MỞ ĐẦU
Đầu tư phát triển vừa là nhiệm vụ chiến lược, vừa là giải pháp chủ yếu nhằm đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư là một hoạt động quan trọng đối với một nền kinh tế nhằm tăng cường cơ sở vật chất, năng lực sản xuất của nền kinh tế.
Công tác quản lý đầu tư là một công việc phức tạp có liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều chế độ quy định và phải xử lý đa dạng các mối quan hệ dân sự, quan hệ hành chính và các mối quan hệ khác mà đáng ra phải được điều chỉnh bằng các
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho dự án từ nguồn ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luật và các văn bản pháp luật, văn bản pháp quy một cách đồng bộ, nhất quán và thống nhất.
Hiện nay, quản lý đầu tư chủ yếu mới thực hiện theo các văn bản ở hình thức Nghị định, Nghị quyết, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị,...(trừ đầu tư nước ngoài được thực hiện theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam) trong khi nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi, hình thành và phát triển phương thức quản lý theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; các cơ chế, chính sách nói chung mới hình thành, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, từng bước điều chỉnh cho phù hợp với thực tế khách quan.
Trong thời gian qua với sự nỗ lực của nhiều cơ quan chức năng trong việc nghiên cứu đổi mới, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện dần cơ chế, chính sách trong lĩnh vực này; đặc biệt là đã có nhiều biện pháp, giải pháp tích cực nhằm phát huy đầy đủ tính tích cực, hạn chế tối đa mặt tiêu cực. Tuy vây, trên thực tế trong lĩnh vực đầu tư phát triển vẫn còn nhiều bất cập, cản trở quá trình sản xuất, chưa phù hợp với thực tế khách quan: đầu tư còn dàn trải; nợ đọng trong khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản lớn; lãng phí, thất thoát nhiều; những biểu hiên tiêu cực trong đầu tư còn diễn ra ở nhiều nơi, nhiều cấp; hiệu quả đầu tư thấp...
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài luận văn: “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho dự án từ nguồn ngân sách nhà nước”.
Nội dung của luận văn bao gồm:
Chương I: Dự án đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho dự án
Chương II: Thực trạng sử dụng vốn đầu tư cho dự án từ ngân sách nhà nước.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước đầu tư cho dự án.
CHƯƠNG I
DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ HIỆU QUẢ SỰ DỤNG
VỐN ĐẦU TƯ CHO DỰ ÁN
1. DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.1. Khái niệm và vai trò của dự án
Các hoạt động đầu tư phát triển được thực hiện nhằm tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế.
Hoạt động đầu tư phát triển thường đòi hỏi một lượng vốn lớn, thời gian đầu tư, phát huy các kết quả đầu tư tương đối dài, phạm vi tác động của đầu tư phát triển cả trực tiếp lẫn gián tiếp tương đối rộng. Vì vậy trước một hoạt động đầu tư chúng ta phải chuẩn bị một cách khoa học, đầy đủ, chính xác nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Việc chuẩn bị đó được thể hiện thông qua quá trình lập các dự án đầu tư.
Trước hết, ta sẽ xem xét khái niệm về dự án đầu tư. Với các quan điểm khác nhau có thể có các khái niệm khác nhau về dự án đầu tư. Sau đây là một số khái niệm về dự án đầu tư:
- Dự án đầu tư là tập hợp các hoạt động nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định, trong quá trình thực hiện mục tiêu đó cần có các nguồn lực đầu vào (inputs) và kết quả thu được là các đầu ra (outputs).
- Dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu, trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch nhằm đạt được những kết quả nhất định trên cơ sở những mục tiêu xác định.
- Trong “Quy chế đầu tư và xây dựng” theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 07 năm 1999 của Chính phủ: Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sư tăng trưởng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định.
Dự án có vai trò rất quan trọng đối với chủ đầu tư, các nhà quản lý và tác động trực tiếp tới tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Nếu không có dự án, nền kinh tế sẽ khó nắm bắt được cơ hội phát triển. Những công trình thế kỷ của nhân loại trên thế giới luôn là minh chứng về tầm quan trọng của dự án. Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định bỏ vốn đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư và theo dõi quá trình thực hiện đầu tư. Dự án là căn cứ để các tổ chức tài chính đưa ra quyết định tài trợ, các cơ quan chức năng của nhà nước phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư. Dự án còn được coi là công cụ quan trong quản lý vốn, vật tư, lao động trong quá trình thực hiện đầu tư. Do vây, hiểu được những đặc điểm của dự án là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của dư án.
1.2. Đặc điểm của dự án đầu tư
Xuất phát từ khái niệm dự án đầu tư, có thể nhận biết những đặc điểm cơ bản sau đây của dự án:
- Dự án không chỉ là một ý tưởng hay phác thảo mà còn là hàm ý hành động với mục tiêu cụ thể. Nếu không có hành động thì dự án vĩnh viễn tồn tại ở trạng thái tiềm năng.
- Dự án không phải là một nghiên cứu trừu tượng hay ứng dụng mà phải nhằm đáp ứng một nhu cầu cụ thể đã được đặt ra, tạo nên một thực tế mới.
- Dự án tồn tại trong một môi trường không chắc chắn. Môi trường triển khai dự án thường xuyên thay đổi, chứa đựng nhiều yếu tố bất định nên trong dự án rủi ro thường là lớn và có thể xảy ra. Đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ thành công của dự án và là mối quan tâm đặc biệt của các nhà quản lý dự án.
- Dự án bị không chế bởi thời hạn. Là một tập hợp các hoạt động đặc thù phải có thời hạn kết thúc. Mọi sự chậm trễ trong thực hiện dự án sẽ làm mất cơ hội phát triển, kéo theo những bất lợi tổn thất cho nhà đầu tư và cho nền kinh tế.
- Dự án chịu sự ràng buộc về nguồn lực. Thông thường, các sự án bị ràng buộc về vốn, vật tư và lao động. Đối với dự án quy mô càng lớn mức độ ràng buộc về nguồn lực càng cao và càng phức tạp: mọi quyết định liên quan đến các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án đều bị chi phối bởi nhiều mối quan hệ, chẳng hạn: chủ đầu tư, nhà tư vấn, nhà thầu, các nhà tài trợ, nhân công, các nhà kỹ thuật....Xử lý tốt các ràng buộc này là yếu tố quan trọng góp phần đạt tới mục tiêu của dự án.
1.3. Phân loại dự án đầu tư.
Các dự án thường rất đa dạng về cấp độ, loại hình, quy mô, thời hạn và được phân loại theo các tiêu thức khác nhau. Tại nhiều nước trên thế giới thì dự án được phân loại theo một số tiêu thức sau:
Theo người khởi xướng: Dự án được phân loại thành dự án cá nhân, dự án tập thể, dự án quốc gia, dự án quốc tế.
Theo lĩnh vực dự án: Dự án được phân thành dự án xã hội, dự án kinh tế, dự án tổ chức, dự án kỹ thuật, dự án hỗn hợp.
Theo loại hình dự án: Dự án được phân loại thành dự án giáo dục đào tạo, dự án nghiên cứu và phát triển, dự an đổi mới, dự án hỗn hợp.
Theo thời hạn: Dự án ngắn hạn, dự án trung hạn, dự án dài hạn.
Theo cấp độ: Dự án được phân loại thành dự án lớn và dự án nhỏ.
Tại Việt Nam, theo “Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” ban hành kèm theo Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 5-5-2000 của Chính phủ vể sửa đổi, bổ sung Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999, thì dự án được phân loại cụ thể như sau:
- Dự án nhóm A:
+ Các dự án thuộc phạm vi bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính trị xã hội quan trọng, thành lập và xây dựng hạ tầng khu công nghiệp mới
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Không kể mức vốn đầu tư.
+ Các dự án sản xuất chất độc hại, chất nổ
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Không kể mức vốn đầu tư.
+ Các dự án: Công nghiệp điện, khai thác dầu khí, chế biến dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy (bao gồm cả mua và đóng tầu, lắp ráp ô tô), xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản; các dự án giao thông: cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Trên 600 tỷ đồng.
+ Các dự án: thuỷ lơi, giao thông, cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông, BOT trong nước, xây dựng khu nhà ở, đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Trên 400 tỷ đồng.
+ Các dự án: hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; các dự án: công nghiệp nhẹ, sành, sứ, thuỷ tinh; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, mua sắm thiết bị xây dựng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Trên 300 tỷ đồng.
+ Các dự án: y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Trên 200 tỷ đồng.
- Dự án nhóm B:
+ Các dự án: Công nghiệp điện, dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy (bao gồm cả mua và đóng tầu, lắp ráp ô tô), xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản; các dự án giao thông: cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Từ 30 đến 600 tỷ đồng.
+ Các dự án: thuỷ lơi, giao thông, cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông, BOT trong nước, xây dựng khu nhà ở, trường phổ thông, đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Từ 20 đến 400 tỷ đồng.
+ Các dự án: hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; các dự án: công nghiệp nhẹ, sành, sứ, thuỷ tinh; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, thiết bị xây dựng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Từ 15 đến 300 tỷ đồng.
+ Các dự án: y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Từ 7 đến 200 tỷ đồng.
- Dự án nhóm C:
+ Các dự án: Công nghiệp điện, dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy (bao gồm cả mua và đóng mới tầu, lắp ráp ô tô), xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản; các dự án giao thông: cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ. Các trường phổ thông nằm trong khu quy hoạch (không kể mức vốn)
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Dưới 30 tỷ đồng.
+ Các dự án: thuỷ lơi, giao thông, cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông, BOT trong nước, xây dựng khu nhà ở,trường phổ thông, đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Dưới 20 tỷ đồng.
+ Các dự án: hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; các dự án: công nghiệp nhẹ, sành, sứ, thuỷ tinh; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, mua sắm thiết bị xây dựng, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Dưới 15 tỷ đồng.
+ Các dự án: y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
Tổng mức vốn đầu tư đối với các dự án này là: Dưới 7 tỷ đồng.
2. CÁC NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ CHO DỰ ÁN
2.1. Khái niệm về nguồn vốn đầu tư
Các nhà kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác- Lênin và kinh tế học hiện đại chứng minh rằng: nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội.
Theo Adam Smith, nhà kinh tế học điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển cũng đã đưa ra quan điểm về nguồn hình thành vốn đầu tư và trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776), ông đã viết rằng: Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ, C. Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c + v + m), trong đó:
c là phần tiêu hao vật chất
(v + m) là phần giá trị sáng tạo ra
Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v + m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là:
(v + m)I > cII
Hay nói cách khác:
(c + v + m)I > cII + cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c + v + m) < (v + m)I + (v + m)II
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy, để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác, phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tiêu dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C. Mác, con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất và tiêu dùng. Hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, John Maynard Keynes đã chứng minh được rằng: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng:
Điều đó có nghĩa là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư (i) = Tiết kiệm (s)
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính chất song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải được bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ. Vì vậy, xét về mặt tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất mà người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết kiệm của chính phủ.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể ít hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai.
