Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ kế toán cho vay tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Thanh Trì

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ KẾ TOÁN CHO VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG 1.1 Tín dụng Ngân hàng và vai trò của tín dụng trong nền kinh tế quốc dân. 1.1.1 Tín dụng Ngân hàng Tín dụng ra đời cùng với sự xuất hiện của tiền tệ. Khi một chủ thể kinh tế cần một lượng hàng hoá cho nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất trong khi chưa có tiền hoặc số tiền hiện có chưa đủ để họ có thể sử dụng thì hình thức vay mượn có thể đáp ứng nhu cầu. Có hai cách vay mượn: vay chính loại hàng hoá có nhu

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1308 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả nghiệp vụ kế toán cho vay tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Thanh Trì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu hoặc vay tiền để mua loại hàng hoá đó. Quan hệ vay mượn như vậy gọi là quan hệ tín dụng. Như vậy sự ra đời và phát triển của tín dụng không những thoã mãn nhu cầu “điều hoà” vốn trong xã hội mà còn là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Hệ thống Ngân hàng thương mại ra đời với chức năng là trung gian tài chính ra đời là một tất yếu khách quan, làm “cầu nối” giữa những người thừa vốn và người thiếu vốn. Nói cách khác trong mối quan hệ này Ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.Như vậy tín dụng Ngân hàng là giao dịch tài sản giữa Ngân hàng (TCTD) với bên đi vay (là các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế) trong đó Ngân hàng (TCTD) chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho Ngân hàng (TCTD) khi đến hạn thanh toán. (Nguồn: Giáo trình kế toán Ngân hàng-NXB Thống kê/2005). 1.1.2 Vai trò của tín dụng Ngân hàng Sự phát triển nền kinh tế sản xuất và lưu thông hàng hoá kéo theo sự ra đời và phát triển của tiền tệ và các tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Ngân hàng thương mại tham gia trên thi trường với tư cách là trung gian tài chính lớn nhất trong nền kinh tế quốc dân, hay Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa cung và cầu vốn, từ đó góp phần đầu tư phát triển kinh tế, nói các khác nó là đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế hàng hoá tiền tệ thì bất kỳ thời điểm nào cũng xuất hiện một hiện tượng là có những chủ thể thừa vốn đồng thời lại có những chủ thể thiếu vốn. Thông qua Ngân hàng thương mại các nguồn vốn được chuyển một cách gián tiếp từ người thừa vốn sang người thiếu vốn. Cách đầu tư gián tiếp này mang lại người thừa vốn thu đươc một khoản tiền với độ an toàn cao, đồng thời các chủ thể thiếu vốn cũng đáp ứng được nhu cầu với khối lượng và thời hạn phù hợp…một cách nhanh chóng nhất. Trong khi đó, việc đầu tư trực tiếp gặp khó khăn do khó có sự phù hợp về khối lượng vốn, thời gian và lòng tin giữa các chủ thể (người có vốn và người cần vay vốn). Sự xuất hiện của Ngân hàng còn cung ứng cho thị trường hàng loạt tiện ích như : dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, tư vấn… Dưới hình thức đi vay để cho vay, các Ngân hàng thương mại có thể chia nhỏ sản phẩm tiền gửi với giá trị lớn thành sản phẩm tín dụng có giá trị nhỏ đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và hộ sản xuất, người có thu nhập thấp…Đồng thời tập trung những khoản tiền gửi nhỏ thành những khoản tín dụng lớn đáp ứng các nhu cầu khác nhau của nền kinh tế. Với chức năng là trung gian tín dụng các Ngân hàng thương mại góp phần tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hóa và vòng quay vốn. Là một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế hiện nay. Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho xã hội góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Do quá trình sản xuất kinh doanh trong xã hội là thường xuyên liên tục, do vậy nhu cầu vốn để đáp ứng cho hoạt động này cũng nảy sinh thường xuyên liên tục với mức độ cao. Tín dụng Ngân hàng khai thác tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nước, cung cấp vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, khu công nghiệp. Bên cạnh đó TDNH còn cung cấp vốn ưu đãi cho các thành phần kinh tế kém phát triển tạo đà cho tất cả các thành phần kinh tế cùng phát triển. Việc phân phối lại tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, làm cho nền kinh tế được hoạt động một cách trôi chảy. Có thể nói tín dụng là “cầu nối” giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực để kích thích tiết kiệm đồng thời cũng là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế. Thông qua tín dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư trong xã hội được tập trung lai và sẽ được đầu tư trở lại nền kinh tế. Điều này sẽ làm cho hoạt động đầu tư được mở rộng, góp phần nâng cao sản lượng trong sản xuất kinh doanh, phát triển nền kinh tế. Ngoài ra tín dụng còn kích thích cạnh tranh, và liên kết giữa các thành phần kinh tế. Từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Tín dụng Ngân hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân để họ có thể đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cũng như thực hiện các kế hoạch của mình. Làm cho quá trình phát triển kinh doanh được trôi chảy, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, tăng tốc độ luân chuyển vốn trong nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn và phân phối vốn cho nền kinh tế. Bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Và nhu cầu vốn trong xã hội luôn diễn ra một cách thường xuyên, liên tục. Để giải quyết nhu cầu về vốn một cách nhanh chóng và có hiệu quả thì tín dụng Ngân hàng là công cụ tốt nhất và quan trọng nhất. Tín dụng Ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế mà còn giúp các doanh nghiệp phát huy được thế mạnh về lao động, kỹ thuật của mình. Thông qua việc huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, Ngân hàng hình thành nên nguồn vốn cho vay.Trên cơ sở đó Ngân hàng đầu tư vào các lĩnh vực có nhu cầu về vốn. Như vậy nhờ có hoạt động tín dụng Ngân hàng vốn được điều chuyển từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh, góp phần làm cho tốc độ chu chuyển vốn được liên tục và có hiệu quả. Tuy nhiên hoạt động tín dụng không phải là đáp ứng tất cả các nhu cầu về vốn của chủ thể, mà việc đầu tư chỉ có thể được thực hiện cho những khách hàng có khả năng về tài chính, kinh doanh có hiệu quả. Do đó tín dụng Ngân hàng đã kích thích các doanh nghiệp sử dụng vốn một cách có hiệu quả, đầu tư có trọng điểm, có phương huớng,đồng thời đẩy nhanh quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất ở những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đưa được các thành tựu khoa học kỹ thuật và sản xuất, nâng cao được chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, thúc đẩy cạnh tranh. Từ đó nâng cao trình độ sản xuất của nền kinh tế, đồng thời làm tăng lợi ích của người tiêu dùng và người lao động trong xã hội . Góp phần thúc đẩy quá trình phát triển xã hội. Tín dụng Ngân hàng góp phần hoàn thiện hơn cho chế độ hạch toán của nền kinh tế. Khi các doanh nghiệp sử dụng vốn vay của Ngân hàng thì phải có trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn nghi trên hợp đồng tín dụng. Đồng thời cũng phải tôn trọng và thực hiện tốt những diều đã nghi trong hợp đồng điều này đòi hỏi các doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân phải quan tâm đến việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả, giảm bớt những chi phí không cần thiết, tăng nhanh vòng quay vốn…Nâng cao được năng lực của mình. Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển.Trong khi đó một trong những hoạt động kinh doanh quan trọng nhất đó là công tác hạch toán kinh tế, vì quá trình hạch toán kinh tế là quá trình quản lý và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Để làm tốt công việc này thì hạch toán kinh tế phải giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn để vốn được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng nhằm thu được lợi nhuận là lớn nhất. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ngày càng hoàn thiện hơn chế độ hạch toán của doanh nghệp mình.Không những thế đối với Ngân hàng, hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nguồn thu nhập lớn nhất cho Ngân hàng. Vì vậy hoạt động tín dụng cần đựơc quản lý một cách có hiệu quả và công tác kế toán cho vay là điều không thể thiếu. Hoạt động tín dụng góp phần điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông và kiểm soát lạm phát. Khối lượng tiền trong lưu thông tăng lên khi Ngân hàng cho vay ra và giảm đi khi Ngân hàng thu hồi nợ. Như vậy thông qua hoạt động cho vay tín dụng Ngân hàng góp phần điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế. Ngân hàng thường sử dụng lãi suất cho vay và huy động để điều tiết cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Mỗi sự biến động của lãi suất có thể làm thay đổi khối lượng tiền vay. Khi lãi suất tăng lượng tiền vay giảm ngược lại khi lãi giảm thì lượng tiền vay sẽ tăng. Các Ngân hàng cũng sử dụng hạn mức tín dụng cho các khách hàng vay nhằm khống chế lượng tiền vay. Đây là một trong những biện pháp khiểm soát lạm phát. Bởi vì khi Ngân hàng kiểm soát được khối lượng tiền trong lưu thông tức thoã mãn được nhu cầu tiền của nền kinh tế từ đó kiểm soát được gía cả, đồng thời kiểm soát được lạm phát. Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát triển quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay khi mà xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra một cách nhanh chóng, nền kinh tế của mỗi nước đều gắn liền và trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới thì quan hệ thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng hơn. Tín dụng Ngân hàng trở thành một phương tiện nối liền kinh tế giữa các nước với nhau. Thông qua quá trình nhận và cho vay, tài trợ xuất nhập khẩu của các Ngân hàng cũng như của các tổ chức tín dụng, cùng với sự tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán quốc tế. Tín dụng Ngân hàng làm tăng quan hệ tốt đẹp giữa các nước với nhau, đồng thời thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy quá trình phát triển sản xuất trong nước. Từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy qua hoạt động của mình tín dụng Ngân hàng đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Đồng thời tín dụng Ngân hàng còn góp phần thực hiện tốt chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước đề ra. Ngoài ra tín dụng Ngân hàng còn là yếu tố quan trọng cùng các hoạt động khác giúp cho Ngân hàng nói riêng và toàn bộ hệ thống tài chính nói chung tồn tại và phát triển trên thị trường hiện nay. 1.1.3 Các hình thức cấp tín dụng. a) Cho vay bằng tiền. Là hình thức cấp tín dụng cho khách hàng bằng cách cho vay trực tiếp bằng tiền, tức Ngân hàng chuyển giao một số tiền nhất định cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả gốc và lãi cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán. Đây là hình thức tín dụng thuần tuý sơ khai nhất của Ngân hàng. Theo quyết định 1627 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành tháng 12/2002. Hiện nay các Ngân hàng Thương mại Việt Nam đang áp dụng 8 phương thức cho vay. (Các phương thức này sẽ được trình bày kỹ hơn ở phần sau). Phương thức cho vay từng lần. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. Cho vay theo dự án đầu tư. Cho vay hợp vốn. Cho vay trả góp. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Cho vay theo hạn mức thấu chi. b) Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá. Cho vay chiết khấu thực chất là nghiệp vụ tín dụng trong đó, Ngân hàng Thương mại mua lại thương phiếu và các giấy tờ có giá theo giá trị hiện tại tại thời điểm mua, và có được trái quyền đối với người phát hành ra thương phiếu khi đến hạn. Về phía Ngân hàng Thương mại, cho vay chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng phiếu chưa đến hạn thanh toán cho Ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi số tiền chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có). Chiết khấu thương phiếu vừa là nghiệp vụ sinh lời, vừa duy trì năng lực thanh toán của Ngân hàng Thương mại khi các Ngân hàng mang thương phiếu đến tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. Xét trên góc độ quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia, có hai loại chiết khấu: Chiết khấu miễn truy đòi. Chiết khấu truy đòi. c) Cho thuê tài chính. Cho thuê tài chính là hình thức cho thuê tài sản trong đó phần lợi ích và rủi ro của tài sản thuê được chuyển giao sang bên đi thuê. Vậy đây thực chất là tín dụng trung