Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại Công ty XNK nông sản thực phẩm Hà nội

LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường, để có thể đứng vững trên thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, đáp ứng nhu cầu ngày một tăng của khách hàng, các công ty luôn phải chú trọng tới việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giá cả phù hợp. Quá trình đổi mới cơ chế quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam cũng cho thấy, doanh nghiệp nào xây dựng và thực thi tốt chính sách quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn thì doanh nghiệp đó sẽ có lợi nhuận cao, sản phẩm mới có tính cạnh tranh. Do vậy việc sử dụn

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1513 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại Công ty XNK nông sản thực phẩm Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tài sản ngắn hạn một cách hiệu quả luôn là vấn đề đặt ra mà các nhà quản lý phải quan tâm. Thực tế nhiều năm qua cho thấy, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn phát đạt còn không ít những doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ, phá sản. Mặc dù hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố chứ không phải chỉ do quản trị vốn lưu động tồi. Nhưng thực tế thì sự bất lực của một số công ty trong việc hoạch định và kiểm soát chặt chẽ các loại tài sản ngắn hạn và các khoản nợ ngắn hạn hầu như là nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối cùng của họ. Tài sản ngắn hạn giữ một vai trò hết sức quan trọng, dù cho đó là doanh nghiệp kinh doanh hay công ích, doanh nghiệp thương mại hay sản xuất, doanh nghiệp thua lỗ hay đang hưng thịnh muốn tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp luôn phải nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của mình. Trong thời gian qua, mặc dù công ty cổ phần tập đoàn HiPT đã có nhiều cố gắng trong việc quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn một cách hiệu quả hơn, công ty có lợi nhuận tăng. Nhưng kết quả cho thấy việc sử dụng tài sản ngắn hạn còn có nhiều điểm chưa hợp lý dẫn đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn còn chưa cao. Mặc dù mục tiêu hiệu quả đạt được của các doanh nghiệp là khác nhau nhưng tất cả đều hướng tới đạt được lợi nhuận cao nhất, đứng trước tình hình như hiện nay công ty phải tìm cách để khắc phục tình trạng đó, đẩy nhanh công tác hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của công ty mình trong thời gian tới. Do tầm quan trọng của vấn đề và quá trình tìm hiểu tình hình thực tế tại công ty cổ phần tập đoàn HiPT, được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn cùng các cán bộ công nhân viên trong công ty, đặc biệt là các cán bộ ban tài chính em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại công ty xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà nội” cho chuyên đề của mình. Do điều kiện về trình độ và thời gian có hạn nên trong bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong sự chỉ bảo của thầy giáo TS. Trần Đăng Khâm, người đã hướng dẫn em trong thời gian qua. Em xin chân thành cảm ơn. CHƯƠNG 1: HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP. 1.1. Khái quát về doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Doanh nghiệp là một cách tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Có nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp chứ không phải cá nhân. Ở Việt Nam, theo luật doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh – tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. 1.1.2. Phân loại Các doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ thể kinh doanh sau đây: Kinh doanh cá thể Kinh doanh góp vốn Công ty Kinh doanh cá thể Là loại hình được thành lập đơn giản nhất, không cần phải có điều lệ chính thức và ít chịu sự quản lý của Nhà nước. - Không phải trả thuế thu nhập doanh nghiệp, tất cả lợi nhuận bị tính thuế thu nhập cá nhân. - Chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các khoản nợ, không có sự tách biệt giữa tài sản cá nhân và tài sản của doanh nghiệp. - Thời gian hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào tuổi thọ của người chủ. - Khả năng thu hốt vốn bị hạn chế bởi khả năng của người chủ. Kinh doanh góp vốn - Việc thành lập doanh nghiệp này dễ dàng và chi phí thành lập thấp. Đối với các hợp đồng phức tạp cần phải được viết tay. Một số trường hợp cần có giấy phép kinh doanh. - Các thành viên chính thức có trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ. Mỗi thành viên có trách nhiệm đối với phần tương ứng với phần vốn góp. Nếu như một thành viên không hoàn thành trách nhiệm trả nợ của mình, phần còn lại sẽ do các thành viên khác hoàn trả. - Doanh nghiệp tan vỡ khi một trong các thành viên chính thức chết hay rút vốn. - Khả năng về vốn hạn chế. - Lãi từ hoạt động kinh doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Công ty Công ty là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba loại lợi ích: các cổ đông (chủ sở hữu), của hội đồng quản trị và của các nhà quản lý. Theo truyền thống, cổ đông kiểm soát toàn bộ phương hướng, chính sách và hoạt động của công ty. Cổ đông bầu nên hội đồng quản trị, sau đó hội đồng quản trị lựa chọn ban quản lý. Các nhà quản lý quản lý hoạt động của công ty theo cách thức mang lại lợi ích tốt nhất cho cổ đông. Việc tách rời quyền sở hữu khỏi các nhà quản lý mang lại cho công ty các ưu thế so với kinh doanh cá thể và góp vốn: - Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển cho cổ đông mới. - Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào sự thay đổi sổ lượng cổ đông. - Trách nhiệm của cổ đông chỉ giới hạn ở phần vốn mà cổ đông góp vào công ty (trách nhiệm hữu hạn). Mỗi loại hình doanh nghiệp có những ưu, nhược điểm riêng và phù hợp với quy mô và trình độ phát triển nhất định. Hầu hết các doanh nghiệp lớn hoạt động với tư cách là các công ty. Đây là loại hình phát triển nhất của doanh nghiệp. 1.2. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp 1.2.1. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. 1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm tài sản ngắn hạn. Để đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải có tư liệu sản xuất mà nó bao gồm hai bộ phận là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Nếu như tư liệu lao động tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, hình thái vật chất không thay đổi từ chu kỳ đầu tiên cho tới khi bị sa thải khỏi quá trình sản xuất thì đối tượng lao động lại khác, nó chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất đến chu kỳ sản xuất sau lại phải sử dụng các đối tượng lao động khác. Phần lớn các đối tượng lao động thông qua quá trình chế biến để hợp thành thực thể của sản phẩm như bông thành sợi, cát thành thuỷ tinh, một số khác bị mất đi như các loại nhiên liệu. Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có các đối tượng lao động. Lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về các đối tượng lao động gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn là những tài sản thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, tài sản ngắn hạn được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và dự trữ tồn kho. Đối với doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất thì giá trị các loại tài sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản của chúng. Việc quản lý và sử dụng hợp lý các loại tài sản ngắn hạn có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành các nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải biết rõ số lượng, giá trị mỗi loại tài sản ngắn hạn là bao nhiêu cho hợp lý và đạt hiệu quả sử dụng cao. Tài sản ngắn hạn được phân bố đủ trong tất cả các khâu, các công đoạn nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, ổn định tránh lãng phí và tổn thất vốn do ngừng sản xuất, không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và đảm bảo khả năng sinh lời của tài sản. Do đó, tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp có các đặc điểm sau: - Tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao nên đáp ứng khả năng thanh toán của doanh nghiệp. - Tài sản ngắn hạn là một bộ phận của vốn sản xuất nên nó vận động và luân chuyển không ngừng trong mọi giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. - Tài sản ngắn hạn có thể dễ dàng chuyển hóa từ dạng vật chất sang tiền tệ nên cũng vận động rất phức tạp và khó quản lý. 1.2.1.2. Phân loại tài sản ngắn hạn. Do đặc điểm của tài sản ngắn hạn là chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và thường xuyên luân chuyển trong quá trình sản xuất, vì vậy việc chuẩn bị các loại tài sản ngắn hạn là rất quan trọng. Tuỳ thuộc vào mỗi chu kỳ sản xuất mà giá trị các loại tài sản ngắn hạn lại thay đổi cho phù hợp. Trong quá trình quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và quản lý tài chính nói riêng, tuỳ theo yêu cầu quản lý và dựa trên tính chất vận động của tài sản ngắn hạn, người ta có thể phân loại tài sản ngắn hạn như sau: 1.2.1.2.1. Phân loại theo quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn, tài sản ngắn hạn được chia thành: - Tài sản ngắn hạn dự trữ : là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong khâu dự trữ của doanh nghiệp mà không tính đến hình thái biểu hiện của chúng, bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, hàng mua đang đi đường, nguyên nhiên vật liệu tồn kho, công cụ dụng cụ trong kho, hàng gửi gia công, trả trước cho người bán. - Tài sản ngắn hạn sản xuất: là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong khâu sản xuất của doanh nghiệp, bao gồm: giá trị bán thành phẩm, các chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, các khoản chi phí khác phục vụ cho quá trình sản xuất… - Tài sản ngắn hạn lưu thông: là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong khâu lưu thông của doanh nghiệp, bao gồm: thành phẩm tồn kho, hàng gửi bán, các khoản nợ phải thu của khách hàng. Theo cách phân loại này giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình luân chuyển của tài sản ngắn hạn để đưa ra biện pháp quản lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chúng một cách cao nhất. 1.2.1.2.2. Phân loại theo các khoản mục trên bảng cân đối kế toán Căn cứ vào các khoản mục trong bảng cân đối kế toán tài sản ngắn hạn bao gồm: tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho và tài sản ngắn hạn khác. Tiền mặt Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp ở ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả tiền thuế, trả nợ. Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không sinh lãi, do vậy trong quản lý tiền mặt thì việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất. Sở dĩ việc giữ tiền mặt trong kinh doanh là vấn đề cần thiết xuất phát từ những lý do sau: + Đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày. Những khoản giao dịch này thường là thanh toán cho khách hàng và thu tiền từ khách hàng, từ đó tạo nên số dư giao dịch. + Bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp. Số dư tiền mặt loại này gọi là số dư bù đắp. + Đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp biến động không lường trước được của các luồng tiền vào và ra. Loại tiền này tạo nên số dư dự phòng. + Hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng. Loại tiền này tạo nên số dư đầu cơ. Trong hoạt động kinh doanh, việc giữ tiền mặt là cần thiết nhưng việc giữ đủ tiền mặt phục vụ cho kinh doanh đem lại nhiều lợi thế cho doanh nghiệp: + Khi mua các hàng hoá dịch vụ nếu có đủ tiền mặt, công ty có thể được hưởng lợi thế chiết khấu. + Giữ đủ tiền mặt, duy trì tốt các chỉ số thanh toán ngắn hạn giúp doanh nghiệp có thể mua hàng với những điều kiện thuận lợi và được hưởng mức tín dụng rộng rãi. Việc thanh toán đầy đủ, chính xác, kịp thời sẽ tạo niềm tin cho các đơn vị tài trợ. + Giữ đủ tiền mặt giúp cho doanh nghiệp tận dụng được những cơ hội thuận lợi trong kinh doanh do chủ động trong các hoạt động thanh toán chi trả. + Khi có đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp đáp được nhu cầu trong trường hợp khẩn cấp như đình công, hoả hoạn, chiến dịch Marketing của đối thủ cạnh tranh, vượt qua khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh doanh. Đây là điều quan trọng bởi nó có thể cứu nguy cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Các khoản đầu tư ngắn hạn. Mục tiêu của các doanh nghiệp là việc sử dụng các loại tài sản sao cho hiệu quả nhất. Ở trên ta thấy được các lợi thế của việc giữ tiền mặt song đó sẽ là hiệu quả nếu giữ đủ một lượng tiền mặt, tuy nhiên nếu giữ quá nhiều sẽ không đem lại cho doanh nghiệp một khoản tiền bởi các nhà quản lý luôn tính đến giá trị thời gian của tiền. Vì vậy việc đầu tư chứng khoán luôn là sự quan tâm của các nhà quản lý. Các loại chứng khoán gần như tiền mặt giữ vai trò như một “bước đệm” cho tiền mặt vì nếu số dư tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém chi phí. Do đó trong quản trị tài chính người ta sử dụng chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để duy trì tiền mặt ở mức độ mong muốn. Ta có thể thấy điều này qua sơ đồ luân chuyển sau: Các chứng khoán thanh khoản cao Đầu tư tạm thời bằng cách mua chứng khoán có tính thanh khoản cao Bán những chứng khoán thanh khoản cao để bổ sung cho tiền mặt. Dòng thu tiền mặt Tiền mặt Dòng chi tiền mặt Ta thấy tiền mặt là một hàng hoá nhưng đây là hàng hoá đặc biệt-một tài sản có tính lỏng nhất. Trong kinh doanh, doanh nghiệp cần một lượng tiền mặt và phải dùng nó để trả cho các hoá đơn một cách đều đặn. Khi lượng tiền mặt này hết, doanh nghiệp phải bán các chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để có lượng tiền như ban đầu. Các khoản phải thu Để thắng lợi trong cạnh tranh trên thị trường các doanh nghiệp có thể sử dụng chiến lược sản phẩm, về quảng cáo, về giá cả, về dịch vụ giao hàng và các dịch vụ sau khi mua bán như vận chuyển, lắp đặt.... Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường việc mua bán chịu là một việc không thể thiếu. Các doanh nghiệp bán hàng song có thể không nhận được ngay tiền hàng lúc bán mà nhận sau một thời gian xác định mà hai bên thoả thuận hình thành nên các khoản phải thu của doanh nghiệp. Việc cho các doanh nghiệp khác nợ như vậy chính là hình thức tín dụng thương mại. Với hình thức này có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và trở nên giàu có nhưng cũng không tránh khỏi những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó thể hiện trên những nét cơ bản sau: + Tín dụng thương mại tác động đến doanh thu bán hàng. Do được trả tiền chậm nên sẽ có nhiều người mua hàng hoá của doanh nghiệp hơn, từ đó làm cho doanh thu tăng. + Tín dụng thương mại làm giảm chi phí tồn kho của hàng hoá + Tín dụng thương mại làm cho tài sản cố định được sử dụng có hiệu quả hơn và hạn chế phần nào về hao mòn vô hình + Khi cấp tín dụng thương mại cho khách hàng có thể làm tăng chi phí trong hoạt động của doanh nghiệp. + Tín dụng thương mại làm tăng chi phí đòi nợ, chi phí phải trả cho nguồn tài trợ để bù đắp sự thiếu hụt ngân quỹ. Thời hạn cấp tín dụng càng dài thì chi phí ròng càng lớn. Xác suất không trả tiền của người mua làm cho lợi nhuận bị giảm, nếu thời hạn cấp tín dụng càng dài thì rủi ro càng