục giữa giá cả và các bộ phận về chiết khấu và với những phương pháp bán hàng mà doanh nghiệp đã và đang sử dụng, cộng thêm các phương pháp thanh toán thích ứng với xu thế và trào lưu của người tiêu dùng.
3.3. Phân phối bán hàng và các dịch vụ bán hàng:
Đối với nền kinh tế hiện nay, hầu như tất cả những người sản xuất đều không tham gia trực tiếp bán sản phẩm của mình. Thông qua các hình thức khác nhau như hình thức trung gian đó là các nhà bán buôn hoặc bán lẻ. Những người này sẽ mua và tiếp nhận quyền sở hữu sản phẩm rồi sau đó sẽ bán lại hàng hoá đó cho những người có nhu cầu, những người này là những người mua bán trung gian. Ngoài ra còn có một số những người khác là những người môi giới, đại diện cho hãng sản xuất, doanh nghiệp. Những người này họ không có quyền sở hữu sản phẩm nhưng họ có quyền là đại diện cho doanh nghiệp đứng ra thương lượng trao đổi với khách hàng, đây chính là những đại lý trung gian. Tất cả đều có mục đích thay doanh nghiệp làm công việc đưa sản phẩm đến người tiêu dùng, giúp doanh nghiệp chỉ tập trung vào nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện mẫu mã và giảm bớt các chi phí xúc tiến. Bên cạnh đó còn có các công ty, các hãng vận tải chuyên chở hàng hoá cho doanh nghiệp. Các công ty quảng cáo nhằm giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng. Các ngân hàng hỗ trợ về vốn cho doanh nghiệp, v.v…Tất cả nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện phân phối sản phẩm. Những tổ chức này không có quyền sở hữu sản phẩm, không có quyền thương lượng với khách hàng, họ chỉ có tác động và hỗ trợ cho việc phân phối sản phẩm của doanh nghiệp. Hệ thống phân phối càng lớn mạnh cũng như được phân công chi tiết cụ thể với những chức năng riêng biệt sẽ giúp cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Với cách tổ chức như vậy thì sẽ có nhiệm vụ cho từng người, nhà sản xuất chỉ lo đến sản phẩm, các đại lý đứng ra tiêu thụ sản phẩm trong khi những người vận chuyển lại có trách nhiệm chuyển chở sản phẩm hàng hoá đến tay người tiêu dùng. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp có tất cả các khâu nói trên, đây là những doanh nghiệp lớn, họ có thể tự mình sản xuất, tự mình phân phối sản phẩm. Tất nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng làm được như vậy. Tuỳ thuộc vào năng lực của doanh nghiệp để có thể xác định và xây dựng mạng lưới phân phối phù hợp với thị trường.
Hệ thống phân phối sản phẩm có thể được coi là nguồn lực then chốt ở bên ngoài của doanh nghiệp. Theo như thường lệ thì phải mất rất nhiều thời gian để có thể xây dựng được một hệ thống phân phối hoàn chỉnh và lại càng khó có thể dễ dàng thay đổi được cả một hệ thống đang vận hành trôi chảy. Đây là một bước để giúp doanh nghiệp triển khai kế hoạch tung sản phẩm ra thị trường. Cần phải xác định mục tiêu cụ thể và phù hợp với hệ thống phân phối mà doanh nghiệp đang có. Nếu sản phẩm đưa ra trên thị trường mà hệ thống phân phối cũng như các đại lý không có kế hoạch chuẩn bị thì có thể coi như là thất bại. Nó có một vai trò hết sức quan trọng và không thua kém gì so với những nguồn lực nội bộ của doanh nghiệp như nhân lực, trang thiết bị sản xuất, cơ sở hạ tầng… Phải có mối liên hệ chặt chẽ với doanh nghiệp và các công ty độc lập có chức năng chuyên về phân phối để có thể tạo ra sự thuận lợi đối với triển khai sản phẩm và đối với mỗi thị trường mà doanh nghiệp đã và đang hướng tới.
Đi đôi với công việc tổ chức quản lý hệ thống phân phối sản phẩm của doanh nghiệp còn có các dịch vụ hỗ trợ khách hàng trước, trong và sau khi sản phẩm được bán đang được các doanh nghiệp hết sức quan tâm và triển khai một cách mạnh mẽ. Dịch vụ như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp là nắm bắt được suy nghĩ của khách hàng về sản phẩm của mình, tạo sự liên lạc giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Có thể bao gồm các dịch vụ hỗ trợ như là dịch vụ tài chính, tín dụng hoặc là các dịch vụ sữa chữa bảo hành cũng nhưng lắp đặt vận chuyển hướng dẫn vận hàng sản phẩm nhằm mục đích làm gia tăng hơn nữa giá trị của sản phẩm hay còn gọi là giá trị cảm nhận. Không còn tình trạng khi doanh nghiệp bán sản phẩm cho khách hàng là coi như chấm dứt quan hệ giữa hai bên. Nếu chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt mà không nghĩ đến lợi ích lâu dài thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ không có khả năng cạnh tranh do người tiêu dùng tẩy chay sản phẩm đó. Thông thường sản phẩm phải đi kèm với dịch vụ. Khách hàng sẽ cảm thấy hài lòng về chất lượng của sản phẩm, hài lòng với chất lượng dịch vụ mà doanh nghiệp mang lại cho họ thì từ đó khách hàng sẽ có thiện cảm và là một lợi thế không hề nhỏ trong cạnh tranh. Điều này cũng thật dễ hiểu vì hiện nay doanh nghiệp sản xuất nào cũng đều chú trọng tới khâu dịch vụ hỗ trợ cho sản phẩm. Doanh nghiệp có các kênh riêng để khách hàng khi muốn mua sản phẩm của mình đều có những thông tin cần thiết và đầy đủ. Khi có những gì trục trặc hay những thắc mắc về sản phẩm khách hàng có thể thông báo cho doanh nghiệp. Chính mối quan hệ và các luồng thông tin đa chiều từ các bên sẽ giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng xử lý tình huống chính xác, nhằm khắc phục những hậu quả để làm sao cho sản phẩm ngày càng đáp ứng yêu cầu khắt khe của phía khách hàng. Dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng không thể thiếu trong mỗi doanh nghiệp sản xuất. Vì nếu không có họ vô hình chung khách hàng sẽ phải mang sản phẩm của mình ra những nơi khác để sữa chữa trong khi đó nhưng nơi đó hoặc là giá cả quá cao, hoặc là không chuyên về loại sản phẩm này và ngoài ra là không có những phụ tụng, linh kiện thay thế cho sản phẩm.
Sản phẩm muốn cạnh tranh được trên thị trường thì doanh nghiệp phải có cái nhìn bao quát tổng thể, xem xét đánh giá, vạch ra chiến lược cho kế hoạch của mình. Kinh doanh trong môi trường hiện nay thì dịch vụ bán hàng cần phải được thực hiện tốt, như vậy sẽ mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Xu hướng bây giờ các doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ để làm sao làm vừa lòng khách hàng một cách tốt nhất. Cần phải triển khai và làm sao để cho các dịch vụ như trên trở nên lớn mạnh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường vốn đã vô cùng khốc liệt.
Phải tìm ra và lựa chọn được các kênh phân phối bán hàng hợp lý, có đầy đủ tiềm năng về các mặt tài chính cũng như khả năng khác như trao đổi trên thị trường. Thực tế cho thấy việc gắn kết các kênh phân phối có vai trò quan trọng trong việc tạo nên một sức mạnh đối với môi trường cạnh tranh hiện tại. Thiết lập mạng lưới phân phối sẽ giúp cho hàng hoá nhanh chóng đến tay người tiêu dùng và khách hàng sẽ có nhiều cơ hội hơn để nắm bắt về sản phẩm cũng như có được những thông tin cần thiết liên quan đến sản phẩm mà mình quan tâm. Bên cạnh đó việc hình thành mối quan hệ giữa phương thức thanh toán và phương thức bán hàng sẽ tạo ra nhiều thuận lợi đối với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Cần phải đa dạng hoá các hình thức dịch vụ để lôi kéo khách hàng, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Hiện nay người ta cạnh tranh với nhau thông qua các dịch vụ kèm theo trước, trong và sau khi bán sản phẩm như bảo trì, bao hành, v.v… Điều này chứng tỏ mạng lưới dịch vụ sẽ là một cách hữu hiệu trong cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp.
3.4. Thương hiệu sản phẩm:
Việc thiết lập, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm cũng chính là đã khai sinh ra cho sản phẩm một cái tên giúp cho người tiêu dùng có thể nhận biết trong quá trình trao đổi cũng như thu thập thông tin về sản phẩm. Thương hiệu có ý nghĩa rất lớn trong quá trình cạnh tranh của sản phẩm. Người tiêu dùng thường sẽ chú ý đến các thương hiệu nổi tiếng, tên tuổi trên thị trường vì đây là những thương hiệu khẳng định được uy tín và chỗ đứng vững chắc. Thương hiệu mạnh đồng nghĩa với việc sản phẩm đó sẽ là một sản phẩm có chất lượng tốt, đã được kiểm chứng về chất lượng và luôn được đánh giá cao. Nhưng có điều cần lưu ý, thương hiệu của sản phẩm thường là chỉ nói đến kiểu dáng, chất lượng hơn là giá cả. Chỉ cần thương hiệu có chỗ đứng thì doanh nghiệp có thể có một mức giá phù hợp cho sản phẩm của mình. Người tiêu dùng ít có khả năng thay đổi thói quen, trừ khi sản phẩm mới có chất lượng ngang bằng nhưng giá cả thì lại rẻ hơn.