và dài hạn, trong đó Ngân hàng theo đơn đặt hàng của khách hàng sẽ mua tài sản về cho thuê và cuối hợp đồng khách hàng có thể mua lại tài sản theo giá thoả thuận trong hợp đồng thuê. Đứng ở góc độ tín dụng, cho thuê tài chính là loại hình tín dụng trung, dài hạn để bổ sung cho tín dụng trung, dài hạn thông thường nhằm giúp cho các doanh nghiệp giải quyết khó khăn về tài chính (Vốn để đầu tư vào tài sản cố định). Ở hình thức này ngoài việc phải đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật của loại tín dụng “đặc thù” này, còn phải tuân thủ quy chế tín dụng, kỹ thuật kế toán cho vay nói chung cảu Ngân hàng Thương mại. d) Nghiệp vụ bảo lãnh. Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và trả nợ cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Tín dụng bảo lãnh thực chất là hình thức tín dụng “bằng chữ ký” trong đó Ngân hàng đưa ra cam kết bảo lãnh cho khách hàng của mình và sẽ có trách nhiệm trả thay khách hàng trong trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán. Như vậy khi đưa ra cam kết bảo lãnh, Ngân hàng chưa phải xuất quỹ để cho khách hàng sử dụng. Chỉ khi đáo hạn khách hàng không có khả năng thanh toán thì Ngân hàng mới xuất tiền để thanh toán hộ. Tuy nhiên nghiệp vụ bảo lãnh cũng tạo ra cơ hội để tăng tổng dư nợ tín dụng lớn hơn trong hoạt động tín dụng 2.1 Kế toán cho vay trong Ngân hàng thương mại 1.2.1 Kế toán cho vay a) Khái niệm kế toán Ngân hàng Kế toán là một công cụ quan trọng để quản lý kinh tế tài chính ở mỗi đơn vị, tổ chức kinh tế cũng như ở phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kế toán Ngân hàng là việc thu thập, ghi chép, xử lý, phân tích các nghiệp vụ kinh tế tài chính về hoạt động tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng dưới hình thức chủ yếu là giá trị để phản ánh, kiểm tra toàn bộ hoạt động kinh doanh của đơn vị Ngân hàng, đồng thời cung cấp thông tin cần thiết phục vụ cho công tác quản lý hoạt động tiền tệ Ngân hàng ở tầm vĩ mô và vi mô, cung cấp thông tin cho các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh tiền tệ do đó hầu hết các nghiệp vụ kế toán Ngân hàng đều liên quan đến các ngành kinh tế khác. Vì vậy kế toán Ngân hàng không chỉ phản ánh tổng hợp hoạt động cảu bản thân Ngân hàng mà nó còn phản ánh được đại bộ phận hoạt động kinh tế, tài chính của nền kinh tế. Những số liệu do kế toán Ngân hàng cung cấp là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng giúp cho việc chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh doanh Ngân hàng, là căn cứ cho việc hoạt dộng thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. b) Khái niệm về kế toán cho vay Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Đây được coi là nghiệp vụ chủ yếu chiếm tỷ trọng tài sản có sinh lời lớn nhất trong tổng tài sản có của Ngân hàng, đồng thời cũng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng. Theo thống kê ở Việt Nam giá trị tài sản từ hoạt động tín dụng chiếm 70%-80% tổng tài sản có, thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm 80%- 90% tổng thu của Ngân hàng. Kế toán nghiệp vụ tín dụng là công việc ghi chép, phản ánh tổng hợp một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời các khoản tín dụng trong tất cả các khâu từ giải ngân, thu nợ, thu lãi và theo dõi dư nợ toàn bộ cấp tín dụng của Ngân hàng, trên cơ sở đó để giám đốc chặt chẽ toàn bộ số tiền đã cấp tín dụng cho khách hàng đồng thời tham mưu cho nghiệp vụ tín dụng. c) Vai trò của kế toán cho vay Thông qua kế toán cho vay Ngân hàng mới thực hiện được việc giải ngân, thu nợ, thu lãi để đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động của nền kinh tế một cách kịp thời, chính xác. Đồng thời cũng giúp cho lãnh đạo Ngân hàngnắm bắt chính xác thông tin, số liệu về dư nợ cho vay, doanh số thu nợ, thu lãi, nợ quá hạn từ đó có biện pháp xử lý, phương hướng chỉ đạo điều hành hoạt động kinh doanh cho phù hợp nhằm đạt được mục tiêu cho an toàn và lợi nhuận. Từ các số liệu của kế toán cho vay có thể thấy được tình hình phát triển kinh tếcủa từng khu vực, tình hình đầu tư Ngân hàng, các ngành nghề từ đó điều chỉnh các chính sách phát triển kinh tế. Xuất phát từ vai trò của mình việc tổ chức bộ máy kế toán trong mỗi Ngân