lớn. Trên đây là những tác động của tín dụng thương mại mà các nhà quản lý phải so sánh giữa thu nhập với chi phí tăng thêm để ra quyết định có nên cấp tín dụng hay không. Trong nền kinh tế thị trường hầu hết các doanh nghiệp đều được cấp và cấp tín dụng thương mại, trên thực tế khi các tiêu chuẩn tín dụng được nới lỏng thì doanh thu có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên bên cạnh những lợi thế đạt được thì nhiều doanh nghiệp cũng không tránh khỏi những rủi ro mà tín dụng đem lại. Nhiều doanh nghiệp có doanh thu tăng, lợi nhuận tăng và cao song khả năng chi trả lại thấp cũng bởi khoản phải thu của các doanh nghiệp này quá lớn mà không thu hồi lại được. Hơn nữa không ít khách hàng lợi dụng vào tín dụng để vay mà không trả, do đó trước khi cấp tín dụng thương mại cho khách hàng thì vấn đề quan trọng đặt ra cho các nhà quản lý là phải phân tích khả năng tín dụng của khách hàng. Khoản phải thu giữ một vai trò quan trọng bởi nếu các nhà quản lý không cân đối giữa các khoản phải thu thì doanh nghiệp sẽ gặp phải những khó khăn thâm chí dễ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán. Hàng tồn kho. Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất, kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ, tồn kho là những bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Hàng hoá tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh; sản phẩm dở dang và thành phẩm. Các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có nguyên vật liệu dự trữ. Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành được bình thường. Tuy nhiên các doanh nghiệp đều phải tính đến việc dự trữ một cách hợp lý bởi nếu doanh nghiệp dự trữ quá nhiều sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn thậm chí nếu sản phẩm khó bảo quản có thể bị hư hỏng, ngược lại nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, các khâu tiếp theo sẽ không thể tiếp tục được nữa đồng thời với việc không hoàn thành được kế hoạch sản xuất. Tồn kho trong quá trình sản xuất là các loại nguyên liệu nằm tại từng công đoạn của dây truyền sản xuất. Thông thường quá trình sản xuất của các doanh nghiệp được chia thành nhiều công đoạn, giữa những công đoạn này bao giờ cũng tồn tại những bán thành phẩm. Đây là những bước đệm nhỏ để quá trình sản xuất được liên tục. Nếu dây truyền sản xuất càng dài và càng có nhiều công đoạn thì tồn kho trong quá trình sản xuất sẽ càng lớn. Khi tiến hành sản xuất xong hầu hết các doanh nghiệp chưa thể tiêu thụ hết sản phẩm. Phần thì do có “độ trễ” nhất định giữa các sản xuất và tiêu dùng, phần phải có đủ lô hàng mới xuất được... Những doanh nghiệp mà sản xuất mang tính thời vụ và có quy trình chế tạo tốn nhiều thời gian thì dự trữ, tồn kho sản phẩm sẽ lớn. Như vậy hàng hoá dự trữ đối với các doanh nghiệp gồm ba bộ phận như trên, song thông thường trong quản lý vấn đề chủ yếu được đề cập đến là bộ phận thứ nhất, các doanh nghiệp luôn phải chú trọng tới việc dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất sao cho hợp lý và an toàn. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, đối với các doanh nghiệp thương nghiệp thì dự trữ nguyên vật liệu cũng có nghĩa là dự trữ hàng hoá để bán. Nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số cố định mà luôn có sự thay đổi, đặc biệt là đối với những doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ hoặc sản xuất những hàng hoá nhạy cảm với thị trường. Do đó để đảm bảo cho sự ổn định sản xuất, doanh nghiệp phải duy trì một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn và tuỳ thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà mức dự trữ an toàn khác nhau. 1.2.1.3.Tầm quan trọng của tài sản ngắn hạn. Phần trước chúng ta đã tìm hiểu các loại tài sản ngắn hạn và thấy được rằng chúng không thể thiếu trong tất cả các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất. Tài sản ngắn hạn chiếm một tỷ lệ lớn hay nhỏ trong mỗi công ty là khác nhau tuy nhiên nó đóng một vai trò rất quan trọng và không thể thiếu được trong tất cả các doanh nghiệp, và đặc biệt là các doanh nghiệp chuyên về lĩnh vực thương mại, tài sản lưu động luôn chiếm một tỷ trọng lớn. Vấn đề mà các nhà kinh tế đều phải quan tâm đó là quản lý tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Một số vấn đề về quản lý tài sản ngắn hạn như: Doanh nghiệp nên nắm giữ bao nhiêu tiền và dự trữ? Doanh nghiệp có nên bán chịu không? Nếu bán chịu thì nên bán với thời hạn nào, doanh nghiệp sẽ tài trợ ngắn hạn bằng cách nào? Như ta đã biết tiền mặt là một loại tài sản đặc biệt của doanh nghiệp, nó được sử dụng để mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả tiền thuế, trả nợ… như vậy bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải nắm giữ một lượng tiền mặt nhất định. Nó không chỉ đảm bảo cho khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà còn đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển lâu dài. Để đi vào sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải có nguyên vật liệu, tuy nhiên để hoạt động có thể diễn ra liên tục không bị tắc nghẽn thì dự trữ nguyên vật liệu nhất thiết phải có, một nhà quản lý giỏi phải biết cách tính toán đề có lượng dự trữ phù hợp. Việc giữ nhiều tiền cũng đem lại một số bất lợi cho doanh nghiệp, hơn nữa các doanh nghiệp luôn luôn tìm cách để có được lợi nhuận cao nhất. Do đó các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để sử dụng tiền một cách hiệu quả. Chẳng hạn với lượng tiền có trong tay doanh nghiệp có thể gửi ngân hàng để tiện cho thanh toán hơn nữa còn nhận được một khoản tiền từ lãi suất. Ngoài ra công ty có thể đầu tư ngắn hạn, đầu tư vào chứng khoán. Các chứng khoán có tính lỏng cao giữ vai trò quan trọng bởi nó có thể chuyển đổi thành tiền một cách dễ dàng ít tốn kém. Đầu tư chứng khoán có vai trò quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp. Thứ nhất, danh mục đầu tư này làm tăng và góp phần ổn định thu nhập của doanh nghiệp. Thứ hai, tạo ra sự đa dạng trong hoạt động đầu tư, bao gồm đa dạng hóa về lĩnh vực kinh doanh, đa dạng hóa về phương diện địa lý. Chính sự đa dạng hóa này tạo cơ sở cân bằng về rủi ro trong danh mục tài sản của doanh nghiệp và tăng tính thanh khoản cho các tài sản, trên cơ sở đó tạo nên sự mềm dẻo trong việc quản lý tài sản của doanh nghiệp. Thứ ba, các chứng khoán có thể được sử dụng như là các tài sản thế chấp cho các khoản vay ngân hàng. Thứ tư, kinh doanh chứng khoán giúp các doanh nghiệp có thể tận dụng được lợi thế từ chính sách thuế. Thứ năm, các chứng khoán có thể được mua và bán nhanh chóng, do đó có thể là nguồn dự trữ thứ cấp cho khả năng thanh toán của doanh nghiệp và giúp cho doanh nghiệp có thể dễ dàng tái cấu trúc lại tài sản. Việc cấp tín dụng của các doanh nghiệp quyết định nhiều đến sự thành bại của doanh nghiệp. Sở dĩ như vậy vì doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường, hơn nữa hầu hết các công ty đều muốn chiếm dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định. Các khoản phải thu tăng thì làm cho doanh thu của doanh nghiệp tăng lên như vậy nếu chi phí không đổi sẽ làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên. Như vậy tài sản ngắn hạn có vai trò rất quan trọng trong doanh nghiệp, do vậy vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý là luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử dung những tài sản này. 1.2.2. Hiệu quả sử dụng TSNH trong doanh nghiệp Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Thực tiễn nhiều năm trở lại đây cho thấy tài sản ngắn hạn ở một số doanh nghiệp được sử dụng còn tùy tiện, kém hiệu quả đặc biệt là ở các doanh nghiệp nhà nước. Do đó, việc sử dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn hiện nay luôn là yêu cầu mang tính cấp thiết đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. 