Doanh nghiệp cần phải xác định và triển khai xem thương hiệu của sản phẩm mà mình sản xuất đang ở cấp độ nào, trước hết phải tạo ra cho được một thương hiệu có uy tín cao, có một vị trí nhất định để từ đó làm cho khách hàng, người tiêu dùng sẽ trung thành với sản phẩm của doanh nghiệp. Uy tín, sự nổi tiếng của thương hiệu sẽ đem lại lợi thế cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp. Nếu đạt được điều đó, doanh nghiệp sẽ có thể cắt giảm bớt chi phí marketing cho sản phẩm vì mức độ nhận biết sản phẩm của khách hàng đối với sản phẩm đã được nâng cao. Từ đó doanh nghiệp sẽ dựa vào thương hiệu đã xây dựng để làm đòn bẩy thương mại biến chúng thành sức mạnh trong việc thương lượng với những người phân phối, bán lẻ nhờ khách hàng luôn mong đợi họ kinh doanh với thương hiệu của sản phẩm đó. Doanh nghiệp sẽ yêu cầu giá cao hơn đối thủ cạnh tranh vì thương hiệu có uy tín và khẳng định được vị trí trên thị trường, người tiêu dùng đã thừa nhận sản phẩm của doanh nghiệp. Như vậy doanh nghiệp có thể khuyếch trương tên tuổi của sản phẩm vì chúng đã khẳng định chất lượng trên thị trường.
Việc xây dựng thương hiệu đòi hỏi rất nhiều yếu tố, từ việc hình thành rồi triển khai và biến chúng thành những hành động cụ thể. Chất lượng là yếu tố hàng đầu được đặt ra. Người tiêu dùng sẽ căn cứ vào chất lượng của sản phẩm để quyết định lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp nào mình sẽ mua. Một khi sản phẩm đã có thương hiệu thì người tiêu dùng lúc này sẽ yên tâm và trung thành với thương hiệu, nhãn mác của sản phẩm mà mình đã tin tưởng tiêu dùng trong suốt thời gian dài. Tầm quan trọng của thương hiệu là rất lớn, vì thế công tác quản lý phải cẩn thận để sao cho uy tín của thương hiệu không giảm sút, hay sứt mẻ. Doanh nghiệp cần phải luôn duy trì thương hiệu để làm sao tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Duy trì thương hiệu là điều không dễ dàng nhất là trong bối cạnh phải cạnh tranh với nhiều sản phẩm có xuất xứ trong nước cũng như của các doanh nghiệp nước ngoài. Bài toán đặt ra là vô cùng khó khăn. Cần phải có tiềm lực về tài chính để duy trì và giữ vững thương hiệu. Phải có kiến thức pháp luật và có sự tham vấn của những người có kinh nghiệm, đặc biệt khi sản phẩm tung ra thị trường thì sản phẩm đó nhất thiết đã được đăng ký kiểu dáng công nghiệp. Cạnh tranh trên thị trường vốn khốc liệt, doanh nghiệp phải đối phó với nhiều nguy cơ, những sản phẩm làm nhái nhãn hiệu, chất lượng kém nhưng giá thành rẻ có thể thu hút khách hàng và làm thiệt hại rất nhiều đến hình ảnh của sản phẩm doanh nghiệp. Không những chỉ là duy trì mà còn phải nâng cao thương hiệu không chỉ giới hạn trong một phạm vi nhất định, nhất thiết phải hướng thương hiệu ra thị trường bên ngoài nơi có nhiều tiềm năng nhưng lại không kém phần khó khăn trong cạnh tranh. Thương hiệu của sản phẩm nếu lớn mạnh đựoc thì sẽ góp phần không nhỏ gia tăng cạnh tranh so với đối thủ.
CHƯƠNG II PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA Ô TÔ NÔNG DỤNG SẢN XUẤT TẠI CÔNG TY THƯƠNG MẠI VÀ SẢN XUẤT VẬT TƯ THIẾT BỊ GIAO THÔNG VẬN TẢI TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
1. Thực trạng của thị trường ô tô ở nước ta hiện nay
1.1. Lượng cung và nguồn cung ô tô ở nước ta:
Có thể nhận thấy lượng cung của ô tô nước ta hiện nay là vô cùng lớn, nó phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn khác nhau trong đó phần lớn chủ yếu lượng cung ô tô của nước ta xuất phát từ ba nguồn chính yếu sau: Sản xuất và lắp ráp ở trong nước, nhập khẩu theo hạn ngạch, nhập lậu. Trong các nguồn nêu trên thì theo số liệu thống kê thu thập được, lượng ô tô nhập khẩu theo hạn ngạch chiếm số lượng lớn nhất, đứng thứ hai là lượng ô tô sản xuất và lắp ráp ở các doanh nghiệp trong nước, cuối cùng là lượng xe do nhập khẩu vào thị trường Việt Nam. Căn cứ vào tính toán của các nhà kinh tế thì tổng lượng cung ô tô ra thị trường Việt Nam bình quân một năm là vào khoảng 350.000 xe. Trong đó lượng xe ô tô nhập khẩu theo hạn ngạch là trên dưới 200.000 xe/ năm, số lượng xe ô tô sản xuất lắp ráp trong nước là khoảng chừng 100.000 xe/ năm, còn lại lượng xe ô tô nhập lậu là từ 10.000 đến 50.000 xe/ năm.
Nếu nhìn vào số lượng xe ô tô sản xuất trong nước với 100.000 xe/ năm thì rõ ràng các doanh nghiệp nhà nước, các cơ sở sản xuất cũng như các công ty liên doanh nước ngoài vẫn chưa đạt hết công suất so với thiết kế, tính ra các doanh nghiệp này mới chỉ đạt ước chừng 8% công suất. Với công suất thiết kế của 11 doanh nghiệp trong tổng số 14 doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài đang có mặt tại thị trường Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là khoảng 83260 xe trên một năm theo số liệu thống kê năm 2000. Như vậy chúng ta có thể thấy hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài vẫn chưa thực sự hiệu quả cao. Mặc dù công suất thiết kế cao như thế nhưng trong thực tiễn vào năm 2005 chỉ có 100.000 xe đã được bán ra. Trong khi đó ở những năm trước Việt Nam đã nhập khẩu khoảng 200.000 xe ô tô các loại và các loại xe ô tô chuyên dùng đã chiếm hơn một nửa so với số lượng xe nhập về, từ những gì đã quan sát có thể đi đến kết luận thị trường ô tô trong nước, đặc biệt là các công ty, các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu tiêu dùng trong nước của người mua. Tất cả số xe ô tô còn lại trong lượng cung ô tô ra thị trường trong nước là các loại xe nhập lậu, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đối với thị trường ô tô Việt Nam vì các loại xe nhập lậu này có giá cực rẻ, nên chúng có sức cạnh tranh rất lớn đối với các loại xe khác.
Có thể thấy rõ hơn qua biểu đồ lượng cung ô tô ở dưới đây:
1.2. Lượng cầu ô tô ở nước ta hiện nay:
Nước ta mới chỉ bắt đầu bước vào công cuộc đổi mới toàn diện kinh tế hơn mười năm và do đó đời sống của nhân dân nói chung vẫn chưa có những thay đổi đáng kể. Chính vì thế mà lượng cầu ô tô ở nước ta hiện nay vẫn còn nhỏ không nói là rất nhỏ, đặc biệt phần cầu ô tô chủ yếu là thuộc về các doanh nghiệp nhà nước. Thật ra cũng không có gì là khó hiểu khi mà thu nhập của người dân hiện nay vẫn còn quá thấp, với thu nhập khoảng 300 đến 450 USD thì việc mua ô tô là một điều hết sức khó khăn và là không tưởng, thực tế giá một chiếc xe ô tô là quá cao so với thu nhập của một công chức nhà nước bình thường. Khi mà cuộc sống của họ chưa được bảo đảm thì việc mua cho mình một chiếc xe ô tô là nằm ngoài mục tiêu của người dân. Mặt khác tập quán của người dân là khó có thể thay đổi trong một thời gian ngắn. Những con số thống kê có được dự báo lượng cầu ô tô tại thời điểm này là khoảng chừng 60.000 xe trên một năm, và trơng thời gian tới lượng cầu này sẽ tăng cao hơn trước.
