Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp Dược phẩm 120 - Quân đội

MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải có lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng. Vốn chính là tiền đề của sản xuất kinh doanh. Song việc sử dụng vốn như thế nào để có hiệu quả cao mới là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng của mỗi doanh nghiệp.Vì vậy, bất cứ một doanh nghiệp nào sử dụng vốn sản xuất nói chung đều phải quan tâm đến hiệu quả mà nó đem lại. Trong các doanh nghiệp, vốn là một bộ phận quan trọng của việc

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp Dược phẩm 120 - Quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Quy mô của vốn và trình độ quản lý, sử dụng nó là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến trình độ trang bị kỹ thuật của sản xuất kinh doanh. Do ở một vị trí then chốt như vậy nên việc quản lý và sử dụng vốn được coi là một trọng điểm của công tác tài chính doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế cùng song song tồn tại và cạnh tranh gay gắt lẫn nhau. Cùng với đó, Nhà nước không còn bao cấp về vốn đối với các doanh nghiệp( doanh nghiệp nhà nước). Mặt khác, trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý hiện nay, các doanh nghiệp thực sự là một đơn vị kinh tế tự chủ, tự tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, tự chủ trong việc tìm đầu vào và đầu ra cuả sản xuất kinh doanh, tự chủ về vốn. Ngoài số vốn điều lệ ban đầu thì doanh nghiệp phải tự huy động vốn. Do vậy, để tồn tại và phát triển, đứng vững trong cạnh tranh thì bất cứ doanh nghiệp nào cũng đều phải quan tâm đến vấn đề tạo lập, quản lý và sử dụng đồng vốn sản xuất kinh doanh sao cho hiệu quả nhất nhằm đem lại lợi nhuận nhiều nhất cho doanh nghiệp.Việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự tồn tại và phát triển cuả nền sản xuất kinh doanh của đơn vị. Hơn một thập kỷ qua, với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước và bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Những năm gần đây (Nhất là từ năm 1991 đến nay) nền kinh tế đang dần khởi sắc, đã có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài càng lớn, tạo thế và lực nhanh hơn. Bên cạnh thuận lợi đó các doanh nghiệp quản lý kinh doanh trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng phục vụ cho sức khoẻ đời sống vật chất của con người không ít khó khăn thử thách: trang thiết bị lạc hậu, trình độ công nghệ, trình độ quản lý chưa theo kịp với đà lên ngày càng cao của thị trường cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp tuy đã xoá bỏ, từ lâu nhưng vẫn còn là sức ỳ tâm lý rất lớn cản trở sự nhạy bén linh ứng với phương pháp và cách thức điều hành doanh nghiệp lớn nhất là trong lĩnh vực tài chính. Các doanh nghiệp còn nhiều lúng túng trong huy động, quản lý và sử dụng vốn, hầu hết các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bị rơi vào tình trạng thiếu vốn. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do công tác quản lý và sử dụng vốn kém hiệu quả. Xuất phát từ thực tế trên, sau một thời gian thực tập tại Xí nghiệp Dược phẩm 120-Quân đội, được sự giúp đỡ của Đồng chí giám đốc và các phòng ban chức năng trong đơn vị cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Đào Mạnh Hùng, tôi đã tiến hành phân tích những số liệu của tài chính của sản phẩm Dược để đánh giá những mặt mạnh cũng như những hạn chế trong hoạt động quản lý sử dụng vốn của xí nghiệp trong 3 năm gần đây. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị với mong muốn có thể góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp Dược phẩm 120-Quân đội. Vì vậy tôi đã xin chọn đề tài nghiên cứu của mình: "Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp Dược phẩm 120-Quân đội". Đề tài bao gồm 3 chương: CHƯƠNG I: Tổng quan các phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng vốn CHƯƠNG II: Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp DP 120. CHƯƠNG III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại XN DP 120 . CHƯƠNG I VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP I- VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP: Trong nền kinh tế thị trường vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Với tầm quan trọng như vậy, việc nghiên cứu cần phải bắt đầu làm rõ khái niệm cơ bản vốn là gì và vai trò của vốn đối với doanh nghiệp thể hiện như thế nào. 1- Khái niệm Theo quan điểm của Marx, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư là một đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa của Marx có tầm khái quát lớn nhưng do bị hạn chế bởi những điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên Marx đã quan niệm chỉ có khu vực sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Các nhà kinh tế học đại diện cho các trường phái kinh tế khác nhau cũng có các quan điểm khác nhau về vốn. Theo P. Samuelson vốn là những hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là một đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cuốn " kinh tế học " của D. Begg tác giả đã đưa ra 2 định nghĩa về vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp: vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất ra các hàng hoá khác; vốn tài chính là các loại giấy tờ có giá của doanh nghiệp. Các quan điểm của vốn ở trên tuy thể hiện được vai trò tác dụng trong những điều kiện lịch sử cụ thể với các yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể nhưng vẫn bị hạn chế bởi sự đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Thực chất vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Vốn và tài sản là hai mặt có giá trị và hiện vật của một bộ phận nguồn lực sản xuất mà doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. Khái niệm này không những chỉ ra vốn là một yếu tố đầu vào của sản xuất mà còn đề cập tới sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong một quá trình sản xuất riêng biệt, chia cắt mà trong toàn bộ trong mọi quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp. Như vậy, vốn là yếu tố số một của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lý và sử dụng có hiệu quả để bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo cho doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh. Vì vậy, các doanh nghiệp cần thiết phải nhận thức đầy đủ hơn về vốn cũng như những đặc trưng của vốn. Điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp vì chỉ khi nào các doanh nghiệp hiểu rõ được tầm quan trọng và giá trị của đồng vốn thì doanh nghiệp mới có thể sử dụng nó một cách có hiệu quả được. +Các đặc trưng cơ bản của vốn: -Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định: có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp. -Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. -Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. -Vốn có giá trị về mặt thời gian; điều này rất có ý nghĩa khi bỏ vốn vào đầu tư và tính hiệu quả sử dụng của đồng vốn. -Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô chủ và không có ai quản lý. -Vốn được quan niệm như một hàng hóa và là một hàng hoá đặc biệt có thể mưa bán quyền sử dụng vốn trên thị trường; tạo nên sự giao lưu sôi động trên thị trường vốn, thị trường tài chính. -Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của các tài sản hữu hình mà còn được biểu hiện bằng tiền của những tài sản vô hình (Tài sản vô hình của doanh nghiệp có thể là vị trí kinh doanh, lợi thế trong sản xuất, bằng phát minh sáng chế, các bí quyết về công nghệ…) 2- Phân loại vốn: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để quản lý và sử dụng vốn một cách có hiệu quả các doanh nghiệp đều tiến hành phân loại vốn. Tuỳ vào mục đích và loại hình của từng doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp phân loại vốn theo các tiêu thức khác nhau. 2.1- Phân loại vốn theo nguồn hình thành. -Vốn chủ sở hữu. +Vốn pháp định. Vốn pháp định và số vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp luật quy định đối với từng ngành nghề. Đối với doanh nghiệp Nhà nước, nguồn vốn này do ngân sách nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước như khoản chênh lệch tăng giá làm tăng giá trị tài sản, tiền vốn trong doanh nghiệp, các khoản phải nộp nhưng được để lại doanh nghiệp. +Vốn tự bổ sung. Vốn tự bổ sung là vốn chủ yếu do doanh nghiệp được lấy một phần từ lợi nhuận để lại doanh nghiệp, nó được thực hiện dưới hình thức lấy một phần từ quỷ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính. Ngoài ra, đối với doanh nghiệp nhà nước còn được để lại toàn bộ số khấu hoa cơ bản tài sản cố định để đầu tư, thay thế, đổi mới tài sản cố định. Đây là nguồn tự tài trợ cho nhu cầu vốn của doanh nghiệp. - Vốn huy động của doanh nghiệp: Đối với một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, vốn chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tăng cường vốn huy động các nguồn vốn khác dưới hình thức vay nợ, liên doanh liên kết, phát hành trái phiếu và các hình thức khác. -Vay vốn: Doanh nghiệp có thể vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các cá nhân, đơn vị kinh tế để tạo lập hoặc tăng thêm nguồn vốn. -Vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng rất quan trọng đối với các doanh nghiệp. Nguồn vốn này đáp ứng đúng thời điểm các khoản tín dụng ngắn hạn hoặc dài hạn theo nhu cầu của doanh nghiệp trên cơ sở các hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và doanh nghiệp -Vốn vay trên thị trường chứng khoán. Tại những nền kinh tế có thị trường chứng khoán phát triển, vay vốn trên thị trường chứng khoán là hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu, đây là công cụ tài chính quan trọng dễ sử dụng vào mục đích vay dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh. Việc phát hành trái phiếu cho phép doanh nghiệp có thể thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong xã hội để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. +Vốn liên doanh liên kết: Doanh nghiệp có thể liên doanh liên kết hợp tác với các doanh nghiệp khác để huy động thực hiện mở rộng hoạt động sản xuất - kinh doanh. Đây là một hình thức huy động vốn quan trọng vì hoạt động tham gia góp vốn liên doanh, liên kết gắn liền với việc chuyển giao công nghệ, thiết bị giữa các bên tham gia nhằm đổi mới sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp; doanh nghiệp cũng có thể tiếp nhận máy móc, thiết bị nếu hợp đồng liên doanh quy định góp vốn bằng máy móc thiết bị. +Vốn tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại là các khoản mua chịu từ nguồn cung cấp hoạc ứng trước của khách hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Tín dụng thương mại luôn gắn với một luồng hàng hoá dịch vụ cụ thể, gắn với một quan hệ thanh toán cụ thể nên nó chịu tác động của cơ chế thanh toán, của chính sách tín dụng khách hàng mà doanh nghiệp được hưởng. Đây là phương thức tài trợ tiện lợi, linh hoạt trong kinh doanh và nó còn tạo khả năng mở rộng hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên các khoản tín dụng thương mại thường có thời hạn ngắn nhưng nếu doanh nghiệp biết quản lý một cách khoa học nó có thể đáp ứng phần nào vốn lưu động cho doanh nghiệp. +Vốn tín dụng thuê mua: Trong hoạt động kinh doanh, tín dụng thuê mua là một phương thức giúp cho các doanh nghiệp thiếu vốn vẫn có được tài sản cần thiết sử dụng vào hoạt động trong kinh doanh của mình. Đây là phương thức tài trợ thông qua hợp đồng thêu giữa người thuê và người cho thuê. Người thuê được sử dụng tài sản và phải trả tiền thuê cho người cho thuê theo thời hạn mà hai bên thoả thuận, người cho thêu là người sở hữu tài sản và nhận được tiền cho thuê tài sản. Tín dụng thuê mua có hai phương thức giao dịch chủ yếu là thuê vận hành và thuê tài chính. +Thuê vận hành. Phương thức thuê vận hành hay còn gọi là thuê hoạt động là một hình thức thuê ngắn hạn tài sản. Hình thức thuê này có đặc trưng chủ yếu sau: -Thời hạn thuê thường rất ngắn so với toàn bộ thời gian tồn tại hữu ích của tài sản, điều kiện chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong thời gian ngắn. -Người thuê chỉ phải trả tiền thuê theo thoả thuận, người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản nhưng chi phí bảo trì, bảo hiểm thuế tài sản … cùng với mọi rủi ro về hao mòn vô hình của tài sản. Hình thức này hoàn toàn phù hợp đối với những hoạt động có tính chất thời vụ và nó đem lại cho bên thuê là không cần phải phản ánh loại này vào sổ sách kế toán. +Thuê tài chính: -Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung hạn và dài hạn theo hợp đồng. Theo phương thức này, người cho thuê thường phải mua tài sản, thiết bị mà người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua tài sản từ người cho thuê. Thuê tài chính có đặc trưng: -Thời hạn thuê tài sản của bên thuê phải chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng. Trong Thời hành thuê chính thức các bên trong hợp đồng không được tự ý huỷ hợp đồng. -Ngoài khoản tiền thuê tài sản trả cho bên cho thuê, các khoản chi phí bảo dưỡng vận hành, phí bảo hiểm, thuế tài sản, cũng như các rủi ro khác đối với tài sản do bên thuê phải chịu cũng tương tự như tài sản của doanh nghiệp. Trên đây là cách phân loại vốn theo nguồn hình thành, nó là cơ sơ để doanh nghiệp lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp tuỳ theo loại hình sở hữu, ngành nghề kinh doanh quy mô, trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật cũng như chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đối với việc quản lý vốn ở các doanh nghiệp trọng tâm cần đề cập là hoạt động luân chuyển của vốn, sự ảnh hưởng qua lại của các hình thái khác nhau của tài sản và hiệu quả quay vòng vốn. Vốn cần được xem xét dưới quan điểm hiệu quả. 2.2- Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển: a.Vốn cố định: Trong quá trình sản xuất kinh doanh sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là tài sản cố định. Vì vậy, việc nghiên cứu về vốn cố định trước hết phải dựa trên cơ sơ tìm hiểu tài sản cố định. b.Tài sản