CA = S – I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ của nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
Từ những quan điểm về sự hình thành nguồn vốn đầu tư của các nhà kinh tế học nói trên mà ta có thể đưa ra khái niệm về nguồn vốn đầu tư như sau:
Nguồn vốn đầu tư: là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
2.2. Nguồn vốn đầu tư cho dự án
Việt Nam cũng như hầu hết các nước đang phát triển, trong giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế, do mức thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng và tích luỹ vốn đều rất hạn chế. Trong khi đó, nhu cầu của nền kinh tế lại cần những khoản vốn lớn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế. Do đó, trong giai đoạn này, nền công nghiệp của đất nước chưa phát triển nên hàng hoá xuất khẩu đại bộ phận sẽ là sản phẩm sơ chế như: dầu thô, gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản…là những hàng hoá có giá trị thấp. Ngược lại, nhu cầu phát triển đòi hỏi phải nhập khẩu máy móc, thiết bị, các sản phẩm hoá chất và cả kỹ thuật công nghệ, là những sản phẩm có giá trị cao. Việc xuất nhập khẩu hàng hoá như vậy làm cán cân thương mại và cán cân thanh toán luôn ở tình trạng nhập siêu. Thách thức này làm gia tăng sự mất cân đối giữa nhu cầu và khả năng về vốn đầu tư. Vì thế, mà ngoài nguồn vốn trong nước ra thì ta có thể tranh thủ vốn đầu tư từ nước ngoài để bù đắp cho sự thiếu hụt nguồn vốn đầu tư phát triển của đất nước.
2.2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước được hình thành từ nguồn vốn nhà nước, nguồn vốn từ khu vực tư nhân và từ thị trường vốn.
Nguồn vốn đầu tư trong nước giữ vai trò quan trọng đối với nguồn vốn đầu tư của đất nước, nó vừa là điều kiện để phát triển kinh tế vừa là cơ sơ để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, quyết định cho sự phát triển, thể hiện:
+ Để tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhất thiết phải có vốn đối ứng bên trong để triển khai các công trình. Vốn đối ứng này nhiều khi phải sử dụng để xây dựng các cơ sở hạ tầng như: điện, nước, thông tin, bệnh viện, trường học…
+ Nếu không có vốn trong nước đủ mức thì xét về lâu dài, của cải sản xuất ra (GDP) có thể lớn, nhưng nguồn thu nhập thực tế mà nhân dân ta có được (GNP) lại thấp. Đại bộ phận lợi nhuận được tạo ra ở trong nước sẽ bị chuyển ra nước ngoài, nền kinh tế sẽ có một sự phát triển giả tạo.
+ Vốn đầu tư nước ngoài thường chỉ tập chung vào những vùng hoặc những lĩnh vực hứa hẹn tạo ra được lợi nhuận hấp dẫn. Chỉ có vốn đầu tư trong nước thì mới đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế trên tất cả các vùng rộng lớn của đất nước, đặc biệt là các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa và cả các vùng nông thôn.
Hiện nay, trước tình trạng thất thoát lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư nhà nước, thì vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đâu tư từ nhà nước đang là vấn đề cấp thiết được đưa ra nghiên cứu để khắc phục tình trạng này. Vì vậy, đề tài nghiên cứu này chỉ đi phân tích nguồn vốn nhà nước mà không đi nghiên cứu cụ thể các nguồn vốn đầu tư khác.
2.2.1.1 Nguồn vốn đầu tư nhà nước
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
(1) Nguồn vốn ngân sách nhà nước: là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư và là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Nguồn vốn ngân sách thường được sử dụng đầu tư cho các dự án thuộc chương trình đầu tư công cộng, các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. Hàng năm, nguồn vốn ngân sách đầu tư cho dự án thường chiếm khoảng 20% tổng nguồn vốn đầu tư chung. Tỷ lệ này tuy không lớn, nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư chung, tạo môi trường để thu hút các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tư phát triển.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước được hình thành chủ yếu từ nguồn thu trong nước của ngân sách, sau khi đã chi trả cho các khoản chi thường xuyên, dự phòng hoặc trả nợ. Ngoài ra nó còn gồm cả vốn ODA viện trợ không hoàn lại hoặc vốn vay đưa vào ngân sách. Vì vậy mà tình hình thu, chi ngân sách hàng năm tăng hay giảm sẽ quyết định rất lớn đến nguồn vốn chi cho các dự án đầu tư hàng năm của quốc gia. Sau đây ta sẽ đi xem xét kỹ hơn về tình hình thu, chi của ngân sách qua các năm từ 2001 đến 2005:
BẢNG 1: CÂN ĐỐI THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
TT
Chỉ tiêu
Đơn vịtính
2001
2002
2003
2004
Ước TH 2005
Ước TH 2001-2005
A
TỔNG THU NSNN
tỷ đồng
103,888
121,715
142,210
180,397
210,400
759,610
Tốc độ tăng thu
%
14.48
17.16
16.84
26.85
16.63
18.43
1
Thu nội địa (không kể dầu thô)
tỷ đồng
52,626
61,375
74,333
96,464
115,000
400,798
% trong tổng số
%
50.7
50.4
52.3
53.5
54.7
52.8
2
Thu từ dầu thô
tỷ đồng
26,281
26,510
32,077
46,721
55,500
187,089
% trong tổng số
%
25.3
21.8
22.6
25.9
26.4
24.6
3
Thu khác
tỷ đồng
24,981
33,830
35,800
37,212
39,900
171,723
% trong tổng số
%
24.0
27.8
25.2
20.6
19.0
22.6
B
TỔNG CHI NSNN
tỷ đồng
129,773
148,208
176,322
209,024
258,470
922,797
Tốc độ tăng chi
%
16.41
14.21
18.97
18.55
23.7
18.30
1
Chi đầu t phát triển
tỷ đồng
40,236
45,218
51,003
62,874
74,000
272,331
% trong tổng số
%
31.0
30.5
28.9
30.1
28.6
29.5
2
Chi thờng xuyên
tỷ đồng
71,562
78,039
95,489
116,346
132,395
493,831
% trong tổng số
%
55.1
52.7
54.2
55.7
51.2
53.5
3
Chi trả nợ, viện trợ
tỷ đồng
14,943
19,823
24,760
29,404
34,775
123,705
% trong tổng số
%
11.5
13.4
14.0
14.1
13.5
13.4
C
BỘI CHI NSNN
tỷ đồng
23,553
25,598
29,670
34,750
40,750
30,864
% GDP
%
4.89
4.77
4.84
4.87
4.86
4.85
Nguồn: Bộ Kế hoạch Đầu tư
Qua Bảng 1, thu ngân sách tăng dần qua các năm (2001-2005). Trong đó, ước thu cân đối ngân sách cả năm 2005 đạt 210.400 tỷ đồng, tăng 16,6% so với ước thực hiện năm 2004. Thu nội địa đạt 115.000 tỷ đồng tăng 19,2% so với thực hiện năm 2004; thu từ dầu thô đạt 55.500 tỷ đồng tăng 18,8% so với thực hiện năm 2004. Cơ cấu thu ngân sách đã bước đầu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các nguồn thu ổn định từ nền sản xuất trong nước, giảm tỷ trọng các nguồn thu từ yếu tố bên ngoài. Tỷ trọng thu nội địa tiếp tục tăng lên từ 53,5% năm 2004 tăng lên 54,7% năm 2005.
Tổng chi ngân sách nhà nước trong cân đối ước đạt 258.500 tỷ đồng tăng 19,5% so với thực hiện năm 2004. Cơ cấu chi ngân sách nhà nước đã được điều chỉnh hợp lý hơn theo hướng ưu tiên chi đầu tư phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ và chi thực hiện các mục tiêu xã hội như: xoá đói giảm nghèo, việc làm, y tế, vệ sinh môi trường và đảm bảo an toàn xã hội.
Bội chi ngân sách nhà nước ước đạt 40.800 tỷ đồng bằng 4,86% GDP.
Điều đó chứng tỏ rằng nguồn vốn ngân sách luôn đứng trước một mâu thuẫn giữa nhu cầu chi tiêu lớn mà khả năng huy động nguồn thu thì chỉ có hạn. Mâu thuẫn này càng trở nên gay gắt hơn với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Do hệ thống nguồn thu của những nước này vẫn chưa hoàn thiện, chưa chặt chẽ, còn vấn đề quản lý chi tiêu của ngân sách thì lỏng lẻo, còn nhiều sơ hở gây nên những khoản thất thoát rất lớn.
- Các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước bao gồm:
+ Các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, các dự án không có khả năng thu hồi vốn và được quản lý sử dụng theo phân cấp về chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển.
+ Hỗ trợ các dự án của các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
+ Chi cho công tác điều tra, khảo sát, lập các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép.
+ Cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển.
+ Vốn khấu hao cơ bản và các khoản thu của Nhà nước để lại cho doanh nghiệp nhà nước để đầu tư.
- Thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước:
+ Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án thuộc nhóm A.
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan quản lý tài chính của Trung ương Đảng, cơ quan Trung ương của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (được xác định trong Luật Ngân sách Nhà nước), Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đầu tư các dự án thuộc nhóm B và C.
+ Tổng cục trưởng các Tổng cục trực thuộc Bộ có thể được Bộ trưởng ủy quyền quyết định đầu tư các dự án thuộc nhóm C.
+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được uỷ quyền cho Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư quyết định đầu tư các dự án có mức vốn dưới 2 tỷ đồng. Các tỉnh và thành phố còn lại, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thể ủy quyền cho Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư quyết định đầu tư các dự án có mức vốn dưới 500 triệu đồng.
+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã được quyết định đầu tư các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phân cấp.
Đối với các dự án đầu tư ở cấp huyện dùng vốn ngân sách nhà nước phải được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận và quản lý chặt chẽ về quy hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với các dự án ở cấp xã dùng vốn ngân sách nhà nước đầu tư và xây dựng kênh mương, đường nông thôn, trường học, trạm xá, công trình văn hóa sau khi được Hội đồng nhân dân cấp xã thông qua phải được Uỷ ban nhân dân cấp huyện chấp thuận về mục tiêu đầu tư và quy hoạch.
Các dự án đầu tư xây dựng hệ thống kênh mương, chuồng trại, đường giao thông nông thôn, các trường học ở cấp xã đầu tư bằng nguồn đóng góp của dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện đầu tư và xây dựng theo Quy chế tổ chức huy động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của các xã, thị trấn, ban hành kèm theo Nghị định số 24/1999/NĐ-CP ngày 16 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ.