Bên cạnh những lý do như là cơ sở hạ tầng ở nước ta còn quá kém, hệ thống giao thông vẫn chưa thực sự hoàn chỉnh, vẫn còn xảy ra tình trạng ách tắc giao thông tại những nút giao thông quan trọng, khiến cho việc đi lại bằng ô tô trên đường ở Việt Nam hết sức khó khăn. Và còn có một lý do quan trọng khác nữa là Việt Nam vẫn đang trong quá trình phục hồi nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực vừa mới xảy ra vào năm 1998, mà hậu quả để lại cũng ảnh hưởng ít nhiều dù chính phủ Việt Nam đã phòng tránh từ trước nên như vậy việc chi tiêu cho công tác vận chuyển với chi phí quá cao như vậy là rất không cần thiết, cần phải xây dựng nền kinh tế vững mạnh trong giai đoạn hiện nay, đây mới là điều quan trọng cần phải hướng tới.
Như đã nói ở trên, thị trường ô tô ở nước ta đã nhỏ hẹp thì lại càng nhỏ hẹp hơn nữa mà nguyên nhân chủ yếu là do rất nhiều các nhân tố tác động cả bên trong lẫn bên ngoài. Việc lượng cầu ô tô có thay đổi được hay không thì còn phải trông chờ vào thời gian tới khi mà nước ta đang chuẩn bị tham gia vào các diễn đàn cũng như các tổ chức kinh tế thế giới nhằm thúc đẩy thương mại Việt Nam. Khi mà tham gia vào được các tổ chức nói trên thì cơ hội mở ra là rất lớn, có điều kiện để mở rộng và tham gia vào thị trường ô tô với các nước, học tập kinh nghiệm của họ để vực dậy nền công nghiệp ô tô nước nhà. Khi đó các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô trong nước sẽ phải tự mình thay đổi nhằm thích ứng với sự thay đổi và như thế người tiêu dùng có khả năng mua được xe ô tô với giá thành rẻ hơn, điều này làm cho lượng cầu ô tô có bước đột phá và gia tăng một cách đáng kể.
Quan sát biểu đồ lượng cầu ô tô ở nước ta trong giai đoạn hiện nay:
1.3. Tình hình giá cả ô tô hiện nay ở nước ta:
Trong giai đoạn hiện nay nếu so sánh giá của các loại xe ô tô của nước ta so với các nước khác trong khu vực cũng như trên thế giới thì có thể thấy một điều hết sức bất cập đó là giá xe của Việt Nam thuộc loại rất cao, không muốn nói là cao nhất thế giới. Tại sao lại có một nghịch lý như vậy trong khi mức thu nhập cũng như đời sống của người dân Việt Nam là còn quá thấp. Có một sự mất cân đối và vô hình chung người tiêu dùng lại phải chịu thiệt thòi do mức giá quá cao mà họ phải trả cho một chiếc xe sản xuất trong nước. Nguyên nhân ở đây có thể được lý giải là do các chính sách thương mại của nhà nước, do các nhà đầu tư chưa thể khai thác hết tối đa hiệu quả sản xuất kinh doanh của chính mình cũng như không thể có được sự hỗ trợ cần thiết đối với nền công nghiệp ô tô của Việt Nam. Hầu hết các công ty liên doanh ô tô ở Việt Nam hiện nay rất khó khăn trong việc tìm kiếm được các nguồn cung nguyên vật liệu từ trong nước mặc dù đó là những phụ kiện đơn giản, như các loại chi tiết gá ép bulong, ốc vít. Những công ty sản xuất trong nước chỉ có thể cung cấp các loại bao bì, có rất ít những doanh nghiệp trong nước có thể chế tạo và sản xuất ở nước ta. Hầu như phần lớn các loại xe lắp ráp ở Việt Nam là theo dạng CKD chính vì thế mà khi lắp ráp theo kiểu dạng như thế này thành ra chi phí vận chuyển sẽ là rất lớn cũng như thuế nhập khẩu tương đối cao hơn nhiều so với thông thường. Cũng do là như vậy nên đã làm cho giá cả các loại xe cao vọt lên. Theo đánh giá của các nhà quản lý chế tạo ô tô hàng đầu của Việt Nam cho rằng giá các loại xe lắp ráp ở nước ta là cao hơn rất nhiều so với các loại xe được sản xuất từ chính quốc.
Giá thành của các loại xe ô tô kể cả xe mới lẫn xe đã qua sử dụng khi nhập khẩu vào thị trường nước ta vẫn có giá quá cao, đây là điều bất hợp lý bởi vì không có một nước nào lại áp dụng chính sách thuế nhập khẩu quá cao như Việt Nam. Chính sách thuế của nhà nước cao như vậy là để bảo hộ ngành công nghiệp ô tô nhưng trong giai đoạn hiện nay khi mà Việt Nam sắp sửa tham gia vào WTO thì như thế lại làm cản trở những doanh nghiệp trong nước phát triển. Khi đó ngành công nghiệp ô tô sẽ phải đứng trước rất nhiều thách thức khó khăn để có thể cạnh tranh so với đối thủ của mình là những nước có nền công nghiệp ô tô mạnh trên thế giới. Giá cao đã là một nhân tố quan trọng khiến cho người tiêu dùng cảm thấy đắn đo khi quyết định mua ô tô. Họ sẽ chuyển sang mua ô tô nước ngoài và quay lưng lại với ô tô sản xuất trong nước. Như đã nêu, tình hình giá cả của các loại xe nhập khẩu đã cao như thế nhưng có một điều là ngay cả giá xe sản xuất trong nước cũng cao trong khi xét về chất lượng chưa thể so sánh với các loại xe mà được sản xuất tại các nước có thế mạnh sản xuất ô tô. Và rõ ràng người tiêu dùng đang phải gánh chịu một mức giá vô lý do những chính sách của chính phủ áp dụng với nền công nghiệp ô tô. Không biết liệu đến lúc nào người dân mới có thể mua cho mình ô tô như là phương tiện giao thông chính thay cho xe máy. Thực tế đã cho thấy rằng giá của các loại xe nhập khẩu dù là mới hay đã qua sử dụng đi nữa thì chúng vẫn cao hơn gấp ba lần so với giá tại Mỹ trong khi đó thu nhập bình quân của một người dân Mỹ đã cao hơn gấp 50 lần so với thu nhập bình quân của người dân Việt Nam. Chỉ cần ví dụ như thế đã thấy cơ cấu không hợp lý trong chính sách đầu tư và thương mại về thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam. Do đó cần phải nhìn nhận khách quan để có những giải pháp phù hợp từ phía chính phủ cũng như từ phía doanh nghiệp đồng thời có sự kết hợp chặt chẽ giữa các bên có liên quan để ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam có thể phát triển mạnh mẽ và bền vững. Trong thời gian vừa qua, mọi người đều rất quan tâm đến việc chính phủ cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng. Tưởng đây là một tín hiệu vui cho người tiêu dùng vì họ có thể mua cho mình một chiếc xe với giá cả tương đối nhưng điều đó có thể sẽ không thể trở thành hiện thực. Bộ Tài chính vừa ban hành biểu thuế mới áp dụng cho các loại xe đã qua sử dụng được nhập khẩu vào Việt Nam. Với thuế suất này một chiếc xe khi nhập khẩu vào Việt Nam, sau khi đã chịu thuế cùng với các chi phí phát sinh khác như vận chuyển, lưu kho thì giá của chiếc xe này xấp xỉ bằng với giá một chiếc xe mới cùng loại sản xuất lắp ráp tại Việt Nam. Trước khi có mức thuế này, nhiều cá nhân cũng như các doanh nghiệp đã đánh giá được tình hình và coi đây là cơ hội tốt để kinh doanh và họ đã chuẩn bị trước cho mình lộ trình nhập khẩu xe cũ về thị trường Việt Nam để khi nào quyết định của chính phủ có hiệu lực thì sẽ mở ra một cuộc thay đổi lớn đối với thị trường ô tô Việt Nam. Và ngoài ra trong khoảng thời gian gần đây thị trường ô tô gần như bị đóng băng do người tiêu dùng đang hướng tới việc mua xe cũ giá rẻ. Các hãng xe trong nước đứng trước tình hình này đã phải có các chính sách giảm giá kèm theo những ưu đãi đặc biệt nhưng nói chung tình hình vẫn không có biến chuyển khả quan cho lắm. Cần phải nói thêm rằng các loại xe cũ nhập khẩu từ nước ngoài nhưng chất lượng của chúng vẫn còn rất tốt. Không thể hiểu cứ xe cũ là chất lượng kém, nhiều người lo rằng khi chính phủ cho phép nhập khẩu xe cũ thì Việt Nam có thể trở thành một bãi rác xe cũ và làm ảnh hưởng đến nền kinh tế. Tuy nhiên với những biểu thuế nói trên thì có lẽ niềm tin vào khả năng mua cho mình một chiếc xe ô tô vẫn còn là một khoảng cách khá xa. CuốI tháng 3/2006 thủ tướng chính phủ đã ký ban hành quyết định 69 về thuế nhập khẩu tuyệt đốI áp dụng cho mặt hàng xe ô tô từ 15 chỗ ngồI trở xuống đã qua sử dụng. Các mức thuế trong quyết định này không thay đổI so vớI đề xuất trước đó của Bộ Tài chính. Mức thuế tuyệt đốI áp dụng cho các loạI xe ô tô cũ nhập khẩu dướI 5 chỗ ngồI sẽ từ 3.000 – 25.000 USD tuỳ theo dung tích xy lanh, ngoài ra còn phảI chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng. Mức thuế tuyệt đốI được phân loạI theo tiêu chí chỗ ngồI và dung tích xy lanh, không tính theo dòng xe, đờI xe và năm sản xuất. Cũng theo quyết định nói trên thủ tướng giao cho Bộ tài chính căn cứ vào giai đoạn cụ thể điều chỉnh tăng hay giảm 20% mức thuế tuyệt đốI nhằm kiểm soát và điều tiết thị trường tiêu thụ trong nước, ngăn chặn các hiện tượng gian lận thương mại. Các quy định trên có hiệu lực và áp dụng cho các tờ khai hảI quan kể từ 01/05/2006.