cố định. Căn cứ vào tính chất và tác dụng trong khi tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất được chia làm hai bộ phận là đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đặc điểm cơ bản của tư liệu lao động là chúng có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, mặc dù tư liệu sản xuất bị hao mòn nhưng chúng vẫn dữ nguyên hình thái ban đầu. Chỉ khi nào chúng bị hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về mặt kinh tế thì khi đó chúng mới bị thay thế, đổi mới. Tài sản cố định là những tư liệu lao động của doanh nghiệp, khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nó không thay đổi hình thái vật chất ban đầu, nó có thể tham gia nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm hàng hoá và giá trị của nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá trị của sản phẩm tuỳ theo mức độ hao mòn vật chất của tài sản cố định. Bộ phận chuyển dịch vào trong giá trị sản phẩm mới tạo nên một yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm và được thu hồi sau khi tiêu thụ được sản phẩm . Để có thể xem xét thế nào là tài sản cố định, Nhà nước ta có quy định một tư liệu lao động phải đạt đủ hai tiêu chuẩn sau đây: -Thời gian sử dụng tối thiêu phải một năm trở lên. -Giá trị phải đạt tới một độ lớn nhất định trong từng thời kỳ (hiện nay quy định từ 5 triệu đồng trở lên theo thời giá năm 1997). Để tăng cường công tác quản lý tài sản cố định cũng như vốn cố định và nâng cao hiệu quả sử dụng của chúng cần thiết phải phân loại tài sản cố định. Căn cứ vào tính chất tham gia của tài sản cố định trong doanh nghiệp thì tài sản cố định được phân loại: *Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh. Loại này bao gồm tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. -Tài sản cố định hữu hình bao gồm các loại sau: +Loại1: Nhà cửa, vật kiến trúc. +Loại 2: Máy móc thiết bị dùng cho sản xuất - kinh doanh. +Loại 3: Phương tiện vận tải, truyền dẫn. +Loại 4: Thiết bị và dụng cụ quản lý. +Loại 5: Vườn cây lâu năm xúc vật làm việc và cho sản phẩm. +Loại 6: Các tài sản cố định khác. -Tài sản cố định vô hình hay những tài sản cố định không có hình thái vật chất ở nhiều doanh nghiệp có giá trị rất lớn như lợi thế thương mại, uy tín của doanh nghiệp và của sản phẩm, nhãn hiệu sản phẩm… *Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng. *Tài sản cố định mà doanh nghiệp phải bảo quản và cất giữ hộ Nhà nước. Việc phân loại tài sản cố định theo cách này giúp cho doanh nghiệp biết được vị trí và tầm quan trọng của tài sản cố định dùng vào mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh và phương hướng đầu tư vào tài sản cố định hợp lý. Căn cứ vào tình hình sử dụng thì tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành các loại sau: +Tài sản cố định đang sử dụng. +Tài sản cố định chưa sư dụng +Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh lý. Các phân loại này giúp cho doanh nghiệp biết một cách tổng quát tình hình sư dụng tài sản cố định, mức độ huy động chúng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh và xác định đúng đắn số tài sản cố định cần tính khấu hao, có biện pháp thanh lý những tài sản cố định đã hết thời gian thu hồi vốn. c.Vốn cố định của doanh nghiệp: Việc đầu tư thành lập một doanh nghiệp bao gồm việc xây dựng nhà xưởng, nhà làm việc và quản lý, lắp đặt hệ thống các máy móc thiết bị chế tạo sản phẩm, mua sắm xe cộ và các phương tiện vận tải… khi các công việc được hoàn thành và bàn giao thì doanh nghiệp mới có thể bắt đầu tiến hành sản xuất được. Như vậy, vốn đầu tư ban đầu đã chuyển thành vốn cố định của doanh nghiệp. Vậy: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định; đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. Vốn cố định của doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sản xuất - kinh doanh. Việc đầu tư đúng hướng tài sản cố định sẽ mang lại hiệu quả và năng xuất rất cao trong kinh doanh, giúp cho doanh nghiệp cạnh tranh tốt hơn và đứng vững trong cơ chế thị trường. *Vốn lưu động: a. Tài sản lưu động: Trong quá trình sản xuất kinh doanh bên cạnh tài sản cố định, doanh nghiệp luôn có một khối lượng tài sản nhất định nằm rải rác trong các khâu của quá trình sản xuất: dự trữ chuẩn bị sản xuất, phục vụ sản xuất, phối hợp, tiêu thụ sản phẩm, đây chính là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, giá trị của tài sản lưu động thường chiếm tới 50% - 70% tổng giá trị tài sản. Tài sản lưu động chủ yếu nằm trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là các đối tượng lao động. Đối với lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình sản xuất tạo thành thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá trình sản xuất. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất do đó toàn bộ giá trị của chúng được chuyển dịch một lần vào sản phẩm và được thực hiện khi sản phẩm trở thành hàng hoá. Đối tượng lao động trong các doanh nghiệp được chia thành hai thành phần: một bộ phận là những vật tư dự trữ để đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục, một bộ phận là những vật tư đang trong quá trình chế biến (sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,…) cùng với các công cụ, dụng cụ, phụ tùng thay thế được dự trữ hoặc sử dụng, chúng tạo thành tài sản lưu động nằm trong khâu sản xuất của doanh nghiệp. Bên cạnh tài sản lưu động nằm trong khâu sản xuất, doanh nghiệp cũng có một số tài sản lưu động khác nằm trong khâu lưu thông, thanh toán đó là các vật tư phục vụ quá trình tiêu thụ, là các khoản hàng gửi bán, các khoản phải thu… Do vậy, trước khi bước vào sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có một lượng vốn thích đáng để đầu tư vào những tài sản ấy, số tiền ứng trước về tài sản lưu động đó được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. b-Vốn lưu động. Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thức khác nhau, bắt đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư - hàng hoá và lại quay trở về hình thái tiền tệ ban đầu của nó. Vì quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục cho nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng có tính chất chu kỳ thành sự chu chuyển của vốn. Vậy: Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất cho doanh nghiệp đựơc thực hiện thường xuyên, liên tục. Trong doanh nghiệp, việc quản lý tốt vốn lưu động có vai trò rất quan trọng. Một doanh nghiệp được đánh giá là quản lý vốn lưu động có hiệu quả khi với một khối lượng vốn không lớn doanh nghiệp biết phân bổ hợp lý trên các giai đoạn luân chuyển vốn để số vốn lưu động đó chuyển biến nhanh từ hình thái này sang hình thái khác, đáp ứng đựơc các nhu cầu phát sinh. Muốn quản lý tốt vốn lưu động các doanh nghiệp trước hết phải nhận biết được các bộ phận cấu thành của vốn lưu động trên cơ sở đó đề ra được các biện pháp quản lý phù hợp với từng loại. Căn cứ vào công dụng của các tài sản lưu động thì vốn lưu động bao gồm: +Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất. Ví dụ vốn nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vốn về công cụ dụng cụ… +Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất: vốn sản phẩm đang chế tạo, vốn bán thành phẩm tự chế, vốn về chi phí tổn được phân bổ… +Vốn lưu động lưu động nằm trong quá trình lưu động: vốn thành phẩm và hàng hoá mua ngoài, vốn tiền tệ, vốn tạm ứng… Căn cứ vào hình thái biểu hiện vốn lưu động bao gồm: +Tiền mặt và chứng khoán có thể bán được. +Các khoản phải thu. +Các khoản dự trữ: vật tư, hàng hoá… 3-Vai trò của vốn đối với các Doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh dù với bất kỳ quy mô nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định, nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp. Về mặt pháp lý: Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên doanh nghiệp đó phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định (lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho từng loại hình doanh nghiệp) khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập. Ngược lại, việc thành lập doanh nghiệp không thể thực hiện được. Trường hợp trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không đạt điều kiện mà pháp luật quy định, doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố chấm dứt hoạt động như phá sản, giải thể, sát nhập… Như vậy, vốn có thể được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật. Về kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ để phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên, liên tục. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngường cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hoá công nghệ… tất cả những yếu tố này muốn đạt được thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn. Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh, vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm bảo vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh, vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm bảo vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng phạm vi tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy thì doanh nghiệp mới có thể sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả và luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. II- HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN: 1-Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn: Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai góc độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy, các nguồn lực kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh: nói chung và quản lý sử dụng vốn nói riêng. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lợi tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu về khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn…Nó phản ánh quan hệ giữa dầu ra và đầu vào của quá trính sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thể hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí vốn bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau: -Phải khai thác nguồn lực vốn một cách triệt để nghĩa là không để vốn nhàn rỗi mà không sử dụng, không sinh lời. -Phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm. -Phải quản lý vốn một cách chặt chẽ nghĩa là không để vốn bị sử dụng sai mục đích, không để vốn bị thất thoát do buông lỏng quản lý. Ngoài ra, doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng vốn. Có hai phương pháp để phân tích tài chính cũng như phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, đó là phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ. +Phương pháp so sánh: Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán…) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh.. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được chọn là kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân; nội dung so sánh bao gồm: -So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh để có biện pháp khắc phục trong kỳ tới. -So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. -So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành: của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình tốt hay xấu được hay chưa được. -So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số tương đối và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp. +Phương pháp phân tích tỷ lệ: Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ taì chính. Sự biến đổi các tỷ lệ, đó là sự biến đổi của các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, trên cơ sơ so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính, trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo gióc độ phân tích, người phân tích lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau. Để phục vụ cho việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta thường dùng một số các chỉ tiêu mà ta sẽ trình bày cụ thể trong phần sau. 2- Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn chung: Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp một cách chung nhất người ta thường dùng một số chỉ tiêu tổng quát như hiệu suất sử dụng tổng tài sản, doanh lợi vốn, doanh lợi vốn chủ sở hữu. Trong đó: Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu Tổng tài sản Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay của toàn bộ vốn, nó cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu vì vậy nó càng lớn càng tốt. Doanh lợi vốn = Lợi nhuận Tổng tài sản Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh sợi của một đồng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này còn được gọi là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư, nó cho biết một đồng vốn đầu tư đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Doanh lợi vốn = Lợi nhuận Tổng tài sản vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, trình độ sử dụng vốn của người quản lý doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Ba chỉ tiêu trên cho ta một cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhưng như ta đã biết nguồn vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng của tổng nguồn vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp đó là vốn cố định và vốn lưu động. 2.1- Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định: Như trong phần trư._.ớc ta đã trình bày, tài sản cố định là hình tái biểu hiện vật chất của vốn cố định. Vì vậy, để đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn cố định thì cần phải đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định qua các chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Doanh thu thuần Nguyên giá bình quânTSCĐ Doanh thu thuần Nguyên giá bình quânTSCĐ Doanh thu thuần Nguyên giá bình quânTSCĐ Doanh thu thuần Nguyên giá bình quânTSCĐ = = = = Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong một năm. Suất hao phí tài sản cố định Suất hao phí tài sản cố định Suất hao phí tài sản cố định Suất hao phí tài sản cố định Nguyên giá bình quân TSCĐ Doanh thu thuần Nguyên giá bình quân TSCĐ Doanh thu thuần Nguyên giá bình quân TSCĐ Doanh thu thuần Nguyên giá bình quân TSCĐ Doanh thu thuần = = = = Sức sinh lời của tài sản cố định Sức sinh lời của tài sản cố định Sức sinh lời của tài sản cố định Sức sinh lời của tài sản cố định Lợi nhuận Nguyên giá bình quân TSCĐ Lợi nhuận Nguyên giá bình quân TSCĐ Lợi nhuận Nguyên giá bình quân TSCĐ Phó giám đốc SX-KD bình quân TSCĐ = = = = Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì phải bỏ ra bao nhiêu đồng nguyên giá tài sản cố định. Hệ số này càng nhỏ càng tốt. Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng tài sản cố định đổi mới tài sản cố định và hệ số loại bỏ tài sản cố định để xem xét tình hình đổi mới nâng cao năng lực sản xuất của tài sản cố định. Hệ số đổi mới tài sản cố định Hệ số đổi mới tài sản cố định Hệ số đổi mới tài sản cố định Hệ số đổi mới tài sản cố định Giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ Giá trị TSCĐ có ở cuối kỳ Giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ Giá trị TSCĐ có ở cuối kỳ Giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ Giá trị TSCĐ có ở cuối kỳ Giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ Giá trị TSCĐ có ở cuối kỳ = = = = Hệ số loại bỏ tài sản cố định Hệ s loại bỏ tài sản cố định Hệ số loại bỏ tài sản cố định Hệ số loại bỏ tài sản cố định = = = = Giá trị TSCĐ lạc hậu, cũ giảm trong kỳ Giá trị TSCĐ có ở đầu kỳ Giá trị TSCĐ lạc hậu, cũ giảm trong kỳ Giá trị TSCĐ có ở đầu kỳ Giá trị TSCĐ lạc hậu, cũ giảm trong kỳ Giá trị TSCĐ có ở đầu kỳ Giá trị TSCĐ lạc hậu, cũ giảm trong kỳ Giá trị TSCĐ có ở đầu kỳ Hai chỉ tiêu này không chỉ phản ánh sự tăng giảm thuần tuý về tài sản cố định mà còn phản ánh trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật, tình hình đổi mới trang thiết bị của doanh nghiệp. Ngoài ra để đánh giá trực tiếp hiệu quả sử dụng vốn cố định, doanh nghiệp sử dụng hai chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng vốn cố định Hiệu suất sử dụng vốn cố định Hiệu suất sử dụng vốn cố định Doanh thu thuần Vốn cố định bình quân trong kỳ Doanh thu thuần Vốn cố định bình quân trong kỳ Doanh thu thuần Vốn cố định bình quân trong kỳ Doanh thu thuần Vốn cố định bình quân trong kỳ = = = = Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Lợi nhuận Vốn cố định bình quân trong kỳ Lợi nhuận Vốn cố định bình quân trong kỳ Lợi nhuận Vốn cố định bình quân trong kỳ Lợi nhuận Vốn cố định bình quân trong kỳ Hiệu quả sử dụng vốn cố định Hiệu quả sử dụng vốn cố định Hiệu quả sử dụng vốn cố định Hiệu quả sử dụng vốn cố định = = = = Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định bình quân trong kỳ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó phản ánh khả năng sinh lời của vốn cố định, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. 2.2-Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Khi phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta thường dùng các chỉ tiêu sau: Hệ số đảm nhiệm Vốn lưu động Hệ số đảm nhiệm Vốn lưu động Hệ số đảm nhiệm Vốn lưu động Hệ số đảm nhiệm Vốn lưu động VLĐ bình quân trong kỳ Doanh thu thuần VLĐ bình quân trong kỳ Doanh thu thuần VLĐ bình quân trong kỳ Doanh thu thuần VLĐ bình quân trong kỳ Doanh thu thuần = = = = Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Hệ số này nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều và ngược lại. Sức sinh lợi của vốn lưu động Sức sinh lợi của vốn lưu động Sức sinh lợi của vốn lưu động Sức sinh lợi của vốn lưu động Lợi nhuận VLĐ bình quân trong kỳ Lợi nhuận VLĐ bình quân trong kỳ Lợi nhuận VLĐ bình quân trong kỳ Lợi nhuận VLĐ bình quân trong kỳ = = = = Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Đồng thời, để đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn lưu động ngưười ta cũng đặc biệt quan tâm đến tốc độ luân chuyển vốn lưu động vì trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động vận động không ngừng qua các hình thái khác nhau. Do đo, nếu đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết về nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển của vốn lưu động người ta dùng chỉ tiêu sau: Số vòng quay của vốn lưu động Số vòng quay của vốn lưu động Số vòng quay của vốn lưu động Số vòng quay của vốn lưu động Doanh thu thuần VLĐ bình quân trong kỳ Doanh thu thuần VLĐ bình quân trong kỳ Doanh thu thuần VLĐ bình quân trong kỳ Doanh thu thuần VLĐ bình quân trong kỳ = = = = Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển vốn lưu động, nó cho biết vốn lưu động được quay mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược lại. Thời gian của một Vòng luân chuyển Thời gian của một Vòng luân chuyển Thời gian của một Vòng luân chuyển Thời gian của một kỳ phân tích Số vòng quay VLĐ trong kỳ Thời gian của một kỳ phân tích Số vòng quay VLĐ trong kỳ Thời gian của một kỳ phân tích Số vòng quay VLĐ trong kỳ Thời gian của một kỳ phân tích Số vòng quay VLĐ trong kỳ = = = = Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được một vòng, thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của vốn lưu động càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng hiệu quả hơn. Mặt khác, do vốn lưu động biểu hiện dưới nhiều dạng tài sản lưu động khác nhau như tiền mặt, nguyên vật liệu, các khoản phải thu… nên khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta còn đi đánh giá các mặt cụ thể trong công tác quản lý sử dụng vốn lưu động. Sau đây là một số chỉ tiêu cơ bản nhất phản ánh chất lượng của công tác quản lý ngân quỹ và các khoản phải thu. Tỷ suất thanh toán Ngắn hạn Tỷ suất thanh toán Ngắn hạn Tỷ suất thanh toán Ngắn hạn Tổng số TSLĐ Tổng số nợ ngắn hạn Tổng số TSLĐ Tổng số nợ ngắn hạn Tổng số TSLĐ Tổng số nợ ngắn hạn Tổng số TSLĐ Tổng số nợ ngắn hạn = = = = Tỷ suất thanh toán tức thời Tỷ suất thanh toán tức thời Tỷ suất thanh toán tức thời Tỷ suất thanh toán tức thời Tổng số vốn bằng tiền Tổng số nợ ngắn hạn Tổng số vốn bằng tiền Tổng số nợ ngắn hạn Tổng số vốn bằng tiền Tổng số nợ ngắn hạn Tổng số vốn bằng tiền Tổng số nợ ngắn hạn = = = = Tỷ suất này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn (phải thanh toán trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh ) của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chình là bình thường hoặc khả quan. Thực tế cho thấy, tỷ suất này lớn hơn 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan, còn nếu nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong thanh toán công nợ và do đó có thể phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán. Tuy nhiên, nếu tỷ suất này quá cao lại phản ánh một tình trạng không tốt vì vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay tiền chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Số vòng quay các khoản phải thu Số vòng quay các khoản phải thu Số vòng quay các khoản phải thu Số vòng quay các khoản phải thu Tổng số doanh thu bán chịu Bình quân các khoản phải thu Tổng số doanh thu bán chịu Bình quân các khoản phải thu Tổng số doanh thu bán chịu Bình quân các khoản phải thu Tổng số doanh thu bán chịu Bình quân các khoản phải thu = = = = Chỉ tiêu này cho biết mức hợp lý của số dư các khoản phải thu và hiệu quả của việc đi thu hồi nợ. Nếu các khoản phải thu được thu hồi nhanh thì số vòng luân chuyển các khoản phải thu sẽ nâng cao và Xí nghiệp ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, số vòng luân chuyển các khoản phải thu nếu quá cao sẽ không tốt vì có thể ảnh hưởng đến khối lượng hàng tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ (Chủ yếu là thanh toán ngay hay thanh toán trong một thời gian ngắn). Thời gian một vòng quay các khoản phải thu Thời gian một vòng quay các khoản phải thu Thời gian một vòng quay các khoản phải thu Thời gian một vòng quay các khoản phải thu Thời gian kỳ phân tích Số vòng quay các khoản phải thu Thời gian kỳ phân tích Số vòng quay các khoản phải thu Thời gian kỳ phân tích Số vòng quay các khoản phải thu Thời gian kỳ phân tích Số vòng quay các khoản phải thu = = = = Chỉ tiêu này cho thấy để thu hồi được các khoản phải thu cần một thời gian là bao nhiêu. Nếu số ngày này mà lớn hơn thời gian bán chịu quy định cho khách hàng thì việc thu hồi các khoản phải thu là chậm và ngược lại, số ngày quy định bán chịu cho khách lớn hơn thời gian này thì có dấu hiệu chứng tỏ việc thu hồi nợ đạt trước kế hoạch về thời gian. Ngoài ra, để phục vụ cho quá trình phân tích người ta còn sử dụng kết hợp với các chỉ tiêu tài chính khác như: tỷ suất tài trợ, tỷ suất đầu tư, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu,… Trên đây là các chỉ tiêu cơ bản được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung cũng như quản lý và sử dụng vốn nói riêng doanh nghiệp luôn chịu tác động của rất nhiều các nhân tố. Do vậy, khi phân tích, đánh giá để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì doanh nghiệp phải xem xét đến các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp cũng như ảnh hưởng gián tiếp tới hiệu quả sử dụg vốn của doanh nghiêp. 3-Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp: 3.1-Chu kỳ sản xuất: Đây là một đặc điểm quan trọng gắn trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu chu kỳ ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái tạo, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kỳ sản xuất dài doanh nghiệp sẽ chịu một gánh nặng ứ đọng vốn và lãi phải trả cho các khoản vay. 3.2-Kỹ thuật sản xuất. Các đặc điểm riêng có về kỹ thuật tác động liên tục tới một số chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định như hệ số đổi mới máy móc thiết bị, hệ số sử dụng về thời gian, về công suất. Nếu kỹ thuật sản xuất đơn giản, doanh nghiệp dễ có điều kiện sử dụng máy móc thiết bị nhưng lại phải luôn đối phó với các đối thủ cạnh tranh và yêu cầu của khách hàng ngày càng cao về sản phẩm. Do vậy, doanh nghiệp dễ dàng tăng doanh thu, lợi nhuận trên vốn cố định nhưng khó giữ được chỉ tiêu này lâu dài. Nếu kỹ thuật sản xuất phức tạp, trình độ trang bị máy móc thiết bị cao doanh nghiệp có lợi thế trong cạnh tranh giảm lợi nhuận trên vốn cố định. 3.3-Đặc điểm của sản phẩm: Sản phẩm của doanh nghiệp là nơi chứa đựng chi phí và việc tiêu thụ sản phẩm mang lại doanh thu cho doanh nghiệp qua đó quyết định lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng nhất là sản phẩm công nghiệp nhẹ như rượu, bia, thuốc lá…. thì sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh và qua đó giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa nhũng máy móc dùng để sản xuất ra những sản phẩm này có giá trị không quá lớn do vậy doanh nghiệp dễ có điều kiện đổi mới. Ngược lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài có giá trị lớn, được sản xuất trên dây truyền công nghề có giá trị lớn như ô tô, xe máy… việc thu hồi vốn sẽ lâu hơn. 3.4-Tác động của thị trường: Thị trường tiêu thụ sản phẩm có tác động rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu thị trường sản phẩm ổn định sẽ là tác nhân tích cực thúc đẩy cho doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng và mở rộng thị trường. Nếu sản phẩm mang tính thời vụ thì ảnh hưởng tới doanh thu, quản lý sử dụng máy móc thiết bị và tác động tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 3.5-Trình độ đội ngũ cán bộ và lao động sản xuất: -Trình độ tổ chức quản lý của lãnh đạo. Vai trò của người lãnh đạo trong quá trình sản xuất kinh doanh là rất quan trọng. Điều hành và quản lý sử dụng vốn hiệu quả thể hiện ở sự kết hợp một cách tối ưu các yếu tố sản xuất, giảm chi phí không cần thiết đồng thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh, đem lại cho doanh nghiệp sự tăng trưởng và phát triển. -Trình độ tay nghề của người lao động: Nếu công nhân sản xuất có trình độ tay nghề cao phù hợp với trình độ công nghệ của dây chuyền sản xút thì việc sử dụng máy móc thiết bị sẽ tốt hơn, khai thác tối đa công suất của máy móc thiết bị làm tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Để sử dụng tiềm năng lao động có hiệu quả nhất, doanh nghiệp phải có một cơ chế khuyến khích vật chất cũng như trách nhiệm một cách công bằng. Ngược lại, nếu cơ chế khuyến khích không công bằng quy định trách nhiệm không rõ ràng sẽ là cản trở mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3.6-Trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh: Đây cũng là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải trải qua ba giai đoạn là cung ứng, sản xuất và tiêu thụ. -Cung ứng là quá trình chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất như nguyên vật liệu, lao động… nó bào gồm hoạt động mua và dự trữ. Một doanh nghiệp tổ chức tốt hoạt động sản xuất kinh doanh tức là doanh nghiệp đó đã xác định được lượng phù hợp của từng loại nguyên nhiên vật liệu, số lượng lao động cần thiết và doanh nghiệp đã biết kết hợp tối ưu các yếu tố đó. Ngoài ra, đảm bảo hiệu quả kinh doanh thì chất lượng hàng hoá đầu vào phải được đảm bảo, chi phí mua hàng giảm đến mức tối ưu. Còn mục tiêu của dự trữ là đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh nên để đồng vốn được sử dụng có hiệu quả thì phải xác định được mức dự trữ hợp lý để tránh trường hợp dự trữ quá nhiều dẫn đến ứ đọng vốn và tăng chi phí bảo quản. - Khâu sản xuất (đối với các doanh nghiệp thương mại không có khâu này) trong giai đoạn này phải sắp xếp dây truyền sản xuất cũng như công nhân sao cho sử dụng máy móc thiết bị có hiệu quả nhất, khai thác tối đa công suất, thời gian làm việc của máy đảm bảo kế hoạch sản xuất sản phẩm. - Tiêu thụ sản phẩm là khâu quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải xác định giá bán tối ưu đồng thời cũng phải có nhưng biện pháp thích hợp để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng. Khâu này quyết định đến doanh thu, là cơ sở để doanh nghiệp tái sản xuất. 3.7-Trình độ quản lý và sử dụng các nguồn vốn. Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Công cụ chủ yếu để theo dõi quản lý sử dụng vốn là hệ thống kế toán- tài chính. Công tác kế toán thực hiện tốt sẽ đưa ra các số liệu chính xác giúp cho lãnh đạo nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung cũng như việc sư dụng vốn nói riêng trên cơ sở đó ra quyết định đúng đắn. Mặt khác, đặc điểm hạch toán, kế toán nội bộ doanh nghiệp luôn gắn với tính chất tổ chức sản xuất của doanh nghiệp nên cũng tác động tới việc quản lý vốn. Vì vậy, thông qua công tác kế toán mà thường xuyên kiểm tra tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp, sớm tìm ra những điểm tồn tại để có biện pháp giải quyết. 3.8-Các nhân tố khác. Ngoài các nhân tố kể trên còn rất nhiều các nhân tố khách quan khác ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp: - Các chính sách vĩ mô của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là điều tất yếu nhưng các chính sách vĩ mô của Nhà nước tác động một phần không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cụ thể hơn từ cơ chế giao vốn, đánh giá tài sản cố định, sự thay đổi các chính sách thuế, chính sách cho vay, bảo hộ và khuyến kích nhấp một số loại công nghệ nhất định đều có thể làm tăng hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các quy định của nhà nước về phương hướng, định hướng phát triển của các ngành kinh tế đều ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Tuỳ từng doanh nghiệp và tuỳ từng thời kỳ khác nhau mà mức độ ảnh hưởng, tác động của các yếu tố này có khác nhau. Ngoài ra, đối với những doanh nghiệp Nhà nước thì chủ trương, định hướng phát triển của ngành cùng với quy định riêng của các đơn vị chủ quản cấp trên cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. - Tiến bộ khoa học kỹ thuật: Trong điều kiện hiện nay, khoa học công nghệ pháp triển với tốc độ chóng mặt, thị trường công nghệ biến động không ngừng và chênh lệch về trình độ công nghệ giữa các nước là rất lớn, làn sóng chuyển giao công nghệ sản xuất mặt khác, nó đặt doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh gay gắt. Do vậy, để sử dụng vốn có hiệu quả doanh nghiệp phải xem xét đầu tư vào công nghệ nào và phải tính đến hao mòn vô hình do phát triển không ngừng của tiến bộ khoa học kỹ thuật. - Môi trường tự nhiên: là toàn bộ các yếu tố tự nhiên tác động đến doanh nghiệp như khí hậu, thời tiết, môi trường… Các điều kiện làm việc trong môi trường tự nhiên phù hợp sẽ tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả công việc. Mặt khác, các điều kiện tự nhiên còn tác động đến các hoạt động kinh tế và cơ sở vật chất của doanh nghiệp. Tính thời vụ, thiên tai, lũ lụt… gây khó khăn cho rất nhiều doanh nghiệp và ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. 4-Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều mục tiêu và tuỳ thuộc vào giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có những mục tiêu được ưu tiên thực hiện nhưng tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là tốt đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được. Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Trong khi đó yếu tố tác động có tính chất quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Như phần trên ta đã trình bày hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, do vậy doanh nghiệp phải xét đến các nhân tố ảnh hưởng khi tìm các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt trong điều kiện hiện nay. Trước đây trong cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp Nhà nước coi nguồn vốn cấp phát từ ngân sách Nhà nước đồng nghĩa với " Cho không " nên khi sử dụng nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm tới hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có nhà nước bù đắp đã gây ra tình trạng vô chủ trong việc quản lý và sư dungj vốn dẫn tới lãng phí vốn và hiệu quả kinh tế rất thấp. Theo số liệu thống kê cho thấy việc sử dụng tài sản cố định chỉ đạt 50% - 60% công suất thiết kế, phổ biến chỉ hoạt động 1 ca/ ngày vì vậy hệ số sinh lời của đồng vốn thấp. Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xa hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp buộc phải chuyển mình theo cơ chế mới có thể tồn tại và phát triển. Cạnh tranh là quy luật của thị trường, nó cho phép tận dụng triệt để mọi nguồn lực của doanh nghiệp và của toàn xã hội vì nó khiến cho doanh nghiệp phải luôn tự đổi mới, hạ giá thành, tăng năng suất lao động, cải tiến mẫu mã chất lượng sản phẩm để có thể đứng vững trên thương trường và làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có vị trí quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp. Hoạt động cơ chế thị trường đòi hỏi mỗt doanh nghiệp phải luôn đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng chực tiếp đế sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu quae sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng huy động các nguồn vốn tài trợ dễ dàng hơn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đảm bảo, doanh nghiệp có đủ tiềm lực đẻ khắc phục những khó khăn và một số rủi ro trong kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. Để đáp ứng các yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm … doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là cần thiết. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người lao động… Vì khi hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó giúp cho năng suất lao động cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó giúp cho năng suất lao động của doanh nghiệp ngày càng nâng cao, tạo sự phát triển cho doanh nghiệp và các ngành liên quan. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế và toàn xã hội. Do đó, các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA XÍ NGHIỆP DƯỢC PHẨM 120-QUÂN ĐỘI I-TÌNH HÌNH ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA XNDP 120-QĐ + Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp Dược phẩm 120 Quân đội: Tên Doanh nghiệp : Xí nghiệp Dược phẩm 120 Quân đội. Loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp Nhà nước Tên giao dịch : Số 8, Tăng Bạt Hổ, Hai Bà Trưng, Hà nội. Xí nghiệp Dược phẩm 120-Quân đội có trụ sở tại số 8-phố Tăng Bạt Hổ thuộc phường Phạm Đình Hồ-Quận Hai Bà Trưng-Hà nội. Chấp hành Nghị quyết của Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Đảng uỷ Tổng cục Hậu cần đã ra Nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ công tác Hậu cần 1973-1975, xác định: Toàn nghành phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khẩn trương trước mắt, đồng thời xây dựng cơ sở cơ bản lâu dài cho cả hai miền…tích cực và khẩn trương xây dựng hậu phương quân đội. Vào thời kỳ này, do yêu cầu mới về nhiệm vụ tác chiến và tổ chức chiến trường, nên có sự phát triển lớn về lực lượng. Vì thế việc bảo đảm hậu cần kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang là một nhu cầu lớn và ngày càng cấp bách. Trong đó có sự tăng đột biến về yêu cầu đảm bảo thuốc cho cấp cứu và điều trị. Ngày 01 tháng 05 năm 1973 trên cơ sở tổ chức của kho B, kho C và đội tiếp nhận, Cục quân y đã tổ chức lại ngành Dược và trang bị, trong đó Xưởng bào chế của kho C, tách ra thành Xí nghiệp Dược phẩm 120-Quân đội và trực thuộc Cục quân y theo Quyết định số 333/QĐ-BQP. Xác định vị trí đống