(2) Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: là nguồn vốn được hình thành từ vốn tích luỹ của nguồn thu trong nước của ngân sách và vốn ODA vay để cho vay lại.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Nguồn vốn này được dùng để hỗ trợ đầu tư cho các dự án chuyển tiếp, có thể hoàn thành để sớm phát huy hiệu quả, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm; hỗ trợ đầu tư cho các dự án công nghiệp chế biến và sản xuất hàng xuất khẩu; trồng cây công nghiệp; chăn nuôi xuất khẩu; đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản; phát triển kinh tế trang trại; hỗ trợ đầu tư các dự án chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng vùng; các dự án thuộc các ngành công nghiệp then chốt, các cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội có thu hồi vốn. Đối với các dự án đầu tư bằng vốn vay ODA để cho vay lại cần đưa vào kế hoạch thực hiện theo đúng tiến độ giải ngân của các nhà tài trợ, tăng cường quản lý để bảo đảm hiệu quả cao nhất, góp phần hoàn vốn nhanh.
Trong điều kiện nền kinh tế của Việt Nam còn yếu kém về hiệu quả và sức cạnh tranh như hiện nay, các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế còn chưa đủ sức đầu tư đổi mới công nghệ, hoặc xây dựng các cơ sở sản xuất mới với công nghệ theo hướng hiện đại thì việc hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư của nhà nước là rất cần thiết. Tuy vậy nguồn vốn này sẽ hạn chế dần trong tương lai.
Tất cả các thành phần kinh tế đều có thể tiếp cận nguồn vốn tín dụng đầu tư của nhà nước, nếu có những dự án đầu tư có hiệu quả, được thông qua thẩm định của các cơ quan chức năng. Các chủ đầu tư sử dụng nguồn vốn tín dụng đầu tư của nhà nước cho các dự án, có trách nhiệm hoàn trả vốn và lãi theo các quy định của nhà nước và theo hợp đồng ký kết giữa bên cho vay và bên vay. Tuy nhiên, việc cho vay của nhà nước cũng chỉ là hỗ trợ, chưa có khả năng cho vay 100% mức vốn của dự án. Các doanh nghiệp và các nhà đầu tư có vay vốn cần huy đồng thêm các nguồn vốn khác nhau và vốn tự có để bảo đảm thực hiện các dự án có hiệu quả cao nhất.
Đối với nguồn vốn tín dụng đầu tư của nhà nước, thì thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án của doanh nghiệp nhà nước sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, thực hiện theo quy định như đối với vốn ngân sách nhà nước nêu trên.
+ Hội đồng quản trị các Tổng công ty nhà nước được quyền quyết định đầu tư các dự án nhóm C. Riêng các Tổng công ty nhà nước do Thủ tướng Chính phủ trực tiếp quản lý, Hội đồng quản trị của tổng công ty được quyền quyết định đầu tư các dự án nhóm B, C.
+ Chủ đầu tư các dự án nhóm C sử dụng các nguồn vốn quy định tại khoản 2 Điều này được quyền phê duyệt kế hoạch đấu thầu, kết quả đấu thầu, hợp đồng giao nhận thầu, kiểm tra chất lượng, nghiệm thu và quyết toán vốn đầu tư theo các chế độ, chính sách hiện hành của nhà nước trong phạm vi tổng mức đầu tư và các nội dung ghi trong quyết định đầu tư, thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán đã được người có thẩm quyền quyết định đầu tư phê duyệt. Tổ chức cho vay vốn theo dõi và kiểm tra thực hiện đầu tư theo quyết định đầu tư và thực hiện quyết toán vốn đầu tư.
Các dự án nhóm A, B quá trình thực hiện đầu tư được áp dụng theo quy định đối với dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
(3) Nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước: là nguồn vốn được huy động từ nguồn khấu hao cơ bản để lại, lợi nhuận sau thuế và các khoản đầu tư khác của doanh nghiệp nhà nước: đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, hiện đại hoá từng phần trong các doanh nghiệp hoắc góp vốn liên doanh…
Để đảm bảo huy động tốt nguồn vốn tư các doanh nghiệp nhà nước thì cần phải tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, làm ăn có lãi. Mặt khác, tiến hành đẩy nhanh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước không cần thiết phải có 100% vốn nhà nước, mở rộng diện và hạn mức mua cổ phiếu để nhà nước có thể có ngay nguồn vốn lớn cho đầu tư và tái đầu tư; cải tiến thủ tục ra quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nướ._.c. Sớm ban hành Nghị định sửa đổi bổ sung của Chính phủ về bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước, nhất là bán doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ, thu nhanh vốn về cho ngân sách. Như vậy có khả năng huy động nhiều hơn vốn đầu tư phát triển, có điều kiện để tập trung cho đổi mới công nghệ, tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm và nền kinh tế.
Đối với nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước thì thẩm quyền quyết định các dự án đầu tư và triển khai thực hiện đầu tư được quy định như sau:
+ Đối với các dự án nhóm A, thẩm quyền quyết định đầu tư và thực hiện đầu tư được áp dụng theo quy định đối với dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước;
+ Đối với các dự án nhóm B, C doanh nghiệp nhà nước căn cứ vào quy hoạch phát triển ngành đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc thông qua để quyết định đầu tư; quá trình thực hiện đầu tư do doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm trên cơ sở thực hiện đúng các chế độ chính sách hiện hành của nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng về định mức, đơn giá và quy chế đấu thầu. Tổ chức quản lý vốn của doanh nghiệp và các tổ chức hỗ trợ vốn cho dự án có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện quyết định đầu tư và thực hiện quyết toán vốn đầu tư.
2.2.2. Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài
Ta có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài dưới giác độ như là dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất thì các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các nước thuộc thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra dưới nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn chính như sau:
+ Tài trợ phát triển chính thức (ODF – official development finance). Nguồn này bao gồm: viện trợ phát triển chính thức (ODA – official development assistance) và các hình thức tài trợ phát triển khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF, vì thế khi đề cập đến nguồn tài trợ phát triển chính thức thì chỉ đề cập đến nguồn ODA.
+ Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
+ Nguồn huy động qua thị trường vốn.
Với đề tài nghiên cứu này, tôi sẽ giới thiệu cụ thể hơn về hai nguồn vốn nước ngoài chủ yếu đóng vai trò quan trọng đối với nguồn vốn đầu tư phát triển của quốc gia, đó là: nguồn vốn ODA và nguồn vốn FDI.
2.2.2.1. Nguồn vốn ODA
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khỗi lượng vốn vay tương đối lớn, thì bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%.
Trong thời gian qua (2001-2005), việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh khó khăn kinh tế toàn cầu, nguồn ODA của thế giới có xu hướng giảm đáng kể. Tuy nhiên, nguồn ODA mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam vẫn tiếp tục tăng lên qua các năm, cụ thể: năm 2001 đạt 2,4 tỷ USD; năm 2002 đạt 2,6 tỷ USD; năm 2003 đạt 2,83 tỷ USD; năm 2004 đạt 3,4 tỷ USD; năm 2005 dự kiến cam kết 3,5 tỷ USD. Điều này thể hiện sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng các nhà tài trợ, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ đối với chính sách phát triển kinh tế – xã hội của đảng và Nhà nước ta.
Việc ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA trong 5 năm đã diễn ra thuận lợi; tổng giá trị các hiệp định ký kết đạt khoảng 14,7 tỷ USD, trong đó vốn viện trợ không hoàn lại chiếm 15-20%. Tuy nhiên tỷ lệ giả ngân nguồn vốn này chưa cao, dự kiến trong 5 năm ước giải ngân nguồn vốn ODA khoảng 7,8 tỷ USD đạt 87% so với kế hoạch đề ra, cụ thể: năm 2001 chỉ giải ngân được 1,5 tỷ USD; năm 2002 là 1,55 tỷ USD; năm 2003 là 1,42 tỷ USD; năm 2004 là 1,6 tỷ USD; năm 2005 ước là 1,7 tỷ USD.
Trong các chương trình, dự án ODA đã được ký kết có những dự án quốc gia mang ý nghĩa kinh tế xã hội quan trọng đối với cả nước. Việc vận động nguồn ODA trực tiếp tập trung cho các vùng nghèo, có nhiều khó khăn cũng được cải thiện một bước so với trước đây. Giá trị ODA bình quân đầu người mà các vùng nghèo, khó khăn được thụ hưởng trực tiếp trong thời gian qua đã được cải thiện một phần. Nhiều công trình đầu tư bằng nguồn vốn ODA đã hoàn thành, đưa vào sử dụng góp phần tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống người dân, tăng cường công bằng xã hội.
2.2.2.2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những nghành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.
Kinh nghiệm phát triển hiện đại của một số nước Đông á cho thấy rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của các quốc gia này. Vấn đề hiệu quả sử dụng vốn FDI tuỳ thuộc chủ yếu vào cách thức huy động và quản lý sử dụng nó tại nước tiếp nhận đầu tư chứ không chỉ ở ý đồ của người đầu tư.
Đối với Việt Nam, sau hơn 10 năm thực hiện chính sách mở cửa, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp phần bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện…Từ 2001-2005 , tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong GDP tăng dần, cụ thể: năm 2001 là 13,1%; năm 2002 là 13,9%; năm 2003 là 14,5%; năm 2004 là 14,8% và năm 2005 ước là 15% GDP. Trong 5 năm qua, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm gần 17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, giảm đáng kể so với con số 24% của thời kỳ trước; tổng doanh thu không kể dầu khí đạt 76,9 tỷ USD, gấp hơn 2,5 lần so với kỳ trước; giá trị xuất khẩu không kể dầu khí đạt 34,2 tỷ USD, gấp 3 lần so với kỳ trước và chiếm trên 31% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; kim ngạch nhập khẩu đạt 45,2 tỷ USD, chiếm 34,7% tổng kim ngạch nhập khẩu; nộp ngân sách nhà nước khoảng 3,4 tỷ USD, gấp 2 lần so với thời kỳ trước và bằng 4,9% tổng thu ngân sách; thu hút khoảng 86 vạn lao động trực tiếp, tăng hơn 2 lần so với kỳ trước và số lao động gián tiếp ước tăng hơn 2 lần.
3. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ.
Bất kỳ một hoạt động bỏ vốn đầu tư nào dù là đứng trên phương diện chủ đầu tư hay nhà quản lý thì họ đều mong muốn rằng hoạt động sử dụng vốn đầu tư của mình sẽ đạt được hiệu quả. Hiệu quả đó có thể là lợi nhuận đối với các nhà đầu tư hoặc là các lợi ích về kinh tế - xã hội đối với các nhà quản lý nền kinh tế. Vì vậy, để đi xem xét về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho dự án thì ta sẽ đi xem xét trên hai phương diện là hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án đầu tư.
3.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả vốn đầu tư
3.1.1. Hiệu quả tài chính
3.1.1.1. Khái niệm
Hiệu quả tài chính (Etc ) của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống người lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với kỳ khác, các cơ sở khác hoặc so với định mức chung.
Etc
=
Các kết quả mà cơ sở thu được do thực hiện
đầu tư số vốn đầu tư mà cơ sở đã thực hiện để tạo ra các kết quả trên
Etc được coi là có hiệu quả khi Etc > Etc0
Trong đó: Etc0 - Chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của các kỳ khác mà cơ sở đã đạt được chọn làm cơ sở so sánh, hoặc của các đơn vị khác đã đạt được tiêu chuẩn hiệu quả.