BIỂU THUẾ NHẬP XE Ô TÔ CŨ
Dung tích xy lanh động cơ cc
Mức thuế tuyệt đối USD/chiếc
Loại xe dưới 5 chỗ
DướI 1.000
3.000
Từ 1.000 - dướI 1.500
7.000
Từ 1.500 - 2.000
10.000
Trên 2.000 - 3.000
15.000
Trên 3.000 - 4.000
18.000
Trên 4.000 - 5.000
22.000
Trên 5.000
25.000
Loại xe từ 6 - 9 chỗ
Từ 2.000 trở xuống
9.000
Trên 2.000 - 3.000
14.000
Trên 3.000 - 4.000
16.000
Trên 4.000
20.000
Loại xe 10 - 15 chỗ
Từ 2.000 trở xuống
8.000
Trên 2.000 - 3.000
12.000
Trên 3.000
15.000
1.4. Thị trường ô tô nông dụng của Việt Nam
Trên thị trường Việt Nam có rất nhiều hãng xe nổi tiếng như Suzuki, Mitsubishi, Ford, v.v… Đây là những công ty liên doanh với số vốn đầu tư vô cùng lớn cùng với đội ngũ công nhân lành nghề. Các hãng xe này lại sản xuất rất nhiều các kiểu xe khác nhau phụ thuộc vào nhu cầu cũng như đặc điểm của thị trường nước ta. Phần lớn các hãng xe nổi tiếng nói trên đều sản xuất dòng xe cao cấp, xe du lịch. Một số ít các doanh nghiệp sản xuất ô tô nông dụng có trọng tải nhỏ. Khi mà đời sống nhân dân cải thiện, vai trò của các phương tiện sản xuất sẽ thay thế các phương tiện thô sơ, lạc hậu để làm gia tăng năng suất. Nông thôn ngày càng được cơ giới hoá, chính vì thế mà nhu cầu về ô tô nông dụng ngày càng lớn trong thời gian tới. Do vậy cùng với những liên doanh chuyên về ô tô nông dụng của Nhật Bản, Hàn Quốc… thì các doanh nghiệp trong nước cũng không thể ngồi yên và đã bắt đầu tham gia vào cuộc cạnh tranh về dòng xe này. Xuất hiện không ít các công ty trong nước sản xuất lắp ráp ô tô nông dụng loại nhỏ, đây là một tín hiệu đáng mừng đốI với nền công nghiệp ô tô Việt Nam.
Loại xe ô tô nông dụng không phải mới xuất hiện gần đây mà có từ rất lâu tuy nhiên bây giờ nhu cầu về loại xe này là rất lớn. Việc chuyển đổi và cơ giới hoá nông thôn đặt ra trước mắt phải làm sao có đầy đủ máy móc phục vụ cho công việc của bà con nhân dân. Trước đây, nông dân Việt Nam thường dùng các loại xe tự chế để chở nông phẩm, việc làm này hết sức nguy hiểm vì đa phần các kiểu xe này không an toàn cho cả người lái lẫn người đi đường chưa kể công suất chở còn nhỏ, tốn kém nhiều cho người dân. Tình trạng những chiếc xe công nông ở trên đường trước đây đã không còn thấy do nhà nước không cho phép lưu hành loại xe này nhằm đảm bảo an toàn giao thông và tiến tới thay đổi bộ mặt nông thôn, giúp đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Những chiếc xe nông dụng loại nhỏ này sẽ là một công cụ đắc lực giúp cho người dân rất nhiều. Họ có thể chủ động hơn trong việc chở hàng hoá của mình đến nơi tiêu thụ. Hệ thống đường nông thôn đã được cải tạo rất nhiều, thuận lợi hơn cho việc chuyên chở bằng xe nông dụng. Ngoài ra ở nông thôn bây giờ việc người nông dân không chỉ sống phụ thuộc vào cây lúa mà họ đã chuyển sang sản xuất những mặt hàng khác, thu nhập vừa cao lại không phải vất vả. Từ đó khi mà đòi hỏi việc chuyên chở sản phẩm cần thiết phải có một chiếc xe ô tô nông dụng để chở hàng hoá. Ngoài người nông dân ra thì các doanh nghiệp sản xuất đều cần dùng đến xe nông dụng. Đây là khách hàng thường mua với số lượng lớn nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Thị trường xe ô tô nông dụng hiện nay đang rất sôi động điển hình ngoài các doanh nghiệp liên doanh của nước ngoài đã có từ lâu thì trên thị trường xuất hiện những doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu lên tiếng và cạnh tranh mạnh mẽ về dòng xe này. Bước đầu cho thấy với khả năng của mình thì các doanh nghiệp Việt Nam thừa sức chiếm ưu thế vì chất lượng xe ô tô nông dụng của họ không thua kém gì so với các loại xe tương tự của nước ngoài và ưu điểm của doanh nghiệp trong nước là giá thành của những chiếc xe này lại rẻ hơn so với xe ngoại nhập. Hơn nữa tỷ lệ nội địa hoá ngày càng cao giúp cho doanh nghiệp chủ động hơn về linh kiện phụ tùng xe ô tô, giảm bớt chi phí do phải nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài. Chính phủ luôn khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất trong nước nên rõ ràng chính sách của chính phủ sẽ là một ưu thế đối với các doanh nghiệp sản xuất ô tô nông dụng. Từ những năm trước chính phủ đã công bố các văn bản luật đầu tư nước ngoài cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chỉ có hiện đại hoá đất nước thì ngành công nghiệp ô tô mới phát triển và đặc biệt là những chiếc xe ô tô nông dụng do Việt Nam sản xuất có chỗ đứng trên thị trường. Các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với khoa học công nghệ nước ngoài và từ đó sẽ học hỏi được kinh nghiệm và áp dụng vào cải tiến chất lượng sản phẩm của mình nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Các loại hình vận nông dụng ngày càng nhiều đòi hỏi có phương tiện đáp ứng, khi mà xã hội ngày càng phát triển thì việc phân công hoá lao động sẽ có những thay đổi đáng kể, các doanh nghiệp sẽ chú trọng hơn trong việc sản xuất và sẽ có những công ty chuyên chở có trách nhiệm vận chuyển. Đối tượng này là những khách hàng tiềm năng đối với các doanh nghiệp sản xuất ô tô nông dụng.
Số lượng xe nông dụng sẽ ngày càng nhiều do nhu cầu của thị trường tăng cao là một tín hiệu đáng mừng.._.của người lao động trong công ty để họ khắc phục và không gây ra những thất thoát trong sản xuất.Công ty cũng cần phải tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và tài chính. Với tài chính dồi dào thì công ty có thể chủ động trong việc áp dụng giá bán đối với sản phẩm trong từng thời điểm cụ thể. Điều này phụ thuộc vào chính tiềm lực của công ty, bởi tài chính của công ty phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Doanh thu của công ty chính là toàn bộ tiền bán sản phẩm và đây là nguồn thu chủ yếu của doanh nghiệp. Do vậy việc có một chính sách giá cả hợp lý sẽ quyết định đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm công ty. Trong giai đoạn hiện nay khi mà công ty phảI cạnh tranh khá quyết liệt để có thể tiêu thụ được số lượng xe đã sản xuất ra. Nếu Việt Nam tham gia vào WTO thì không những phải cạnh tranh về giá bán với các đối thủ hiện có mà còn phải sẵn sàng bất cứ lúc nào với các nước trong tổ chức thương mại thế giới. Giá bán chính là vũ khí quyết định để công ty có thể đứng vững trên thị trường. Cạnh tranh bằng giá bán luôn được các công ty tận dụng thường xuyên vì có thể thay đổi mức giá của xe vào các thời điểm khác nhau. Nếu thay đổi chất lượng đòi hỏi thời gian nghiên cứu, cải tiến thì thay đổi về giá bán phụ thuộc vào quyết định của những ngườI đứng đầu công ty. Chấp nhận giảm giá để thu hút khách hàng, đồng thời mở rộng được phạm vi ảnh hưởng sang các thị trường khác nhau. Công ty cần phải xây dựng cho mình một nền tài chính ổn định vì tài chính có vai trò quan trọng giúp công ty có thể xác định giá bán, đồng thời xây dựng được chính sách giá phù hợp khi mà có những biến động trên thị trường. Chỉ cần có những thay đổi nhỏ trên thị trường hay có tác động của chính phủ thì sẽ tác động tới giá cả của mọi thứ. Xe ô tô nông dụng không nằm ngoài quy luật ấy nhất là khi Bộ Tài chính có biểu thuế áp dụng đối với xe ô tô đã qua sử dụng nhập khẩu vào thị trường Việt Nam và không xa tới chính phủ cũng không thể bảo hộ mãi cho ngành công nghiệp ô tô. Điều này đòi hỏi công ty phải nỗ lực không ngừng để phát triển.
