Phần mở đầu
Khi nói đến sản xuất kinh doanh thì cho dù dưới hình thức kinh tế xã hội nào vấn đề được nêu ra trước tiên cũng là hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh là mục tiêu phấn đấu của một nền sản xuất, là thước đo về mọi mặt của nền kinh tế quốc dân cũng như từng đơn vị sản xuất.
Lợi nhuận kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là mục tiêu lớn nhất của mọi doanh nghiệp. Để đạt được điều đó mà vẫn đảm bảo chất lượng tốt, gía thành hợp lí, doanh nghiệp vẫn vững vàng trong cạnh tranh thì các doanh
64 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Xí Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh, trong đó quản lí và sử dụng vốn là vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong cơ chế bao cấp trước đây vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước hầu hết được Nhà nước tài trợ thông qua cấp phát vốn, đồng thời Nhà nước quản lí về giá cả sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch lãi Nhà nước thu - lỗ Nhà nước bù, do vậy các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không quan tâm đến hiệu quả sử dụng của đồng vốn. Nhiều doanh nghiệp đã không bảo toàn và phát triển được vốn, hiệu quả sử dụng vốn thấp, tình trạng lãi giả lỗ thật ăn mòn vào vốn xảy ra phổ biến trong các doanh nghiệp Nhà nước. Bước sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, nhiều thành phần kinh tế song song tồn tại, cạnh tranh lẫn nhau gay gắt. Bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, đứng vững trong cơ chế mới là những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến phá sản hàng loạt.
Trước tình hình đó, Nghị quyết đại hội lần thứ VI BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh " Các xí nghiệp quốc doanh không còn được bao cấp về giá và vốn, phải chủ động kinh doanh, phải bảo đảm tự bù đắp chi phí, nộp đủ thuế và có lãi...". Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải gắn với thị trường, bám sát thị trường, tự chủ về vốn và tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, nhất là trong kinh doanh đường biển không phải là vấn đề mới mẻ. Nó được hình thành ngay sau khi tài chính ra đời, nó là lĩnh vực rất rộng và muốn nghiên cứu một cách toàn diện thì phải có sự đầu tư rất công phu. Trong thời gian thực tập tại Xí Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco, em chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Xí Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco" làm nội dung nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Hướng nghiên cứu là kết hợp giữa lí luận và thực tiễn. Từ việc khảo sát tình hình thực tế của Xí nghiệp qua các năm, kết hợp với lí luận kinh tế mà cụ thể là lí luận về quản lí, về vốn, về cạnh tranh... để tiến hành phân tích tình hình thực tế của Xí nghiệp , qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Xí Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco .
Nội dung chuyên đề tốt nghiệp bao gồm:
- Mở đầu.
- Chương I: Những vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
- Chương II: Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn ở Xí Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco .
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý,sử dụng vốn sản xuất kinh doanh ở Xí Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco .
Kết luận:
Trước sự thay đổi về chất trong hoạt động của các công ty Việt Nam, cùng với việc áp dụng đầy đủ chế độ kế toán mới ở doanh nghiệp, vấn đề quản lí và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã thay đổi sâu sắc cả về phương pháp luận và chỉ tiêu đánh giá. Do đó, tạo nên khó khăn rất lớn trong quá trình nghiên cứu đề tài và những sai sót không thể tránh khỏi. Vì vậy, rất mong sự đóng góp của các thầy, cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Đàm Văn Huệ và các cô chú cán bộ ở Xí Nghiệp Vận Tải Biển Vinafco đã giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
CHƯƠNG I
Nhứng vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
1.1.KHáI NIệM Và PHÂN LOạI VốN KINH DOANH CủA DOANH NGHIệP.
1.1.1. Khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh.
Bất cứ một doanh nghiệp nào lúc đầu cũng phải có một lượng tiền vốn nhất định để thực hiện những khoản đầu tư ban đầu cần thiết cho việc xây dựng và khởi động doanh nghiệp. Vốn là yếu tố vật chất cần thiết nhất và cần được sử dụng có hiệu quả. Doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ vật tư, để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, để chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh và được thể hiện ở nhiều hình thái vật chất khác nhau. Do có sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động thì hàng hoá và dịch vụ được tạo ra nhằm tiêu thụ trên thị trường. Sau cùng các hình thái vật chất khác nhau sẽ lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Quá trình trao đổi đó đảm bảo cho sự ra đời, vận hành và phát triển của doanh nghiệp có thể diễn tả như sau:
Tài sản thực tế
Tiền Tài sản thực tế - Tài sản có tài chính Tiền
Tài sản có tài chính
Sự thay đổi trên làm thay đổi số dư ban đầu (đầu kỳ) của ngân quỹ và sẽ dẫn đến số dư cuối kỳ lớn hơn số dư đầu kỳ - tạo ra giá trị thặng dư. Điều đó có nghĩa là số tiền thu được do tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ phải đảm bảo bù đắp toàn bộ chi phí và có lãi. Như vậy số tiền đã ứng ra ban đầu không những chỉ được bảo tồn mà còn được tăng thêm do hoạt động kinh doanh đem lại. Toàn bộ giá trị ứng ra cho sản xuất kinh doanh đó được gọi là vốn. Tuy nhiên giá trị ứng trước đó không đơn thuần là vật chất hữu hình, mà một số tài sản không có hình thái vật chất cụ thể nhưng nó chứa đựng một giá trị đầu tư nhất định như: Tên doanh nghiệp, nhãn hiệu sản phẩm, lợi thế thương mại, đặc quyền kinh doanh... cũng có giá trị như vốn. Những phân tích khái quát trên đây cho ta quan điểm toàn diện về vốn: "Vốn là một phạm trù kinh tế cơ bản. Trong doanh nghiệp vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả các loại tài sản và các nguồn lực mà doanh nghiệp sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư".
Như vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp là hết sức quan trọng, vừa đem lại hiệu quả kinh tế vừa đem lại hiệu quả xã hội.
1.1.2.Phân loại vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm: Vốn cố định và vốn lưu động
Có nhiều giác độ khác nhau để xem xét vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đôi khi nó được khắc hoạ trong luật kinh tế như là vốn pháp định và vốn điều lệ. Một số khác theo nhu cầu nghiên cứu đứng trên giác độ hình thành vốn lại thể hiện vốn gồm có vốn đầu tư ban đầu, vốn bổ sung, vốn liên doanh và vốn đi vay. Sở dĩ tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau là xuất phát từ sự khác nhau về triển vọng hay quan điểm sử dụng. Với bài luận văn này, chúng ta sử dụng quan điểm làm quyết định về vốn qua con mắt quản trị vốn ở công ty sản xuất. Với quan điểm đó, vốn được xem xét trên giác độ chu chuyển. Quan tâm đến vấn đề này chúng ta cần chú ý đến vốn cố định và vốn lưu động.
1.1.2.1- Vốn cố định:
a) Khái niệm và đặc điểm vốn cố định:
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định, đó chính là số vốn doanh nghiệp đầu tư mua sắm, trang bị cơ sở vật chất. Để là tài sản cố định phải đạt được cả hai tiêu chuẩn. Một là, phải đạt được về mặt giá trị đến một mức độ nhất định (ví dụ hiện nay giá trị của nó phải lớn hơn hoặc bằng 5.000.000đồng). Hai là, thời gian sử dụng phải từ trên 1 năm trở lên. Với những tiêu chuẩn như vậy thì hoàn toàn bình thường với đặc điểm hình thái vật chất của tài sản cố định giữ nguyên trong thời gian dài. Tài sản cố định thường được sử dụng nhiều lần, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và chỉ tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm. Qua quá trình sử dụng, tài sản cố định hao mòn dần dưới hai dạng là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình chủ yếu do tiến bộ khoa học công nghệ mới và năng suất lao động xã hội tăng lên quyết định. Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào mức độ sử dụng khẩn trương tài sản cố định và các điều kiện ảnh hưởng tới độ bền lâu của tài sản cố định như chế độ quản lý sử dụng, bảo dưỡng, điều kiện môi trường... Những chỉ dẫn trên đưa ra tới một góc nhìn về đặc tính chuyển đổi thành tiền chậm chạp của tài sản cố định. Tuy thế, các tài sản cố định có giá trị cao có thể có giá trị thế chấp đối với ngân hàng khi vay vốn.
b) Hình thái biểu hiện của vốn cố định:
Cơ cấu vốn cố định là tỉ lệ phần trăm của từng nhóm vốn cố định chiếm trong tổng số vốn cố định. Nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có một ý nghĩa quan trọng là cho phép đánh giá việc đầu tư có đúng đắn hay không và cho phép xác định hướng đầu tư vốn cố định trong thời gian tới. Để đạt được ý nghĩa đúng đắn đó, khi nghiên cứu cơ cấu vốn cố định phải nghiên cứu trên hai giác độ: Nội dung cấu thành và mối quan hệ tỉ lệ trong mỗi bộ phận so với toàn bộ. Vấn đề cơ bản trong việc nghiên cứu này phải là xây dựng được một cơ cấu hợp lý phù hợp với trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản xuất, trình độ quản lý, để các nguồn vốn được sử dụng hợp lý và có hiệu quả nhất. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ trọng trong cơ cấu vốn là chỉ tiêu động. Điều này đòi hỏi cán bộ quản lý phải không ngừng nghiên cứu tìm tòi để có được cơ cấu tối ưu.
Theo chế độ hiện hành Vốn cố định của doanh nghiệp được biểu hiện thành hình thái giá trị của các loại tài sản cố định sau đây đang dùng trong quá trình sản xuất:
1) Nhà cửa được xây dựng cho các phân xưởng sản xuất và quản lý
2) Vật kiến trúc để phục vụ sản xuất và quản lý
3) Thiết bị động lực
4) Hệ thống truyền dẫn
5) Máy móc, thiết bị sản xuất
6) Dụng cụ làm việc, đo lường, thí nghiệm
7) Thiết bị và phương tiện vận tải
8) Dụng cụ quản lý
9) Tài sản cố định khác dùng vào sản xuất công nghiệp
Trên cơ sở các hình thái giá trị của tài sản cố định như trên chỉ ra rõ ràng cơ cấu vốn cố định chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Quan tâm nhất là đặc điểm về kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp, sự tiến bộ kỹ thuật, mức độ hoàn thiện của tổ chức sản xuất, điều kiện địa lý tự nhiên, sự phân bổ sản xuất. Vì vậy khi nghiên cứu để xây dựng và cải tiến cơ cấu Vốn cố định hợp lý cần chú ý xem xét tác động ảnh hưởng của các nhân tố này. Trong kết quả của sự phân tích, đặc biệt chú ý tới mối quan hệ giữa các bộ phận Vốn cố định được biểu hiện bằng máy móc thiết bị và bộ phận Vốn cố định được biểu hiện bằng nhà xưởng vật kiến trúc phục vụ sản xuất.
1.1.2.2 - Vốn lưu động:
a) Khái niệm và đặc điểm của vốn lưu động:
Vốn lưu động và biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông. Đó là số vốn doanh nghiệp đầu tư để dự trữ vật tư, để chi phí cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chi phí cho hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Hoàn toàn khách quan không như vốn cố định, Vốn lưu động tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất kinh doanh, chuyển qua nhiều hình thái giá trị khác nhau như tiền tệ, đối tượng lao động, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm và trở lại hình thái tiền tệ ban đầu sau khi tiêu thụ sản phẩm. Như vậy vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định, quá trình vận động của Vốn lưu động thể hiện dưới hai hình thái:
- Hình thái hiện vật: Đó là toàn bộ nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm.
- Hình thái giá trị: Là toàn bộ giá trị bằng tiền của nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm, giá trị tăng thêm do việc sử dụng lao động sống trong quá trình sản xuất và những chi phí bằng tiền trong lĩnh vực lưu thông.
Sự lưu thông về mặt hiện vật và giá trị của Vốn lưu động ở các doanh nghiệp sản xuất có thể biểu diễn bằng công thức chung:
T - H - SX - H' - T'
Trong quá trình vận động, đầu tiên Vốn lưu động biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và khi kết thúc cũng lại bằng hình thức tiền tệ. Một vòng khép kín đó gợi mở cho chúng ta thấy hàng hoá được mua vào để doanh nghiệp sản xuất sau đó đem bán ra, việc bán được hàng tức là được khách hàng chấp nhận và doanh nghiệp nhận được tiền doanh thu bán hàng và dịch vụ cuối cùng. Từ các kết quả đó giúp ta sáng taọ ra một cách thức quản lý vốn lưu động tối ưu và đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
b) Hình thái biểu hiện của vốn lưu động:
Xác định cơ cấu Vốn lưu động hợp lý có ý nghĩa tích cực trong công tác sử dụng hiệu quả vốn lưu động. Nó đáp ứng yêu cầu vốn cho từng khâu, từng bộ phận, đảm bảo việc sử dụng tiết kiệm hợp lý Vốn lưu động. Trên cơ sở đó đáp ứng được phần nào yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong điều kiện thiếu vốn cho sản xuất.