hàng đều thực sự cần thiết, ở đó việc hạch toán kế toán phải phù hợp với từng phương thức cho vay, loại cho vay, thời hạn cho vay nhằm mục đích mang lại lợi nhuận cao nhất và hạn chế rủi ro thấp nhất cho Ngân hàng. d) Nhiệm vụ của kế toán cho vay - Tổ chức ghi chép phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời các khoản cho vay, thu nợ, theo dõi dư nợ, chuyển nhóm nợ, trích lập dự phòng rủi ro qua đó hình thành các thông tin kế toán phục vụ quản lý tín dụng. Bảo vệ an toàn vốn cho vay. - Quản lý hồ sơ cho vay, theo dõi kỳ hạn nợ để thu hồi nợ đúng hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn khi người vay không đủ khả năng trả nợ đúng hạn. - Tính và thu lãi cho vay chính xác, đầy đủ, kịp thời. - Giám sát tình hình tài chính của khách hàng thông qua hoạt động của tài khoản tiền gửi và tài khoản cho vay. Phát hiện kịp thời những khách hàng có khả năng tài chính không lành mạnh trên cơ sở đó tham mưu cho cán bộ tín dụng để có biện pháp xử lý kịp thời. - Thông qua số liệu của kế toán cho vay để phát huy vai trò tham mưu của kế toán trong nghiệp vụ tín dụng. e) Tài khoản sử dụng trong kế toán cho vay Tài khoản kế toán là phương pháp kế toán dùng để phân loại và hệ thống hóa các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh theo nội dung kinh tế. Các tài khoản được sử dụng trong cho vay được căn cứ vào cơ chế nghiệp vụ tín dụng mà bố trí sắp xếp một các thích hợp, đáp ứng yêu cầu quản lý của nghiệp vụ tín dụng. - Tài khoản nội bảng Các tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay Tài khoản này được bố trí ở 2 loại “hoạt động tín dụng” trong hệ thống tài khoản tổ chức tín dụng do Thống đốc ban hành Để phản ánh từng loại khách hàng vay vốn, từng kỳ hạn vay( ngắn, trung và dài hạn), từng loại tiền cho vay( bằng đồng Việt Nam hay ngoại tệ hoặc vàng) và phản ánh được yêu cầu phân loại nợ, trong 2 loại được bố trí thành các tài khoản tổng hợp cấp I, II và cấp III. TK cấp I: TK 20: Cho vay các tổ chức tín dụng khác. TK21: Cho vay các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước. TK 22: Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước. TK 23: Cho thuê tài chính. TK 24: Bảo lãnh. …. TK cấp II được mã hoá theo thời gian và loại tiền tệ. Ví dụ với TK 21. TK 211: Cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam. TK 212: Cho vay trung hạn bằng đồng Việt Nam. TK 213: Cho vay dài hạn bằng đồng Việt Nam. TK 214: Cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ. …. Các tài khoản tổng hợp cấp II được bố trí thành các tài khoản tổng hợp cấp III để phục vụ việc phân loại nợ của các Ngân hàng Thương mại (5 cấp độ). TK 2111: Nợ đủ tiêu chuẩn TK 2112: Nợ cần chú ý TK 2113: Nợ dưới tiêu chuẩn TK 2114: Nợ nghi ngờ TK 2115: Nợ có khả năng mất vốn Các tài khoản cấp II khác cũng được phân thành tài khoản cấp III tương tự như tài khoản 211. Các tài khoản cấp III tuy có nội dung kinh tế cụ thể khác nhau nhưng nhìn chung đều có kết cấu: Bên nợ ghi: Số tiền cho vay Bên có ghi: Số tiền thu nợ hoặc số tiền chuyển nợ quá hạn Số dư nợ: Phản ánh số tiền người vay còn nợ Ngân hàng Hạch toán chi tiết: Mở tài khoản theo từng tổ chức, cá nhân vay vốn. Tài khoản 394: Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng (lãi cộng dồn dự thu) Tài khoản này dùng để phản ánh số lãi phải thu tính trên các Tài khoản cho vay các tổ chức, cá nhân trong nước mà tổ chức tín dụng sẽ được nhận khi đến hạn. Khi hạch toán lãi cộng dồn dự thu kế toán không quan tâm tới việc tiền đã nhận hay chưa mà tiến hành bằng cách tính và hạch toán và Tài khoản thu nhập theo định kỳ trong tương lai. Kết cấu của tài khoản 394 Bên nợ ghi: Số tiền lãi phải thu tính trong kỳ Bên có ghi: Số tiền lãi khách hàng đã trả Số dư nợ: Phản ánh số lãi mà Ngân hàng chưa được thanh toán Hạch toán chi tiết: Mở tài khoản chi tiết theo từng tổ chức, cá nhân vay vốn. Tài khoản 702: Thu lãi cho vay Tài khoản này dùng để hạch toán số tiền thu lãi từ các khoản cho vay khách hàng. Kết cấu của tài khoản thu lãi cho vay Bên có ghi: Số tiền thu lãi cho vay Bên nợ ghi: Kết chuyển số dư Có và TK “Lợi nhuận năm nay” khi thựchiện quyết toán năm Số dư có: Phản ánh số thu nhập về lãi cho vay của Ngân hàng Tài khoản 209: Dự phòng phả thu