1.2.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề mà các doanh nghiệp quan tâm, quản trị kinh doanh sản xuất có hiệu quả thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại trên thị trường. Để đạt được hiệu quả đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có nhiều cố gắng và có những chiến lược sách lược hợp lý từ khâu sản xuất cho đến khi sản phẩm được đến tay người tiêu dùng. Mục đích cuối cùng của họ bao giờ cũng là đạt được những mục tiêu mà họ đề ra . Chính vì vậy quan niệm hiệu quả của mỗi doanh nghiệp là khác nhau. Tuy nhiên để đi đến mục đích cuối cùng thì vấn đề chung mà các doanh nghiệp đều phải quan tâm chú trọng đến đó chính là hiệu quả sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng tài sản của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích và tối thiểu hoá chi phí. Với mỗi doanh nghiệp có một sự cân đối về tài sản riêng mỗi loại tài sản cũng phải khác nhau, nếu như các doanh nghiệp về lĩnh vực chế biến hay công nghiệp nặng thì (tỷ lệ) TSCĐ chiếm một tỷ lệ rất cao trong tổng giá trị tài sản, ngược lại với các doanh nghiệp lĩnh vực thương mại thì TSNH lại chiếm đa số. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì TSNH đóng một vai trò hết sức quan trọng, các nhà quản lý luôn phải cân nhắc làm sao sử dụng các loại TSLĐ một cách hiệu quả. Hiệu quả sử dụng TSNH là kết quả đạt được cao nhất với mục tiêu mà doanh nghiệp đã đặt ra. Nghĩa là phải làm sao có được nhiều lợi nhuận từ việc khai thác và sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tối đa hoa lợi ích và tối thiểu hóa chi phí. Để đánh giá hiệu quả sử dụng TSNH ta sử dụng các nhóm chỉ tiêu dưới đây: 1.2.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSNH: Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là một phạm trù rộng, bao hàm nhiều mặt tác động khác nhau. Vì vậy, khi phân tích cá chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ta cần xem xét trên nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán Do đặc điểm của tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao, cho nên việc sử dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn là sự lựa chọn đánh đổi giữa khả năng sinh lời với tính thanh khoản. Do đó, khi phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp thì người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau đây: + Hệ số thanh toán hiện hành Đây là một trong những thước đo khả năng thanh toán của một doanh nghiệp, được sử dụng rộng rãi nhất là hệ số thanh toán hiện hành. Tài sản ngắn hạn Hệ số thanh toán hiện hành = Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán hiện hành cho thấy doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số này đo lường khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Nếu hệ số thanh toán hiện hành giảm cho thấy khả năng thanh toán giảm, đó là dấu hiệu báo trước những khó khăn về tài chính sẽ xảy ra. Nếu hệ số này cao, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên, nếu hệ số này cao quá sẽ giảm hiệu quả hoạt động vì doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào tài sản ngắn hạn. + Hệ số thanh toán nhanh Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho Hệ số thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán nhanh được tính toán trên cơ sở những tài sản lưu ngắn hạn có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, đôi khi chúng còn được gọi là tài sản có tính thanh khoản, tài sản có tính thanh khoản bao gồm tất cả tài sản ngắn hạn trừ hàng tồn kho. Do đó, hệ số thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào hàng tồn kho. + Hệ số thanh toán tức thời Tiền Hệ số thanh toán tức thời = Nợ đến hạn trả Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán tức thời đối với các khoản nợ đến hạn trả của doanh nghiệp. Hệ số này được sử dụng để đánh giá hiệu quả quản lý tiền mặt cũng như công tác quản lý các khoản nợ đến hạn trả của doanh nghiệp. Nhóm các chỉ tiêu hoạt động Là các hệ số đo lường khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Để nâng cao hệ số hoạt động, các nhà quản trị phải biết những tài sản nào chưa sử dụng, không sử dụng hoặc không tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp. Vì thế doanh nghiệp cần phải biết cách sử dụng chúng sao cho có hiệu quả hoặc loại bỏ chúng đi. Hệ số hoạt động đôi khi còn gọi là hệ số hiệu quả hoặc hệ số luân chuyển. Do đó, khi phân tích các chỉ tiêu hoạt động thì người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau đây: + Vòng quay các khoản phải thu Các khoản phải thu là các khoản bán chịu mà doanh nghiệp chưa thu tiền do thực hiện chính sách bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán các khoản trả trước cho người bán… Doanh thu thuần Vòng quay các khoản phải thu = Các khoản phải thu bình quân Vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc khách hàng thanh toán các khoản nợ cho doanh nghiệp. Khi khách hàng thanh toán các khoản nợ đã đến hạn thì lúc đó các khoản phải thu đã quay được một vòng. + Kì thu tiền bình quân Kì thu tiền bình quân cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách bán chịu của doanh nghiệp. Nếu vòng quay các khoản phải thu cao quá thì sẽ làm giảm sức cạnh tranh, làm giảm doanh thu. Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Doanh thu bình quân 1 ngày Khi phân tích hệ số này, ngoài việc so sánh các năm, so sánh với các doanh nghiệp cùng ngành, doanh nghiệp cần xem xét kỹ lưỡng tong khoản phải thu để phát hiện những khoản nợ đã quá hạn để có biện pháp xử lý kịp thời. + Chu kỳ thu tiền 360 Chu kỳ thu tiền = Vòng quay các khoản phải thu Chỉ tiêu này cho ta biết tốc độ chuyển đổi nợ phải thu từ khách hàng thành tiền trong quỹ của doanh nghiệp là bao lâu. Chỉ tiêu này càng nho thì tình hình kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt và ngược lại. + Vòng quay hàng tồn kho Vòng quay hàng tồn kho là một tiêu chuẩn để đánh giá doanh nghiệp sử dụng hàng tồn kho của mình hiệu quả như thế nào. Doanh thu thuần Vòng quay của hàng tồn kho = Hàng tồn kho bình quân Hàng tồn kho bình quân là bình quân số học của vật tư hàng hoá dự trữ đầu và cuối kỳ. Các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất luôn phải tính đến mức dự trữ bởi doanh nghiệp không thể nào đến lúc sản xuất mới mua nguyên vật liệu. Để tránh trường hợp bị ứ đọng thì doanh nghiệp phải có trước một lượng vật tư hàng hoá vừa phải bởi nếu quá nhiều doanh nghiệp sẽ mất khoản chi phí để bảo quản vật liệu. Nếu lượng vật tư quá ít không đủ cho sản xuất sẽ dẫn đến tình trạng tắc nghẽn ở các khâu tiếp theo. Như vậy chỉ tiêu này rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nó quyết định thời điểm đặt hàng cũng như mức dự trữ an toàn cho doanh nghiệp. Vòng quay càng cao thể hiện khả năng sử dụng tài sản lưu động cao. Vòng quay dự trữ, tồn kho cao thể hiện được khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt, có như vậy mới đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra. Chỉ tiêu này cao phản ánh được lượng vật tư, hàng hóa được đưa vào sử dụng cũng như được bán ra nhiều, như vậy là doanh thu sẽ tăng và đồng thời lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được cũng tăng lên.Vòng quay hàng tồn kho cao hay thấp phụ thuộc vào đặc điểm của tong ngành nghề kinh doanh, phụ thuộc vào mặt hàng kinh doanh. + Chu kỳ lưu kho 360 Vòng quay của hàng tồn kho = Vòng quay hàng tồn kho Chỉ tiêu này cho ta biết số ngày lượng hàng hàng tồn kho được chuyển đổi thành doanh thu. Từ chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết cho việc luân chuyển kho vì hàng tồn kho có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ở khâu dự trữ. Hệ số này chứng tỏ công tác quản lý hàng tồn kho càng tốt, hiệ._.u quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao và ngược lại. + Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị tài sản ngắn hạn trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao. Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng TSNH = TSNH bình quân trong kỳ Tài sản ngắn hạn bình quân trong kỳ là bình quân số học của tài sản ngắn hạn có ở đầu kỳ và cuối kỳ. + hệ số khả năng thanh toán lãi vay Lợi nhuận trước thuế + lãi vay Hệ số khả năng thanh toán lãi vay = Lãi vay Hệ số nay cho biết lợi nhuận trước thuế bao gồm lãi vay của doanh nghiệp có đảm bảo khả năng thanh toán lãi vay hay không. Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời. + Hệ số sinh lời của tài sản lưu động Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản lưu động. Nó cho biết mỗi đơn vị tài sản lưu động có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế. Lợi nhuận sau thuế Hệ số sinh lời của TSNH = TSNH bình quân trong kỳ Tài sản lưu động bình quân trong kỳ là bình quân số học của tài sản ngắn hạn có ở đầu và cuối kỳ. Chỉ tiêu này cao phản ánh lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp cao, các doanh nghiệp đều mong muốn chỉ số này càng cao càng tốt vì như vậy đã sử dụng được hết giá trị của tài sản ngắn hạn. Hiệu quả của việc sử dụng tài sản ngắn hạn thể hiện ở lợi nhuận của doanh nghiệp, đây chính là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp đạt được. Kết quả này phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn nói riêng. Với công thưc trên ta thấy, nếu tài sản ngắn hạn sử dụng bình quân trong kỳ thấp mà lợi nhuận sau thuế cao thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cao. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, ngoài phân tích các chỉ tiêu nói trên, chúng ta cũng cần nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng chúng. Nếu kết hợp được như vậy sẽ giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra chính sách quản lý và sử dụng tài sản lưu thông một cách hiệu quả nhất. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp nhưng về cơ bản có 2 nhóm nhân tố chính là các nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. 1.3.1 Nhân tố chủ quan Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp luôn chịu sự tác động của nhiều nhân tố. Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp, ngoài việc sử dụng những chỉ tiêu trên đây ta phải nghiên cứu những nhân tố tác động từ đó đưa ra các giải pháp để hạn chế những tác động không tốt và phát huy thêm những tác động tích cực. Các nhân tố chủ quan là những nhân tố xuất phát từ nội bộ doanh nghiệp. 1.3.1.1 Mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với mục đích sản xuất kinh doanh của mình doanh nghiệp sẽ quyết định trong việc phân phối tài sản, đặc biệt là chu kỳ sản xuất kinh doanh. Sản phẩm của mỗi doanh nghiệp là khác nhau do vậy mà có những doanh nghiệp chu kỳ sản xuất dài nhưng doanh nghiệp khác chu kỳ sản xuất lại ngắn, điều đó có ảnh hưởng đến việc ra quyết định của doanh nghiệp trong việc sử dụng tài sản ngắn hạn. Để đi vào sản xuất thì lượng tài sản ngắn hạn cần đưa vào là bao nhiêu, mức dự trữ dành cho các chu kỳ tiếp theo như thế nào, lượng tiền mặt doanh nghiệp cần giữ cũng như kỳ thu tiền dài hay ngắn tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài thì thời gian thu hồi vốn càng lâu, nên các doanh nghiệp luôn tìm cách làm cho chu kỳ kinh doanh ngắn hơn như vậy vòng quay tài sản ngắn hạn nhanh hơn. Vòng quay tài sản ngắn hạn tăng tức là việc tiêu thụ hàng hóa cũng tăng lên và như vậy doanh thu tăng lên, làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp cũng tăng. Điều đó thể hiện hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tăng. 1.3.1.2. Cơ sở vật chất của doanh nghiệp Đây là nhân tố hết sức quan trọng, bởi ngoài việc nguyên vật liệu tốt thì để có được những sản phẩm tốt thì điều quan trọng là doanh nghiệp phải có những thiết bị máy móc tốt. Một doanh nghiệp có được những trang thiết bị tốt sẽ làm cho các khâu sản xuất trở nên dễ dàng hơn. Cùng chất lượng nguyên vật liệu nhưng nếu doanh nghiệp nào trang bị tốt, máy móc đưa vào dây truyền sản xuất những thiết bị công nghệ cao sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng, đồng thời làm cho các công đoạn của quá trình sản xuất diễn ra nhanh chóng hơn, ngược lại với máy móc không tốt sẽ không tận dụng được hết giá trị của nguyên vật liệu thậm chí còn sản xuất ra những sản phẩm kém chất lượng, như vậy hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn không cao. Với những sản phẩm tốt thoả mãn được thị hiếu người tiêu dùng sẽ làm cho giá trị của hàng hoá tăng lên, sản phẩm sẽ được tiêu thụ nhanh chóng, doanh thu của doanh nghiệp tăng lên thúc đẩy quá trình sản xuất và như vậy vòng quay các khoản phải thu, vòng quay tài sản ngắn hạn cũng tăng lên. Với mục tiêu của các doanh nghiệp là đáp ứng tốt cầu người tiêu dùng thì việc ra quyết định đổi mới trang thiết bị máy móc đưa công nghệ hiện đại là việc làm hết sức cần thiết, nó không những làm tăng hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn mà còn tạo thêm đà phát triển cho doanh nghiệp trong tương lai. Ta thấy rằng, nếu cơ sở vật chất doanh nghiệp được trang bị tốt như vậy sẽ làm cho chi phí tăng lên do đó lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được sẽ giảm đi, khi đó hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn giảm. Nhưng đó không phải là kết quả cuối cùng mà nó đem lại, bởi thông thường mỗi một doanh nghiệp đều trải qua các giai đoạn nhất định, ban đầu có thể doanh nghiệp đầu tư nhiều song nó luôn hướng tới một mục tiêu trong tương lai, giai đoạn đầu có thể thua lỗ song giai đoạn tiếp theo doanh nghiệp sẽ thu hồi lại vốn và lợi nhuận đạt được tăng cao. 1.3.1.3 Trình độ cán bộ công nhân viên Để việc sử dụng tài sản ngắn hạn đạt hiệu quả đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những cán bộ quản lý giỏi, công nhân viên có trình độ tay nghề cao. Người quản lý phải nắm bắt rõ tình hình hoạt động của doanh nghiệp, sau mỗi chu kỳ hoạt động phải phân tích để đánh giá xem hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ra sao, từ đó đưa ra các kế hoạch trong những chu kỳ tiếp theo. Trong quá trình sản xuất để tận dụng hết nguyên vật liệu thì người công nhân phải có chuyên môn giỏi, đặc biệt việc sử dụng máy móc thiết bị hết sức quan trọng, máy móc thiết bị ngày càng hiện đại đòi hỏi đội ngũ sử dụng những loại máy móc thiết bị đó cũng phải được đào tạo có chuyên môn, có kỹ thuật. Các nhà quản lý phải hiểu biết ý nghĩa, vai trò của từng loại tài sản ngắn hạn, đối với nguyên vật liệu sản xuất thì phải biết điểm đặt hàng khi nào cũng như mức dự trữ an toàn của doanh nghiệp là bao nhiêu. Nhận thức về việc cấp tín dụng thương mại cho các doanh nghiệp rõ hơn, nếu các doanh nghiệp coi việc cấp tín dụng thương mại cho khách hàng như là một hình thức chiếm dụng vốn và thắt chặt việc cấp tín dụng thương mại thì có thể sẽ gây nên ảnh hưởng xấu cho doanh nghiệp, trước hết đó là việc tiêu thụ hàng hoá giảm làm cho doanh thu của doanh nghiệp thấp, sau đó là doanh nghiệp sẽ không mở rộng được đối tượng khách hàng của mình. Nếu không biết tận dụng những lợi thế của tín dụng thương mại có thể doanh nghiệp sẽ mất đi nhiều cơ hội của mình đặc biệt trong canh tranh, các doanh nghiệp cần phải biết dựa vào các doanh nghiệp khác, có sự hỗ trợ lẫn nhau để có thể đứng vững trên thị