Cơ cấu Vốn lưu động là quan hệ tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm đó so với toàn bộ giá trị Vốn lưu động. Tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm trong toàn bộ Vốn lưu động hợp lý thì chỉ hợp lý tại mỗi thời điểm naò đó và tính hợp lý chỉ mang tính nhất thời. Vì vậy trong quản lý phải thường xuyên nghiên cứu xây dựng một cơ cấu hợp lý đảm bảo độ "khoẻ mạnh" đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh từng thời kỳ. Để thuận lợi cho việc quản lý và xây dựng cơ cấu vốn như thế, người ta thường có sự phân loại theo các quan điểm tiếp cận khác nhau:
- Tiếp cận theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển, Vốn lưu động chia thành 3 loại:
+ Vốn trong dự trữ: Là bộ phận vốn dùng để mua nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế, dự trữ... chuẩn bị đưa vào sản xuất.
+ Vốn trong sản xuất: Là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản xuất như: sản phẩm dở dang, chi phí phân bổ, bán thành phẩm, tự chế tự dùng.
+ Vốn trong lưu thông: Là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông như tiền mặt, thành phẩm.
- Tiếp cận về mặt kế hoạch hoá, Vốn lưu động được chia thành Vốn lưu động không định mức và Vốn lưu động định mức.
+ Vốn lưu động định mức là số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, nó bao gồm vốn dự trữ vật tư hàng hoá và vốn phi hàng hoá.
+ Vốn lưu động không định mức là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình kinh doanh và trong sản xuất, dịch vụ phụ thuộc nhưng không đủ căn cứ để tính toán được.
1.2.nguồn vốn,chi phí vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp
a) Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp gồm có vốn tự có, vốn coi như tự có và vốn đi vay. Từ các nguồn vốn khác nhau này doanh nghiệp có phương cách huy động trên nhiều nguồn, hỗ trợ lẫn nhau đảm bảo cho yêu cầu của doanh nghiệp.
- Vốn tự có bao gồm:
+ Nguồn vốn pháp định: Chính là vốn lưu động do ngân sách hoặc cấp trên cấp cho đơn vị thuộc khối nhà nước; nguồn vốn cổ phần nghĩa vụ do xã viên hợp tác xã và các cổ đông đóng góp hoặc vốn pháp định của chủ doanh nghiệp tư nhân.
+ Nguồn vốn tự bổ sung: Nguồn này hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị thông qua quỹ khuyến khích phát triển sản xuất và các khoản chênh lệch hàng hoá tồn kho theo cơ chế bảo toàn giá trị vốn.
+ Nguồn vốn lưu động liên doanh: Gồm có các khoản vốn của các đơn vị tham gia liên doanh, liên kết góp bằng tiền, hàng hoá, sản phẩm, nguyên vật liệu, công cụ lao động nhỏ v.v...
- Vốn coi như tự có: Được hình thành do phương pháp kết toán hiện hành, có một số khoản tiền tuy không phải của doanh nghiệp nhưng có thể sử dụng trong thời gian rỗi để bổ sung vốn lưu động. Thuộc khoản này có:Tiền thuế, tiền lương, bảo hiểm xã hội, phí trích trước chưa đến hạn phải chi trả có thể sử dụng và các khoản nợ khác.
- Vốn đi vay: Nhằm đảm bảo nhu cầu thanh toán bức thiết trong khi hàng chưa bán đã mua hoặc sự không khớp trong thanh toán. Nguồn vốn đi vay là nguồn vốn cần thiết, song cần chú ý tới các hình thức vay khác nhau với tỉ lệ lãi suất khác nhau và phải trả kịp thời cả vốn và lãi vay.
Bằng cách nghiên cứu các nguồn của cả vốn lưu động và vốn cố định như trên, người kinh doanh có thể đạt được sự tổng hợp về các nguồn vốn theo các chỉ dẫn của kế toán tài chính. Nguồn vốn ở các doanh nghiệp giờ đây trở thành nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu thể hiện ở khoản "có"; nợ phải trả chính là khoản vay, nợ của doanh nghiệp đối với các tổ chức, cá nhân... để đầu tư, hình thành tài sản của doanh nghiệp, được sử dụng trong một thời gian nhất định và sau đó phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi như đã cam kết. ý nghĩa của việc nghiên cứu này cho ta tạo quan hệ giữa vốn và nguồn vốn về phương diện giá trị đầu tư như sau:
Giá trị TSCĐ + Giá trị TSLĐ = Nguồn vốn chủ sở hữu + Nợ phải trả
b) Cơ cấu vốn:
Sức mạnh tiềm ẩn của một doanh nghiệp nhiều khi được thể hiện thông qua cơ cấu vốn. Chứng minh cho luận điểm này chúng ta thấy rằng trình độ sử dụng vốn của ban lãnh đạo doanh nghiệp và tình hình sản xuất kinh doanh là những yếu tố quan trọng khắc hoạ nên sức mạnh của doanh nghiệp. Đồng thời chính những yếu tố đó tạo nên một cơ cấu vốn đặc trưng cho doanh nghiệp, không giống các doanh nghiệp cùng loại khác. Như vậy tỉ số cơ cấu vốn không phải là một con số ngẫu nhiên mà là con số thể hiện ý chí của doanh nghiệp. Về mặt giá trị, tỉ số đó cho ta biết trong tổng số vốn ở doanh nghiệp đang sử dụng có bao nhiêu đầu tư vào vốn lưu động, có bao nhiêu đầu tư vào tài sản cố định. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng được cơ cấu vốn khoẻ, hợp lý.
Cơ cấu cho từng loại vốn được tính như sau:
Tỉ trọng VCĐ (Tỉ trọng TSCĐ)
=
TSCĐ và đầu tư dài hạn
Tổng vốn
Tỉ trọng VLĐ
(Tỉ trọng TSLĐ và vốn lưu thông)
=
1- Tỉ trọng vốn cố định
1.3. Nội dung hoạt động quản lý vốn cố định và vốn lưu động
1.3.1. Hoạt động quản lý vốn cố định :
Quản lý vốn cố định (VCĐ) nghĩa là phải đi đến các quyết định. Giống như việc quản lý hoạt động kinh doanh của công ty, việc quản lý VCĐ ảnh hưởng quan trọng đến sự tồn tại và hiệu quả sử dụng vốn. Quản lý VCĐ thành công đòi hỏi các nhà quản lý phải gắn liền sự vận động của VCĐ với các hình thái biểu hiện vật chất của nó. Hơn thế nữa, để quản lý có hiệu quả VCĐ trước hết cần nghiên cứu những tính chất và đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp. Trong khoa học quản lý VCĐ thường đi vào những nội dung cụ thể sau:
1.3.1.1 Khấu hao tài sản cố định
- Khái niệm về khấu hao Tài sản cố định:
Trong quá trình sử dụng, các tài sản cố định dần dần bị xuống cấp hoăch hư hỏng – gọi là sự hao mòn.Sự hao mòn đó làm giảm giá trị của chúng một cách tương đối. Do đó, Xí nghiệp phải xác định giá trị hao mòn trong từng kỳ kế toán ( năm ,quý, tháng....) và hạch toán vàogiá thành sản phẩm. Trong đó sía trị khấu hao đã được cộng dồn lại ( luỹ kế ) phản ánh lượng tiền (giá trị) đã hao mòn của tài sản cố định.
Quá trình hao mòn gồm hai hình thái:
+ Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là sự suy giảm giá trị của tài sản cố định do sự hao mòn, xúng cấp về mặt hiện vật gây ra. Các hao mòn hữu hình có thể quan sát, nhận biết được bằng trực quan như sự han gỉ, hư hỏng các chi tiết, hiệu suất hoạt động giảm,vv...Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào điều kiện hoạt động , cường đọ khai thác, chế độ vận hành, bảo dưỡng và tuổi thọ của tài sản cố định.
+ Hao mồn vô hình là sự mất giá tương đối và tuyệt đối của tài sản cố định do tiến bộ khoa học kỹ thuật,do thị hiếu hoặc do một số nhân tố khác.Sự giảm sút giá trị không trực tiếp biểu hiện qua bề ngoài của máy móc.Do đó, có những thiết bị chỉ còn lại 30% - 40% giá trị ban đầu; điều đó thể hiện sự lạc hậu về công nghệ. Trong mua sắm đầu tư máy móc thiết bị cần lưu ý.
+ Các phương pháp xác định chi phí khấu hao có thể được lựa chọn để áp dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.
Khấu hao đều theo thời gian:
Phương pháp này tính chi phí khấu hao phân chia đều cho các năm, tức mỗi năm tài sản cố định được khấu hao một lượng nhất định và không thay đổi cho đến khi thu hồi hoàn toàn giá trị nguyên của nó.
Chi phí khấu hao là số tiền xác định mức độ hao mòn hàng năm hay từng thời kỳ của tài sản cố định. Tỷ lệ khấu hao cỏ bản ( K ) xác định theo công thức sau:
Ng+ Ctl - Gth
K = ------------------- ´ 100%
Ng´ T
Trong đó:
. K : Tỷ lệ khấu hao tính bằng bằng %
. Ng: Nguyên giá của tài sản cố định.
. Clt: Chi phí thanh lý thaó dỡ ,vv...khi bán thanh lý hoặc khi thải loại tài sản cố định ( dự tính ).
. Gth: Giá trị thu hồi ( dự tính của ) phế liệu hoặc giá trị thải loại của TSCĐ.
. T: Tuổi thọ kinh tế ( số năm tính khấu hao ) của tài sản cố định.
Trên thực tế, các yếu tố Ctl và Gth chỉ là số ước tính, kém chính xác. Do đó công thức này được đơn giản hoá :
1
K =---- ´ 100 %.
T
Trong một năm, tính chi phí khấu hao cho từng nhóm tài sản cố định sau đó cộng dồn lại. Cũng có thể tính chung cho tất cả các tài sản cố định khi xác định được tỷ lệ khấu hao bình quân. Tiền khấu hao một năm tính như sau:
____
T = K ´ NG
Trong đó :
NG: Nguyên giá TSCĐ sử dụng bình quân trong năm.
Tuy nhiên cũng có thể tính toán đơn giản hơn bằng cách sau:
+ Lập riêng các bảng theo dõi tình hình mua sắm, bàn giao đưa vào sử dụng của tài sản cố định, tách riêng bảng theo dõi tình hình thanh lý,ngừng khai thác tài sản cố định.
+ Việc tính toán chi tiết nguyên giá tài sản cố định tăng giảm bình quân cần tuân thủ quy định của cơ quan có thẩm quyền(Bộ tài chính, cơ quan chủ quản ).
+ Cáh tính toán nói trên áp dụng cho các nhóm tài sản cố định khác nhau, sau đó tính tổng chi phí khấu hao của các nhóm đó.Có thể áp dụng tỷ lệ khấu hao bình quân.
- Tỷ lệ khấu hao bình quân.
Thông thường, trong một doanh nghiệp có rất nhiều nhóm tài sản cố định khác nhau. Mức độ hao mòn và tốc độ khấu hao của các tài sản cố định đó thường khác nhau. Nếu tính toán riêng cho từng tài sản cố định hoặc từng nhóm tài sản cố định thì khối lượng tính toán có thể rất lớn. Do vậy trong một số trường hợp như lập kế hoạch khấu hao, dự tính luồng tiền, có thể áp dụng cách tính tỷ lệ khấu hao bình quân ( K ).
__
K = ồ K d
Trong công thức này :
. K: Tỷ lệ khấu hao riêng của một nhóm tài sản cố định.
. d : Tỷ trọng về nguyên giá tài sản cố định
Ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể tính khấu hao bình quân trong đó tách riêng khấu hao cơ bẩn và khấu hao sữa chữa lớn. Tuy nhiên, có thể tính gộp lại thành một tỷ lệ khấu hao bình quân chung và hiện nay hầu như không tính riêng khấu hao sữa chữa lớn.
Phương pháp khấu hao gia tăng:
Dựa trên tỷ lệ khấu hao thông thường (K) , ban quản lý Công ty hoặc phòng tài chính -kế toán có thể xây dưng phương án khấu hao nhanh nhằm đẩy mạnh tốc độ thu hồi vốn và đổi mới công nghệ. Cần tìm ra một hệ số khấu hao phù hợp (H*).Dùng phương pháp này làm tăng tốc độ thu hồi khấu hao cao hơn so với tốc độ hao mòn hữu hình thực tế của tài sản cố định.
Phương pháp khấu hao tổng số:
Phương pháp này có thể hạn chế sự tổn thất vốn cố định do hao mòn vô hình và tương đối dễ tính toán. Nó phù hợp với doanh nghiệp có tỷ lệ chi phí khấu hao trong giá thành nhỏ ( chẳng hạn ở mức 1%-2% trong giá thành ) và phản ánh cách tính toán tiền khấu hao. Số tiền khấu hao mỗi kỳ năm được tính trên giá trị còn lại của tài sản cố định ở đầu kỳ đó ( chứ không tính trên nguyên giá như trong phương pháp khấu hao đều ). Giá trị còn lại của tài sản cố định ( số dư ) giảm dần qua các năm, do đó chi phí khấu hao càng về sau càng giảm.Đôi khi, người ta nâng tỷ lệ khấu hao của các năm cuối lên gấp đôi nhằm rút ngắn thời hạn thu hồi vốn đầu tư. Tuy nhiên phương pháp này được áp dụng rất hạn chế, không phổ biến. Nó chỉ tương đối phù hợp với các nhóm tài sản cố định có tuổi thọ kinh tế khoảng 8- 10 năm và để bán dưới dạng “ second- hand “ khi chưa thu hồi hết khấu hao.
d ) Phương pháp khấu hao theo sản lượng :
Trong một số lĩnh vực kinh doanh ( như vận tải , xây dựng, nông nghiệp vv...) có thể dựa vào sản lượng hay khối lượng hoạt động thực tế của tài sản cố định để xác định chi phí khấu hao. Điều kiện để áp dụng có hiệu quả phương pháp này là:
- Việc xác định, thống kê theo dõi sản lượng tương đối dễ dàng và không tốn kém.