khó đòi - Tài khoản này dùng để phản ánh việc lập và xử lý các khoản dự phòng về các khoản cho vay của Ngân hàng. Khoản dự phòng phải thu khó đòi được trích từ chi phí của kỳ kế toán. Kết cấu của tài khoản phải thu khó đòi Bên có ghi: Số dự phòng phải thu khó đòi tính vào chi phí Bên nợ ghi:- Các khoản nợ phải thu khó đòi không thu được phải xử lý xoá nợ. - Kết chuyển số chênh lệch về dự phòng phải thu khó đòi đã lập không sử dụng còn lại đến cuối niên độ kế toán. Số dư có:Phản ánh dự phòng phải thu khó đòi còn lại cuối kỳ Hạch toán chi tiết: Mở một tài khoản chi tiết Tài khoản ngoại bảng TK 94: Lãi cho vay quá hạn chưa thu được Tài khoản này dùng để phản ánh số lãi cho vay đã quá hạn của tổ chức tín dụng chưa thu được Kết cấu của Tài khoản Bên nhập phản ánh: Số lãi quá hạn chưa thu được Bên xuất phản ánh: Số lãi đã thu được Số còn lại phản ánh: Số lãi cho vay chưa thu được còn phải thu TK 994: Tài sản thế chấp cầm đồ của khách hàng Tài khoản này dùng để phản ánh các tài sản cầm cố, thế chấp của các tổ chức kinh tế, cá nhân vay vốn của Ngân hàng theo chế độ cho vay quy định. Kết cấu của Tài khoản Bên nhập phản ánh: Giá trị tài sản thế chấp, cầm dồ của khách hàng giao cho Ngân hàng quản lý để đảm bảo nợ vay. Bên xuất phản ánh: - Giá trị TSTC cầm đồ trả lại tổ chức, cá nhân vay khi trả được nợ - Giá trị TSTC cầm đồ đem phát mại để trả nợ vay cho Ngân hàng Số còn lại phản ánh: Giá trị TSTC cầm đồ của khách hàng Ngân hàng đang quản lý. Tài khoản 995: Tài sản gán, xiết nợ chờ xử lý Tài khoản này dùng để phản ánh các tài sản gán, xiết nợ của tổ chức, cá nhân vay vốn của Ngân hàng. Kết cấu của Tài khoản Bên nhập phản ánh: Giá trị tài sản Ngân hàng tạm giữ chờ xử lý Bên xuất phản ánh: Giá trị tài sản Ngân hàng tạm giữ đã xử lý Số còn lại phản ánh: Giá trị tài sản của tổ chức, cá nhân vay vốn đang được Ngân hàng tạn giữ chờ xử lý. Ngoài ra còn TK 97: Nợ khó đòi đã xử lý TK996: Chứng từ có giá của khách hàng đưa cầm cố. d) Chứng từ sử dụng Chứng từ dùng trong kế toán cho vay là những loại giấy tờ, vật mang tin đảm bảo vầ mặt pháp lý cho các khoản vay của Ngân hàng. Mọi sự tranh chấp về các khoản cho vay hay trả nợ giữa Ngân hàng và người vay đều phải giải quyết trên cơ sở các chứng từ cho vay hợp lệ, hợp pháp. Chứng từ kế toán cho vay bao gồm nhiều loại để phục vụ cho công việc hạch toán và theo dõi thu hồi nợ: Chứng từ gốc: Là chứng từ có giá trị pháp lý trong quan hệ tín dụng xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên đi vay và cho vay. Chứng từ gốc bao gồm Giấy đề nghị vay vốn. Hợp đồng tín dụng. Giấy nhận nợ. … Chứng từ ghi sổ: Là chứng từ làm thủ tục kế toán, là căn cứ được lập trên cơ sở chứng từ gốc. Chứng từ ghi sổ bao gồm Giấy lĩnh tiền mặt (nếu giải ngân bằng tiền mặt ) Các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như UNT, UNC...( nếu giải ngân bằng chuyển khoản) …. g) Các phương thức cho vay Phương thức cho vay là cách tính toán cho vay, thu nợ dựa vào tính chất, đặc điểm và cách xác định đối tượng cho vay. Việc áp dụng phương thức cho vay nào phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh, nhu cầu về vốn của đối tượng xin vay. Theo quyết định 1627 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành tháng 12/2002. Hiện nay các Ngân hàng Thương mại Việt Nam đang áp dụng 8 phương thức cho vay là: 1. Phương thức cho vay từng lần Ngân hàng cho vay ngắn hạn ( thời hạn tối đa là 12 tháng) dưới hình thức cho vay từng lần đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh… Phương thức này thường được áp dụng đối với khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên hoặc vay có tính chất thời vụ, hoặc có tính chất thời vụ. Ngân hàng xét duyệt cho vay từng lần theo từng đối tượng vay cụ thể, như cho vay mua nguyên vật liệu để sản xuất…Đây là một phương thức phổ biến có thể áp dụng với tất cả các đối tượng vay vốn thuộc mọi thành phần kinh tế. Ưu điểm Đây là một phương thức linh hoạt trong quá trinh sử dụng vốn của Ngân hàng. Khi nào khách hàng có nhu cầu vay vốn Ngân hàng mới xem xét đáp ứng. Vì vậy Ngân hàng có thể kiểm soát chặt chẽ từng món vay, tính toán được hiệu quả kinh tế của từng món vay, giúp cho Ngân hàng mở rộng kinh doanh, phục vụ được mọi đối tượng