quân tại số 8-phố Tăng Bạt Hổ, Hà nội, với quân số 170 người, biên chế thành 3 phân xưởng và 6 phòng ban. Thiếu tá Thạc sỹ Dược học Nguyễn Thị Hương được bổ nhiệm làm giám đốc, đồng chí Nguyễn văn Điệp phó giám đốc phụ trách kỹ thuật, đồng chí Vũ Hữu yên làm chính trị viên. Tại buổi giao nhiệm vụ đồng chí Bí thư Đảng uỷ chính uỷ Cục quân y đã động viên cán bộ, chiến sỹ, công nhân viên hãy khắc phục khó khăn, vừa sản xuất, vừa xây dựng xí nghiệp về mọi mặt, phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ sản xuất phục vụ bộ đội xứng đáng là con chim đầu đàn về sản xuất thuốc quân y trong quân đội. Trong những năm đầu thành lập, trước mắt nhằm tạo động lực cho thúc đẩy sản xuất, xí nghiệp đã xây dựng nội quy và quy chế trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Với 210 định mức lao động công đoạn và 25 định mức sản phẩm, đồng thời xí nghiệp đã xây dựng được 84 quy trình kỹ thuật sản phẩm, 414 định mức kỹ thuật vật tư, đặc biệt côi trọng công tác kiểm nghiệm và kiểm soát, thực hiện chế độ lương sản phẩm và thưởng năng suất. Đây thực sự là đòn xeo thúc đẩy sản xuất phát triển và xây dựng xí nghiệp ngày càng đi vào nề nếp. Phong trào thi đua nâng cao năng suất lao động và nghiên cứu cải tiến kỹ thuật được cán bộ, công nhân viên tích cực tham gia. Nhờ vậy, mà những khó khăn về trang bị, vật tư nguyên liệu thiếu đã từng bước được khắc phục, nhiều sản phẩm mới ra đời, nhất là các loại thuốc y học cổ truyền với số lượng hơn 80 triệu viên. Để đảm bảo cho sản xuất có năm xí nghiệp đã khai thác các nguồn nguyên liệu lên tới 400 tấn, tổ chức tốt khâu quản lý cấp phát sử dụng và thanh toán theo định mức sản phẩm. Cũng vào thời gian này, được sự hỗ trợ của Tổng cục Hậu cần và Cục quân y, xí nghiệp được đầu tư và nâng cấp nhiều trang bị mới, đến năm 1984, 1985, trang bị kỹ thuật của xí nghiệp đã có những thay đổi quan trọng, có tính bước ngoặt, tăng năng suất nước cất lên 800%, sấy 7000%, tiệt trùng từ 16000ống/ngày lên 40.000ống/ngày. Tuy nhiên so với nhiều xí nghiệp dược trong ngành y tế thì trang bị của xí nghiệp vẫn còn hạn chế, đòi hỏi cần phải có hướng đầu tư về kỹ thuật nhiều hơn nữa mới đáp ứng với yêu cầu của công nghệ sản xuất thuốc. Từ đó xí nghiệp đã tìm cho mình một hướng đi mới và chính sự thay đổi này đã từng bước đưa một xí nghiệp Dược sản xuất thuốc trong quân đội như ngày nay. Năm 2005 đã được Bộ quốc phòng đầu tư 50tỷ đồng để xây dựng xí nghiệp Quân đội đầu tiên đạt tiêu chuẩn GMP-WHO(ASEAN). Ngoài việc duy trì những mặt hàng truyền thống, xí nghiệp đã đưa vào sản xuất và phát triển thêm nhiều mặt hàng kháng sinh mới với chất lượng tốt, hiệu quả nhiều như: Amoxilin, viên số II, Ampicilin, Tetracyclin… Trong quá trình hoạt động, xí nghiệp đã được nhà nước tặng thưởng 3 huân chương chiến công hạng 3(1-1981, 5-1983, 3-1987) vì đã thực hiện tốt cuộc vận động” Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân”, tổ chức đoàn thanh niên được Tổng cục Chính trị tặng cờ(1982). Xí nghiệp được tặng 3 huy chương và 2 bằng khen về chất lượng, mẫu mã ở những lần tham dự hội chợ hàng Công nghiệp Việt nam và triển lãm Việt bắc do Quân đội tổ chức. -Chức năng và nhiệm vụ: Chức năng: Xí nghệp Dược phẩm 120 là đơn vị sản xuất và kinh doanh Dược phẩm trực thuộc Tổng Cục Hậu cần và Cục Quân y, chức năng chủ yếu là sản xuất và kinh doanh dược phẩm phục vụ Quân đội và thị trường y tế nhân dân. Nhiệm vụ: Kinh doanh các mặt hàng phục vụ chuyên ngành. Sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, tài sản mà nhà nước, Bộ quốc phòng, Tổng cục hậu cần, Cục quân y giao cho xí nghiệp. Bảo đảm chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên về mặt vật chất và tinh thần, thực hiện đúng luật lao động. Thực hiện và chấp hành đầy đủ các khoản thuế và nghĩa vụ đóng góp khác theo quy định của nhà nước, của Bộ quốc phòng, của Tổng cục Hậu cần, Cục Quân y. Bảo vệ môi trường và sinh thái, giữ gìn an ninh chính trị, trựt tự xã hội nơi dơn vị đóng quân. Sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ đột xuất mà cấp trên giao. Hoạt động sản xuất kinh doanh theo phân cấp trong quy chế và điều lệ của Tổng cục Hậu cần, Cục Quân y, Bộ y tế. -Mô hình tổ chức của Xí nghiệp Dược phẩm 120-Quân đội: Mô hình tổ chức của Xí nghiệp Dược phẩm 120-Quân đội đã được Tổng cục Hậu cần chuẩn y như sau: *Khối cơ quan: -Giám đốc Xí nghiệp -Phó giám đốc phụ trách sản xuất -Phó giám đốc chất lượng -Phòng kế hoạch vật tư -Phòng nghiên cứu phát triển -Phòng đảm bảo chất lượng -Phòng kiểm tra chất lượng -Phòng kinh doanh-tiếp thị -Ban tổ chức-chính trị-hành chính -Phòng tài chính *Khối trực tiếp sản xuất: -Xưởng non-betalactam -Xưởng sản xuất thuốc tiêm -Tổ cơ điện. -Phòng kế hoạch Là cơ quan tham mưu cho giám đốc xí nghiệp xác định phương hướng, mục tiêu kinh doanh sản xuất, cung ứng vật tư, mua sắm trang thiết bị để báo cáo giám đốc xí nghiệp. -Phòng nghiên cứu phát triển: Nghiên cứu chế thử sản phẩm mới, ngiên cứu thị trường ngành dược. Nghiên cứu cải tiến nâng cao chất lượng mẫu mã sản phẩm hiện có, nghiên cứu tuổi thọ của sản phẩm. Chủ trì thẩm định quy trình sản xuất gốc. -Phòng kiểm tra chất lượng: Kiểm tra phân loại nguyên liệu, bao bì, thành phẩm, bán thành phẩm theo tiêu chuẩn quy định. Thực hiện công tác tiêu chuẩn hoá phhù hợp với GMP, GLP, GSP theo WHO. Xây dựng tiêu chuẩn kiểm nghiệm đầy đủ phù hợp với yêu cầu kiểm tra chất lượng nguyên liệu, bao bì, sản phẩm trung gian, sản phẩm chờ đóng gói, thành phẩm do Xí nghiệp sản xuất. Kiểm soát quá trình nhập kho, dán nhãn tình trạng nguyên liệu, bao bì, thành phẩm. Theo dõi độ ổn định sản phẩm. Thẩm định vận hành quản lý thiết bị phân tích. -Phòng đảm bảo chất lượng: Là cơ quan quản lý hệ thống chất lượng. -Phòng kinh doanh-tiếp thị: Lập kế hoạch kinh doanh các sản phẩm kinh tế của xí nghiệp. -Phòng tài chính: Là cơ quan tham mưu cho giám đốc xí nghiệp về công tác tài chính kế toán đồng thời phản ánh kịp thời chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong xí nghiệp. Lập kế hoạch tài chính, cân đối vốn để đảm bảo cho mọi nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Tổ chức theo dõi công tác hạch toán chi phí sản xuất sản phẩm, định kỳ tổng hợp báo cáo chi phí sản xuất và giá thành thực tế của sản phẩm. Tham mưu cho giám đốc xí nghiệp các biện pháp nhằm giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm. Quản lý và theo dõi quá trình thực hiện và thanh lý hợp đồng mua bán vật tư hàng hoá. Tham gia vào việc ký kết hợp đồng kinh tế. Khai thác đảm bảo đủ nguồn tiền mặt trong điều kiện có thể phục vụ kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh. -Ban tổ chức-chính trị-hành chính: Là cơ quan chuyên trách giúp Đảng uỷ và giám đốc xí nghiệp tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị trong Đảng bộ dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bí thư Đảng uỷ và sự chỉ đạo ngiệp vụ của phòng chính trị -Cục chính trị-Tổng cục Hậu cần. -Công ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33385.doc
Tài liệu liên quan