Do đó, để phản ánh hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư người ta phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiệu quả và được sử dụng trong những điều kiện nhất định.
3.1.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính
Đối với dự án đầu tư, hệ thống đánh gía hiệu quả tài chính gồm có:
- Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án: Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tuyệt đối của dự án đầu tư .Chỉ tiêu lợi nhuận thuần tính cho từng năm của đời dự án, phản ánh hiệu quả hoạt động từng năm của đời dự án. Chỉ tiêu thu nhập thuần phản ánh hiệu quả hoạt động của toàn bộ công cuộc đầu tư (quy mô lãi của cả đời dự án). Các chỉ tiêu này có thể tính chuyển về mặt bằng thời gian hiện tại hoặc tương lai.
- Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư còn gọi là hệ số thu hồi vốn đầu tư:
Chi tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thu được từng năm trên một đơn vị vốn đầu tư (1000đ, 1.000.0000đ,…) và mức thu nhập thuần thu được tính cho 1 đơn vị vốn đầu tư
Trong đó:
Iv0 : Vốn đầu tư tại thời điểm hiện tại (dự án bắt đầu hoạt động).
Wipv : Lợi nhuận thuần năm i tính chuyển về thời điểm hiện tại.
NPV: Thu nhập thuần tính chuyển về thời điểm hiện tại.
- Chỉ tiêu tỷ số lợi ích - chi phí (B/C): Chỉ tiêu này phản ánh tỷ số giữa lợi ích thu được với chi phí bỏ ra, dự án có hiệu quả khi B/C ≥ 1, dự án không có hiệu quả khi B/C < 1.
- Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư (T ): Cho biết thời gian mà dự án cần hoạt động để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra từ lợi nhuận và khấu hao thu được hàng năm. Dự án có hiệu quả khi T ≤ T tuổi thọ dự án hoặc T ≤ T định mức. Thời gian thu hồi vốn càng ngắn thì hiệu quả của dự án càng cao.
- Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR): Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì cân bằng với tổng chi. Dự án có hiệu quả khi: IRR = rgiới hạn . Dự án không có hiệu quả khi IRR < rgiới hạn . Tỷ suất giới hạn được xác định căn cứ vào các nguồn huy động của dự án. Chẳng hạn dự án vay vốn đầu tư, tỷ suất giới hạn là mức lãi suất vay. Nếu sử dụng vốn tự có để đầu tư, tỷ suất giới hạn là mức chi phí cơ hội của vốn. Nếu huy động vốn từ nhiều nguồn, tỷ suất giới hạn là mức lãi suất bình quân từ các nguồn huy động...
- Chỉ tiêu điểm hoà vốn: Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu vừa đủ để trang trải các khoản chi phí phải bỏ ra. Điểm hoà vốn được biểu hiện bằng chỉ tiêu hiện vật (sản luợng tại điểm hoà vốn) và chỉ tiêu giá trị (doanh thu tại điểm hoà vốn). Nếu sản lượng hoặc doanh thu của cả đời dự án lớn hơn sản lượng hoặc doanh thu hoà vốn thì dự án có lãi (có hiệu quả) và ngược lại, nếu nhỏ hơn, dự án bị lỗ (không có hiệu quả). Điểm hoà vốn càng nhỏ càng tốt, mức độ an toàn của dự án càng cao, thời gian thu hồi vốn càng ngắn.
3.1.2. Hiệu quả kinh tế - xã hội
3.1.2.1. Khái niệm
Hiệu quả kinh tế - xã hội là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế -xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế và xã hội đã phải bỏ ra khi thực hiện đầu tư.
Các dự án đầu tư nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội thường là các dự án được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, vì mục đích của việc đầu tư là đạt được những lợi ích về kinh tế xã hội trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân. Và để xem xét mức độ đóng góp cụ thể của các dự án đầu tư trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế có đạt hay không thì ta sẽ dựa vào các tiêu chuẩn đánh giá sau.
3.1.2.2. Các tiêu chuẩn đánh giá
Đối với mọi quốc gia, mục tiêu chủ yếu của nền sản xuất xã hội là tối đa hoá phúc lợi. Mục tiêu này thường được thể hiện qua các chủ trương chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Ở các nước phát triển, các mục tiêu chủ yếu được đề cập trong kế hoạch phát triển dài hạn được đo lường bằng các tiêu chuẩn sau:
- Nâng cao mức sống dân cư: Đựơc thể hiện gián tiếp thông qua các số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm quốc gia, mức gia tăng thu nhập, tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Phân phối thu nhập và công bằng xã hội: Thể hiện thông qua sự đóng góp của công cuộc đầu tư vào việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triền và đẩy mạnh công bằng xã hội.
- Gia tăng số lao động có việc làm: Đây là một trong những mục tiêu chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các nước thừa lao động thiếu việc làm.
- Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ: Những nước đang phát triển không chỉ nghèo mà còn là nước nhập siêu. Do đó đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu là những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế tại các quốc gia này.
- Các mục tiêu kế hoạch kinh tế khác là:
+ Tận dụng khai thác tài nguyên chưa được quan tâm hay mới được phát hiện.
+ Nâng cao năng xuất lao động, đào tạo lao động có trình độ tay nghề cao, tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật để hoàn thiện cơ cấu sản xuất của nền kinh tế
+ Phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo có tác dụng gây phản ứng dây truyền thúc đẩy phát triển các ngành nghề khác.
+ Phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương nghèo, các vùng xa xôi, dân cư thưa thớt nhưng có nhiều triển vọng về tài nguyên để phát triển kinh tế.
3.1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư
3.1.2.3.1. Giá trị gia tăng thuần tuý NVA (Net value added): Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư. NVA là mức chênh lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào.
NVA = O – (MI + Iv)
Trong đó:
NVA: Giá trị gia tăng thuần tuý do đầu tư đem lại
O (output): Giá trị đầu ra của dự án.
MI (Material input): Giá trị đầu vào vật chất thường xuyên và các dịch vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây (như năng lượng, nhiên liệu, giao thông, bảo dưỡng...)
Iv: Vốn đầu tư bao gồm chi phí xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, thiết bị...
3.1.2.3.2. Chỉ tiêu số lao động có việc làm do thực hiện dự án và số lao động có việc làm tính trên 1 đơn vị giá trị vốn đầu tư
- Số lao động có việc làm: bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp cho dự án và số lao động có việc làm ơ các dự án liên đới (số lao động có việc làm gián tiếp). Các dự án liên đới là các dự án khác được thực hiện do sự đòi hỏi của dự án đang được xem xét.
Trình tự xác định số lao động (Trực tiếp và gián tiếp) có việc làm do thực hiện dự án như sau:
+ Xác định số lao động cần thiết cho dự án đang xem xét tại năm hoạt động binhg thường của đời dự án.
+ Xác định số lao động cần thiết cho việc tăng thêm ở các dự án liên đới cả về đầu vào và đầu ra. Đây chính là số lao động có việc làm gián tiếp nhờ thực hiện dự án đang xem xét.
+ Tổng hợp số lao động trực tiếp và gián tiếp có việc làm trên đây chính là tổng lao động có việc làm nhờ thực hiện dự án.
- Số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư.
Để tính chỉ tiêu số lao động có việc làm trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư, cũng tương tự như đối với lao động, ta phải tính số vốn đầu tư trực tiếp của dự án đang xem xét và vốn đầu tư của các dự án liên đới. Tiếp đó tính các chỉ tiêu sau đây:
Số lao động có việc làm trực tiếp tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư trực tiếp (Id).
Trong đó:
Ld: Số lao động có việc làm trực tiếp của dự án
Ivd: Số vốn đầu tư trực tiếp của dự án
Toàn bộ số lao động có việc làm tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư đầy đủ (It)
Trong đó:
Lt: Toàn bộ số lao động có việc làm trực tiếp và gián tiếp
IvT: Số vốn đầu tư đầy đủ của dự án đang xem xét và các dự án liên đới.
LT = Ld + Lind
IVT = IVd + IVind
Lind: Số lao động có việc làm gián tiếp
IVind: Số vốn đầu tư gián tiếp
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ NSNN
Đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tuy chỉ chiếm 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nhưng nó luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư khác, thúc đẩy hoạt động đầu tư đối với nền kinh tế đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, để sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước thì ta cần xem xét các nhân tố ảnh hưởng của nó. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đén hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ NSNN, cụ thể ta sẽ đi xem xét một vài nhân tố sau:
Công tác quản lý đầu tư ở các ngành, các cấp: là một trong những nhân tố ảnh hưởng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Tình trạng buông lỏng trong quản lý, thiếu kỷ cương, kỷ luật trong lĩnh vực đầu tư có thể dẫn đến những sai sót trong quản lý kế hoạch đầu tư và quá trình xây dựng thể hiện ở tất cả các khâu, từ xác định chủ trương, xây dựng dự án, thẩm định dự án, ra quyết định đầu tư, thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán đến khâu triển khai thực hiện, giám sát thi công, theo dõi cấp phát thanh quyết toán...Thêm vào đó, tình trạng ham thành tích bề nổi, không chú ý đến quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật, hiệu quả đầu tư và kinh doanh cũng làm cho tình trạng lãng phí, thất thoát thêm nghiêm trọng.
Chất luợng công tác quy hoạch: Hiện nay, chất lượng công tác quy hoạch ở nước ta chưa cao, chưa làm cơ sở cho kế hoạch đầu tư phát triển; dẫn đến tình trạng phải điều chỉnh dự án nhiều lần gây lãng phí vốn đầu tư chất lượng các quy hoạch chưa cao, thiếu gắn kết với nhau, chưa dựa vào nhu cầu thi trường. Trong khi đó, Nhà nước lại thiếu công cụ, chính sách hữu hiệu để quản lý, giám sát thực hiện quy hoạch; tình trạng đầu tư tự phát, không theo quy hoạch còn khá phổ biến, đã dẫn đến hậu quả tiêu cực về kinh tế và môi trường, một số sản phẩm được đầu tư nhiều vượt xa quy hoạch dẫn đến cung vượt cầu, giá cả tụt giảm, tiêu thụ khó khăn, điển hình như cà phê, hạt tiêu...
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về đầu tư và xây dựng: đây cũng là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về đầu tư và xây dựng vẫn chưa được triển khai đến nơi đến chốn trong tất cả các ngành và các cấp. Việc phân cấp về quản lý đầu tư và xây dựng cho các Bộ, các ngành, các địa phương đã được tiến hành rộng rãi, toàn diện và triệt để nhưng lại thiếu các chế tài kiểm tra, giám sát. Thêm vào đó, trách nhiệm quản lý của các Bộ, ngành, địa phương, các chủ đầu tư chưa cao trong việc xem xét đầy đủ các nội dung theo quy định; một số dự án được phê duyệt nhưng tính khả thi thấp, dẫn đến đầu tư kéo dài, hiệu quả không cao.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ CHO DỰ ÁN
TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Như đã biết, nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước bao gồm cả vốn tích luỹ của nguồn thu trong nước của ngân sách và vốn ODA viện trợ không hoàn lại hoặc vốn vay đưa vào ngân sách.