trường. Các nhà quản lý luôn luôn coi trọng tín dụng thương mại, mở rộng mối quan hệ với khách hàng tạo dựng niềm tin cho họ. Các nhà quản lý cũng phải luôn quan tâm tới việc giữ tiền mặt hay đầu tư. Như phần trước ta thấy việc nắm giữ tiền mặt là cần thiết, nhưng nhà quản lý phải phân tích được những diễn biến trong doanh nghiệp cũng như môi trường bên ngoài từ đó ra quyết định nên giữ một lượng tiền mặt là bao nhiêu, có nên đầu tư vào chứng khoán thanh khoản cao hay không, số lượng như thế nào.Phải luôn đánh giá được diễn biến của thị trường nhận biết được các nhân tố tác động như lãi suất, tỷ giá, lạm phát, chỉ số chứng khoán.. đưa ra các phương án một cách hiệu quả. Như vậy nhân tố con người có tác động rất lớn tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn do đó các doanh nghiệp phải biết đào tạo bồi dưỡng các cán bộ giỏi. Để có được tài sản lưu động thì các doanh nghiệp có thể sử dụng vốn chủ sở hữu hoặc vay nợ. Việc sử dụng nguồn nào có lợi hơn đòi hỏi có sự phân tích kỹ lưỡng của các nhà quản lý. Tất nhiên việc sử dụng vốn chủ sở hữu thì an toàn cho doanh nghiệp nhưng doanh nghiêp có thể mất đi chi phí cơ hội nếu đem đầu tư vào một dự án khác, việc sử dụng nợ cũng không tránh khỏi những chi phí đó là lãi vay cũng như các rủi ro mà doanh nghiệp phải chịu nếu mất khả năng chi trả. Vậy khi nào doanh nghiệp nên sử dụng vốn chủ sơ hữu và khi nào nên sử dụng nợ vay cũng như sự cân đối giữa hai nguồn này trong mỗi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp là câu hỏi luôn được đặt ra cho các nhà quản trị tài chính. Trên đây là các nhân tố chủ quan hay các nhân tố bên trong doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần phải biết những mặt tích cực và hạn chế của các nhân tố đó để đưa ra các phương án chính sách hợp lý cho việc sử dụng tài sản ngắn hạn hiệu quả hơn. Như vậy mỗi nhân tố đều có tác động hai mặt tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, do đó các nhà quản lý phải biết cách để làm sao nâng cao được những mặt tích cực và hạn chế được những mặt hạn chế mà các nhân tố đem lại. 1.3.2 Nhân tố khách quan Các nhân tố khách quan tác động tới doanh nghiệp, có những lúc thúc đẩy doanh nghiệp phát triển nhưng có lúc kìm hãm sự phát triển của nó. Sự tác động đó không thuộc tầm kiểm soát của doanh nghiệp do vậy khi gặp những nhân tố này các doanh nghiệp luôn phải tự điều chỉnh mình cho phù hợp với tác động đó. Đối với những tác động tích cực thì doanh nghiệp cần tận dụng để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng thêm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cho doanh nghiệp. Với tác động tiêu cực thì doanh nghiệp cố gắng điều chỉnh sao cho sự tác động đó ít gây ảnh hưởng xấu cho doanh nghiệp. 1.3.2.1 Sự quản lý của Nhà nước Trong nền kinh tế tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, mỗi loại hình doanh nghiệp mang một đặc thù riêng nó, Nhà nước có trách nhiệm quản lý các doanh nghiệp đó để nó đi vào hoạt động theo một khuôn khổ mà Nhà nước quy định. Nếu trước đây nền kinh tế nước ta là nền kinh tế tự cung tự cấp, chậm phát triển và rất lạc hậu, nhưng từ khi đổi mới dưới sự quản lý của Đảng và Nhà nước nền kinh tế nước ta đã và đang trên đà phát triển. Nhà nước quản lý các doanh nghiệp dưới các hình thức như văn bản pháp luật, cơ chế quản lý tài chính. Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều phải tuân theo pháp luật mà Nhà nước đưa ra, từ khi bắt đầu thành lập đến khi hoạt động và ngay cả giải thể hay phá sản doanh nghiệp đều phải tuân theo chế độ hiện hành. Đảng và Nhà nước ban hành các luật lệ, chính sách nhằm mục đích tránh sự gian lận, đảm bảo sự công bằng và an toàn trong xã hội. Khi Nhà nước quy định việc dán tem cho sản phẩm là để bảo vệ người tiêu dùng, hơn nữa tạo uy tín cho doanh nghiệp trong việc cung cấp sản phẩm, tránh hiện tượng hàng giả. Nhà nước ban hành thuế giá trị gia tăng để thay thế cho thuế doanh thu, thuế thu nhập doanh nghiệp thay cho thuế lợi tức tác động rất lớn tới các hoạt động của doanh nghiệp. Việc thay thế này nhằm khắc phục nhược điểm của loại thuế cũ, mở rộng diện ưu đãi thuế cho doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc hạ giá bán, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cả ở thị trường trong nước và nước ngoài, thúc đẩy việc mua bán có hoá đơn chứng từ làm cho việc quản lý tài sản ngắn hạn trở nên hiệu quả hơn. Việc Nhà nước tăng thuế thu nhập doanh nghiệp gây ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của doanh nghiệp, làm giảm lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp việc Nhà nước cắt giảm thuế xuất nhập khẩu cũng đem lại nhiều cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp. Cơ hội là sản phẩm của doanh nghiệp có thể thâm nhập vào thị trường nước ngoài mà không hạn chế, cạnh tranh với sản phẩm các nước khác. Nhưng một vấn đề đặt ra là liệu sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp có đủ chất lượng để có thể cạnh tranh với các nước khác. Khi cắt giảm thuế rất dễ xảy ra hiện tượng nhập siêu lúc đó hàng hoá nước ngoài sẽ tràn ngập trong nước, lúc này sản phẩm của các doanh nghiệp sẽ được tiêu thụ ở đâu. Các nhà hoạch định chính sách phải tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp phát triển đặc biệt là chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước, chẳng hạn như Nhà nước có thể hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp nâng cấp cơ sơ vật chất kỹ thuật, đồng thời nâng cao chât lượng sản phẩm. 1.3.2.2 Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Để tồn tại được thì các doanh nghiệp luôn có sự cạnh tranh lẫn nhau. Cùng là các doanh nghiệp sản xuất ra một loại sản phẩm nhưng doanh nghiệp nào có sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp thì sẽ thu hút được nhiều người mua. Như vậy vấn đề của các doanh nghiệp là thu hút được khách hàng và tất nhiên phần thắng sẽ thuộc về kẻ mạnh. Hiện nay các doanh nghiệp luôn hướng tới việc trọng cầu, việc đưa ra các phương thức về giá cả, mẫu mã, chất lượng đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng luôn là vấn đề mà mọi doanh nghiệp phải quan tâm. Khi mà khoa học điện tử, công nghệ phát triển nhanh thì các sản phẩm trước đây sẽ trở nên lạc hậu, thay vào đó là các sản phẩm có chất lượng cao. Chu kỳ sản xuất của các doanh nghiệp cũng tăng nhanh, sản phẩm sẽ thu hút được đông đảo khách hàng, số lượng bán tăng, như vậy doanh nghiệp cũng phải thường xuyên thay đổi lượng tài sản ngắn hạn của mình sao cho hợp lý. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra gay gắt nếu doanh nghiệp nào không biết cách đối phó dễ bị các doanh nghiệp khác đánh bật ra khỏi thị trường. 