3. Nâng cao chất lượng của các dịch vụ bán hàng
Công ty muốn cạnh tranh trên thị trường thì phải có các dịch vụ kèm theo. Xe ô tô được sản xuất ra đã đạt được chất lượng như yêu cầu nhưng trong quá trình sử dụng nó có thể bị hư hỏng. Nếu công ty không có các dịch vụ hỗ trợ cho việc bảo hành sửa chữa cho xe ô tô nông dụng thì khách hàng sẽ có cái nhìn khác về sản phẩm của công ty. Họ cho rằng tốt hơn hết là nên mua xe của công ty khác khi mà công ty đó có đầy đủ các dịch vụ bảo hành sửa chữa, điều này làm cho khách hàng cảm thấy yên tâm và tin tưởng hơn vào sản phẩm. Công ty cần phải đầu tư xây dựng vào dịch vụ kèm theo đối với xe ô tô nông dụng. Thiết lập đường dây nóng để có thể ngay lập tức nhận được yêu cầu cũng như phản hồi của khách hàng. Thông thường các công ty sản xuất và lắp ráp ô tô thường bảo hành cho sản phẩm của mình nhưng chỉ trong một thời hạn nhất định sau đó không quan tâm gì đến khách hàng nữa. Đây cũng là khó khăn vì không thể kéo dài thời gian bảo hành cho xe quá dài mà chỉ giới hạn trong một phạm vi cho phép. Cách tốt nhất công ty nên hình thành những cơ sở bảo hành sửa chữa ở các đại lý bán xe ô tô nông dụng của mình. Những khách hàng ở xa khi mua xe ô tô nông dụng của công ty thì cũng không phải đến tận công ty để sửa chữa bảo hành mà có thể đến các đại lý gần nhất. Dịch vụ sẽ giúp công ty gia tăng thêm giá trị đối với sản phẩm. Bên cạnh các dịch vụ như sửa chữa bảo hành công ty cần phải quan tâm đến các dịch vụ khác để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho công ty. Càng có nhiều dịch vụ hỗ trợ cho bán hàng càng chứng tỏ công ty quan tâm tới khách hàng và sẽ làm tăng uy tín đối với họ. Hỗ trợ cho việc thanh toán được diễn ra thuận lợi cũng là cách để công ty nâng cao khả năng cạnh tranh. Hiện thời công ty cũng đã liên kết với ngân hàng để hỗ trợ cho khách hàng mà đối tượng là nông dân cần mua xe ô tô nông dụng để sản xuất. Ngân hàng sẽ cho nông dân vay với giá ưu đãi để họ mua được xe. Chính cách làm này sẽ giúp công ty vừa bán được nhiều xe, tạo được mốI quan hệ vớI ngân hàng cũng như giúp nông dân có điều kiện thuận lợi để mua xe ô tô nông dụng cho mục đích sản xuất của mình. Ngoài cách liên kết với ngân hàng công ty cũng nên xây dựng cho mình phương thức mua trả góp để làm sao người nông dân nói riêng và khách hàng nói chung dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với sản phẩm của công ty. Chính các dịch vụ hỗ trợ tài chính cho khách hàng sẽ giúp cho công ty nâng cao khả năng cạnh tranh hơn nữa. Không thể cứ bán sản phẩm cho khách hàng xong là thôi mà cần phải có các dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng giúp họ luôn cảm thấy thuận lợI nhất và hài lòng về sản phẩm của công ty. Để làm được như thế công ty cần phải đầu tư vào các khâu dịch vụ hỗ trợ bán hàng. Rút ngắn khoảng cách giữa khách hàng với công ty. Thúc đẩy các hoạt động sửa chữa, bán phụ tùng. Chính sách của công ty về các dịch vụ hỗ trợ sau bán hàng sẽ tiến hành đối với các cơ sở bảo hành sữa chữa của công ty. Điều đó sẽ giúp cho khách hàng yên tâm hài lòng và công ty tạo dựng được sự tin tưởng của khách hàng. Ngoài ra công ty còn phải xây dựng hệ thống buôn bán phụ tùng thay thế cho xe ô tô nông dụng. Làm sao để phát triển từ các đại lý đến các hình thức mua bán với số lượng lớn sản phẩm của công ty và sau đó bán lại cho khách hàng. Công ty có thể bán phụ tùng thay thế cho các đại lý. Điều này sẽ giúp cho khách hàng có thể tìm và thay thế các phụ tùng nếu bị sự cố hỏng hóc. Các phụ tùng này cần nhất là giá bán phải hợp lý tránh tình trạng ép giá, nâng cao giá bán phụ tùng gây khó khăn cho khách hàng trong việc sửa chữa xe đã mua. Hơn nữa nhiều xe không có phụ tùng để thay thế hoặc các phụ tùng không phù hợp vớI kiểu xe chính vì thế công ty phảI luôn có những chính sách giá của phụ tùng thật hợp lý có như thế mớI cạnh tranh được vớI các đối thủ khác. Bên cạnh đó công ty nên kiểm tra xe ô tô nông dụng miễn phí trong một thời gian nhất định trong năm. Cách làm này sẽ làm tăng giá trị hình ảnh của công ty và khuyến khích khách hàng mua sản phẩm để có chế độ bảo dưỡng đối với xe định kỳ. Hoặc công ty cũng có thể tiến hành các đợt tập trung để bảo dưỡng xe, thời gian có thể ngắn hoặc dài tuỳ thuộc vào khả năng của công ty nhưng cách làm này sẽ có hiệu quả tương đối lớn và làm tăng khả năng cạnh tranh của xe ô tô nông dụng. Tất cả các xe mua của công ty nếu có trục trặc cần phải sửa chữa thì sẽ được đáp ứng yêu cầu và sẽ được tiến hành tại các trung tâm sửa chữa của công ty. Công ty cần phảI hỗ trợ cho khách hàng như là không lấy phí sửa chữa, chỉ khi nào phụ tùng cần thay thế thì khách hàng sẽ phải thanh toán cho công ty khoản tiền này. Cách làm này sẽ là một biện pháp hữu hiệu góp phần làm gia tăng uy tín cũng như trách nhiệm của công ty đối với khách hàng.
Công ty nên tập trung chuyên môn hoá vào các nhóm bán hàng theo từng chủng loại xe. MỗI loại xe đều có khách hàng riêng của nó, do vậy yêu cầu về các dịch vụ bảo hành cũng như cung cấp các phụ tùng thay thế là khác nhau. Các dịch vụ hỗ trợ cần phải đa dạng hoá và luôn được tiến hành cùng với thời điểm bán hàng của công ty. Chỉ khi nào công ty đã phát triển thì công tác chuyên môn hoá các nhóm bán hàng sẽ ngay lập tức mang lại hiệu quả hơn và sự tập trung trong công việc sẽ tốt hơn. Ngoài ra trước khi khách hàng muốn mua xe ô tô nông dụng công ty cần phải tư vấn cho khách hàng hiểu hơn về cấu tạo từng loại xe, xem xét kỹ lưỡng để có thể lựa chọn một chiếc xe phù hợp với khách hàng. Hiện nay cạnh tranh rất quyết liệt nếu không có các dịch vụ hỗ trợ bán hàng phục vụ cho khách hàng thì rất khó để cạnh tranh vì vậy công ty phải liên tục xây dựng cũng như hoàn thiện công tác hỗ trợ sao cho chúng đem lại sự thoải mái nhất đối với khách hàng.
4. Xây dựng thương hiệu cho xe ô tô nông dụng
Để có thể cạnh tranh với các hãng xe khác thì cần thiết phải có quá trình xây dựng thương hiệu và đầu tư để đưa thương hiệu xe ô tô nông dụng của công ty trở thành một thương hiệu mạnh trên thị trường. Khách hàng sẽ nhìn vào thương hiệu của xe để quyết định có mua hay không. Thương hiệu là chìa khoá để công ty có thể cạnh tranh so với đối thủ. Một thương hiệu không thể xây dựng trong thời gian ngắn. Cần rất nhiều thời gian để khẳng định vị thế trên thị trường. Công ty có được thương hiệu của xe ô tô nông dụng và đã đăng ký thương hiệu với cục sở hữu trí tuệ. Điều này sẽ giúp công ty thuận lợi hơn trong việc tiêu thụ sản phẩm. Thương hiệu của xe ô tô nông dụng của công ty đã được kiểm định về chất lượng và đã đạt được các giải thưởng cũng như bằng khen của các tổ chức. Không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng của xe, giá bán hợp lý cộng với dịch vụ hỗ trợ hoàn hảo sẽ giúp cho hình ảnh thương hiệu xe ô tô nông dụng của công ty ngày càng lớn mạnh.