Nguồn vốn ngân sách đóng vai trò hết sức quan trọng trong chương trình đầu tư phát triển và chương trình đầu tư công cộng; tác động nhiều chiều đến việc thu hút các nguồn vốn khác; nếu sử dụng không tốt, dự án đầu tư không có hiệu quả thì sẽ hạn chế khả năng thu hút các nguồn vốn khác và ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện toàn bộ chương trình; ngược lại, nếu sử dụng có hiệu quả, đúng mục tiêu thì sẽ thúc đẩy khả năng huy động nguồn vốn và tính hiệu quả của các dự án thuộc nguồn vốn khác. Vốn từ ngân sách nhà nước chỉ đầu tư mới rất hạn chế cho doanh nghiệp nhà nước và không đầu tư cho các cơ sở sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp này. Đối với ngành công nghiệp, thì nguồn vốn từ ngân sách chỉ hỗ trợ đầu tư cho cơ sở hạ tầng ngoài khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng làng nghề…Còn trong nông nghiệp thì nguồn vốn ngân sách hỗ trợ đầu tư phát triển hệ thông giống cây trồng, vật nuôi, hệ thông thuỷ lợi…Để nghiên cứu cụ thể hơn quá trình đầu tư từ ngân sách nhà nước, ta sẽ đi xem xét thực trạng sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước theo ngành kinh tế và theo vùng lãnh thổ.
1. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH THEO NGÀNH KINH TẾ
1.1. Vốn đầu tư phát triển ngành nông nghiệp và nông thôn
Nông nghiệp là một nền tảng quan trọng để góp phần ổn định kinh tế, xã hội. Trong 5 năm qua chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm cũng như thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia khác, tạo động lực mạnh mẽ cho nông dân và người dân ở nông thôn hăng hái tham gia phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nông nghiệp tiếp tục duy trì đà phát triển khá cao với nhịp tăng trên 5,7%/năm, góp phần giữ vững ổn định lương thực, cung cấp nông sản cho công nghiệp chế biến và cho xuất khẩu, góp phần ổn định chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước.
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên nhiều vùng đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng hiệu quả trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp; trong khi bảo đảm an toàn lương thực đã phát triển đa dạng nông nghiệp, nhất là cây công nghiệp; đặc biệt nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản phát triển khá nhanh, chiếm khoảng 15% giá trị sản xuất toàn ngành, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng cao.
Cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nông thôn được tăng cường; đời sống kinh tế và xã hội đã có nhiều cải thiện, tạo ra nhiều khả năng thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, chuyển đổi cây trồng vật nuôi bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội góp phần xoá đói giảm nghèo và tạo thêm việc làm ở nông thôn.
Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp cũng đặt ra mục tiêu phát triển trong 5 năm (2001-2005) đó là tập trung chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hưóng gắn chặt với thị trường trong và ngoài nước; xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh năng xuất cao và có khả năng xuất khẩu ổn định, phù hợp với tiềm năng và lợi thế của từng vùng; phấn đấu đạt giá trị cao trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp.
Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp dự kiến tăng bình quân 4,8%/năm. Đến năm 2005, ngành nông nghiệp (bao gồm cả trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp) chiếm khoảng 75 - 76% giá trị sản xuất toàn ngành; lâm nghiệp khoảng 5 - 6%; thuỷ sản khoảng 19 - 20%.
BẢNG 2. VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHO NGÀNH
NÔNG, LÂM, NGƯ NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2001-2005
Đơn vị: 1000 tỷ đồng (giá năm 2000)
2001-2005
2001
2002
2003
2004
2005
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng(%)
Số tiền
Tỷ trọng(%)
Vốn đầu tư toàn xã hội
109,2
100
17,9
100
20,7
100
22,1
100
23,3
100
25,0
100
Vốn đầu tư từ NSNN
46,63
42,7
9
50,3
9,2
44,4
9,3
42,08
9,5
40,77
9,6
38,4
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Để đáp ứng mục tiêu phát triển của ngành, thì nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm (2001-2005) khoảng 109,2 nghìn tỷ đông, trong đó nguồn vốn từ NSNN đầu tư cho nghành khoảng 46,63 nghìn tỷ đồng chiếm 42,7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của ngành. Cụ thể, năm 2001 là 9 nghìn tỷ chiếm 50,3%; năm 2002 là 9,2 nghìn tỷ chiếm 44,4%; năm 2003 là 9,3 nghìn tỷ chiếm 42,08%; năm 2004 là 9,5 nghìn tỷ chiếm 40,77%; năm 2005 là 9,6 nghìn tỷ chiém 38,4%.
Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách chưa cao. Vẫn còn nặng đầu tư vào các công trình thuỷ lợi (chiếm hơn 70% vốn đầu tư của ngành), chủ yếu là thuỷ lợi phục vụ cây lúa, việc xây dựng các công trình thuỷ lợi tưới cho các loại cây công nghiệp còn ít, còn coi nhẹ đầu tư thuỷ lợi cấp nước cho công nghiệp và dân sinh, cho nuôi trồng thuỷ sản. Vốn cho công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, công tác nghiên cứu phát triển giống, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư thời gian đầu chưa được quan tâm thoả đáng.
Cơ cấu đầu tư còn nhiều điểm chưa hợp lý như đầu tư ngân sách cho một số ngành và sản phẩm được bảo hộ; đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn và cơ sở hạ tầng còn thấp…Việc đầu tư phục vụ việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế còn ít, nặng về đầu tư quốc doanh, chưa có chính sách tốt để thu hút các nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Mới quan tâm đầu tư “đầu vào” nhằm phát triển năng lực sản xuất, chưa quan tâm đến đầu ra của sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ lưu thông hàng hoá, đầu tư cho công tác bảo quản chế biến sau thu hoạch, đầu tư cho thông tin thị trường chưa tương xứng. Mới quan tâm đầu tư theo chiều rộng, lấy số lượng làm chính, do vậy một số hàng hoá nông sản làm ra thường chất lượng không cao, chủng loại, mẫu mã kém, không phù hợp với yêu cầu thị trường, giá thành cao hơn các nước trong khu vực và thế giới, khả năng cạnh tranh khó khăn; tỷ lệ nông sản qua chế biến thấp, phần lớn xuất khẩu hàng nông sản của ta vẫn là sản phẩm thô.
1.2. Vốn đầu tư phát triển ngành công nghiệp
Ngành công nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu công nghệ theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm ngành công nghiệp trong 5 năm qua đạt 13,5%. Đó là bước phát triển khá nhanh, góp phần làm cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng với tốc độ bình quân khoảng 7% trong điều kiện kinh tế các nước trong khu vực đều suy giảm.
Năng lực sản xuất một số sản phẩm công nghiệp tăng khá; không những đã đảm bảo đủ nhu cầu về ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại, học hành và nhiều loại hàng tiêu dùng thiết yếu khác, mà còn có khả năng xuất khẩu ngày càng tăng. Nhiều sản phẩm quan trọng có ý nghĩa chiến lược, có tác động lớn đến nhiều ngành kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng khá. Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể, hình thành một số sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất có công nghệ khá hiện đại.
Trong kế hoạch 5 năm (2001-2005), ngành công nghiệp có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với một số chỉ tiêu về tăng trưởng ngành công nghiệp như sau:
+ Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân trên 13,1%/năm
+ Ngành điện tăng trưởng khoảng 13%/năm; năm 2005 dự kiến điện sản xuất đạt 49 tỷ Kwh
+ Ngành than tăng trưởng khoảng 6,8%/năm; năm 2005 sản lượng than sạch khoảng 15 triệu tấn và xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn
+ Ngành dầu khí tăng trưởng khoảng 4 - 5%; năm 2005 dự kiến đạt sản lượng 22 - 24 triệu tấn dầu quy đổi và xuất khẩu khoảng 12 - 16 triệu tấn
+ Ngành thép tăng trưởng khoảng 14%/năm; năm 2005 dự kiến đạt sản lượng 2,7 triệu tấn thép xây dựng, 1 - 1,4 triệu tấn phôi thép và 0,7 triệu tấn thép các loại khác
Ngành xi măng tăng trưởng khoảng 13%/năm; năm 2005 dự kiến đạt sản lượng 24 triệu tấn xi măng
Ngành giấy tăng trưởng khoảng 10%/năm; năm 2005 dự kiến đạt sản lượng 605 nghìn tấn giấy.
Để đạt được các mục tiêu tăng trưởng này thì nguồn vốn đầu tư phát triển cho ngành công nghiệp cần thiết trong giai đoạn 2001-2005 là:
BẢNG 3. VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP
Đơn vị: 1000 tỷ đồng (giá năm 2000)
2001-2005
2001
2002
2003
2004
2005
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng(%)
Số tiền
Tỷ trọng(%)
Vốn đầu tư toàn xã hội
369,6
100
62,6
100
71,0
100
74,9
100
78,5
100
82,4
100
Vốn đầu tư từ NSNN
17,72
4,79
3,7
5,91
3,5
4,93
3,5
4,67
3,5
4,46
3,5
4,24
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Từ bảng 3, nguồn vốn cần thiết đầu tư cho ngành công nghiệp trong giai đoạn 2001-2005 khoảng 369,6 nghìn tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho ngành là 17,72 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,79% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. So với các nguồn vốn đầu tư xã hội khác như: nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước thì nguồn vốn đâu tư từ ngân sách ít hơn nhiều. Điều này là do trong đầu tư phát triển công nghiệp thì vốn từ ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho công nghiệp.
Mặc dù nguồn vốn đầu tư phát triển cho ngành từ ngân sách còn thấp, nhưng việc sử dụng nguồn vốn này trong ngành vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Nhiều công trình đầu tư đã quá chú trọng vào việc đầu tư để tăng công suất sản xuất mà chưa chú ý đúng mức đến năng lực cạnh tranh của đầu ra tiêu thụ sản phẩm được thị trường chấp nhận đến mức nào; tuy có quy hoạch nhưng còn rất lúng túng trong việc tạo ra một hệ thống chính sách, biện pháp phù hợp để thực hiện quy hoạch gắn với thị trường, nên đã dẫn đến việc đầu tư quá mức trong một số ngành, làm cho một số sản phẩm cung vượt quá cầu; chưa tập trung đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại nên chất lượng sản phẩm chưa cao, giá thành chưa hạ; chưa đầu tư đúng mức cho công nghiệp sản xuất vật liệu, công nghiệp chế tạo, công nghiệp công nghệ cao để tăng cường khẳ năng chủ động của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu. Một số dự án, chương trình đầu tư phát triển công nghiệp đã đề ra trong mỗi kỳ kế hoạch 5 năm chưa được triển khai hoặc triển khai chậm do chưa tính hết các yếu tố khách quan từ phía đối tác và cả yếu tố chủ quan, trong đó có yếu tố thiếu nguồn vốn.