1.3.2.3 Nhu cầu của khách hàng Nhu cầu khách hàng là nhân tố ảnh hưởng lớn tới việc ra quyết định của doanh nghiệp trong việc sản xuất ra loại sản phẩm gì, chất lượng ra sao, mẫu mã như thế nào. Nhu cầu của con người ngày càng cao, để đáp ứng nhu cầu đó thì doanh nghiệp luôn phải tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm. Nếu như trước đây cung có khi không đáp ứng đủ cầu nhưng hiện nay thì ngược lại, nhu cầu khách hàng ngày càng tăng nên doanh nghiệp cần có những biện pháp để cung cấp thêm lượng sản phẩm, do đó mà lượng vật tư dự trữ đầu vào cũng tăng thêm, đồng thời việc cấp tín dụng thương mại cho khách hàng cũng cần được nới lỏng và điều đặc biệt là việc cung cấp sản phẩm tới tay khách hàng. Những doanh nghiệp mà đội ngũ nhân viên khéo léo, tận tình cộng với công tác xúc tiến thương mại quảng bá sản phẩm của mình để thâm nhập vào thị trường mới sẽ giúp doanh nghiệp bán được nhiều sản phẩm làm doanh thu của doanh nghiệp tăng nhanh. Khách hàng luôn thích sự đổi mới do đó các nhà quản lý phải nắm bắt được nhu cầu đó để mua sắm các nguyên vật liệu thích hợp, có thể dùng hẳn một loại nguyên vật liệu mới song cũng có thể pha trộn giữa các nguyên vật liệu tạo nên sự phong phú đa dạng về mặt hàng. Tóm lại nhu cầu khách hàng có tác động lớn tới việc ra quyết định sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, đồng thời cũng thúc đẩy các nhà quản lý đưa ra một phương thức để sử dụng tài sản ngắn hạn một các hiệu quả hơn. Trên đây là các nhân tố chính tác động tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn nhưng bên cạnh đó doanh nghiệp cần quan tâm tới các nhân tố khác như thiên tai, dịch bệnh... Chẳng hạn thiên tai xảy ra, với các doanh nghiệp sản xuất thì những nguyên vật liệu khó bảo quản sẽ bị hư hỏng, doanh nghiệp sẽ phải ngừng sản xuất nếu không không cung cấp kịp thời đủ nguyên vật liệu. Hay dịch bệnh xảy ra, nếu như trước đó lượng hàng dự trữ là khá lớn, sản phẩm tiêu thụ nhanh thì đến nay nhu cầu về loại hàng hoá đó sẽ không như trước, vì vậy doanh nghiệp sẽ phải hạn chế lượng dự trữ, đồng thời sản xuất ra các mặt hàng khác thay thế đáp ứng nhu cầu thị trường. Cần phải có sự linh hoạt trong việc giải quyết các vấn đề, mặc dù những yếu tố tác động đó ngoài tầm kiểm soát, không lường trước và ngăn chặn được nhưng các doanh nghiệp phải biết cách điều chỉnh những khó khăn do các nhân tố đem lại. Vấn đề lạm phát, các doanh nghiệp cấp tín dụng thương mại phải luôn lưu ý, nếu lạm phát xảy ra, khoản phải thu của doanh nghiệp hiện tại sẽ không còn giá trị so với khoản phải thu trước thời kỳ lạm phát. Do đó sẽ không có lợi cho doanh nghiệp, doanh nghiệp cần đưa ra thời hạn thu hồi để tránh sự tổn thất do không thu hồi lại được những khoản phải thu. Vấn đề tỷ giá, đối với các doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng tỷ giá thay đổi cũng làm thay đổi lượng hàng hoá sản xuất, xuất nhập khẩu, nếu tỷ giá tăng thì sẽ thúc đẩy xuất khẩu và ngược lại. Như vậy việc tăng hay giảm tỷ giá sẽ ảnh hưởng lớn tới việc ra quyết định sản xuất nhiều hay ít của các doanh nghiệp. Vấn đề tỷ giá liên quan đến hiện tượng Dumping mà như ta đã biết, nó đem lại những thuận lợi song gây ra nhiều khó khăn mà ta không lường trước được. Việc phân tích những nhân tố tác động này sẽ giúp các nhà quản lý có được những phương hướng, sách lược để sử dụng tài sản ngắn hạn một cách hiệu quả. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN HIPT 2.1. Khái quát về công ty cổ phần tập đoàn HiPT 2.1.1. Sơ lược quá trình phát triển Công ty cổ phần tập đoàn HiPT là một trong những tập đoàn tin học hàng đầu tại Việt Nam, chuyên cung cấp các sản phẩm và giải pháp công nghệ thông tin tiên tiến và phù hợp nhằm phát huy tối đa hiệu quả công việc của khách hàng, mang lại giá trị to lớn cho khách hàng và cho HiPT Group, cũng như cho các thành viên của HiPT Group. Được thành lập vào năm 1994 với tên gọi công ty TNHH Hỗ trợ và phát triển tin học (HiPT) theo: Giấy phép thành lập số 008291GP/TLDN ngày 2/6/1994 do Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội cấp Giấy đăng kí kinh doanh số 044123 ngày 18/6/1994 do trọng tài kinh tế Hà Nội cấp. Tên giao dịch quốc tế: High Performace Technology Joint Stock Company. Công ty có trụ sở tại: 79 Bà Triệu – Hà Nội. Sau 7 năm hoạt động, đến ngày 29/02/2000, công ty TNHH Hỗ trợ Phát triển Tin học, theo giấy chứng nhận đăng ký số 0103000008 do Sở kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp được chuyển thành Công ty Cổ phần cùng với việc tăng vốn điều lệ từ 500000000 đồng lên 5120000000 đồng. Năm 2003 công ty rời trụ sở chính về tòa nhà HANEC tại: 152 Thụy Khuê – Tây Hồ – Hà Nội. Không ngừng mở rộng quy mô, gia tăng về vốn và lĩnh vực kinh doanh, đến tháng 6 năm 2006 công ty đổi tên thành công ty cổ phần tập đoàn HiPT ( HiPT Group ). 2.1.2. Lĩnh vực kinh doanh Chuyên cung cấp các sản phẩm và giải pháp công nghệ thông tin tiên tiến, được thiết kế riêng cho từng khách hàng theo tiêu chuẩn hàng đầu thế giới nhằm phát huy tối đa hiệu quả công việc và thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng. Các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu: Cung cấp các giải pháp công nghệ thông tin Là nhà cung cấp các thiết bị và giải pháp được ủy quyền của các hãng công nghệ thông tin hàng đầu thế giới như: HP, Oracle, Exact software, CISCO, Stratus Technologies, Microsoft…, HiPT là một trong số các nhà cung cấp các sản phẩm cũng như giải pháp công nghệ thông tin và truyền thông chất lượng, uy tín hàng đầu tại Việt Nam. Cung cấp các thiết bị tin học Là nhà cung cấp các thiết bị tin học như: máy chủ, máy trạm, máy xách tay, máy in, scanner…, cho đối tượng khách hàng là các cơ quan nhà nước, các công ty lớn, vừa và nhỏ cũng như cho các cá nhân có nhu cầu. Tích hợp hệ thống Phương châm hoạt động của HiPT là: công nghệ tiên tiến, giải pháp phù hợp. HiPT đã kết hợp công nghệ và giải pháp hàng đầu thế giới vào thị trường Việt Nam cùng với đội ngũ kỹ thuật tay nghề cao, thường xuyên được đào tạo, cập nhật kiến thức, HiPT đã đang thực hiện các giải pháp và dịch vụ tich hợp hệ thống đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Phát triển phần mềm Nâng cao hệ thống quản lý tài liệu và quản lý quy trình công việc, nâng cao năng lực hoạt động cho các thư viện Việt Nam, Ngân hàng Việt Nam… Cung cấp dịch vụ tin học – viễn thông HiPT cung cấp đầy đủ các dịch vụ tin học, viễn thông chất lượng cao, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng. Dịch vụ bao gồm: hoạch định, thiết kế, triển khai, đánh giá, quản trị cho hạ tầng mạng LAN/Wan/Wirelees, các hệ thống máy trạm, thiết bị ngoại vi, an toàn dữ liệu… Đào tạo và chuyển giao công nghệ HiPT cung cấp một hệ thống các chương trình đào tạo về thiết bị ,mạng,quản trị hệ thống…Cho khách hàng để giúp họ có thể tự vận hành máy móc, quản trị mạng và thay đổi hệ thống, các chương trình đào tạo có thể được tổ chức tại chỗ hoặc tập trung theo lớp. Hỗ trợ khách hàng và bảo hành – một trong những thế mạnh của HiPT Hoạt động trong lĩnh vực tin học, công ty HiPT nhận thức rất rõ rằng công tác bảo hành tốt cụ thể là khắc phục nhanh chóng các sự cố xảy ra đảm bảo cho các thiết bị tin học của khách hàng luôn ở trong tình trạng hoạt động tốt là phương châm hoạt động của HiPT. Các kỹ thuật viên của công ty thường xuyên được đào tạo, cập nhật kiến thức tại các khóa học trong và ngoài nước do hãng Hewlett-Packard (HP) và các hãng sản xuất thiết bị có liên quan tổ chức. Nhiều nhân viên của HiPT đã được hãng cấp chứng chỉ quốc tế về bảo hành các sản phẩm. Chức năng nhiệm vụ Chức năng Chuyển giao công nghệ và dịch vụ tin học tiên tiến trên thế giới vào Việt Nam thông qua việc cung cấp dịch vụ tư vấn, cung cấp trang thiết bị và giải pháp tin hoc viên thông của các hãng lớn các khách hàng Việt Nam. Nhiệm vụ Là đơn vị chuyên cung cấp các mặt hàng và các dịch vụ về công nghệ tin học công ty có mục tiêu là phát triển mạng lưới cung cấp sản phẩm rộng khắp cả nước để phục vụ tối đa nhu cầu của khách hàng trên thị trường hiện tại cũng như tiềm năng. Vì vậy, công ty thực hiện các nhiệm vụ chung của công ty: Mua bán các mặt hàng về tin học Quản lý tốt chi phí để góp phần bảo toàn vốn và phát triển doanh nghiệp Thực hiện phân phối theo vốn góp cổ phần, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của công nhân viên chức, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, chuyên môn cho cá nhân công nhân viên. Bảo vệ công ty, giữ gìn an ninh trật tự an toàn công ty. Đẩy mạnh áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao hiệu quả trong các hoạt động kinh doanh. Chấp hành nghiêm chỉnh các nguyên