Thương hiệu của xe ô tô nông dụng cũng giúp cho công ty mở rộng thị trường không chỉ trong nước mà còn vươn ra khu vực và thế giới. Công ty cần phải hiểu rõ vai trò của thương hiệu để có kế hoạch xây dựng thương hiệu vững mạnh. Không thể hài lòng với những gì đạt được, thương hiệu dù đã có một chỗ đứng nhất định trên thị trường thì nếu không đầu tư thì sẽ bị mất đi. Nhất là bây giờ khi mọi người đều quan tâm đến việc phát triển thương hiệu thì rõ ràng những cuộc bình chọn thương hiệu được yêu thích nhất chính là thước đo giá trị hình ảnh của sản phẩm công ty. Muốn xây dựng thương hiệu vững mạnh trên cơ sở đã hình thành thương hiệu đã có thì công ty cần phải có những bước hoạch định rõ ràng cụ thể. Hệ thống sản xuất phải được kiểm tra giám sát chặt chẽ, áp dụng các tiêu chuẩn của hệ thống quản lý chất lượng. Cải tiến không ngừng chất lượng của sản phẩm, vì chất lượng sản phẩm là một trong các yếu tố nâng cao hình ảnh thương hiệu của sản phẩm công ty. Về cơ cấu tổ chức cần phải sắp xếp lại khoa học để năng suất làm việc có hiệu quả tốt hơn. Cần nhất là khi những yếu tố cần thiết để tạo lập nên thương hiệu đã có thì phải làm sao giới thiệu hình ảnh của sản phẩm đến người tiêu dung. Khách hàng là người kiểm tra cũng như thẩm định đánh giá thương hiệu của sản phẩm. Thương hiệu của xe ô tô nông dụng sẽ giúp cho công ty tăng khả năng cạnh tranh. Hiện tại có khá nhiều thương hiệu mạnh của nước ngoài về xe ô tô nông dụng, đây là đối thủ rất mạnh vì họ xuất hiện từ rất lâu trên thị trường Việt Nam và đã được ngườI tiêu dùng tin tưởng. Chiếc xe ô tô nông dụng của công ty TMT cũng đã từng bước khẳng định vị trí của mình. Mô hình hợp tác với đối tác Trung Quốc là cách để công ty tạo được lợi thế nhờ công nghệ chế tạo tiết kiệm chi phí khiến cho giá thành rẻ hơn trong khi chất lượng của xe ô tô nông dụng vẫn không hề thua kém so với xe của nước ngoài. Đây là lợi thế để cạnh tranh của công ty song không vì thế mà công ty có thể chủ quan. Các chiến lược xây dựng thương hiệu cũng như củng cố phải được công ty chú trọng phát triển. Từng bước khẳng định uy tín trên thị trường, không phải chỉ có một mình công ty mà còn có sự trợ giúp của chính phủ trong việc nâng cao uy tín và ảnh hưởng của thương hiệu xe ô tô nông dụng của công ty TMT nhằm chiếm lĩnh thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh. Việc xây dựng thương hiệu là cách tốt nhất để công ty có thể tiêu thụ sản phẩm, đẩy mạnh công tác bán hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh. Đó là cả một quá trình và phảI làm từng bước, công ty cũng không thể nào bỏ qua giai đoạn để đánh bóng tên tuổi của mình được. Cách làm như thế chỉ có thể tồn tại trong thời gian ngắn chứ không thể phát triển mãi mãi được. Quan trọng vẫn là đánh giá của khách hàng, họ sẽ là những giám khảo công minh nhất để lựa chọn cho mình những thương hiệu uy tín chất lượng cao. Công ty khi đã xây dựng thương hiệu thì việc phát triển thương hiệu là điều tất yếu. Cần phải đẩy mạnh công tác khuếch trương hình ảnh của sản phẩm, đưa những thông tin sản phẩm đến người tiêu dùng. Tham gia vào các cuộc triển lãm, hội trợ thương hiệu vì ở đó người tiêu dùng có điều kiện được tiếp xúc trực tiếp và ghi nhận nhanh hơn thương hiệu của công ty. Tác động đến khách hàng bằng nhiều hình thức có thể thông qua quảng cáo trên báo đài, truyền hình. Tuỳ từng thời điểm để có những chiến lược phát triển thương hiệu. Xây dựng thương hiệu trong giai đoạn hiện nay là cần thiết vì chỉ có như vậy mớI tăng khả năng cạnh tranh của xe ô tô nông dụng của công ty TMT.
5. Đa dạng hoá các loại xe ô tô nông dụng
Đa dạng hoá các loại xe để nhằm mục đích phù hợp với tình hình hiện nay và trong tương lai sắp tới. Có được những chính sách phát triển đúng đắn thì sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp hơn. Nếu công ty không có những chiến lược cho mình hay là vạch ra kế hoạch phát triển không phù hợp thì sẽ gây khó khăn trong quá trình cạnh tranh vớI các công ty khác. Chính vì thế việc mở rộng, đa dạng hoá các sản phẩm đều phải xuất phát từ những căn cứ thực tế và được kiểm tra kỹ lưỡng. Mục tiêu và vai trò của việc đa dạng hoá các loại xe ô tô nông dụng chính là việc tăng khả năng cạnh tranh của công ty, đảm bảo sự phát triển đúng đắn của công tác sản xuất, và tiêu thụ. Do vậy công tác xây dựng chính sách đa dạng hoá, mở rộng sản phẩm phải được tiến hành theo các bước tuần tự. Chính sách của công ty TMT là thu hút những khách hàng mớI để làm tăng khối lượng sản phẩm cuối cùng. Để có thể thực hiện được thì công ty cần phải có những chính sách thoả đáng như là quảng cáo, khuyến mại, tham gia vào các hộI chợ, triển lãm không những chỉ trong thị trường trong nước mà còn cả ở thị trường của khu vực và thế giới nhằm mục tiêu giới thiệu sản phẩm của mình cho khách hàng, giúp cho họ biết về sản phẩm của công ty. Mục tiêu thứ hai của chính sách công ty đó là thúc đẩy tốc độ tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường nhằm làm giảm sức ép cạnh tranh ở những thị trường cũ trên cơ sở áp dụng các chính sách ưu đãi, khuyến khích thoả đáng với nhân viên của công ty và các hệ thống đại lý của công ty. Với những nhân viên trong công ty thì có hình thức tăng tỷ lệ % thưởng theo giá trị xe bán, vớI những đại lý thì có nhiều hình thức khác nhau. Tăng tỷ lệ % hoa hồng hoặc chiết giảm % hoa hồng cho các đại lý nếu khách hàng ở những khu vực có đại lý nhưng lại đến trực tiếp công ty đặt mua xe ô tô nông dụng. Điều này có thể dễ hiểu bởi vì khách hàng sau khi đã tìm hiểu về các thông tin về giá cả cũng như những yếu tố liên quan nhưng lại không mua của đại lý mà lại đến công ty như vậy vô hình chung đã gây bất lợi cho các đạI lý, cần phảI khắc phục để không để trường hợp này kéo dài. Các chi phí về quảng cáo, tiếp thị, mua bảo hiểm cho xe ô tô nông dụng thì đại lý phải chi trả nhưng khách hàng lại không mua xe ở chỗ họ. Nếu công ty làm được điều này thì sẽ gắn quyền lợi của công ty với quyền lợI của đại lý, giúp cho mối liên hệ giữa hai bên gắn bó chặt chẽ với nhau để cùng nhau phát triển. Ngoài ra công ty có thể cấp tín dụng lãi suất ưu đãi để cho các đại lý nâng cấp các trung tâm bán hàng. Đây là thời điểm cần thiết vì hỗ trợ cho các đại lý giúp họ tiêu thụ số lượng xe của công ty. Các đại lý sẽ có động lực hơn và sẽ quyết tâm đẩy mạnh tiêu thụ xe cho công ty nhờ được cấp tín dụng ưu đãi từ phía công ty. Nhưng mức tín dụng này như thế nào còn tuỳ thuộc vào đề xuất của bên đại lý và có sự phê duyệt của ban giám đốc công ty. Xác lập cho được mức dự trữ đối với xe ô tô nông dụng là điều rất khó, không thể có con số chính xác mà phải căn cứ vào dự tính. Công ty phải tự xác định nên dự trữ bao nhiêu là đủ tránh tình trạng hàng tồn kho không bán được do vượt qua cầu của khách hàng. Lượng dự trữ này phụ thuộc vào tình hình cạnh tranh của công ty, khả năng tiêu thụ và căn cứ vào số liệu thống kê cũng như kinh nghiệm qua các năm hoạt động và dự báo nhu cầu của khách hàng. Dự trữ hợp lý sẽ tạo điều kiện cho công ty đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, gia tăng khả năng cạnh tranh vì khi khách hàng cần loại xe ô tô nào thì công ty cũng có thể đáp ứng được đầy đủ. Cuối cùng trong mục tiêu chính sách của công ty cần phải đề cập và quan tâm hơn đến việc mở rộng, đa dạng hoá các loại xe ô tô nông dụng. Trong tương lai sắp tới các loại xe sẽ được lắp ráp hiện đại hơn, giá cả vừa phải hơn. Nhu cầu của tư nhân sẽ tăng cao, đối với họ chiếc xe không cần đẹp về hình thức mà cái họ cần là những tính năng sử dụng của chúng có phù hợp vớI khách hàng hay không. Các loại xe ô tô nông dụng sẽ thích hợp với nông dân trong việc chuyên chở sản phẩm, thích hợp với những doanh nghiệp tư nhân chuyên kinh doanh vận tảI hàng hoá. Việc xây dựng chiến lược sản phẩm ô tô nông dụng đã khó nhưng khi để đưa nó vào thực tiễn hoạt động sản xuất của công ty TMT thì còn khó hơn nhiều lần.