Sự thay đổi mức độ hoạt động của tài sản cố định không gây đột biến lớn trong giá thành bình quân của sản phẩm hay dịch vụ.
Có thể kết hợp theo dõi sản lượng thực tế với mức tiêu hao một số vật tư , nhiên liệu, phụ liệu.
Trước hết, cần biết mức khấu hao trên một đơn vị sản lượng ( m ):
Nguyên giá TSCĐ ( hay giá trị phải thu hồi )
m = ______________________________________
Tổng khối lượng định mức của đồi thiết bị
Trong đó mẫu số là tổng khối lượng mà tài sản cố định ( hay một thiết bị nào đó ) có thể thực hiện trong suốt đời hoạt động của nó.
1.3.2.1 Quản lý quỹ khấu hao:
Ngoài việc quản lý thuần tuý về mặt giá trị, rất cần lưu ý quản lý tài sản cố định về mặt hiện vật nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.Tuỳ theo đặc điểm quy mô và khả năng quản lý, có thể xây dựng chế độ quản lý tài sản cố định một cách thích hợp với điều kiện cụ thể của công ty.Sau đây là một số điểm cơ bản:
Doanh nghiệp cần hoàn thiện hệ thống theo dõi và kiểm soát toàn bộ tài sản cố định. Việc theo dõi tài sản cố định không tốn kém nhưng có khả năng tăng hiệu quả sử dụng các trang thiết bị hiện có.Đơn giản nhất là lập các sổ theo dõi tổng hợp và chi tiết. Sổ tổng hợp phản ánh khái quát tình hình quản lý sử dụng các nhóm tài sản cố định, các chủng loại thiết bị, nhưng chỉ ghi các thông tin cơ bản nhất.
Sổ chi tiết dùng để lưu trữ đầy đủ các thông tin về từng nhóm nhỏ hoặc từng đối tượng thiết bị. Sổ này phải thường xuyên được cập nhật, tức là ghi ngay khi có những thay đổi về tài sản cố định. Các sổ này thường được sử dụng nhằm mục đích quản lý chặt chẽ tài sản cố định trong từng doanh nghiệp nên có thể thiết kế linh hoạt về khuôn mẫu của sổ.
Biện pháp tốt nhất là áp dụng máy tính để theo dõi các sổ nói trên. Các thông tin về tài sản cố định liên tục được cập nhật vào cơ sở dữ liệu trong máy tính, khi cần biết chỉ cần dùng một lẹnh đơn giản để gọi ra màn hình hoặc in ra giấy.
Phân định trách nhiệm.
Các nhóm máy móc thiết bị hoặc các tổ hợp dây truyền thiết bị nên được giao cho từng nhóm hoặc cá nhân quản lý. Phải căn cứ vào quy trình công nghệ, sự sáp xếp ca kíp và cách thức tổ chức phân xưởng để phân định trách nhiệm. Không có mô hình nào chung cho mọi công ty, mọi doanh nghiệp mà chỉ nên áp dụng sự phân cấp hoặc giao trách nhiệm quản lý vận hành sao cho phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp.
Chế độ phân định trách nhiệm nên gắn với chế độ bàn giao, theo dõi và thưởng phạt nhằm khuyến khích mọi người có ý thức tốt hơn trong quản lý tài sản. Nên quy định chế độ báo cáo định kỳ đối với các quản đốc phân xưởng, trưởng ca, tổ trưởng, hoặc kỹ sư phụ trách dây truyền về tình hình sử dụng tài sản cố định của từng bộ phận.
Quản lý tài sản cố định về mặt kỹ thuật.
Quản lý tài sản cố định về mặt kỹ thuật vô cùng quan trọng do vậy phần lớn các thiết bị máy móc, hệ thống dây truyền công nghệ yêu cầu phải bảo đảm nghiêm ngặt về mặt kỹ thuật.Cần lưu ý các điểm sau:
Quy trình kỹ thuật, chế độ vận hành cần dược duy trì nghiêm ngặt với kỷ luật chạt chẽ để hạn chế tổn thất về người và tài sản.
Phải lập lịch trình vận hành và theo dõi cho từng hệ thống , thiết bị, có phân định trách nhiệm rõ ràng.Lịch kiểm tra định kỳ, bảo dưỡng, duy tu máy móc thiết bị là rất cần thiết. Khuyến khích cán bộ công nhân tích cực tham gia giữ gìn máy móc, thông báo ngay các sự cố cho người quản lý để khắc phục kịp thời.
Đối với các loại thiết bị mới, hiện đại nên thực hiện học tập và nghiên cứu để có thể bắt tay ngay vào sử dụng.
1.3.2 Quản lý vốn lưu động :
1.3.2.1 Quản lý dự trữ
Trong việc này quản lý dự trữ nguyên liệu, vật liệu, phụ tùng (gọi chung là vật tư) không phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh thì có thể xảy ra hai trường hợp :
Mức dự trữ quá lớn, dư thừa gây ứ đọng, lãng phí vốn và hiệu quả thấp.
Mức dự trữ quá nhỏ, thiếu vật tư, gây ra tình trạng căng thẳng hoặc thậm trí phải tạm ngừng sản xuất do thiếu nguyên vật liệu.
Rõ ràng, cả hai thái cực nói trên đều không tốt, do đó người ta muốn xác định mức dự trữ thích hợp nhất với công ty trong từng điều kiện cụ thể.
Phương pháp điều chỉnh : đơn giản theo phương pháp này, có thể dựa vào tình hình tiêu hao vật tư của năm trước (hoặc kỳ trước) để ước tính số vật tư cần thiết cho kỳ này. Tỷ lệ điều chỉnh dựa trên một số dữ liệu và thông tin như : Mức độ giảm tiêu hao vật tư, sản lượng dự kiến, giá vật tư vv.. Phương pháp này có tính chất kinh nghiệm nhưng dễ áp dụng tuy nhiên có thể sai số đáng kể. Phương pháp định mức : Đây là phương pháp cũng được sử dụng rộng rãi, trong đó dựa trên các định mức hay các tiêu chuẩn chi phí để xác định số vốn lưu động cần thiết
1.3.2.2 Quản lý tiền mặt :
Quản lý tiền mặt trong công ty là vô cùng quan trọng, tất cả tiền mặt tại quỹ, tiền trên các tài khoản ngân hàng và tiền đang chuyển (kể cả nội tệ và ngoại tệ) đều là thuộc nhóm tài sản bằng tiền. Do vậy cần phải tăng lượng tiền bằng cách đi vay hoặc bổ sung. Việc đi vay để tăng thêm vốn bằng tiền trong những thời điểm nào đó là một việc khá phổ biến. Khi vay tiền, điều cơ bản nhất là tính đến chi phí lãi vay và tính hiệu quả của đồng vốn. Phần này liên hệ với phần lãi xuất và phần giá trị hiện tại của tiền.
1.3.2.3 Quản lý phải thu :
Quản lý việc thu tiền của công ty cho thấy rằng số tiền được phản ánh trên các tài khoản mà công ty đang theo dõi không phải bao giờ cũng bằng số dư có trên tài khoản tại ngân hàng. Vì vậy sẽ đề cập đến nguyên nhân sau :
Tiền nổi
Các công ty kinh doanh rất chú ý đến ảnh hưởng của tiền nổi trong hoạt động thanh toán. Tiền nổi là số chênh lệch giữa số dư tiền tài khoản tại ngân hàng và số dư trên tài khoản của công ty. Tiền nổi phản ánh sự chênh lệch tạm thời (trong một thời gian ngắn) giữa hai hệ thống theo dõi tài chính nói trên. Tuy nhiên, do các nghiệp vụ thanh toán lẫn nhau liên tục làm xuất hiện tiền nổi, nên trị số của tiền nổi có thể trở nên khá lớn. Tiền nổi được tính như sau :
F = Số dư tài khoản tiền gửi tại NH – Số dư tài khoản tiền gửi tại công ty
Tiền nổi do việc thu tiền từ một người khác gây ra được gọi là tiền nổi thu nợ; nếu do việc phát hành séc để chi trả thì gọi là tiền nổi chi ra. Trong cùng một khoảng thời gian công ty có thể đồng thời được lợi nhờ tiền nổi chi ra và vừa bị thiệt thòi do có tiền nổi thu nợ. Số tiền nổi ròng là tổng của tiền nổi chi ra và tiền nổi thu nợ.
Do vậy với một kỹ thuật quản lý chặt chẽ, có thể khai thác triệt để tiền nổi vào mục tiêu đầu tư ngắn hạn và cải thiện hệ số khả năng thanh toán trên tài khoản tại ngân hàng.
b)Thu tiền qua hộp thư (lockbox)
Một công ty có thể sử dụng một mạng lưới hộp thư được một ngân hàng quản lý để giúp công ty thu nợ nhanh hơn. Ngân hàng này sẽ thu nhận các séc từ các hộp thư đó trong vài lần trong một ngày. Sau đó, ngân hàng nhanh chóng chuyển các séc đó vào tài khoản của công ty.
Hệ thống hộp thư rút ngắn thời gian gửi séc và thanh toán vì công ty lựa chọn những địa điểm gần khu vực có nhiều khách hàng để đặt hộp thư. Nếu không có hộp thư, khách hàng sẽ gửi séc và hoá đơn đến thẳng trụ sở hoặc chi nhánh của công ty và như vậy thường chậm hơn nhiều so với hệ thống hộp thư.
Mặc dù công ty phải trả phí dịch vụ cho ngân hàng về việc quản lý hộp thư, nhưng với số tiền lớn, các công ty vẫn có lợi khi sử dụng phương pháp hộp thư (lockbox) để đẩy nhanh quá trình thu tiền.
1.4. hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
1.4.1. Quan điểm về hiệu quả:
Bất._. kỳ hoạt động nào của con người, hoạt động nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng, đều mong muốn đạt được những kết quả hữu ích nào đó. Kết quả đạt được trong kinh doanh mới chỉ đáp ứng được phần nào yêu cầu của cá nhân và xã hội. Tuy nhiên kết quả đó được tạo ở mức nào với giá nào là vấn đề cần được xem xét vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả đó. Mặt khác, nhu cầu của con người bao giờ cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ. Bởi thế, con người cần phải quan tâm đến việc làm sao với khả năng hiện có, có thể làm ra được nhiều sản phẩm nhất. Do đó nảy sinh vấn đề là phải xem xét lựa chọn cách nào để đạt được hiệu quả lớn nhất. Chính vì thế khi đánh giá hoạt động kinh tế người ta thường sử dụng hiệu quả kinh tế cùng với các chỉ tiêu của nó.Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội để đạt được kết quả cao nhất với chi phí nguồn lực thấp nhất. Hiệu quả kinh tế có thể tính theo công thức sau:
Kết quả đầu vào
Hiệu quả kinh tế =
Yếu tố đầu ra
Xuất phát từ những nguyên lý chung như vậy, trong lĩnh vực vốn kinh doanh định ra hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn chính là quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình kinh doanh, hay cụ thể là quan hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh và toàn bộ chi phí của quá trình kinh doanh đó được xác định bằng thước đo tiền tệ. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn không chỉ thể hiện đơn thuần ở kết quả kinh doanh và chi phí kinh doanh, mà còn thể hiện ở nhiều chỉ tiêu liên quan khác.
1.4.2. - Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng VCĐ và VLĐ:
1.4.2.1 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định:
a) Sức sản xuất của TSCĐ:
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại mấy đồng giá trị sản lượng (hay doanh thu thuần).
Sức sản xuất của tài sản cố định
=
Tổng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản lượng)
Nguyên giá bình quân TSCĐ
b) Sức sinh lời của TSCĐ
Chỉ tiêu sức sinh lời của TSCĐ cho biết một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp.
Sức sinh lợi của tài sản cố định
=
Lợi nhuận thuần (hay lãi gộp)
Nguyên giá bình quân TSCĐ
c) Suất hao phí tài sản cố định:
Chỉ tiêu này cho thấy để có một đồng doanh thu thuần hoặc lợi nhuận thuần cần có bao nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ
Suất hao phí tài sản cố định
=
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Giá trị tổng sản lượng (hay doanh thu thuần, lợi nhuận thuần)
d) Hiệu quả sử dụng vốn cố định:
Hiệu quả sử dụng vốn cố định
=
Giá trị tổng sản lượng (hay DT thuần, lợi nhuận)
Số vốn cố định
1.4.2.2 - Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
a) Sức sản xuất của vốn lưu động:
Sức sản xuất của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động đem lại mấy đồng doanh thu thuần (giá trị tổng sản lượng)
Sức sản xuất của vốn lưu động
=
Tổng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản lượng)
Vốn lưu động bình quân
b) Sức sinh lời của vốn lưu động
Sức sinh lời của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp trong kỳ.
Sức sinh lời của vốn lưu động
=
Lợi nhuận thuần (hay lãi gộp)
Vốn lưu động bình quân
c) Số vòng quay của vốn lưu động (hệ số luân chuyển)
Số vòng quay của vốn lưu động
=
Tổng doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược lại.
d) Thời gian của một vòng luân chyyển
Thời gian một vòng luân chuyển
=
Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ
Chỉ tiêu này cho chúng ta biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn.
e) Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động:
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
=
Vốn lưu động bình quân
Tổng doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu vốn lưu động bình quân.