tắc, chế độ quản lý của nhà nước và các cơ quan quản lý cấp trên. 2.1.3. Sơ đồ bộ máy tổ chức Bộ máy quản lý của công ty cổ phần tập đoàn HiPT được xây dựng trên cơ sở mô hình trực tuyến chức năng. Đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật của công ty có 300 người, trong đó bao gồm: Hội đồng quản trị, tổng giám đốc, các giám đốc, khối phòng ban chức năng, các phong ban, cửa hàng bán lẻ. Tổ chức bộ máy của công ty bao gồm các bộ phận kinh doanh và bộ phận chức năng. Trong đó: Đội ngũ nhân viên phần cứng làm nhiệm vụ triển khai và bảo hành Đội ngũ nhân viên kỹ thuật hệ thống và mạng làm nhiệm vụ tích hợp và hỗ trợ hệ thống; Đội ngũ nhân viên kỹ thuật phần mềm phát triển các chương trình ứng dụng; Đội ngũ nhân viên kinh doanh dự án, kinh doanh phân phối và bán lẻ; Nhân viên hành chính, tài chính Đội ngũ quản lý cấp cao hiện nay của công ty bao gồm: STT Họ và Tên Vị trí lãnh đạo 1 VÕ VĂN MAI Tổng giám đốc HiPT Group 2 TÔN QUỐC BÌNH Phó TGĐ HiPT Group 3 NGUYỄN QUANG HẢI Phó TGĐ HiPT Group 4 NGHIÊM TIẾN SỸ Phó TGĐ HiPT Group 5 PHAN KHẮC CƯỜNG Phó TGĐ HiPT Group Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý của công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội cổ đông. Tổng giám đốc: là người điều hành hoạt động các lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm hội đồng quản trị về việc thực hiện các nhiệm vụ được giao. Các giám đốc: được giao nhiệm vụ điều hành một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị, tổng giám đốc và pháp luật, công ty có 3 giám đốc: Giám đốc kinh doanh Giám đốc kỹ thuật Giám đốc tài chính Các bộ phận phòng ban chuyên môn có nhiệm vụ giúp việc và tham mưu cho ban giám đốc. Đội ngũ nhân viên kỹ thuật của HiPT có chuyên môn tay nghề cao, được đào tạo từ nhiều nước: Liên xô (cũ), Đức, Pháp, Hungary, Bungari, Nhật, Hàn quốc và các trường đại học hàng đầu trong nước: Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học Tổng hợp TPHCM… Nhiều cán bộ của công ty đã tham gia các khoá đào tạo nghiệp vụ của hãng Hewlett- Packard( HP ) tại Việt Nam, Hoa Kì, Singapore, Malaysia, Hồng Kông và Thái Lan, đặc biệt trong lĩnh vực máy tính HP, giải pháp mạng, máy in, máy quét và máy vẽ. HỘI ĐỒNG QUẢN LÝ CHIẾN LƯỢC KHỐI KINH DOANH Công ty giải pháp và tư vấn công nghệ HiPT Công ty tích hợp hệ thống HiPT Công ty giải pháp ngân hàng và tài chính HiPT Công ty thương mại và dịch vụ tin học HiPT Trung tâm phân phối Trung tâm dịch vụ thương mại Trung tâm bán lẻ KHỐI HỖ TRỢ Trung tâm giải pháp điện Trung tâm truyền thông himedia Trường kỹ nghệ thực hành HiPT Công ty New Horizons Trung tâm FS Văn phòng chi nhánh TPHCM Ban trợ lý tổng hợp BAN GIÁM ĐỐC BAN KIỂM SOÁT Ban quản lý chất lượng và kiểm soát nội bộ Ban quan hệ công chúng Ban quản trị nguồn nhân lực Ban quản trị hành chính Ban tài chính Ban kế toán HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN DO HiPT GROUP ĐẦU TƯ GÓP VỐN 2.1.4.1. Kết quả hoạt động kinh doanh Trong những năm trở lại đây tình hình kinh doanh của công ty phát triển tương đối tốt . công ty có những biến đổi lớn về doanh thu, quy mô tài sản và nguồn nhân lực. Sau đây là một số những kết quả mà công ty đã đạt được trong những năm gần đây. Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh giai đoạn 2005-> 2007 Đvt: đồng Chỉ Tiêu 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 1.Tổng doanh thu 104165982757 125327263610 330007963745 2.Các khoản giảm trừ 1622734 671006 305803216 3.Doanh thu thuần 104164360023 125326592604 329702160529 4.Giá vốn hàng bán 92364086579 114703828889 296662623046 5.Lợi nhuận gộp 11800273444 10622763715 33039537483 6.Doanh thu hoạt động tài chính 1638877594 8375310506 32019473244 7.Chi phí tài chính 1161408400 1092054782 3718387855 - trong đó: CF Lãi vay 1161408400 1029124204 3672897382 8.Chi phí bán hàng 63624560 2758322395 5575772991 9.Chi phí quản lý doanh nghiệp 10058768511 5615888807 16037811735 10.Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh 2155349567 9531808237 39727038146 11.Thu nhập khác 10809936 640644187 1846235610 12.Chi phí khác 545239543 81733906 13.Lợi nhuận khác 10809936 95404644 1764501704 14.Tổng lợi nhuận trước thuế 2166159503 9627212881 41491539850 15.Tổng lợi nhuận chịu thuế TNDN 1947501008 13622802484 16.Chi phí thuế TNDN hiên hành 194491987 499522286 3814384696 17.Chi phí thuế TNDN hoãn lại 45777997 31568102 18.Lợi nhuận sau thuế TNDN 1971667516 9081912599 37645587052 19.Lãi cơ bản trên cổ phiếu 27017 Bảng báo cáo kết quả kinh doanh ở trên cho thấy tổng doanh thu của công ty tăng trưởng mạnh qua các năm. Cụ thể, năm 2005 tổng doanh thu là 104 tỷ: năm 2006 là khoảng 125 tỷ tăng 20% với năm 2005. Năm 2007 là 330 tỷ tăng 120so với năm 2006 và tăng khoản 190% so với năm 2005. Sở dĩ công ty có được doanh thu như vây vì thi trường trong thời gian vừa qua có sự phát triển mạnh mẽ, cộng với sự chỉ đạo đúng đắn của ban lãnh đạo công ty tạo động lực phát triển mạnh mẽ. Lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động kinh doanh mang lại, các khoản thu nhập bất thường là không đáng kể. 2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của công ty cổ phần tập đoàn HIPT 2.2.1. Tài sản ngắn hạn của công ty cổ phần tập đoàn HiPT Bảng 2.3 Cơ cấu tài sản ngắn hạn của công ty đvt: đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1. Tiền 2475766510 5,9 14217938075 19,16 31865001308 9,77 2.Đầu tư ngắn hạn 0 0 0 0 66544426667 20,40 3.Phả thu 12276800419 29,26 40685062715 54,82 160990731785 49,36 4.Hàng tồn kho 27139242180 64,68 18082781348 24,36 65757706736 20,16 5.TSNH khác 63949503 0,16 1281527795 1,66 1031226082 0,31 Tổng cộng 41955758612 100 74217938075 100 326189092578 100 Nguồn: Bảng cân đối kế toán từ năm 2003 -> 2007 của công ty Căn cứ bảng số liệu của bảng 2.3 cho thấy tài sản lưu động của công ty tăng lên rất nhanh, cụ thể năm 2005 là sấp xỉ 42 tỷ đồng; năm 2006 là 74,2 tỷ đồng tăng gần 2 lần so với năm 2005; sang năm 2007 là hơn 326 tỷ đồng gấp 8 lần so với năm 2005 và gấp hơn 4 lần năm 2006 2.2.1.1. Vốn bằng tiền của công ty Vốn bằng tiền của công ty bao gồm các khoản: Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển. Tỷ trọng các khoản này trong vốn bằng tiền thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 2.4: Vốn bằng tiền của công ty đvt: đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1.Tiền mặt 129860545 5,25 4377447713 30,79 3084654284 10,72 2.Tiền gửi ngân hàng 2345905965 94.75 9840490362 69,21 28780347024 89,28 3.Tiền đang chuyển 0 0 0 0 0 0 Tổng cộng 2475766510 100 14217938075 100 31865001308 100 Thực tế cho thấy tiền mặt là loại tài sản có tỷ lệ sinh lời rất thấp, hầu hết các công ty và khách hàng đều giao dịch thông qua hệ thống ngân hàng, do đó công ty xuất nhập khẩu thường giữ lại một lượng tiền nhỏ để thanh toán hàng ngày, thanh toán lương cho công nhân hay tạm ứng... Nhưng số liệu trong bảng cho thấy việc nắm giữ tiền mặt của công ty ngày càng tăng . Đặc biệt tăng manh trong năm 2006 với tỷ lệ tiền mặt nắm giữ năm 2005 là 5,25 % ; đến năm 2006 tỷ lệ này là 30,79% tăng 25,54% so với năm 2005. Năm 2007 vốn bằng tiền tăng mạnh gấp gần 14 lần năm 2005 và hơn 2 lần năm 2006. Tuy nhiên, tỷ lệ nắm giữ tiền mặt trên vốn bằng tiền là 10,72% giảm 20,09% so với năm 2006 và tăng 5,47% so với năm 2005. Các doanh nghiệp gửi tiền ngân hàng nhằm mục đích thu được khoản tiền lãi đồng thời phục vụ trong việc giao dịch với các khách hàng và các công ty khác. Việc công ty nắm giữ tỷ lệ tiền mặt tăng lên đồng nghĩa với việc tỷ lệ tiền gửi ngân hàng giảm qua các năm. Là một công ty ki._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24737.doc
Tài liệu liên quan