Trong bất cứ lĩnh vực hoạt động kinh doanh nào thì nhân tố con ngườI cũng có vai trò quan trọng, có tính chất quyết định. Muốn thực hiện tốt các chiến lược sản phẩm đề ra thì công ty TMT cũng cần phảI hết sức quan tâm, chú ý đến việc tuyển chọn, đào tạo, sử dụng có hiệu quả đội ngũ nhân viên của công ty. Và điều đầu tiên công ty có thể đưa ra được chính sách sản phẩm thì nên đưa một nhóm nhân viên của công ty có chuyên môn về thị trường để chịu trách nhiệm về công tác chuyên môn của họ. Các nhân viên này sẽ điều tra nghiên cứu thị trường cũng như bám sát các thông tin của khách hàng như khả năng tài chính, sức mua của họ để từ đó công ty có những cách tiếp cận và thuyết phục khách hàng mua xe ô tô nông dụng. Căn cứ vào những thông tin có được về khách hàng, về thị trường thì công ty sẽ tiến hành phân tích và xác định nhu cầu của khách hàng để có phương án kinh doanh thích hợp. Những điều tra nói trên sẽ giúp công ty có được một cái nhìn tương đối về thị trường, và công ty sẽ tiến hành công việc đầu tư sản xuất, tiêu thụ để triệt để khai thác giai đoạn sinh lợi, rút ngắn giai đoạn thua lỗ trong chu kỳ sống của sản phẩm, bên cạnh đó xác định việc thay thế những sản phẩm đã hết chu kỳ sống và thay thế bằng các sản phẩm mới vào các thời điểm thích hợp.
Công ty nên đầu tư hơn nữa trong công tác nghiên cứu tìm kiếm thêm các đối tác nước ngoài nhằm mở rộng sản xuất, gia tăng khả năng cạnh tranh so với đối thủ, nhanh chóng nắm bắt nhu cầu và kích thích tâm lý tiêu dùng của khách hàng. Công ty mở rộng các loại xe sẽ giúp cho khách hàng có thêm nhiều lựa chọn hơn. Thật ra thì với máy móc hiện có cộng với đội ngũ nhân viên năng động thì chính sách mở rộng sản xuất các loại xe ô tô nông dụng để phục vụ nhu cầu của khách hàng là điều nằm trong tầm tay của công ty. Tiến tới đa dạng hoá sản phẩm sẽ giúp công ty có nhiều thị trường, nhiều đối tượng khách hàng, góp phần làm cho công ty phát triển vững mạnh.
6. Tăng cường các biện pháp marketing
Tăng cường các biện pháp marketing sẽ giúp cho công ty tăng nhanh khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng như làm tăng khả năng cạnh tranh so với các đối thủ cạnh tranh khác. Vấn đề cấp bách có tính thời sự hiện nay là làm thế nào để công ty có thể cạnh tranh và bán được nhiều xe ô tô nông dụng hơn. Công ty cần phải chú ý tới việc quảng cáo, giới thiệu xe ô tô nông dụng cho khách hàng. Quảng cáo sẽ đưa thông tin đến các đối tượng khách hàng và công ty sẽ giới thiệu một cách rộng rãi về xe ô tô nông dụng của mình kèm theo các ưu điểm tiện lợi của nó cũng như uy tín chất lượng mà xe đã được kiểm định chất lượng. Dựa vào quảng cáo công ty sẽ tạo ra sự hấp dẫn và chú ý của khách hàng đối với sản phẩm của công ty khiến cho họ có quyết định mua sản phẩm của mình. Công ty đã tổ chức nghiên cứu các chương trình quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng với mục đích cho nhiều người biết và hiểu rõ sản phẩm của công ty TMT để nhằm mục tiêu giữ vững thị trường và thâm nhập vào các thị trường mới từ đó đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. Ngoài việc nâng cao chất lượng sản phẩm thì công ty cũng cần phải có những chính sách marketing giới thiệu sản phẩm cho khách hàng được biết. Ngoài những hình thức quảng cáo qua sách báo, tạp chí, hội chợ triển lãm, hội nghị khách hàng thì công ty nên tham gia vào các hình thức khác. Trên thị trường các đối thủ cạnh tranh cũng áp dụng những phương pháp quảng cáo như công ty nên hiệu quả đạt được từ quảng cáo sẽ không cao vì khách hàng sẽ bị nhiễu thông tin do các công ty cung cấp. Công ty cần phải lựa chọn và khai thác các hình ảnh sống động của sản phẩm. Để đem lại hiệu quả cao thì công ty TMT có thể tìm những các quảng cáo khác nhau nhưng việc quảng cáo trên tivi là cách tốt nhất. Công ty có thể lựa chọn quảng cáo theo định kỳ hàng tháng, hàng năm, vào các thời điểm số lượng người xem truyền hình là đông nhất. Công ty cũng không nên quảng cáo tràn lan, quảng cáo liên tục như nhiều đối thủ khác đã làm vì chi phí quảng cáo trên tivi rất đắt, và hơn nữa sẽ tạo ra sự quá tải đối với tâm lý người tiêu dùng.
Công ty cũng có thể lợi dụng các nơi trưng bày sản phẩm, giới thiệu sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Tham gia vào các hội chợ, triển lãm, hội nghị khách hàng, các hình thức này rất đơn giản, dễ làm lại ít tốn kém nhưng không kém phần thiết thực cụ thể và gần gũi với khách hàng. Có nhiều hình thức quảng cáo, các hình thức lại có những đặc điểm và tác dụng khác nhau. Công ty cần phải phối hợp giữa các phương thức quảng cáo một cách hợp lý để có thể quảng cáo và đưa thông tin đến với khách hàng một cách đầy đủ, cố gắng khai thác hết ưu điểm của sản phẩm, tạo ra sự hiệu quả cao nhất khi sử dụng quảng cáo. Chúng ta đều biết nghệ thuật quảng cáo khéo léo là sự kết tinh của trí tuệ con người, yêu cầu người quảng cáo phải có kiến thức tổng hợp, am hiểu mọi lĩnh vực và có khả năng nhạy bén với trí tưởng tượng phong phú. Nghệ thuật quảng cáo phải nêu bật những ưu điểm, hạn chế được những nhược điểm một cách khéo léo. Tất nhiên không có nghĩa là phải giả tạo cũng như không được thổi phồng một cách quá mức những ưu điểm không hề có. Phải làm cho khách hàng tin tưởng vào những gì mà công ty quảng cáo, giớI thiệu sản phẩm. Công ty cần phải có những giải pháp và cũng nên lưu ý khi quảng cáo phải đảm bảo tính trung thực, phản ánh khách quan ưu điểm của sản phẩm. Thứ hai thông tin của quảng cáo nên ngắn gọn, dễ đọc, dễ hiểu, truyền đạt được nhiều thông tin đối với mọi đối tượng theo dõi quảng cáo. Cuối cùng công ty phải lựa chọn hình thức quảng cáo thật độc đáo và càng gây ấn tượng càng tốt để thu hút các khách hàng đến mua sản phẩm của công ty. Những vấn đề nêu trên thuộc về nghệ thuật quảng cáo nên nó cần những người am hiểu và có trình độ chuyên môn cao. Công ty nên giao nhiệm vụ này cho bộ phận makerting cũng như đồng thời phải có kế hoạch đào tạo và nâng cao trình độ nghệ thuật quảng cáo cho cán bộ công nhân viên của công ty, mạnh dạn đầu tư chấp nhận chi phí cho quảng cáo, tránh tình trạng quảng cáo một cách cầm chừng nửa vời dễ gây tác dụng ngược ảnh hưởng đến hình ảnh cuả sản phẩm, giảm sút khả năng cạnh tranh.