Trong khi phân tích để tìm ra một kết luận về tính hiệu quả hay không hiệu quả, cần tính ra các chỉ tiêu trên rồi so sánh giữa kỳ phân tích với kỳ gốc. Khi tính các chỉ tiêu cần chú ý các nhân tố sau:
+ Tổng doanh thu thuần = Tổng doanh thu bán hàng trong kỳ - (Thuế VAT hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu+ chiết khấu hàng bán + giảm giá hàng bán + doanh thu hàng đã bán bị trả lại).
+ Thời gian của kỳ phân tích: Quy định một tháng là 30 ngày, một quý là 90 ngày và một năm là 360 ngày.
Tổng vốn lưu động 4 quý
+ Vốn lưu động bình quân =
4
V1/2 + V2 + V3 ... + Vn/2
Hoặc =
n-1
Với V1, V2, V3... là vốn lưu động hiện có vào đầu các tháng,
n là số thứ tự các tháng.
1.4.2.3- Phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán:
a) Phân tích tình hình thanh toán:
Như chúng ta đã biết, các giao dịch kinh tế tài chính trong kinh doanh ở mọi doanh nghiệp thường xuyên phát sinh các khoản phải thu, phải trả và cần một thời gian nhất định mới thanh toán được. Các quan hệ nợ nần lẫn nhau giữa các doanh nghiệp về các khoản tiền mua bán hàng, giữa các doanh nghiệp với ngân sách về các khoản phải nộp thuế theo luật định, giữa doanh nghiệp với người lao động về tiền lương... là các quan hệ tất yếu khách quan. Tuy nhiên, trong kinh doanh các doanh nghiệp phải ngăn ngừa và giảm tối đa các khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn vẫn chưa trả được hoặc chưa đòi được. Bởi vì, sự chiếm dụng vốn quá hạn của khách hàng, một mặt gây khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, mặt khác do thiếu vốn, thiếu tiền mặt để thanh toán các khoản phải trả, doanh nghiệp sẽ phải đi vay, chịu lãi suất tín dụng, điều đó làm giảm tỉ suất lợi nhuận, làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. Chính vì vậy, phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp trở lên tối cần thiết nhằm xem xét mức biến động của các khoản phải thu, phải trả, tìm ra nguyên nhân của các khoản nợ đến hạn chưa đòi được hoặc nguyên nhân của việc tăng các khỏan nợ đến hạn chưa trả được.
b. Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp :Khả năng thanh toán phản ánh tình trạng tài chính tốt hay xấu của doanh nghiệp và có ảnh hưởng đến tình hình thanh toán. Khả năng thanh toán xác định như sau:
Số tiền có thể dùng để thanh toán
K =
Các khoản nợ phải trả
Trong đó: - K là hệ số khả năng thanh toán
- Số tiền có thể dùng thanh toán bao gồm toàn bộ số vốn bằng tiền và những tài sản có thể chuyển hoá thành tiền một cách nhanh chóng.
- Các khoản nợ phải trả gồm phải trả người bán, người mua, nộp ngân sách trả cho cán bộ CNV, vay ngắn hạn ngân hàng, phải trả khác.
Khi đã có được kết quả hệ số thanh toán.
- Nếu K ³ 1, chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán và tình trạng tài chính của doanh nghiệp bình thường hoặc tốt.
- Nếu K < 1, chứng tỏ doanh nghiệp không có khả năng thanh toán công nợ và tình trạng tài chính ở mức không bình thường hoặc xấu.
1.4.2.4 - Mức độ bảo toàn và phát triển vốn:
Chỉ tiêu mức độ bảo toàn vốn sử dụng trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, giá cả biến động lớn nhằm quy định trách nhiệm của doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp phải quan tâm đến việc phản ánh đúng giá trị các loại vốn sản xuất kinh doanh , tính đúng, tính đủ các chi phí vào giá thành sản phẩm để bảo toàn được vốn.
Khi phân tích chỉ tiêu này cần so sánh giữa số vốn phải bảo toàn, đến cuối năm và số vốn thực tế bảo toàn được trong năm để xác định mức độ bảo toàn vốn của doanh nghiệp là bảo toàn cao hơn hay chưa bảo toàn đủ. Khi bảo toàn được cao hơn có nghĩa doanh nghiệp đã có thành tích trong quản lý và sử dụng vốn. Với kết quả khả quan này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có vốn để dùng vào sản xuất kinh doanh, phát triển được vốn. Ngược lại, chưa bảo toàn đủ so với số vốn phải bảo toàn phản ánh sự yếu kém của doanh nghiệp trong việc quản lý, sử dụng vốn.
1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng:
1.4.3.1- Chu kì sản xuất:
Đây là một đặc điểm quan trọng gắn trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn. Nếu chu kì ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái tạo, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kì dài doanh nghiệp sẽ có một gánh nặng là ứ đọng vốn và trả lãi các khoản vay hay các khoản phải trả.
1.4.3.2 - Kĩ thuật sản xuất:
Các đặc điểm riêng có về kĩ thuật tác động liên tục với một số chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định như hệ số đổi máy móc thiết bị, hệ số sử dụng về thời gian, công suất.
Nếu kĩ thuật sản xuất đơn giản, doanh nghiệp dễ có điều kiện, máy móc, thiết bị nhưng lại phải luôn đối phó với các đối thủ cạnh tranh và với yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm. Do vậy, doanh nghiệp dễ dàng tăng doanh thu, lợi nhuận trên VCĐ nhưng khó giữ được chỉ tiêu này lâu dài. Nếu kĩ thuật sản xuất phức tạp, trình độ trang bị máy móc thiết bị cao, doanh nghiệp có lợi thế trong cạnh tranh, song đòi hỏi tay nghề công nhân, chất lượng nguyên vật liệu cao sẽ làm giảm lợi nhuận vốn cố định.
1.4.3.3 - Đặc điểm về sản xuất:
Sản phẩm của doanh nghiệp là nơi chứa đựng chi phí và cũng chứa đựng doanh thu cho doanh nghiệp, qua đó quyết định lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng, nhất là sản phẩm công nghiệp nhẹ như rượu bia... thì sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh và qua đó giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa những máy móc dùng để sản xuất ra những sản phẩm này có giá trị thấp, do vậy dễ có điều kiện đổi mới. Ngược lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài, có giá trị lớn, được sản xuất trên dây chuyền có giá trị lớn như máy thu hình, ôtô, xe máy... sẽ là tác nhân hạn chế doanh thu.
1.4.3.4. - Tác động của thị trường:
Tuỳ theo mỗi loại thị trường mà doanh nghiệp tham gia sẽ tác động đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh theo những khía cạnh khác nhau. Nếu thị trường đó là cạnh tranh tự do, những sản phẩm của doanh nghiệp đã có uy tín lâu đối với người tiêu dùng thì sẽ là tác nhân tích cực thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng thị trường. Đối với thị trường sản phẩm không ổn định (theo màu, theo thời điểm, thị hiếu) thì hiệu quả sử dụng vốn cũng không ổn định qua việc doanh thu biến động lớn qua các thời điểm này.
1.4.3.5 - Trình độ tổ chức quản lí, tổ chức sản xuất, hạch toán nội bộ doanh nghiệp:
Để có hiệu quả cao thì bộ máy tổ chức quản lí, tổ chức sản xuất phải gọn nhẹ, trùng khớp nhịp nhàng với nhau, với mỗi phương thức sản xuất và loại hình sản xuất sẽ có những tác động khác nhau tới tiến độ sản xuất, phương pháp và quy định vận hành máy móc, số ca, số tổ sản xuất , số bộ phận phục vụ sản xuất ...
Mặt khác, đặc điểm của công tác hạch toán, kế toán nội bộ doanh nghiệp (luôn gắn với tính chất của tổ chức sản xuất và quản lí trong cùng doanh nghiệp) có tác động không nhỏ. Công tác kế toán đã dùng những công cụ của mình để đo hiệu quả sử dụng vốn... Kế toán phải có nhiệm vụ phát hiện những tồn tại trong quá trình sử dụng vốn và đề xuất những biện pháp giải quyết.
1.4.3.6 - Trình độ lao động, cơ chế khuyến khích và trách nhiệm vật chất trong doanh nghiệp:
Nếu công nhân trong doanh nghiệp có trình độ cao đủ để thích ứng với trình độ công nghệ dây chuyền sản xuất thì các máy móc trong dây chuyền sẽ được sử dụng tốt hơn và năng suất chất lượng sẽ cao hơn. Song trình độ lao động phải được đặt đúng chỗ, đúng lúc... thì hiệu quả công việc mới cao.
Để sử dụng tiềm năng lao động có hiệu quả cao nhất doanh nghiệp phải có một cơ chế khuyến khích vật chất cũng như trách nhiệm một cách công bằng. Ngược lại, nếu cơ chế khuyến khích không công bằng, quy định trách nhiệm không rõ ràng, dứt khoát sẽ làm cản trở mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.4.3.7 - Các nhân tố khác:
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước tác dụng một phần không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cụ thể hơn, từ cơ chế giao vốn, đánh giá tài sản cố định, thuế vốn, thuế doanh thu... đến chính sách cho vay bảo hộ và khuyến khích một số loại công nghệ nhất định đều có thể làm tăng, giảm hiệu quả sử dụng TSCĐ, TSLĐ của doanh nghiệp.
Mặt khác, cơ chế chính sách cũng tác động đến kế hoạch mua sắm nguyên vật liệu của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp được hưởng nguồn nguyên vật liệu, chọn được người cung cấp tốt nhất. Doanh nghiệp phải kết hợp được yêu cầu của chính sách này với yêu cầu của thị trường. Từ đó tác động tới hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.5. Các giải pháp nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Các giải pháp nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thường là các công cụ quản lý, các phương pháp, biện pháp tập trung vào các lĩnh vực như nguồn vốn hiện có, các tiềm năng về kỹ thuật , công nghệ, lao động và các lợi thế khác của doanh nghiệp nhằm sử dụng một cách tiết kiệm nhất các nguồn tiềm năng đó mà đem lại được hiệu quả kinh tế cao nhất. Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu.
1.5.1. Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm
Nền tảng căn bản cho sự tồn tại của doanh nghiệp, sự cạnh tranh với doanh nghiệp khác, cho sử dụng vốn có hiệu quả là doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra sản phẩm và được người tiêu thụ chấp nhận sản phẩm đó. Do vậy hoàn toàn bình thường khi thấy rằng bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến việc sản xuất cái gì, bao nhiêu , tiêu thụ ở đâu, với giá nào để huy động được mọi nguồn lực vào hoạt động, có được nhiều thu nhập. Khẳng định như thế có nghĩa là việc lựa chọn phương án kinh doanh như thế nào, phương án sản phẩm ra sao sẽ có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả kinh doanh nói chung cũng như việc quản lý và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng.
Biết được vai trò quan trọng như vậy thì phương án kinh doanh, phương án sản phẩm phải được xây dựng như thế nào? Đáp số của bài toán đã chỉ rõ sản phẩm làm ra phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường , được thị trường chấp nhận. Do vậy các phương án kinh doanh , phương án sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn, suy cho cùng, phải thể hiện được ý chí đó. Nói cách khác, doanh nghiệp phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường để quyết định quy mô, chủng loại, mẫu mã, chất lượng và giá bán sản phẩm . Làm tốt được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu biết và vận dụng tốt phương pháp Marketing.
Sự phân tích trên chỉ ra cho chúng ta ý nghĩa rằng không chỉ lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm tốt (với tư cách là biểu hiện của marketing) đem lại hiệu quả trong quản lý và sử dụng vốn mà sự tác động ngược trở lại cũng trở lên có ý nghĩa.
1.5.2. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn lực:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh , bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần huy động những nguồn vốn bổ sung nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường, đồng thời đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô hay đầu tư chiều sâu. Như đã biết, các nguồn huy động thì có rất nhiều, việc lựa chọn nguồn vốn nào rất quan trọng và phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế . Nếu nhu cầu đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng thì trước hết cần huy động nguồn vốn tự bổ sung từ lợi nhuận để lại, từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất , phần còn lại có thể vay tín dụng, vay ngân hàng thu hút vốn liên doanh, liên kết... Nếu nhu cầu bổ sung vốn lưu động thì trước hết doanh nghiệp cần sử dụng linh hoạt các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các quỹ trích lập theo quy định (NĐ 59 và TT70) nhưng chưa sử dụng, lợi nhuận chưa phân phối, các khoản phải trả nhưng chưa đến hạn trả, phần còn lại có thể vay ngân hàng hoặc các đối tượng khác. Việc đi vay đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự cân nhắc, lựa chọn và đặc biệt là có một quan điểm rõ ràng trong chính sách nguồn tài trợ của doanh nghiệp, bởi vì việc phải chịu lãi từ các khoản vay có thể gây trở ngại cho phát huy hiệu quả đồng vốn. Ngược lại, đối với doanh nghiệp thừa vốn thì tuỳ từng điều kiện cụ thể để lựa chọn khả năng sử dụng. Nếu đưa đi liên doanh, liên kết hoặc cho vay thì cận phải thận trọng, thẩm tra kỹ các dự án liên doanh, kiểm tra tư cách khách hàng nhằm đảm bảo liên doanh có hiệu quả kinh tế, cho vay không bị chiếm dụng vốn do quá hạn chưa trả hoặc mất vốn do khách hàng không có khả năng thanh toán,
1.5.3. Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh .
Nhu cầu thị trường tồn tại khách quan, luôn luôn biến động và phát triển Xét một cách toàn diện, quy mô, trình độ của quá trình sản xuất là do thị trường quy định. Để đáp ứng được những yêu cầu khách quan của thị trường , một mặt đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho nội trình đó được tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu dự trữ, sản xuất, tiêu thụ, đảm bảo sự phối hợp ăn khớp, chặt chẽ giữa các bộ phận, đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp; mặt khác cũng đòi hỏi doanh nghiệp đảm bảo các yếu tố mang tính tĩnh đó vận động phù hợp với sự biến động, phát triển liên tục của thị trường. Kết quả tốt của việc điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh là hạn chế tối đa tình trạng ngừng làm việc của máy móc, thiết bị, ứ đọng vật tư dự trữ, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được do chất lượng không đảm bảo, gây lãng phí, làm giảm tốc độ chu chuyển của vốn . Để đạt được các mục tiêu trên, các doanh nghiệp phải tăng cường quản lý từng yếu tố của quá trình sản xuất .
Đối với quản lý TSCĐ, vốn cố định: đòi hỏi doanh nghiệp phải có một hệ thống các biện pháp. Một là phải bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý , khai thác hết công suất thiết kế và nâng cao hiệu suất công tác của máy móc, thiết bị, sử dụng triệt để diện tích sản xuất, giảm chi phí khấu hao trong giá thành phẩm. Hai là , xử lý dứt điểm những TSCĐ không cần dùng, hư hỏng chờ thanh lý nhằm thu hồi vốn cố định chưa sử dụng vào luân chuyển, bổ sung thêm vốn cho sản xuất kinh doanh . Ba là quy định rõ trách nhiệm vật chất, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong quản lý, sử dụng, bảo dưỡng, sửa chữa TSCĐ. Bốn là có sự quan tâm thường xuyên đến bảo toàn vốn cố định.
Đối với quản lý TSCĐ, vốn lưu động thì nguyên tắc chung là phải sử dụng tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Để quán triệt nguyên lý đó doanh nghiệp nên tăng cường các biện pháp quản lý. Một là xác định đúng nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho từng kỳ sản xuất, kinh doanh nhằm huy động hợp lý các nguồn vốn bổ sung. Hai là tổ chức tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư nhằm đảm bảo hạ giá thành thu mua vật tư, hạn chế tình trạng ứ đọng vật tư dự trữ, dẫn đến kém hoặc mất phẩm chất vật tư, gây ứ đọng vốn lưu động. Ba là quản lý chặt chẽ việc tiêu dùng vật tư theo định mức nhằm giảm chi phí nguyên, nhiên, vật liệu trong giá thành sản phẩm. Bốn là tổ chức hợp lý quá trình lao động, tăng cường kỷ luật sản xuất và các quy trình về kiểm tra, nghiệm thu số lượng, chất lượng sản phẩm nhằm hạn chế đến mức tối đa sản phẩm xấu, sai quy cách bằng các hình thức kích thích vật chất thông qua tiền lương, thưởng , kích thích tinh thần. Năm là tổ chức đa dạng các hình thức tiêu thụ sản phẩm nhằm tiêu thụ nhanh, số lượng nhiều. Sáu là xây dựng quan hệ bạn hàng tốt với các khách hàng nhằm củng cố uy tín trên thương trường, chú ý đến thanh toán, tránh giảm các khoản nợ đến hạn. Bảy là tiết kiệm các yếu tố chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lưu thông nhằm góp phần giảm chi phí sản xuất tăng lợi nhuận.
1.5.4. Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh
Mặc dù tính ưu việt của sản phẩm phần nào bị xoá nhoà bởi sự bùng nổ của khoa học, công nghệ. Nhưng ở một nơi nào đấy, với tiến bộ khoa học kỹ thuật ở một giai đoạn nào đó, doanh nghiệp vẫn có thể phát huy được những lợi thế về sản phẩm đưa lại. Kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại nói chung là điều kiện vật chất để doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm mới, hợp thị hiếu, chất lượng cao, đồng thời có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm , giảm tiêu hao nguyên vật liệu hoặc sử dụng loại vật tư thay thế nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm vật tư , hạ giá thành sản phẩm . Chính vì vậy, trong điều kiện công nghệ ở đa số các doanh nghiệp của nước ta hiện nay rất lạc hậu, các doanh nghiệp cần mạnh dạn đầu tư đổi mới TSCĐ cũ, lạc hậu bằng TSCĐ mới, hiện đại, thay đổi công nghệ sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cả về chất lượng, kiểu dáng và giá bán. Đạt được quá trình này có thể làm cho tỉ trọng vốn cố định trên tổng vốn sản xuất kinh doanh tăng lên, tổng chi phí khấu hao cũng như chi phí về khấu hao TSCĐ trong giá thành đơn vị sản phẩm tăng lên, nhưng đồng thời các chi phí khác về vật liệu, lương công nhân sản xuất... giảm đáng kể. Kết quả cuối cùng là sản xuất và tiêu thụ được nhiều sản phẩm chất lượng cao, tăng lợi nhuận thu được và tăng hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh .
1.5.5. Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động kinh tế
Qua số liệu kế toán như các báo tài chính, bảng tổng kết tài sản, kết quả kinh doanh , chi phí sản xuất theo yếu tố, bản giải trình về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh... doanh nghiệp có thể thường xuyên nắm được số vốn hiện có cả về mặt giá trị và hiện vật, nguồn hình thành và các biến động tăng giảm trong kỳ, mức độ bảo đảm vốn lưu động, tình hình và khả năng thanh toán,... nhờ đó doanh nghiệp nắm chắc tình hình tài chính. Tuy nhiên số liệu kế toán, tự nó chưa thể chỉ ra những biện pháp cần thiết để tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, mà đòi hỏi phải thực hiện phân tích hoạt động kinh tế , trong đó chú ý đến phân tích tình hình tài chính và hiệu quả sử dụng vốn. Thông qua phân tích, đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, tìm ra nguyên nhân yếu kém để có biện pháp khắc phục, thành tích để có biện pháp phát huy.
Tóm lại, các giải pháp tập trung đi sâu vào một số yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quản lý và hiệu quả sử dụng vốn. Hơn thế nữa, hệ thống kinh doanh là một hệ thống biến đổi, do vậy để các giải pháp phát huy ưu thế của mình cần phải có kế hoạch cụ thể, tiến hành thường xuyên và có hệ thống.
Chương II
Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn
ở xí nghiệp vận tải biển vinafco
I. Quá trình hình thành và phát triển của xí nghiệp vận tải biển vinafco.
1.1. Lịch sử hình thành
Xí Nghiệp Vận Tải Biển là đơn vị thành viên trực thuộc Công ty Cổ phần Vinafco là doanh nghiệp được thành lập theo quyết định số 2125/TCCB – LĐ ngày 13/8/1999 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
1.2.Nhiệm vụ khi thành lập
a) Liên doanh liên kết trên cơ sở hợp đồng kinh tế với các tổ chức vận tải, các chủ hàng, các ga cảng các tổ chức dịch vụ giao nhận kho, bãi...của Trung ương và địa phương để thực hiện liên hiệp vận chuyển hàng hoá từ kho hàng Trung ương đến kho hàng cơ sở và chiều ngược lại.
b) Nhận uỷ thác của chủ hàng và chủ phương tiện tổ chức thực hiện
các dịch vụ vận tải, dịch vụ hàng hoá, hàng Bắc-Nam, hàng nặng, thiết bị toàn bộ, dịch vụ giao nhận xếp dỡ, đóng gói, bảo quản và bãi gửi hàng trong quá trình tiếp nhận, vận tải.
*Cuối năm 2000 thành lập Xí nghiệp Dịch vụ Container và vận tải biển nay là Xí Nghiệp Vận Tải Biển để quản lý, khai thác đội tàu Container.
Xí Nghiệp Vận Tải Biển là đơn vị thành viên trực thuộc Công ty Cổ phần Dịch vụ Vận Tải Trung Ương, nhiệm vụ chủ yếu của Xí nghiệp là tổ chức kinh doanh dịch vụ vận tải giữa hai đầu cảng đi và cảng đến.Do vậy, tất cả các bộ phận trong Xí nghiệp hoạt động như một dây chuyền thống nhất liên tục.Mỗi phòng ban đại diện là một mắt xích không thể tách rời. Vì vậy việc xây dựng chức năng nhiệm vụ của các bộ phận cũng mang tính thống nhất, không thể tách rời.
Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của Xí nghiệp được Bộ Giao thông Vận tải phê duyệt theo Quyết định số 3757/2000/QĐ/ Bộ GTVT ngày 07/12/2000.
Căn cứ số 40/QĐ/ TCCB-LĐ ngày 17/02/2001 của Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Dịch Vụ Vận tải Trung Ương về việc thành lập và quy định chức năng nhiệm vụ cho Xí nghiệp Vận tải Biển.
Căn cứ vào yêu
cầu sản xuất thực tế của Xí nghiệp.
1.3. Cơ cấu tổ chức của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
Xí nghiệp vận tải biển Vinafco bao gồm các phòng sau:
+ Phòng giám đốc và phó giám đốc
+ Phòng tổ chức hành chính
+ Phòng Tài chính- Kế toán
+ Phòng Quản lý tàu
+ Phòng Kế hoạch khai thác
+ Phòng Tổ chức vận tải
- Mô hình tổ chức của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
đại diện sài gòn
Đại diện hải phòng
Giám đốc
Tổ chức vận tải
Kế hoạch tổng hợp
Nhân chính
Kế toán
Khai Thác
Phó Giám đốc
1.3.1. Giám đốc và phó giám đốc: Giám đốc là người đại diện pháp nhân của Xí nghiệp và là người có quyền điều hành cao nhất trong Xí nghiệp. Giám đốc chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước Tổng giám đốc công ty và trước pháp luật về công tác điều hành hoạt động Xí nghiệp. Phó giám đốc là người giúp giám đốc điều hành một số lĩnh vực hoạt động theo sự phân công của giám đốc và chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được giao.
Chức năng nhiệm vụ của phòng nhân chính:
Tham mưu cho Giám đốc trên các mặt hoạt động về công tác tổ chức cán bộ, lao động tiền lương, hành chính quản trị trong phạm vi toàn Xí nghiệp.
Xây dựng mô hình tổ chức quản lý của Xí nghiệp phù hợp với điều kiện thực tế trước mắt và tương lai, trình Giám đốc duyệt
Tham mưu và dự thảo các quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ .
Xây dựng các các quy chế, các quy định liên quan đến công tác nhân chính, hành chính của Xí nghiệp.
Có kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm nghiệp vụ phù hợp với ngành nghề đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài cho Xí nghiệp.
Theo dõi chế độ BHXH, BHYT, BHYT.
Xây dựng phương án phân phối tiền lương, tiền thưởng công bằng hợp lý
Giải quyết các công việc của hành chính quản trị :Mua sắm các thiết bị văn phòng, quản lý điều động xe con.
1.3.3.Chức năng nhiệm vụ của phòng quản lý tàu :
Trực tiếp tham mưu và thực hiện việc quản lý tàu, khai thác đội tàu với hiệu quả cao nhất, đáp ứng đầy đủ kế hoạch SXKD của Xí nghiệp đề ra.
Xây dựng lịch chạy tàu ( thời gian và số chuyến ) hàng tháng, quý, năm với hiệu quả cao
Tổ chức quản lý theo dõi, điều hành mọi hoạt động của tàu theo đúng lịch trình.
Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện việc quản lý khai thác tàu, sửa chữa thường xuyên, bảo dưỡng định kỳ đảm bảo chất lượng .
Theo dõi, quản lý đầy đủ các thủ tục hồ sơ, giấy phép hoạt động của tàu.Tổ chức quản lý và điều hành các hoạt động của thuyền viên trên tàu theo quy định của Luật Hàng Hải.
1.3.4.Chức năng và nhiệm vụ của phòng kế hoạch tổng hợp:
Tham mưu cho Giám đốc Xí nghiệp trong việc xây dựng kế hoạch chuyến, tháng, quý,năm và kế hoạch đầu tư dài hạn.Tổng hợp tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh trên phạm vi toàn Xí nghiệp .
Tập hợp kế hoạch báo cáo của các Bộ phận để theo dõi và tham mưu cho Giám đốc trong việc quyết định khối lượng hàng hoá chuyên chở cho từng chuyến tàu.
1.3.5. Chức năng nhiệm vụ phòng khai thác vận tải:
Trực tiếp khai thác hàng hoá vận chuyển cho tàuđem lại doanh thu cao nhất
Tham mưu cho lãnh đạo Xí nghiệp về chiến lược thị trường và xây dựng các kế hoạch khai thác hàng theo hàng quý, năm.
Chủ động khai thác hàng hoá từ khâu tìm kiếm đối tác cho đến khi giành được hàng hoá.
Đánh giá kết quả hoạt động tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh và thu thập thông tin, nghiên cứu giá cả.
Chăm sóc khách hàng thường xuyên trước và sau khi bán sản phẩm dịch vụ vận chuyển
Tổng hợp và cung cấp số liệu thực hiện cho phòng tài chính kế toán làm cơ sở thu nợ khách hàng và cùng lãnh đạo Xí nghiệp có biện pháp thu nợ hữu hiệu nhất.