1.3. Vốn đầu tư phát triển ngành giao thông vận tải và bưu chính viễn thông
Ngành giao thông vận tải và bưu chính viễn thông trong 5 năm qua đã có bước phát triển đáng kể, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành đã được tăng cường, đáp ứng nhu cầu phát triển.
Trong 5 năm (1996-2000) đã xây dựng mới và nâng cấp 5.134 km đường quốc lộ, làm mới 11,5 km cầu đường bộ, sửa chữa và nâng cấp 200 km đường sắt, khôi phục 2,5 km cầu trên tuyến đường sắt Thống Nhất. Mở rộng và từng bước hiện đại hoá các cảng biển quan trọng như Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng, Cần Thơ…nâng năng lực thông qua hệ thống cảng biển lên trên 70 triệu tấn/năm. Giao thông nông thôn đã có nhiều cải thiện.
Hệ thống bưu chính viễn thông có bước phát triển khá, được hiện đại về cơ bản. Tất cả các tỉnh và các huyện được trang bị tổn đài điện tử, được nối với nhau qua các tuyến cáp quang và viba số. Các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đát xấp xỉ 20 máy/100 dân, trên 85% số xã trong toàn quốc đã có điện thoại. Mạng viễn thông quốc tế và công nghiệp viễn thông có bước phát triển nhanh, hiện đại hơn.
Trong 5 năm (2001-2005), ngành giao thông vận tải sẽ tập trung nâ._.hần vận tải trên các tuyến bay quốc tế của Việt Nam từ 40 đến 45%. Mở rộng sân bay để có thể tiếp nhận được 13 triệu lượt hành khách năm 2005 lên 20,8 triệu vào năm 2010. Hệ thống cảng biển đạt năng lực bốc xếp thông qua cảng 208 triệu tấn vào năm 2010.
Hướng phát triển chung là tập trung nâng cao năng lực, cơ sở vật chất của ngành và năng lực của đội ngũ cán bộ để nâng cao năng lực cạnh tranh, từng bước mở cửa thị trường dịch vụ vận tải, qua đó tăng cường thu hút các nguồn vốn nước ngoài và tiếp cận công nghệ hiện đại để phát triển vận tải.
Dịch vụ bưu chính viễn thông: Tiếp tục nâng cao chất lượng, giảm chi phí, bảo đảm giá cước hợp lý nhằm nâng cao sức cạnh tranh để đáp ứng xu hướng hội nhập. Đa dạng hoá các dịch vụ và chính sách chăm sóc khách hàng. Phát triển mạnh dịch vụ bưu chính viễn thông và các dịch vụ mới như Internet tốc độ cao, điện thoại di động trong nước và quốc tế, các dịch vụ băng rộng..., tiếp tục phát triển các điểm bưu điện - văn hoá xã, phổ cập các dịch vụ bưu chính viễn thông cơ bản; đẩy mạnh các hình thức dịch vụ có khả năng xuất khẩu thu ngoại tệ.
Đến năm 2010, đạt trình độ khu vực về mật độ điện thoại, công nghệ và các loại hình dịch vụ bưu chính-viễn thông.
Phấn đấu tốc độ tăng số điện thoại trên mạng bình quân hàng năm là 17%/năm; tổng số máy điện thoại đạt 31 triệu máy; mật độ điện thoại đạt 35 máy/100 dân.
1.1.4. Giáo dục, đào tạo, dạy nghề phát triển nguồn nhân lực
Tiếp tục đổi mới giáo dục và đào tạo một cách có hệ thống và đồng bộ, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, mở rộng hợp tác quốc tế, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tiếp cận trình độ giáo dục tiên tiến của khu vực và thế giới.
Đẩy mạnh phát triển giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở nông thôn và vùng khó khăn; củng cố và nâng cao thành quả phổ cập giáo dục tiểu học, thực hiện phổ cập đúng độ tuổi và đảm bảo chất lượng toàn diện; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước vào năm 2010, thực hiện phổ cập trung học phổ thông ở những nơi có điều kiện.
Mở rộng quy mô giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp: Tuyển sinh đại học, cao đẳng tăng trung bình 10%/năm để đến năm 2010 đạt chỉ tiêu 200 sinh viên/10.000 dân; tuyển mới trung học chuyên nghiệp tăng 15%/năm; dạy nghề cho khoảng 7,5-8 triệu lao động, trong đó 25% dài hạn, bảo đảm tuyển mới dạy nghề dài hạn tăng 15-17%/năm. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 40% tổng lao động xã hội.
Thực hiện đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục mầm non và phổ thông. Chú trọng hình thức giáo dục tiền học đường. Thực hiện điều chỉnh phương án phân ban trung học phổ thông góp phần tích cực hướng nghiệp cho học sinh và phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Lồng ghép vấn đề giới, sức khoẻ sinh sản... vào chương trình học các cấp.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, bao gồm chuẩn về kiến thức, kỹ năng đối với từng cấp học, bậc học và trình độ đào tạo; các yêu cầu cơ bản về đạo đức, tác phong và trách nhiệm của người học; chuẩn về điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục (đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý và công nhân viên; sách giáo khoa, giáo trình và tài liệu tham khảo; trường sở, thiết bị, phòng thí nghiệm, thư viện, sân chơi, bãi tập…).
Hoàn thiện hệ thống đào tạo theo hướng liên thông, mở ra nhiều khả năng và cơ hội học tập khác nhau cho mọi người. Phát huy ưu điểm của các chương trình đào tạo hiện có, tiếp nhận có chọn lọc những chương trình tốt trên thế giới để xây dựng một hệ thống chương trình đa dạng, mềm dẻo, linh hoạt, tiên tiến và hiện đại, liên thông giữa các trình độ đào tạo.
Tăng cường hiệu quả giáo dục lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa nội dụng giáo dục về giới giảng dạy trong các bậc học, chú ý coi trọng dạy người (cùng với dạy chữ và dạy nghề) để hình thành nhân cách con người mới Việt Nam. Xóa bỏ định kiến về giới và đưa nội dung về giới để giảng dạy trong các bậc học.
Tập trung đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, học tập và quản lý ở nhà trường.
Thực hiện tốt hơn công bằng xã hội và bình đẳng giới, ưu tiên phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc, vùng khó khăn, đặc biệt là tình trạng tái mù chữ của đồng bào dân tộc thiểu số và giáo dục cho trẻ em bị thiệt thòi và phụ nữ mù chữ.
1.2. Định hướng đầu tư phát triển các vùng lãnh thổ
1.2.1. Vùng Trung du miền núi Bắc bộ
Phát triển kinh tế - xã hội vùng trung du miền núi Bắc Bộ với nhịp độ nhanh hơn nhằm thực hiện xóa đói, giảm nghèo, rút ngắn sự chênh lệch về điều kiện sống và tiến bộ xã hội với các vùng khác trong cả nước; khai thác thế mạnh của vùng về đất đai, khí hậu, rừng, các loại tài nguyên khoáng sản, tiềm năng thuỷ điện, lợi thế về cửa khẩu để phát triển các ngành kinh tế. Cải thiện rõ rệt hệ thống hạ tầng kinh tế, xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển của vùng; hoàn thành việc đưa dân trở lại biên giới; bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc ít người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh quốc phòng.
Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2010:
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng. Phấn đấu đến năm 2010 GDP bình quân đầu người đạt từ 460-530 USD. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 30%, công nghiệp - xây dựng khoảng 29,8% và ngành dịch vụ khoảng 40,2%. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 25-30%. Tỷ lệ hộ nghèo của vùng Tây bắc giảm từ 44% năm 2005 xuống còn 24%, vùng Đông bắc từ 33% năm 2005 xuống 18% vào năm 2010 (theo Chuẩn nghèo mới).
1.2.2. Vùng Đồng bằng sông Hồng
Xây dựng vùng Đồng bằng sông Hồng trở thành vùng kinh tế - xã hội - văn hóa phát triển mạnh, thể hiện rõ vai trò đầu mối về giao thương hợp tác quốc tế và khu vực, lôi kéo, hỗ trợ các vùng khác, nhất là các vùng miền núi và trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ cùng phát triển..
Một số chỉ tiêu chủ yếu:
Đảm bảo kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh và có chất lượng trong thời kỳ 2006-2010. Phấn đấu đến năm 2010 GDP bình quân đầu người đạt từ 1.110-1.360 USD. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, theo hướng tăng nhanh công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là chuyển một số diện tích đất sang dịch vụ để tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 11,8%; công nghiệp và xây dựng khoảng 44,9%; dịch vụ khoảng 43,3%. Xuất khẩu tăng bình quân 15%/năm (riêng vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc tăng khoảng 25%), phấn đấu kim ngạch xuất khẩu của các tỉnh trong vùng chiếm 20-25% giá trị xuất khẩu của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 14,4% năm 2005 xuống còn 6-7% vào năm 2010 (theo Chuẩn nghèo mới).
1.2.3. Vùng Tây Nguyên
Phát huy tiềm năng lợi thế về đất đai, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, xây dựng Tây Nguyên phát triển toàn diện, bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, mạnh về quốc phòng, an ninh và từng bước trở thành vùng động lực. Coi phát triển lâm nghiệp và cây công nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến toàn diện và có hiệu quả là hướng đột phá quan trọng trong phát triển Tây Nguyên tăng cường xây dựng các khu kinh tế quốc phòng; chú trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo thêm nhiều việc làm. Từng bước cải thiện và bảo vệ môi trường thông qua quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tạo động lực tăng trưởng cao để có điều kiện xóa đói giảm nghèo.
Một số chỉ tiêu chủ yếu:
Phấn đấu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Dự kiến GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt từ 510-580 USD. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 41,3%, công nghiệp - xây dựng khoảng 21,7% và ngành dịch vụ khoảng 37%. Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2010 gấp 4,5 lần so với năm 2000. Mỗi năm, giải quyết thêm việc làm mới cho 12-13 vạn lao động trong độ tuổi. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 40% năm 2005 xuống còn 20% vào năm 2010 (theo Chuẩn nghèo mới).
1.2.4. Vùng Đông Nam Bộ
Huy động cao nhất các nguồn lực, để khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng, nhanh chóng đưa Đông Nam Bộ trở thành một vùng trọng điểm phát triển nhanh, bền vững, đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ và du lịch, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, các mặt văn hóa, xã hội phát triển; bảo vệ môi trường, bảo đảm ổn định chính trị và an ninh quốc phòng, thực sự trở thành vùng động lực kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, là cầu nối giao thương, hợp tác kinh tế có hiệu quả với các nước trong khu vực, phát huy sức lan tỏa với Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh Trung bộ.