Công ty TMT nên hoàn thiện bộ phận tiếp thị vì bộ phận tiếp thị là tiền đề rất cần thiết và là bước khởi đầu để thâm nhập vào thị trường cũng như mở rộng thị trường tiêu thụ. Công ty cũng nên hoàn thiện cơ cấu bộ máy marketing làm cho nó trở thành chuyên nghiệp hoá, gọn nhẹ, làm việc có hiệu quả, đảm bảo sự phù hợp giữa cơ cấu bộ máy quản lý và với những chức năng quản lý của bộ phận marketing. Ngoài ra công ty phải tăng cường công tác nghiên cứu và dự báo thị trường. Như đã phân tích thì nhu cầu hiện nay của thị trường về ô tô nông dụng là rất lớn và ngày càng tăng nhanh, đây là thuận lợi của công ty TMT nói riêng cũng như của ngành công nghiệp ô tô của nước ta nói chung. Tuy vậy công ty muốn đẩy nhanh tốc độ và khối lượng sản phẩm tiêu thụ thì cần phải tìm hiểu thị trường, phân tích thị trường mình hướng tới để phân đoạn thị trường thành từng đoạn, sau đó căn cứ vào cơ sở đó để công ty lựa chọn cho mình những thị trường phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của công ty. Trong thời gian vừa qua khi nghiên cứu và đưa ra dự báo trên toàn thị trường trong nước thì công ty TMT chưa có sự chú ý toàn diện trong công tác đặt hàng nhập linh kiện CKD và các hoá chất sơn xe. Thời gian đặt hàng về đến công ty để sản xuất cũng mất khá nhiều thời gian, dự báo không chính xác hay không đầy đủ sẽ đưa đến tình trạng nhập linh kiện về quá nhiều và bán không hết gây nên tình trạng tồn kho, ứ đọng vốn, khó khăn về trả lãi suất ngân hàng. Hoặc cũng có thể linh kiện nhập khẩu quá ít không đủ bán, bỏ mất cơ hội kinh doanh. Muốn khắc phục tình trạng này và phục vụ cho công tác tăng nhanh khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong thời gian tới, công ty cần phải tiến hành và đánh giá khách hàng về mọi mặt. Xem xét khả năng tài chính của khách hàng có khả quan hay không, nhu cầu của khách hàng mỗI năm là như thế nào về chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng cũng như màu sắc của xe. Quan trọng là loại bỏ tất cả những khu vực ít nhu cầu hoặc sức mua thấp sản phẩm của công ty, tiếp tục loại trừ trực tiếp những địa phương khó thiết lập mối quan hệ mua bán hoặc là mức độ thâm nhập vào là vô cùng khó, rủi ro là rất lớn.
KẾT LUẬN
Thị trường ô tô nông dụng của Việt Nam cạnh tranh khá quyết liệt. Hiện nay vẫn chỉ có một số ít công ty có năng lực sản xuất và đạt tiêu chuẩn kỹ thuật mà Bộ công nghiệp đặt ra. Nhưng chỉ vài năm tới khi mà các công ty đều tập trung đầu tư máy móc thiết bị thì mức độ cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn. Công ty TMT muốn nâng cao khả năng cạnh tranh thì không còn cách nào khác phải nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiện tại công ty vẫn chưa có dây chuyền sơn điện ly và hệ thống tiêu chuẩn khí thải vẫn chưa đạt được do vậy cần phải khắc phục để tạo ra sản phẩm ngày càng tốt hơn. Muốn như thế ngoài chất lượng, còn là giá bán phù hợp, chất lượng dịch vụ đi kèm. Bước đầu công ty cũng tạo dựng được hình ảnh của mình trên thị trường với thương hiệu xe nông dụng Cửu Long. Cùng với việc xây dựng xong nhà máy sản xuất lắp ráp Cửu Long thì công ty TMT phấn đấu tăng sản lượng xe nông dụng 30.000 xe/ năm và không chỉ tập trung vào thị trường trong nước, công ty còn hướng tới khu vực Đông Nam Á. Phấn đấu tăng tỷ lệ nội địa hoá giúp giá thành của xe rẻ hơn nhằm cạnh tranh với các đối thủ khác. Với phương châm xây dựng, duy trì chữ tín với khách hàng đồng thời tiết kiệm không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, công ty TMT đã tiến hành áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, các sản phẩm đều được đăng ký bảo hộ độc quyền về thương hiệu và kiểu dáng công nghiệp. Sản phẩm của công ty liên tục đạt được những giải thưởng trong nước và quốc tế chứng tỏ công ty đã và đang lớn mạnh không ngừng cả về bề rộng lẫn chiều sâu, đáp ứng nhu cầu thị trường và phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Công ty TMT xứng đáng là một trong những doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực sản xuất xe ô tô nông dụng trên thị trường Việt Nam.
TÀI LI ỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu của công ty TMT
- Hồ sơ quản lý chất lượng ISO của công ty TMT
- Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh giai đoạn 2001 – 2005
- Báo cáo tình hình hoạt động tài chính và công tác tài chính của công ty TMT
- Bảng cân đối kế toán từ năm 2001 - 2005
- Chỉ tiêu về xuất nhập khẩu từ năm 2003 – 2005
2. Tạp chí kinh tế
- Kinh tế Sài Gòn
- Kinh doanh và sản phẩm
- Nhịp cầu
- Ô tô & xe máy
- Tư vấn & tiêu dung
3. Website
- www.tmt-vietnam.com.vn
- www.vnn.vn
- www.vnexpress.net
- www.vinaxuki.com
- www.vinastarmotors.com.vn
MỤC LỤC
Mở đầu 1
Chương I Đặc điểm ô tô nông dụng sản xuất tại công ty thương mại và sản xuất vật tư thiết bị giao thông vận tải - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm công ty. 3
1. Đặc điểm về quá trình sản xuất xe ô tô nông dụng của công ty TMT 3
1.1.Quy định kiểm tra vật tư đầu vào 3
1.2.Quy định theo dõi nhập và xuất vật tư linh kiện 4
1.3.Quy định phân loạI và xử lý sản phẩm không phù hợp 6
1.4. Hệ thống quản lý chất lượng xe ô tô nông dụng của công ty TMT 7
1.5. Quy định công nghệ lắp ráp xe ô tô nông dụng 10
1.6. Thông số kỹ thuật của các loại xe 13
1.6.1.Thông số kỹ thuật xe ôtô Cửu Long trọng tải 500KG - CL10104 13
1.6.2.Thông số kỹ thuật xe ôtô Cửu Long trọng tải 1,5 Tấn - CL2815D 14
1.6.3. Thông số kỹ thuật xe ôtô Cửu Long trọng tải 2 tấn CL4012D 15
1.6.4. Thông số kỹ thuật xe ôtô Cửu Long trọng tải 3 Tấn - CL5830D 16
1.6.5. Thông số kỹ thuật xe ôtô Cửu Long trọng tải 4 Tấn - CL5840D 17
2. Khả năng cạnh tranh của xe ô tô nông dụng 18
2.1. Nhu cầu tiêu thụ của thị trường rất lớn 18
2.2. Sản xuất trong nước chưa đáp ứng nhu cầu 18
2.3. Khả năng cạnh tranh của xe ô tô nông dụng Cửu Long 19
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả cạnh tranh chủ yếu của xe nông dụng 20
3.1. Chất lượng sản phẩm 20
3.2. Giá bán của sản phẩm 21
3.3. Phân phối bán hàng và các dịch vụ bán hàng 24
3.4. Thương hiệu sản phẩm 27
Chương II Phân tích khả năng cạnh tranh của ô tô nông dụng sản xuất tại công ty thương mại và sản xuất vật tư thiết bị giao thông vận tải trên thị trường Việt Nam 30
1. Thực trạng của thị trường ô tô ở nước ta hiện nay 30
1.1. Lượng cung và nguồn cung ô tô ở nước ta 30
1.2. Lượng cầu ô tô ở nước ta hiện nay 32
1.3. Tình hình giá cả ô tô hiện nay ở nước ta 34
1.4. Thị trường ô tô nông dụng của Việt Nam 3 37
2. Phân tích khả năng cạnh tranh xe ô tô nông dụng của công ty TMT 41
2.1. Kết quả kinh doanh của công ty trong những năm gần đây 41
2.2. Những ưu thế cạnh tranh của ô tô Cửu Long trên thị trường Việt Nam 44
2.2.1. Lựa chọn công nghệ phù hợp 44
2.2.2. Khách hàng của ô tô Cửu Long 46
2.2.3. Phương thức hỗ trợ thanh toán 48
2.2.4. Dịch vụ bảo hành sửa chữa 49
2.3. Khó khăn của ô tô Cửu Long khi cạnh tranh trên thị trường Việt Nam 50
2.3.1. Sự canh tranh quyết liệt của các công ty sản xuất xe ô tô nông dụng 50
2.3.1.1. Các công ty liên doanh nước ngoài 50
2.3.1.2. Các công ty lắp ráp sản xuất trong nước 51
2.3.2. Ảnh hưởng của cách tính thuế mới đối với giá bán 53
2.3.3. Thiếu vốn đầu tư nâng cao tiêu chuẩn kỹ thuật 55
Chương III Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ô tô nông dụng sản xuất tại công ty thương mại và vật tư thiết bị giao thông vận tảI 59
1.Nâng cao chất lượng của sản phẩm 59
2. Có một chính sách giá linh hoạt 63
3.Nâng cao chất lượng của các dịch vụ bán hàng 68
4.Xây dựng thương hiệu cho xe ô tô nông dụng 70
5. Đa dạng hoá các loại xe ô tô nông dụng 73
p 6. Tăng cường các biện pháp marketing 76
Kết luận 80
Tài liệu tham khảo 81
Mục lục 82
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32547.doc