1.3.6. Chức năng và nhiệm vụ của phòng tổ chức vận tải:
Tham mưu và tổ chức thực hiện các công việc liên quan đến hoạt động vận tải và giao nhận trên phạm vi toàn Xí nghiệp.
Tham gia quản lý và điều hành các hoạt động vĩ mô liên quan đến công tác vận tải và giao nhận.
Lên phương án và tham mưu cho Giám đốc Xí nghiệp trong việc lựa chọn và ký hợp đồng các đơn vị vận chuyển, xếp dỡ, cảng, bãi tại hai khu vực Nam Bắc.
Trực tiếp tổ chức thực hiện các nghiệp vụ giao nhận, kiểm đếm hàng hoá ở khu vực phía Bắc.
Chịu trách nhiệm quản lý báo cáo Giám đốc Xí nghiệp hoạt động của Phòng và các công việc tới mảng điều hành vận tải,giao nhận toàn Xí nghiệp.
1.3.7. Phòng Tài chính kế toán
* Ngành nghề kinh doanh:
Nhiệm vụ chủ yếu của Xí nghiệp là tổ chức kinh doanh dịch vụ vận tải giữa hai đầu cảng đi và cảng đến.
Nhận uỷ thác của chủ hàng và chủ phương tiện tổ chức thực hiện các
dịch vụ vận tải, dịch vụ hàng hoá, hàng Bắc- Nam, hàng nặng, thiết bị toàn bộ, dịch vụ giao nhận xếp dỡ, đóng gói, bảo quản và bãi gửi hàng trong quá trình tiếp nhận, vận tải.
Kinh doanh các mặt hàng từ kho đến kho, từ kho đến cảng hoặc từ cảng đến cảng với phương tiện vận chuyển chủ yếu là đường biển, đường bộ và đường sắt. Kết hợp dịch vụ vận chuyển giữa hai đầu Nam- Bắc , kinh doanh hàng hoá
Trụ sở của Xí nghiệp Vận Tải Biển Vinafco đặt tại 33C- Cát Linh -Đống Đa- Hà Nội.
Toàn bộ cán bộ công nhân viên của Xí nghiệp là 85 người , 95% là tốt nghiệp Đại học.
+ Văn phòng Xí nghiệp 42 người
+ Đại diện Hải phòng 12 người
+ Đại diện Sài Gòn 18 người
+ Nhân viên trên tàu 13 người.
1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco.
1.4.1. Những thuận lợi và khó khăn của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco.
a) Những thuận lợi :
- Việt Nam là một trong số ít nước được thiên nhiên ưu đãi để trở thành một quốc gia kinh tế phát triển . Vị trí địa lý của Việt Nam và chính sách mở cửa hiện nay của Đảng và nhà nước ta là những yếu tố rất thuận lợi cho việc xây dựng một ngành công nghiệp đường biển với chức năng không chỉ phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế , xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của chính mình mà còn tham gia cung cấp dịch vụ cho hoạt động đường biển. Ngành đường biển Việt Nam đã tích luỹ được một số cơ sở vật chất , phương tiện, lao động kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh ban đầu, rất có giá trị để bước vào một giai đoạn phát triển mới theo hướng "chuyên dùng hoá - hiện đại
b. Những khó khăn chủ yếu:
Ngành đường biển là một ngành kinh tế đặc thù, sản phẩm chủ yếu là dịch vụ , phụ thuộc nhiều vào biến động của thị trường cũng như các rủi ro thiên nhiên. Mặt khác, cơ sở vật chất kỹ thuật luôn đòi hỏi nhu cầu đầu tư vốn khá lớn nhưng thời hạn thu hồi vốn thường kéo dài hơn so với nhiều ngành kinh doanh dịch vụ khác. Hiện nay, hai lĩnh vực hoạt động kinh doanh quan trọng nhất là vận tải đường biển và lạc hậu về công nghệ và rất thiếu vốn đầu tư cải tạo, nâng cấp đổi mới trang thiết bị để đáp ứng kịp thời các đòi hỏi ngày càng cao của thị trường.
- Về dịch vụ: Xu thế chung của các doanh nghiệp lớn là tổ chức kinh doanh trọn gói, nghĩa là tổ chức riê._.iển Vinafco chú ý trong công tác bảo toàn vốn lưu động của mình, thể hiện trên biểu sau.
Biểu : Tình hình bảo toàn vốn lưu động của xí nghiệp .
Đơn vị: 1.000.000 VNĐ
Chỉ tiêu
Tổng số
Trong đó
NSNN cấp
Bổ sung
- Số vốn lưu động phải bảo toàn năm 2000
854.421
68.786
785.635
- Số vốn lưu động phải bảo toàn năm 2001
903.418
71.623
831.795
- Chênh lệch
48.997
2.837
46.160
Thông qua hệ số quy đổi và cách tính số vốn phải bảo toàn đầu kỳ và số vốn phải bảo toàn cuối kỳ, thực tế cách xác định của xí nghiệp theo biến động tại thời điểm năm 2001 tình hình bảo toàn VLĐ của xí nghiệp phản ánh ở biểu trên. Mặc dù số thực tế đã bảo toàn tăng hơn so với số phải bảo toàn đầu năm. Trong kết quả không bảo toàn được này có cả về phía NSNN và nguồn tự bổ sung, trong đó chủ yếu là nguồn tự bổ sung chiếm tới hơn 68%.
2.4. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
2.4.1.Tình hình sử dụng vốn ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
qua một số chỉ tiêu cơ bản.
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của xí nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Do vậy để đạt tới lợi nhuận tối đa thì xí nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trong đó quản lý và sử dụng vốn là bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả kinh doanh , đặc biệt khi mà xí nghiệp đã được trao quyền chủ động trong việc sử dụng vốn, trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Muốn vậy thì hoàn toàn thường xuyên, xí nghiệp phải luôn tự đánh giá mình về phương diện sử dụng vốn, để qua đó thấy được chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh, khả năng khai thác các tiềm năng sẵn có, biết được mình
không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trong đó quản lý và sử dụng vốn là bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả kinh doanh , đặc biệt khi mà xí nghiệp đã được trao quyền chủ động trong việc sử dụng vốn, trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Muốn vậy thì hoàn toàn thường xuyên, xí nghiệp phải luôn tự đánh giá mình về phương diện sử dụng vốn, để qua đó thấy được chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh, khả năng khai thác các tiềm năng sẵn có, biết được mình đang ở cung đoạn nào trong quá trình phát triển , đang ở vị thế cạnh tranh như thế nào với các doanh nghiệp khác... nhằm có biện pháp tăng cường quản lý, sử dụng tiết kiệm các yếu tố sản xuất để đạt hiệu quả cao hơn. Trên cơ sở kết quả kinh doanh của xí nghiệp trong 2 năm trở lại đây sẽ cho ta thấy một số vấn đề:
a) Cơ cấu vốn
1.377.158
Năm 2000 - Tỉ trọng vốn cố định = ------------------ = 61,7%
2.231.579
- Tỉ trọng vốn lưu động = 100% - 61,7% = 38,3%
1.512.920
Năm 2001 - Tỉ trọng vốn cố định = ------------------ = 62,6%
2.416.338
- Tỉ trọng vốn lưu động = 100% - 62,6% = 37,4 %
Mặc dù trị số tuyệt đối của vốn cố định tăng liên tục trong 2năm qua nhưng tỉ trọng vốn lưu động trong tổng số vốn lại có xu hướng giảm xuống bởi tổng số vốn tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng của vốn lưu động cồn vốn cố định thì ngược lại. Tới năm 2001 thì cứ đầu tư 1 đồng vào vốn của xí nghiệp thì phải đầu tư 0,626 đồng vốn cố định còn vốn lưu động chiếm 0,374đồng. Tỉ trọng vốn cố định luôn gấp khoảng trên 2lần tỉ trọng vốn lưu động cũng là thể hiện đặc thù của ngành kinh tế Đường biển sản phẩm dịch vụ là chủ yếu.
b) Vòng quay toàn bộ vốn
6.375.921
Năm 2000 - Vòng quay toàn bộ vốn = --------------- = 2,9 (vòng)
2.231.579
8.268.590
Năm 2001 - Vòng quay toàn bộ vốn = --------------- = 3,4 (vòng)
2.416.338
Như vậy vòng quay toàn bộ vốn luôn tăng qua các năm. Năm 2000 Xí nghiệp bỏ ra một đồng vốn thì thu được 2,98 đồng doanh thu, năm 2001 là 3,4 đồng doanh thu. Vòng quay vốn tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp khá tốt nhưng năm 2001.
Vì vậy, qua việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động ta thấy Xí nghiệp vận tải biển Vinafco đã có kết quả tương đối tốt trong 2 năm trở lại đây, thể hiện ở các chỉ tiêu đánh giá luôn tăng. Tuy nhiên kết quả này sẽ trở lên không mấy thuyết phục khi số vốn lưu động của chưa bảo toàn được. Như vậy về thực chất nếu tính theo số vốn lưu động được bảo toàn thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ giảm xuống.
2.4.2.Đánh giá chung công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco.
2.4.2.1.Kết quả hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp vận tải biển Vinafcotrong quản lý và sử dụng vốn.
Với chủ trương thành lập doanh nghiệp kinh doanh của Nhà nước, ngày 31/10/2000 Xí nghiệp vận tải biển Vinafco đã chính thức đi vào hoạt động. Sau 2 năm hoạt động, xí nghiệp đã gặt hái được những thành công có ý nghĩa.
Trong thời gian qua, trên cơ sở phân tích, đánh giá, nhận định một cách khoa học, thực tế đã roi sáng cho Xí nghiệp vận tải biển Vinafco tập trung vào xây dựng và phát triển nhanh chóng đội tàu, khai thác hàng hoá, dịch vụ vận chuyển theo hướng tiến lên hiện đại bằng cách tiếp cận ngay với khoa học, công nghệ và thị trường. Xuất phát từ chiến lược đó, trong 2 năm qua bằng nguồn vốn vay và vốn tự bổ sung, Xí nghiệp vận tải biển Vinafco đã mua tàu chở hàng hoá cỡ lớn, trọng tải hơn 4000 tấn , sức chở hơn 200 Teu với trang thiết bị hiện đại phù hợp tiêu chuẩn, làm thay đổi một bước quan trọng cơ cấu của đội tàu biển Việt Nam. Hơn thế nữa, thực tiễn này còn thể hiện khả năng nắm bắt thời cơ cũng như quyết định đầu tư, xu hướng đầu tư của Xí nghiệp đang đi theo hướng đúng đắn.
Như vậy, tuy khó khăn chồng chất khó khăn trong việc tạo vốn, vay vốn cho phát triển, nhưng với sự năng động, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh, Xí nghiệp vận tải biển Vinafco đã nhanh chóng, kịp thời huy động vốn từ các nguồn khác nhau, đặc biệt đã phát huy nội lực, tự chịu trách nhiệm vay vốn để đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đảm bảo cho sản xuất kinh doanh tiến hành liên tục đều đặn. Trong công tác huy động vốn xí nghiệp đã không quá phụ thuộc vào kế hoạch mà đã có những biện pháp thay đổi cơ cấu vốn giữa các nguồn. Do vậy trong năm qua Xí nghiệp vận tải biển Vinafco đã tạo được một số cơ sở vật chất vừa đáp ứng yêu cầu khai thác hiện tại vừa đón hướng phát triển trong tương lai.
2.4.2.2. Những tồn tại trong quản lý và sử dụng vốn
Bên cạnh những điều đã đạt được thì trong quản lý và sử dụng vốn Xí nghiệp cũng có những tồn tại, thể hiện ở mấy điểm sau:
Một là, do việc sử dụng mua sắm tàu có trọng tải lớn nên dẫn đến việc sử dụng vốn cố định nhiều.
Hai là, trong công tác khấu hao, xí nghiệp áp dụng phương pháp trích khấu hao cơ bản mà không trích khấu hao sửa chữa lớn là một hạn chế bởi vì khi chưa phát sinh khấu hao sửa chữa lớn thì giá thành sản phẩm nhỏ hơn thực tế, khi có phát sinh sửa chữa lớn thì nó sẽ làm giá thành tăng lên một cách giả tạo, không phản ánh đúng tình hình thực tế, do đó cách tính này chưa sát thực.
Ba là, công tác lập kế hoạch vốn lưu động định mức chưa chính xác. Với cách tính của xí nghiệp chỉ mang tính khái quát, cho phép nhanh chóng xác lập kế hoạch để huy động vốn kịp thời. Song thực tế không tính được vốn định mức cho từng khâu, điều này làm cho kế hoạch xác định vốn lưu động sai lệch, không phù hợp với thực tế.
Bốn là, cả trong cơ cấu vốn lưu động và vốn cố định, tỉ lệ vốn chiếm dụng đã giữ tỉ phần tương đối. Điều này làm giảm khả năng tài chính của doanh nghiệp, gây ảnh hưởng đến quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả và kết quả kinh doanh của xí nghiệp.
Năm là, việc bảo toàn vốn ở xí nghiệp chỉ tương đối, chưa cao .Những kết quả này vừa thể hiện ảnh hưởng khách quan của nền kinh tế đến xí nghiệp vừa thể hiện kết quả quản lý và sử dụng vốn cố định cũng như vốn lưu động chưa phát huy hết khả năng, chưa huy động được tổng lực xí nghiệp. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến tính chân thực, đến các kết qủa kinh doanh khác của doanh nghiệp.