Một số chỉ tiêu chủ yếu:
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP cao và bền vững. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt từ 3.030-3.720 USD. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 3,6%, công nghiệp - xây dựng khoảng 64% và ngành dịch vụ khoảng 32,4%. Giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 18%/năm. Phấn đấu mỗi năm giải quyết việc làm mới cho khoảng 45-50 vạn lao động trong độ tuổi. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,2% năm 2005 xuống 4-5% vào năm 2010 (theo chuẩn mới).
1.2.5. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Huy động cao nhất các nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong vùng, tạo ra những vùng sản xuất giống cây trồng, vật nuôi chất lượng cao; sản xuất hàng hóa lớn, tập trung; vùng chế biến nông sản, thuỷ sản xuất khẩu lớn của cả nước; xây dựng chiến lược phát triển tổng thể kinh tế biển vùng đồng bằng Sông Cửu Long trở thành một vùng trọng điểm phát triển kinh tế của cả nước với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, hiệu quả, bền vững; phát triển các mặt văn hóa, xã hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là với đồng bào Khơ-me và nhân dân vùng ngập lũ; phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc phòng.
Một số chỉ tiêu chủ yếu:
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP kinh tế. Đến năm 2010, phấn đấu tăng GDP bình quân đầu người lên khoảng từ 850-990 USD. Trong cơ cấu GDP, nông, lâm, ngư nghiệp chiếm dưới 37,5%, công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 23,3%, dịch vụ chiếm trên 39,2% GDP. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 20%/năm. Trong 5 năm 2006-2010, giải quyết việc làm cho khoảng 2,5-3 triệu lao động. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 17,6% năm 2005 xuống còn 10-11% vào năm 2010 (theo Chuẩn nghèo mới).
2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ CHO DỰ ÁN TỪ NSNN
Để có thể thực hiện được những định hướng trong giai đoạn 2006-2010, ngoài những biện pháp nhằm huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư đáp ứng cho đầu tư phát triển toàn xã hội thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho các dự án cũng cần được quan tâm và thực hiện một cách chặt chẽ, đặc biệt là các dự án được đầu tư từ nguồn vốn NSNN.
Đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn NSNN tuy chỉ chiếm khoảng 20% trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, nhưng nó có vị trí rất quan trọng để thu hút các nguồn vốn khác hình thành cơ cấu đầu tư mang tính thúc đẩy cao trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Việc sử dụng có hiêu quả nguồn vốn NSNN trong đầu tư và xây dựng là yêu cầu cấp bách hiện nay, nhất là trong khi nguồn vốn còn eo hẹp, nhu cầu đầu tư lớn. Những tồn tại cố hữu trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng trong nhiều năm qua có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó là do công tác quản lý đầu tư và xây dựng, nhất là đầu tư từ nguồn vốn nhà nước còn nhiều bất cập, thiếu sót; cơ chế chính sách, hệ thống các văn bản pháp quy trong lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng không đầy đủ, chưa đồng bộ và còn nhiều khiếm khuyết. Vì vậy, mà ta có thể kiến nghị các giải pháp nhằm khắc phục và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ NSNN như sau:
2.1. Hoàn thiện các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng đã được Quốc hội ban hành và khẩn trương xây dựng Luật Đầu tư
Để phù hợp với nền kinh tế đa thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để điều chỉnh các hành vi trong lĩnh vực đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, quá trình đổi mới diễn ra nhanh chóng và sâu rộng làm cho hệ thống luật pháp và chính sách không theo kịp. Khi áp dụng vào thực tế quản lý đầu tư xây dựng, chúng bộc lộ các nhược điểm vừa chồng chéo lại vừa sơ hở nên dễ bị lợi dụng, làm thất thoát vốn đầu tư. Vì vậy, ta cần đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật về đầu tư xây dựng như:
Thư nhất, nên giao chức năng quản lý nhà nước về công tác đấu thầu cho Bộ Xây dựng quản lý. Vì mục tiêu đầu thầu là lựa chọn các nhà tư vấn, nhà thầu có đủ năng lực về tài chính, công nghệ và nhân lực để thực hiện dự án đầu tư một cách hiệu quả nhất. Chỉ có Bộ Xây dựng mới đủ khả năng xem xét toàn diện các năng lực này, trước hết là về công nghệ và nhân lực, sau đó là kỹ thuật xây dựng cũng như chất lượng công trình trong suốt quá trình đầu tư xây dựng.
Thứ hai, nên giao cho Bộ Xây dựng chức năng quản lý nhà nước (gồm cả chức năng của UBXDCBNN trước đây) một cách toàn diện trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và giảm bớt chức năng quản lý các doangh nghiệp nhà nước trực thuộc như hiện nay. Làm như vậy sẽ khắc phục được những bất hợp lý trong việc ban hành và quản lý các tiêu chuẩn, quy phạm và định mức kinh tế kỹ thuật trong xây dựng, góp phần hạn chế lãng phí và thất thoát vốn đầu tư.
Thứ ba, giao Bộ Xây dựng và các Sở Xây dựng (trừ các địa phương có Sở Giao thông công chính) quản lý thống nhất các công trình xây dựng trong đô thị, đặc biệt là hệ thống hạ tầng kỹ thuật, để tránh tình trạng đầu tư không đồng bộ, nhằm hạn chế những lãng phí và thất thoát vốn đầu tư.
Thứ tư, trên cơ sở phân định rõ chức năng của các Bộ, ngành trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, từng bước thể chế hoá các văn bản pháp luật, trước hết ban hành: Luật Quy hoạch, Luật Xây dựng, Luật nhà ở…Đồng thời tổ chức lại bộ máy của ngành Xây dựng, tạo điều kiện cho ngành quản lý tốt các lĩnh vực theo luật định.
Ngoài ra, Chính phủ xây dựng Luật Đầu tư nhằm điều chỉnh toàn bộ các hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, bao gồm mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế; đồng thời Chính phủ sẽ ban hành các văn bản pháp quy, hướng dẫn việc thực hiện các quy định về quản lý các nguồn vốn đầu tư theo hướng tạo điều kiện để huy động ở mức cao nhất các nguồn vốn đầu tư trong phạm vi toàn xã hội. Đồng thời, khắc phục được những yếu kém, tồn tại trong cơ chế quản lý đầu tư hiện nay, nhằm sử dụng các nguồn vốn đầu tư tập trung, đúng quy hoạch, kế hoạch, có hiệu quả, chống được thất thoát, lãng phí trong đầu tư.
Chính phủ ban hành cơ chế quản lý đầu tư nhằm tiếp tục việc phân cấp triệt để trong quản lý đầu tư, phù hợp với yêu cầu về cải cách hành chính, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, đơn giản hoá về thủ tục đầu tư. Đi đôi với việc phân cấp trong quản lý đầu tư, xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân nhằm nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quá trình đầu tư.
Quy định rõ tiêu chuẩn hoá các tổ chức tư vấn, nhà thầu, đảm bảo tính độc lập, khách quan trong hoạt động tư vấn, xoá bỏ tình trạng “khép kín” trong đầu tư, xây dựng như hiện nay.
Chính phủ quản lý toàn diện bằng cách tạo ra khung khổ pháp lý, định ra các tiêu chuẩn tiêu chí đầu tư và tổ chức hướng dẫn thực hiện, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát toàn bộ quá trình đầu tư, từ khâu thực hiện quy hoạch, kế hoạch theo các quy định của pháp luật nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật; chi phí thất thoát, lãng phí và tiêu cực trong đầu tư, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.
2.2. Tăng cường quản lý vốn đầu tư
Tổ chức rà soát, sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh các quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, vùng kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội củă tỉnh, thành phố; quy hoạch phát triển một số ngành quan trọng, một số sản phẩm chủ yếu.
Thực hiện tốt Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu; rà soát xoá bỏ các thủ tục hành chính không cần thiết; đơn giản và công khai hoá các quy trình, thủ tục hành chính. Rút ngắn thời gian thẩm định, cấp phép đầu tư đối với các dự án đầu tư có điều kiện.
Thực hiện tốt luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, đặc biệt tập trung làm tốt công tác quy hoạch, chuyển mục đích sử dụng đất, đẩy mạnh giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng dùng chung trong các khu công nghiệp, dịch vụ, chủ động đáp ứng mặt bằng đất đai cho các nhà đầu tư, khắc phục cơ bản tình trạng dự án chờ đất, giải quyết nhanh chóng, thuận lợi các thủ tục về giao đất, cho thuê đất và các giao dịch về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Nâng cao trách nhiệm của người ra quyết định và thẩm định các dự án đầu tư; chỉ ra quyết định đầu tư khi xác định rõ nguồn vốn và trong phạm vi nguồn vốn được phân cấp, tránh việc phê duyệt vốn đầu tư dự án vượt quá khả năng cân đối vốn. Phải cân nhắc thận trọng khi quyết định một dự án đầu tư về các mặt mục tiêu đầu tư, quy mô đầu tư và lựa chọn công nghệ, thời gian và địa điểm đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả dự án đầu tư, tránh sai sót ngay từ chủ trương đầu tư.
Thực hiện nghiêm công tác giám sát cộng đồng đối với đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước.
Rà soát lại chủ trương đầu tư và hiệu quả đầu tư đối với những dự án lớn đang có nhiều ý kiến khác nhau để có biện pháp xử lý.
Kiên quyết không bố trí vốn đầu tư cho các dự án không chấp hành đầy đủ các thủ tục về đầu tư xây dựng theo quy định. Đình hoãn các dự án không rõ phương án huy động nguồn vốn, phương án tài chính các dự án vừa thi công vừa tìm nguồn vốn.
Tăng cường công tác giám sát và đánh giá đầu tư; các Bộ, ngành, địa phương thực hiện giám sát ngay từ khâu quy hoạch, lập dự án, thẩm định, bố trí vốn đầu tư, đảm bảo tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch được duyệt. Thực hiện thường xuyên công tác thanh tra đầu tư. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Nâng cao vai trò các Bộ chủ quản và địa phương trong công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực đầu tư.
2.3. Tăng cường quản lý chất lượng xây dựng các công trình, dự án
Nâng cao chất lượng công tác quản lý, xây dựng ở tất cả các khâu trong quá trình xây dựng của các công trình, dự án từ lập và phê duyệt quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, quyết định đầu tư, thực hiện đầu tư, trong đó đặc biệt chú trọng khâu khảo sát, thiết kế (chất lượng thiết kế, phương án thiết kế hợp lý, sự phù hợp của vật liệu lựa chọn, tiêu chuẩn thiết kế áp dụng).
Bổ sung các chế tài nhằm tăng cường khâu giám sát thi công, nghiệm thu, thanh quyết toán công trình; nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời việc thi công không đúng thiết kế, không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, không đảm bảo khối lượng xây lắp theo thiết kế được duyệt, lập quyết toán không đúng thực tế thi công để “rút ruột công trình” làm ảnh hưởng tới chất lượng công trình.