Sáu là, trong cơ cấu vốn lưu động thực tế đã ấn định lượng tiền mặt và khoản phải thu chiếm tỉ lệ khá lớn. Kết quả này chứng tỏ việc quản lý tiền mặt và khoản phải thu là chưa hợp lý.
2.4.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
Hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố ảnh hưởng. Việc phát huy tốt hay không công tác quản lý và sử dụng vốn phụ thuộc nhiều, thậm chí đến mức quyết định bởi ảnh hưởng của chính các nhân tố đó. Các nhân tố này bao gồm cả những nhân tố khách quan lẫn nhân tố chủ quan, nguyên nhân thì bắt nguồn từ những nhân tố khách quan, chủ quan có tác động tiêu cực.
Trước hết là những nguyên nhân chủ quan: Xuất phát từ nguyên tắc "tôn trọng tối đa quyền tự chủ về kinh doanh, tự chủ về tài chính của các doanh nghiệp Và trực tiếp can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy vậy lượng vốn cố định Xí nghiệp bỏ ra mua sắm phương tiện vận tải quá lớn mà tời hạn thu hồi vốn kéo dài nên việc quay nhanh vòng vốn Xí nghiệp là rất lâu.
Tiếp theo là những nguyên nhân khách quan: Khó khăn nhìn thấy đầu tiên là tình hình suy thoái kinh tế trong khu vực và ảnh hưởng của đất nước. Do vậy việc tìm kiếm nguồn vốn trong thời kỳ đang khát vốn lại càng trở lên khó khăn. Bên cạnh đó, nhà nước vẫn duy trì duy trì nhiều quyết định về chế độ thu thuế, lệ phí, quản lý đầu tư, bảo vệ thị trường không còn phù hợp với điều kiện thị trường và tính đặc thù riêng của các hoạt động Đường biển, cũng chưa có một chính sách bảo vệ hợp lý như nhiều nước khác trong khu vực, tạo điều kiện b ảo vệ thị trường Đường biển trong nước chống lại sức ép ngày càng tăng của các hãng nước ngoài và giúp các doanh nghiệp Đường biển Việt nam tái đầu tư phát triển sản xuất.
Chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco
Xuất phát từ những phân tích và đánh giá ở trên, Xí nghiệp vận tải biển Vinafco có thể áp dụng các giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn. Mỗi giải pháp tập trung vào một khía cạnh cụ thể và đều có thể phát huy được vai trò tích cực của mình, tuy nhiên nên áp dụng các biện pháp một cách đồng bộ, có hệ thống để cộng hưởng kết quả của chúng.
Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu.
I/ Những giải pháp cơ bản củaXí nghiệp vận tải biển Vinafco
1.1. Phát huy cơ chế điều hoà vốn trong xí nghiệp.
Điều dám khẳng định đầu tiên là vốn là yếu tố cực kỳ quan trọng trong sản xuất kinh doanh, không có vốn thì xí nghiệp không thể hoạt động nhưng quan trọng hơn cả khi đã liên kết hình thành xí nghiệp độc lập của Công ty cổ phần Vinafco là vấn đề điều hoà vốn. Điều hoà vốn là yêu cầu hết sức khách quan, trong quá trình điều hành sản xuất kinh doanh luôn phải bố trí sắp xếp điều chỉnh lại tài sản, máy móc, thiết bị, vật tư, tiền vốn, lao động... giữa các phòng ban và các đại diện của xí nghiệp cho phù hợp với tình hình ở trong từng thời điểm cụ thể nhằm thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ đặt ra cho xí nghiệp.Toàn bộ quá trình sắp xếp nêu trên suy cho cùng là sắp xếp về vốn, như vậy muốn điều chỉnh máy móc thiết bị, hay lao động vật tư từ đơn vị này sang đơn vị khác thì cơ chế vốn phải cho phép điều hoà thì kế hoạch điều phối tài sản, vật tư, lao động mới có thể thực hiện được. Muốn vậy, xí nghiệp phải thực hiện vai trò điều hoà vốn, không có cơ chế điều hoà vốn thì vai trò quan trọng trước hết nêu trên của xí nghiệp sẽ trở lên vô hiệu.
Như thế, nếu xí nghiệp không phát huy vai trò điều hoà vốn của mình, không giúp đỡ được các đơn vị thành viên và chính mình thì sẽ đi ngược lại logic tự nhiên. Rõ ràng là xí nghiệp nhận vốn của Nhà nước và vốn của Công ty, do đó xí nghiệp phải chịu trách nhiệm trước nhà nước và công ty về hiệu quả sử dụng vốn. Trong trường hợp quản lý và sử dụng vốn kém hiệu quả, hoặc bị mất mát hao hụt thì người phải giải thích trước nhà nước và công ty về vấn đề này, đầu tiên phải là xí nghiệp.Xí nghiệp đứng ra nhận vốn của nhà nước và của Công ty chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn. Việc phân công, phân cấp cụ thể trong công tác quản lý vốn được giao là chuyện nội bộ của xí nghiệp, do xí nghiệp quyết định. Trong việc phân cấp quản lý này, mức độ phân cấp cho các đơn vị thành viên nhiều hay ít là tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể. Tuy nhiên xí nghiệp phải giữ quyền quyết định những vấn đề then chốt. Do vậy, nếu xí nghiệp chỉ thực hiện vay quỹ phát triển sản xuất kinh doanh của ngân hàng (tức là phải trả cả gốc và lãi) chứ không thực hiện điều hoà, không phát huy vai trò điều hoà thì xí nghiệp cần xem xét lại, bởi lẽ xét đến cùng quỹ phát triển sản xuất của các xí nghiệp chính là bộ phận tích luỹ chung mới được làm ra của xí nghiệp.
Do vậy giải pháp hợp lý ở đây là: Các doanh nghiệp của Công ty cổ phần Vinafco trong đó có xí nghiệp vận tải biển Vinafco chỉ được giữ laị một số phần quỹ phát triển sản xuất kinh doanh, một phần phải đựơc tập trung về công ty. Điều này hoàn toàn phù hợp với chủ trương phân định rõ ranh giới giữa quản lý Nhà nước và quản lý kinh doanh mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra từ nhiều năm nay.
Một vấn đề khác liên quan đến điều hoà vốn là doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập trong của Công ty cổ phần Vinafco phải khác so vói doanh nghiệp hạch toán độc lập đứng một mình. Một doanh nghiệp hạch toán độc lập đứng một mình chỉ hoạt động theo điều lệ của công ty đó, còn một doanh nghiệp trong tổ chức công ty không những hoạt động theo điều lệ của công ty mà còn tuân thủ theo điều lệ của công ty mà nó là thành viên. Mọi sự coi trọng quá mức đến tính độc lập của xí nghiệp như một doanh nghiệp hạch toán độc lập đứng một mình đều dẫn đến xem nhẹ vai trò của công ty, mà đã là doanh nghiệp thành viên của công ty thì không còn được hoạt động theo cơ chế như một doanh nghiệp hạch toán độc lập nữa. Có xác định rõ ràng như vậy thì việc thực hiện vai trò điều hoà vốn của xí nghiệp trong công ty mới được phát huy, tập trung được tiềm lực đầu tư vào các lĩnh vực trọng yếu. Nếu không phát huy được vai trò đó, xí nghiệp vận tải biển Vinafco chỉ còn là hình thức và trung gian.
1.2. Cải tiến phương pháp khấu hao tài sản cố định
Như chúng ta đã biết những năm qua công ty đã thực hiện trích khấu hao cơ bản theo tỉ lệ quy định của Nhà nước. Với tỉ lệ này công ty phải mất một thời gian dài mới thực hiện khấu hao hết tài sản cố định và thực hiện đổi mới tài sản cố định. Làm như vậy là không thích hợp, nhất là trong gian đoạn hiện nay khi khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, có nhiều máy móc mới ra đời, tài sản cố định không những dễ bị hao mòn mà còn hao mòn rất nhanh chóng. Do vậy, để đảm bảo có quỹ khấu hao đủ để thực hiện tái đầu tư tài sản cố định, nhanh chóng đổi mới thiết bị, đưa kỹ thuật vào sản xuất thì trong trích khấu hao tài sản cố định cần tính đến các yếu tố như: khoa học kỹ thuật, giá cả, xu hướng thị trường thì công ty nên theo "phương pháp trích khấu hao theo tỉ lệ giảm dần..." .
1.2.1. Cơ sở của phương pháp
Phương pháp trích khấu hao theo tỉ lệ giảm dần dựa trên các cơ sở : Khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, tài sản cố định dễ bị hao mòn vô hình. Để hạn chế hao mòn vô hình trong thời gian sử dụng đòi hỏi phải khấu hao nhanh (trên cơ sở tận dụng tối đa công suất máy móc thiết bị). Nhanh chóng thu hồi vốn để đổi mới trang thiết bị, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Mặt khác, trên thị trường giá cả luôn biến động, tài sản của xí nghiệp cũng chịu sự biến động này và đó chính là nguyên nhân làm giảm giá trị của tài sản cố định. Do vậy cần tiến hành khấu hao nhanh để bảo toàn vốn đã đầu tư vào tài sản cố định, đồng thời cũng phù hợp với thực tế là công suất làm việc của máy móc thiết bị giảm dần theo thời gian.
1.2.2. Nội dung của phương pháp
Theo phương pháp này, trích khấu hao hàng năm dựa vào tỉ lệ khấu hao luỹ thoái giảm dần so với nguyên giá tài sản cố định.
Tỉ lệ khấu hao giảm dần đựơc xác định theo công thức:
TKt =
2 (T - t + 1)
T(T + 1)
Trong đó: TKt : tỉ lệ khấu hao năm t
T: Tổng thời gian hoạt động máy móc
t: Số năm trích khấu hao (t = 1:T)
Ví dụ: Một máy có nguyên giá là 78.000.000 VNĐ, thời gian sử dụng là 6 năm, áp dụng công thức trên ta có tỉ lệ trích và mức trích khấu hao trong 6 năm sử dụng như sau:
Năm thứ nhất T = 6 , t = 1 , thay vào công thức ta có
TK1 =
=
2 ( 6 - 1 + 1) 6
6
21
6 ( 6 + 1) 21
Mức trích khấu hao : = x 621.000.000 = 18.000.000 VNĐ
Các năm còn lại được thể hiện qua biểu đồ dưới:
Biểu 16: Trích khấu hao cơ bản theo tỷ lệ quy định của Nhà nước
Số năm trích (t)
1
2
3
4
5
6
Tổng
Tỉ lệ khấu hao (TK)
6/21
5/21
4/21
3/21
2/21
1/21
21/21
Mức trích
18.000
16.000
14.000
12.000
10.000
8.000
78.000
1.2.3. áp dụng phương pháp này cho Xí nghiệp
Do việc mua sắm tài sản cố định của Xí nghiệp tại các thời điểm khác nhau có nhiều loại khác nhau, vì thế Xí nghiệp cần áp dụng phương pháp khấu hao tỉ lệ giảm dần tính cho từng loại tài sản cố định hoặc tài sản cố định mua cùng một đợt có chức năng tương tự nhau.
Nguyên giá của chiếc tàu: 65.750 triệu VNĐ
Theo công thức trên thì mức khấu hao trong các năm: 2000, 2001, của chiếc tàu này:
Biểu : Trích khấu hao cơ bản theo tỷ lệ giảm dần
Đơn vị : 1.000.000 VNĐ
Số năm trích
1
2
3
4
5
Tổng
Mức trích
17.725
15.437
13.150
10.863
8.575
65.750
Như vậy, nếu tính theo cách tính của đang áp dụng,với phương pháp tính mới, sau 5 năm sử dụng xí nghiệp mới có thể thu hồi được vốn đầu tư cho chiếc tàu trên. Điều này hạn chế được hao mòn vô hình và sự tác động của giá cả tới vốn cố định.
1.3. Thanh lý, bán bớt một số tàu quá cũ hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của khách hàng.
Đổi mới để đáp ứng những yêu cầu của khách hàng luôn là vấn đề thường xuyên đối với đội ngũ tàu của công ty. Trong khi đó, ngoài những chiếc tàu mà công ty đã mua. Trong 2 năm hoạt động vừa qua, Xí nghiệp đã mua mới tàu có trọng tải lớn và bán các tầu đã cũ và lạc hậu đápứng được với nhu cầu tất yếu của thị trường.
Tuy nhiên ở Việt Nam có khoảng 10 hãng được cấp giấy phép hoạt động trên tuyến Bắc- nam và đang cạnh tranh quyết liệt, trên các tuyến nội địa Việt Nam mà xưa nay vốn là vị trí độc tôn của các hãng tàu trong nước.Tình trạng như vậy xuất pháp từ nhiều nguyên nhân, mà chủ yếu là trong nhiều năm qua chưa xây dựng được một quy hoạch phát triển đội tàu hợp lý ở phạm vi quốc gia, đầu tư manh mún trên một diện rộng và không kịp chủ động thay đổi cơ cấu đội tàu cho phù hợp với xu thế phát triển công nghệ vận tải theo các phương thức mới trên thế giới mà suy cho cùng là xu thế yêu cầu thực tế của khách hàng.
Khắc phục tình trạng đó, bước đi chiến lược cơ bản của Xí nghiệp là tập trung xây dựng phát triển đội tàu, khai thác các khách hàng trọngđiểm làm việc có uy tín với khách hàng và theo hướng đi thẳng lên hiện đại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, từng bước giành lại và tăng thêm thị phần, tiến tới chia sẻ thị phần của khu vực. Để làm được điều này, Xí nghiệp cần chủ trương tận dụng cơ hội tạo ra những đột khởi, trước hết phải ưu tiên tìm mọi cách hiện đại hoá ngay đội tàu chuyên dụng container, bằng các phương thức mua, thuê mua và đóng mới.
Một là, đối với những con tàu thì giảm chi phí ,chi phí sửa chữa cũng quá cao (bình quân một tàu hàng năm chi phí sửa chữa là 1 tỉ đến 1,5 tỉ VNĐ), không đảm bảo an toàn trong qúa trình vận tải, dẫn đến giá thành cao và giá cước cũng tăng theo. Trong khi đó trên thực tế giá cước đang ngày càng có xu hướng giảm do khủng hoảng của ngành Đường biển Việt nam và trên thế giới. Đây là một điều mà tự bản thân xí nghiệp thấy cần hạn chế và khác phục.
Hai là , xí nghiệp cũng cần có những biện pháp xây dựng kế hoạch lâu dài để chăm sóc và tạo niềm tin tưởng cho khách hàng giúp họ tin tưởng vào xí nghiệp và dịch vụ vận tải của xí nghiệp.
1.4. Hạn chế vốn lưu động bị chiếm dụng nhằm thu hồi vốn nhanh, tăng vòng quay của vốn.
Trong điều kiện hiện nay, việc chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp có xu hướng ngày càng gia tăng. Trong tình hình chung đó, số vốn bị chiếm dụng của xí nghiệp chiếm tỉ lệ không nhỏ chiếm khoảng 30%.
Lượng vốn bị chiếm dụng này không những không sinh lãi mà còn làm giảm vòng quay của vốn, hạn chế hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp. Do vậy cần thực hiện các biện pháp sau để hạn chế vốn bị chiếm dụng trong khâu lưu thông.
Thứ nhất: Trước khi ký hợp đồng, Xí nghiệp cần nắm tình hình tín dụng của các khách hàng về các mặt sau:
- Báo cáo tài chính: Xí nghiệp có thể đề nghị khách hàng cung cấp thông tin tài chính như bảng tổng kết tài sản, báo cáo thu nhập, một số tỉ lệ như lợi nhuận vốn, tốc độ chu chuyển vốn lưu động.
- Báo cáo tín dụng về tình hình thanh toán của khách hàng với các doanh nghiệp khác để xem xét lịch sử thanh toán của doanh nghiệp với các khách hàng khác, trả tiền đúng hạn hay không, bao nhiêu lần gây rắc rối trong việc trả tiền...
- Quan hệ tín dụng với các ngân hàng của doanh nghiệp
Thứ hai: Là khi ký kết hợp đồng, Xí nghiệp cần thoả thuật trong hợp đồng có phần phạt hành chính nếu khách hàng trả tiền chậm tuỳ vào giá trị lô hàng, thời gian khách hàng trả chậm. Làm như vậy sẽ đảm bảo cả hai bên đều có trách nhiệm hơn nữa trong vấn đề thanh toán của mình.
Thứ ba: Là khi xảy ra tranh chấp hợp đồng, cả Xí nghiệp và khách hàng cần phải nhanh chóng giải quyết dứt điểm không để xảy ra tình trạng chi phí cho việc giải quyết tranh chấp lớn hơn cả giá trị hợp đồng hoặc dễ gây tình trạng ứ đọng vốn lâu, mất uy tín của Xí nghiệp với khách hàng hiện tại cũng như trong tương lai. Nếu cả hai phía không giải quyết được thì có thể đưa ra toà và chi phí này do hai bên chịu. Mặt khác, phía Xí nghiệp phải luôn sẵn sàng tạo các điều kiện cần thiết để khi khách hàng yêu cầu đáp ứng ngay và đúng tiến độ trong hợp đồng đã ký kết xí nghiệp cũng cần mạnh dạn chi phí để khuyến khích khách hàng thực hiện đúng thời hạn trong hợp đồng, nhằm tăng tốc độ tiêu thụ và thu hút khách hàng ngày càng đông.
Thứ tư, là mục tiêu kinh doanh của xí nghiệp cũng như tất cả các doanh nghiệp khác là lợi nhuận, không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó xí nghiệp còn có nhiệm vụ là bảo đảm công ăn việc làm cho một số lao động tương đối lớn. Do đó trong những năm qua, đôi lúc xí nghiệp đã phải ký kết những hợp đồng không mấy đem lại hiệu quả kinh tế, thậm chí chấp nhận hoà. Như vậy có nghĩa rằng muốn tạo ra một cơ chế thu hồi nhanh vốn, bảo toàn được vốn, tăng vòng quay vốn đòi hỏi phải m ột hệ thống đồng bộ bởi chúng là các chỉ tiêu mang tính chất tổng hợho ở đây không những là vấn đề việc làm cho người lao động mà còn rất nhiều yếu tố khác nữa.
Tuy nhiên chúng ta cũng cần thấy rằng không phải lúc nào thu tiền ngay cũng có lợi nhất là đối với các bạn hàng truyền thống hoặc những bạn hàng nằm trong diện ưu tiên. Khi đó xí nghiệp nên cho phép khách hàng trả chậm nhưng vẫn phải đảm bảo thu hồi đúng thời hạn và chi phí cho việc khách hàng thanh toán chậm là nhỏ nhất.
1.5. Hoàn thiện phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch sát với nhu cầu vốn thực tế của xí nghiệp.
1.5.1. Sự cần thiết của phương pháp.
Trong thời gian qua việc lập kế hoạch vốn lưu động của xí nghiệp đã bộc lộ một số tồn tại chủ yếu sau:
- Việc xác định vốn lưu động dựa vào doanh thu kế hoạch và số vòng quay của vốn kế hoạch là chưa khoa học, do đó chưa xác định nhu cầu vốn cho từng khâu, từng bộ phận, điều này dẫn đến xí nghiệp phải đi vay ngắn hạn ngân hàng với tỉ lệ lớn.
-Tuy nhiên doanh thu ngày một tăng ,năm sau cao hơn năm trước
+ Doanh thu năm 2000 : 47.256.192 triệu VNĐ.
+ Doanh thu năm 2001 : 56.202.314 triệu VNĐ.
Điều đó khẳng định rằng Xí nghiệp làm ăn ngày một có lãi, tuy nhiên chi phí quản lý Xí nghiệp còn cao, cấc khoản nợ vay vẫn đang là một thách thức với Xí nghiệp.
II/ Một số kiến nghị với nhà nước
Một trong những nguyên nhân không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến việc quản lý và sử dụng vốn của Xí nghiệp là Nhà nước có nhiều quy định về chế độ thuế, lệ phí, quản lý đầu tư, bảo vệ thị trường hiện hành không còn phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay và tính chất đặc thù của hoạt động Đường biển. Thêm vào đó Nhà nước không có vốn đầu tư trực tiếp cho phát triển đội tàu và cũng chưa có một chính sách bảo hộ hợp lý tạo điều kiện bảo vệ thị trường Đường biển trong nước, chống lại sức ép ngày càng tăng của các hãng tàu nước ngoài và giúp các doanh nghiệp Đường biển hợp tác đầu tư, phát triển sản xuất. Do vậy, với tư cách đó Nhà nước nên chú ý hơn tới ngành Đường biển việt nam nhằm góp phần cho Xí nghiệp vận tải biển Vinafco quản lý, sử dụng có hiệu quả hơn đồng vốn của mình.
Thứ nhất, là trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh Xí nghiệp vận tải biển Vinafco sử dụng đường thuỷ, đường bộ, nhưng các doanh nghiệp vận tải biển đang phải chịu lệ phí đường bộ tính trong giá nhiên liệu. Trong khi đó, chi phí nhiên liệu luôn chiếm khoảng gần 60% giá thành vận tải đường biển. Do đó nhà nước cũng cần có những biện pháp, chính sách giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí đường bộ này. Đặc biệt trong giai đoạn khó khăn hiện nay khi mà các doanh nghiệp vận tải đang phải chịu sức ép giảm giá cước do ảnh hưởng suy thoái của ngành đường biển và cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực.
Thứ hai, là nhà nước cần thể chế hoá chế độ bảo hộ hợp lý tàu thông qua việc ban hành chế độ thuế mới và thực hiện quản lý thị trường bằng các biện pháp tương tự như trong ngành hàng không, dầu khí, bưu chính. Nhà nước cũng nên áp dụng những biện pháp tài chính hợp lý nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp vận tải biển có điều kiện tái đầu tư khôi phục, phát triển đội tàu sông trong giai đoạn từ 10 - 15 năm tới.
Kết luận
Quản lý và nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn ở bất kỳ một doanh nghiệp nhà nước nào suy cho cùng là một công việc vô cùng khó khăn phức tạp, đặc biệt trong tình hình thị trường đầy biến động, rủi ro bất trắc khó lường trước được, trong tình hình khủng hoảng hiện nay. Các nhà lãnh đạo có thể thấm nhuần lý luận khoa học về quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là gì? Các bộ phận tham mưu đã có thể đã rất nhạy cảm với kết quả cũng như khả năng phân tích tình hình vốn hay việc tổ chức cả một hệ thống các giải pháp để đạt các chỉ số tài chính hấp dẫn cũng như việc đánh giá những điều đã đạt được ra sao. Tuy vậy thực tế lại luôn chứng minh sự đa dạng vốn có của nó, kỳ vọng tạo ra một lợi thế cạnh tranh tiềm ẩn hơn hẳn các chiến lược con người hay chiến lược marketing ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco là rõ ràng và đúng tuy nhiên hệ thống tài chính còn bất hợp lý, mặc dù hiệu quả về mặt kinh tế được chú trọng và cao,song khả năng bảo toànvà phát triển vốn rất hạn chế. Trên những cơ sở đánh giá đó, một số giải pháp hợp lý được đề xuất nhằm giải quyết những điểm yếu và nâng cao khả năng quản lý vốn ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco.
Một lần nữa em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành của mình tới Thầy giáo TS Đàm Văn Huệ cùng các cô chú và các nhân viên trong Xí nghiệp vận tải biển Vinafco đã giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Tài liệu tham khảo
Thông tư số 57TC/TCDN ngày 12/11/1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý sử dụng vốn và tài sản trong DNNN.
Kinh tế thương mại - Khoa Thương mại trường ĐHKTQD.
Quản trị doanh nghiệp thương mại. Khoa thương mại trường ĐH KTQD.
4. Quản lý tài chính doanh nghiệp. NXB Thống kê 1994.
Sổ tay quản lý vốn trong doanh nghiệp. NXB Thống kê 1994.
Tạp chí Tài chính năm 2001.
Các tài liệu: Quyết định thành lập, các báo cáo tổng hợp, các đề án phát triển ... của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco.
Mục lục
Phần mở đầu 1
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp 3
1.I –Khái niệm và phân loại vốn và quản lý vốn trong kinh doanh.....................3
1.1.1- Khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh 3
1.1.2- Phân loại vốn trong hoạt động sản xuát kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm Vốn cố định và vốn lưu động 4
1.2- Nguồn vốn, chi phí vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp 8
1.3-Nội dung hoạt động quản lý vốn.....................................................................9
1.3.1- Nội dung hoạt động quản lý vốn cố định....................................................10
1.3.2- Nội dung hoạt động quản lý vốn lưu động. .............................................
1.4- Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp 18
1.4.1- Các nhân tố ảnh hưởng
1.4.2- Hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động trong doanh nghiệp .........20
1.4.3- Các giải pháp nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 26
Chương II: Phân tích thực trạng quản lý và sử dụng vốn ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco 31 I-Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco 31
1.1- Lịch sử hình thành 31
1.2- Nhiệm vụ chủ yếu của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco 31
1.3- Cơ cấu tổ chức của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco 31
1.4- Nghành nghề kinh doanh................................................................................34
II- Kết quả hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco 33
1- Những thuận lợi và khó khăn của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco 33
2- Những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco 34
III- Phân tích hoạt động quản lý vốn kinh doanh của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco 41
1- Vốn và cách thức huy động của Xí nghiệp 41
2- Phân tích tình hình quản lý vốn cố định 43
3- Tình hình quản lý vốn lưu động 50
III- Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp vận tải biển Vinafco 56
1- Tình hình sử dụng vốn ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco qua một số chỉ tiêu cơ bản 56
2- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định 58
3- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco 61
4- Đánh giá chung công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco . 65
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn ở Xí nghiệp vận tải biển Vinafco 66
I- Những giải pháp cho tổng Xí nghiệp vận tải biển Vinafco 66
1- Phát huy cơ chế điều hoà vốn trong Xí nghiệp. 66
2- Cải tiến phương pháp khấu hao tài sản cố định 68
3- Thanh lý, bán bớt một số tàu quá cũ hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của khách hàng 70
4- Hạn chế vốn lưu động bị chiếm dụng nhằm thu hồi vốn nhanh, tăng vòng quay của vốn 72
5- Hoàn thiện phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch sát với nhu cầu vốn thực tế 72
II- Một số kiến nghị với Nhà nước 77
Kết luận 78
Tài liệu tham khảo 79
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23212.doc