Quy định rõ trách nhiệm cá nhân, đơn vị liên quan đến chất lượng công trình (bao gồm chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, đơn vị khảo sát, thiết kế và đơn vị thi công trong từng khâu công việc từ khảo sát, thiết kế, thi công, thực hiện các quy chế đấu thầu đến kiểm tra và giám sát công tác thi công công trình).
Chống khép kín trong đầu tư xây dựng trong các Bộ, ngành, địa phương theo lộ trình cụ thể. Trước mắt, tập trung khâu tư vấn giám sát dự án, đơn vị thi công và đơn vị giám sát không cùng một Bộ. Từng bước tách chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh trong xây dựng ở từng Bộ, từng tỉnh, thành phố ở tát cả các khâu.
2.4. Đổi mới cách cân đối nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước của các địa phương
Để giảm dần và tiến tới không còn những bất hợp lý trong cân đối và sử dụng nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước. Khắc phục tối đa cơ chế xin cho, tuỳ tiện, tiêu chí không rõ ràng, minh bạch trong phân bổ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, thì ta phải dựa vào những căn cứ để phân bổ nguồn vốn ngân sách như sau:
- Dân số thường trú trong từng tỉnh, thành phố là yếu tố quan trọng để xác định tổng mức đầu tư thuộc ngân sách nhà nước trong kế hoạch hàng năm, cũng như đối với các khoản chi thường xuyên của ngân sách nhà nước. Vì vậy, dân số là một trong những căn cứ tốt để xem xét phân bổ nguồn vốn này.
- Nguồn thu, mức độ thu ngân sách hàng năm của các tỉnh, thành phố là một trong các yếu tố cần được xem xét. Đối với những tỉnh, thành phố có nguồn thu ngân sách lớn, có đóng góp cho ngân sách Trung ương, phải được ưu tiên cân đối vốn đầu tư cao hơn; tuy nhiên, phải chú ý đến các tỉnh có điều kiện khó khăn do nhiều nguyên nhân thì cần phải có mức tăng chi đầu tư cao để có điều kiện vươn lên
- Chỉ tiêu về số hộ nghèo đói, tỷ lệ hộ nghèo là yếu tố cần được quan tâm nhiều trong quá trình cân đối nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, cần có hệ thống chính sách, giải pháp cụ thể, trong đó việc hỗ trợ người nghèo để họ từng bước vươn lên là cách làm đúng.
- Mức độ khó khăn về kết cấu hạ tầng của các tỉnh, thành phố là rất khác nhau. Các tỉnh miền núi, Tây Nguyên, miền Trung, các tỉnh vùng đồng bằng Sông Cửu Long kinh tế chưa phát triển, điều kiện tự nhiên khó khăn, kết cấu hạ tầng thiếu, nhiều tỉnh phải đảm nhận các nhiệm vụ chính trị quan trọng của đất nước, thì phải có chính sách hỗ trợ cao hơn các thành phố và các tỉnh vùng đồng bằng.
2.5. Phân cấp trong quản lý nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước
Thực hiện phân cấp tối đa cho các cấp địa phương trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư. Cấp quyết định kế hoạch thì quyết định chủ trương đầu tư đối với các công trình, dự án do cấp mình quản lý, đồng thời chịu trách nhiệm cá nhân và tập thể về quyết định của mình. Người có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư nếu sai phải chịu trách nhiệm cả về chuyên môn và tài chính đối với dự án; cơ quan trình phải chịu trách nhiệm về nội dung trình.
Các dự án đầu tư trước khi phê duyệt quyết định đầu tư phải tính toán khả năng tài chính, khả năng cân đối vốn để đảm bảo dự án được triển khai thực hiện theo đúng thời gian quy định. Các dự án được phê duyệt phải phù hợp với quy hoạch được duyệt, trường hợp dự án chưa có trong quy hoạch được duyết phải có ý kiến của người có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch.
Giao cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt tất cả các dự án do tỉnh quản lý, bao gồm từ các dự án thuộc nhóm A, đến các dự án thuộc nhóm B và nhóm C. Căn cứ vào tình hình thực tế của các cấp chính quyền, của các sở ban ngành trực thuộc, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thể phân cấp cho giám đốc sở ban ngành, cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các huyện, quận, thị phê duyệt các dự án thuộc nhóm B hoặc nhóm C; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có thể phân cấp cho các cấp xã phê duyệt các dự án thuộc nhóm C.
Cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư chỉ phê duyệt các dự án sử dụng nguồn ngân sách do cấp mình quản lý. Đối với các dự án kết cấu hạ tầng có tổng mức đầu tư lớn, vượt khả năng ngân sách do cấp mình quản lý, cần có sự hỗ trợ của ngân sách cấp trên, trước khi phê duyệt quyết định đầu tư phải có ý kiến của cấp hỗ trợ ngân sách.
Chủ đầu tư phải tính toán đầy đủ các điều kiện để dự án có thể vận hành được sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng; đồng thời tính toán để tiết kiệm nguồn vốn đầu tư, phù hợp với định mức về suất đầu tư, tránh lãng phí không cần thiết. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm toàn diện về triển khai thực hiện dự án.
Các tổ chức tư vấn chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư, trước cơ quan cấp trên của chủ đầu tư, trước pháp luật về nội dung tư vấn của mình, phù hợp với luật pháp, phù hợp với những qui định chung về quản lý đầu tư và xây dựng, phù hợp với hợp đồng ký kết giữa chủ đầu tư và tổ chức tư vấn.
Cấp có thẩm quyền phê duyệt quyết định đầu tư thì có thẩm quyền phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, phê duyệt quyết toán vốn đầu tư, chịu trách nhiệm về việc huy động các nguồn vốn cho dự án.
Các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng phải tiến hành quyết toán vốn đầu tư. Trong thời hạn 9 tháng kể từ ngày hoàn thành dự án, các dự án thuộc nhóm A phải hoàn thành quyết toán công trình, dự án; các dự án nhóm B và C phải hoàn thành quyết toán trong vòng 6 tháng. Trong năm kế hoạch nếu các đơn vị cấp địa phương còn nhiều các công trình, dư án chưa hoàn thành quyết toán, cơ quan cấp trên phải có biện pháp phù hợp để xử lý, hoặc trình hội đồng nhân dân cấp trên những giải pháp khắc phục.
2.6. Đẩy mạnh chủ trương khoán chi hành chính, khoán biên chế, mở rộng thực hiện cho tất cả các đơn vị hành chính các cấp. Giảm dần, tiến tới loại bỏ hoàn toàn các hình thức bao cấp gián tiếp cho các doanh nghiệp nhà nước như miễn giảm thuế, khoanh nợ, xoá nợ, cho vay ưu đãi…
Khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và thực hiện cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp theo hướng tăng quyền tự chủ về tài chính, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, về quản lý tổ chức, biên chế,…để áp dụng cho tất cả các đơn vị sự nghiệp có thu, tạo động lực đẩy mạnh phát triển các hoạt động dịch vụ công. Sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở sự nghiệp ngoài công lập theo chủ trương đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá các hoat động: y tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao… ở những địa bàn, khu vực có điều kiện.
Các Bộ, cơ quan trung ương, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương điều hành quản lý ngân sách chặt chẽ tiết kiệm, hiệu quả theo đúng dự toán ngân sách đã được giao; đúng tiêu chuẩn, chế độ, định mức chi tiêu đã quy đinh. Các địa phương chủ động sử dụng dự phòng ngân sách để phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai; thực hiện các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách mới phát sinh; thực hiện đúng chế độ công khai ngân sách; tổ chức công tác kiểm tra thường xuyên việc quản lý sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước ở các đơn vị sử dụng ngân sách; ban hành và thực hiện chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu đơn vị nếu để xảy ra những vi phạm, thất thoát, lãng phí ngân sách, tài sản công.
Tăng cường tính công khai minh bạch của ngân sách nhà nước trong tất cả các khâu từ xây dựng chính sách, lập dự toán, thẩm định, phê duyệt, tổ chức thực hiện và quyết toán ngân sách của tất cả các cấp.
KẾT LUẬN
Để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội là phát triển bền vững nền kinh tế, tạo nhịp độ tăng trưởng kinh tế 7,5%/năm. Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá. Tiến nhanh, tiến mạnh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hướng tới quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Để thực hiện được các mục tiêu trên thì trong những năm tới nền kinh tế của chúng ta cần rất nhiều vốn, trong khi đó sự đáp ứng của nền kinh tế nước ta hiện nay còn hạn hẹp. Chính vì lẽ đó vấn đề sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong điều kiện hiện nay và những năm tới là yêu cầu vừa cấp bách vừa mang tính lâu dài, thường xuyên.
Nhà nước cần tăng cường hơn nữa và chuẩn hoá công tác quản lý nhà nước về đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Đồng thời tăng cường tính chủ động cho các cấp chính quyền địa phương trong việc bố trí kế hoạch đầu tư hàng năm; nâng cao trách nhiệm của các cấp quản lý trong quá trình đầu tư từ khâu quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đần tư các dự án cụ thể, triển khai thực hiện dự án, thanh quyết toán công trình.
Thực hiện một cách công bằng trong việc sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước giữa các tỉnh, thành phố, giữa các ngành, các vùng có những điều kiện tự nhiên và xã hội khác nhau.
Khắc phục sự lãng phí trong đầu tư do chưa quản lý chặt chẽ đầu tư theo quy hoạch được duyệt. Hạn chế tối đa tình trạng thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Đẩy nhanh việc xây dựng nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đối với các địa phương trong kế hoạch hàng năm.
Thực hiện chủ trương phân cấp mạnh hơn, toàn diện hơn cho cơ sở theo hướng gắn quyền hạn với trách nhiệm của cá nhân và tổ chức trong từng khâu của quá trình đầu tư, tăng cường kiểm tra, thanh tra, chống thất thoát, lãng phí.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho dự án từ nguồn ngân sách nhà nước hiện nay đang là vấn đề cấp thiết cần đươc quan tâm nghiên cứu. Chính vì vậy, em mong rằng những giải pháp đưa ra trên đây sẽ đóng góp một phần nhỏ bé trong việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Do còn là một sinh viên, nên phương pháp và quá trình nghiên cứu còn hạn chế, vì thế mà luận văn vẫn còn nhiều thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp bổ sung của các thầy cô giáo và các bạn để luận văn có thể hoàn chỉnh hơn. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS. TS. Nguyễn Thị Bất đã giúp đỡ em hoàn thành giai đoạn thực tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà nội, tháng 6 năm 2006
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế Đầu tư _ Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Báo cáo về thực hiện quy hoạch, kế hoạch đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ trong cả nước, kết quả khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, tình trạng nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, hiệu quả thấp và chống thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 10/2005.
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010_ Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 2005 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2006.
Báo cáo tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết 36/2004/QH11 của Quốc hội về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước.
chương trình đầu tư công cộng thời kỳ 2001 - 2005.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32659.doc