khách hàng, tìm kiếm thu nhập, đồng thời đảm bảo an toàn vốn vay và tạo thế chủ động cho cả Ngân hàng và khách hàng. Với mức phát tiền vay, hạn trả nợ cụ thể Ngân hàng có thể lên kế hoặch cho vay một cách hợp lý, tránh ứ đọng vốn và tăng hiệu quả sử dụng vốn. Mặt khác việc tính toán thu nợ, thu lãi của kế toán cho vay được thực hiện đơn giản căn cứ vào số tiền cho vay, lãi suất cho vay và thời gian cho vay trên hợp đồng tín dụng. Nhược điểm Thủ tục rườm rà. Mỗi lần vay tiền người vay phải làm thủ tục xin vay gửi tới Ngân hàng xem xét quyết định cho vay. Gây tốn kém thời gian, công sức và gay ra khó khăn cho người vay làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của khách hàng, thậm chí mất cơ hội kinh doanh nếu không có vốn kịp thời. Mặt khác việc xác định thời hạn vay mang tính chủ quan. Nếu đối tượng có vòng quay vốn nhanh thì doanh nghiệp có thể sử dụng vốn sai mục đích, gây ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ và ảnh hưởng đến nguồn vốn của Ngân hàng. 2. Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng Cho vay theo hạn mức tín dụng là phương thức cho vay bằng chách Ngân hàng xác định cho khách hàng của mình một hạn mức tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định để làm ăn cứ cho việc phát tiền vay. Phương thức này áp dụng đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định sản xuất nhiều mặt hàng, nhu cầu vay trả phát sinh thường xuyên, có vòng quay vốn tín dụng, vòng quay vốn lưu động nhanh, có tín nhiệm đối với Ngân hàng trong quan hệ tín dụng. giữa Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Ưu điểm Đây là phương thức cho vay năng động, linh hoạt đáp ứng được kịp thời chu cầu của người vay bởi thủ tục vay vốn dơn giản, thuận tiện. Khách hàng chỉ cần làm thủ tục vay vốn lần đầu còn mỗi lần sau khách hàng không phải làm đơn xin vay cũng như hợp đồng tín dụng mà chỉ cần gửi đến Ngân hàng các chứng từ kế toán thích hơp, phù hợp với mục đích sử dụng tiền vay trong hợp đồng tín dụng. Do đó khách hàng hoàn toàn có thế chủ động trong việc vay và trả nợ. Ngân hàng cũng có thể kiểm soát được các khoản thu nhập của khách hàng, từ đó nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là khả năng tài chính của khách hàng. Từ đó Ngân hàng có những quyết định đúng sắn kịp thời trong quan hệ tín dụng với khách hàng Nhược điểm Theo phương thức này Ngân hàng và khách hàng cùng ký kết một hợp đồng tín dụng , tức Ngân hàng luôn phải duy trì một số vốn nhất định để giải ngân cho người vay, điều nay dễ gây cho Ngân hàng mất thế chủ động vê nguồn vốn kinh doanh, gây nên hiện tượng ứ đọng vốn. Điều này gây bất lợi cho Ngân hàng bởi khoản vốn chết không mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng mà Ngân hàng còn phải trả lãi huy động cho khoản vốn đó. Phương thức này chỉ được áp dụng cho vay đối với những khách hàng có đủ tín nhiệm với Ngân hàng, nhu cầu vay vốn thường xuyên, khả năng tài chính tốt, trình độ quản lý đáp ứng được nhu cầu kinh doanh trong cơ chế thị trường, sản xuất kinh doanh ổn định. 3. Cho vay theo dự án đầu tư. Đây là phương thức Ngân hàng áp dụng cho khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống. Hình thức này áp dụng cho mọi đối tượng, mọi loại hình kinh tế, thường cho vay trung và dài hạn. 4. Cho vay hợp vốn Cho vay hợp vốn được thực hiện bởi một nhóm Ngân hàng thương mại cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một Ngân hàng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các Ngân hàng thương mại khác. Như vậy, tuy có nhiều Ngân hàng cùng cho vay vào một khách hàng nhưng khách hàng vay chỉ quan hệ với Ngân hàng đầu mối trong quá trình xét duyệt cho vay, giải ngân, trả nợ, trả lãi. 5. Cho vay trả góp Khi cho vay vốn Ngân hàng và khách hàng thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả cho nhiều kỳ trong thời hạn cho vay. Phương thức này chủ yếu đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình. Đối tượng cho vay là những người có thu nhập đều đặn, ổn định. Khách hàng có thể trả nợ trước hạn nhưng Ngân hàng không tính lãi số tiền mà khách hàng phải trả. 6. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng Căn cứ vào nhu cầu vay của khách hàng Ngân hàng sẽ thoả thuận cho khách hàng sử dụng một hạn mức tín dụng trong phạm vị thời gian hiệu lực của hợp đồng. Nừu khách hàng không sử dụng hoặc không sử dụng hết hạn mức tín dụng dự phòng thì khách hàng phải trả phí cam kết. Khi khách hàng vay chính thức phần vốn vay sẽ tính theo mức lãi suất hiện hành. 7. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng Ngân hàng sẽ xác định một hạn mức tín dụng để người chủ thẻ có thể sử dụng để thanh toán, mua sắm, rut tiền tại máy rút tiền tự động. Khách hàng không phải ký quỹ đối với loại thẻ này. 8. Cho vay theo hạn mức thấu chi Là phương thức cho vay mà Ngân hàng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với quy định của Chính Phủ và Ngân hàng Nhà nước về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. 9. Cho vay theo phương thức khác Theo nhu cầu của khách hàng và theo thực tế phát sinh tại Ngân hàng sẽ xem xét cho vay theo các phương thức khác phù hợp với đặc điểm trong từng thời kỳ và không trái với quy định của pháp luật. f) Quy trình kế toán cho vay Trong phạm vi nghiên cứu của khoá luận chỉ giới thiệu 2 phương thức cho vay phổ biến. 1 Quy trình kế toán cho vay theo phương thức cho vay từng lần + Thủ tục cho vay Lần đầu mở tài khoản cho vay đơn vị phải làm đúng thủ tục mở tài khoản tại Ngân hà._.ng theo quy định. Mỗi lần vay tiền người vay phải lập giấy đề nghị vay vốn gửi tới Ngân hàng cùng với các giấy tờ cần thiết có liên quan khác. Nếu đơn xin vay của khách hàng được duyệt thì Ngân hàng và khách hàng sẽ ký kết hợp đồng tín dụng, trong đó nói rõ về số tiền vay, lãi suất và cách thức trả tiền vay. + Giai đoạn giải ngân Căn cứ vào chứng từ như giấy lĩnh tiền mặt (nếu giải ngân bằng tiền mặt ) hoặc uỷ nhiệm chi nếu giải ngân bằng chuyển khoản kế toán vào sổ chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy tính Nợ: TK cho vay ngắn hạn/ Nợ đủ tiêu chuẩn Có: -Tiền mặt (nếu giải ngân bằng tiền mặt ) -TK tiền gửi của người thụ hưởng (nếu cho vay bằng chuyển khoản thanh toán cùng Ngân hàng) -TK thanh toán vốn giữa các Ngân hàng thích hợp (nếu cho vay bằng chuyển khoản thanh toán khác Ngân hàng) Trong trường hợp khách hàng có tài sản thế chấp, cầm cố, kế toán căn cứ vào biên bản định giá tài sản thế chấp, cầm cố để hạch toán ngoại bảng. Nhập : TK Tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng Để đảm bảo số tiền vay trên hợp đồng tín dụng khớp đúng với số dư Nợ các tài khoản cho vay thì cuối định kỳ (tháng, quý), kế toán cho vay tiến hành sao kê số hư hợp đồng tín dụng để đối chiếu với dư nợ tài khoản cho vay. Nếu có sự chênh lệch thì phải tìm nguyên nhân để điều chỉnh sao cho tổng dư nợ trên hợp đồng tín dụng phải bằng tổng dư nợ của các tài khoản cho vay tương ứng. + Giai đoạn thu nợ Cơ sở để kế toán thu hồi các khoản cho vay từng lần là kỳ hạn nợ ghi trên hợp đồng tín dụng, việc xác định kỳ hạn nợ là của cán bộ tín dụng ngưng việc theo dõi kỳ hạn nợ để thu nợ là của nhân viên kế toán. Theo quy chế tín dụng, đến hạn nợ người vay phải chủ động nộp bằng tiền mặt hay trích tài khoản tiền gửi để trả nợ Ngân hàng. Nếu người vay không chủ động trả nợ trong khi tài khoản tiền gửi của người vay đủ để trả nợ thì kế toán chủ động lập phiếu chuyển trích tài khoản tiền gửi của người vay để thu nợ. Nợ: TK tiền mặt (Nếu thu bằng tiền mặt ) Nợ: TK tiền gửi của người vay (Nếu thu bằng chuyển khoản ) Có: TK cho vay chi tiết theo khách hàng Nếu kết thúc kỳ hạn nợ mà khách hàngkhông trả được nợ và cũng không được Ngân hàng xem xét cho gia hạn nợ. Kế toán phải chuyển sang nợ không đủ tiêu chuẩn tùy theo mức độ đánh giá rủi ro của khoản nợ và áp dụng lãi suất nợ quá hạn. Nợ: TK cho vay chi tiết theo khách hàng (nợ không đủ tiêu chuẩn ) Có: TK cho vay chi tiết theo khách hàng (nợ đủ tiêu chuẩn ) Đối với những khoản vay có bảo đảm bằng tài sản kế toán hạch toán ngoại bảng. Xuất: TK Tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng + Kế toán thu lãi vay Theo chế độ tín dụng và chế độ kế toán, hiện nay đối với phương thức cho vay từng lần, Ngân hàng áp dụng 2 cách thu lãi - Thu lãi định kỳ hàng tháng - Thu lãi sau (thu lãi một lần cùng gốc khi đáo hạn) Áp dụng nguyên tắc cơ sỏ dồn tích đối với thu lãi từ hoạt động tín dụng. - Kế toán thu lãi định kỳ Hàng tháng khi khách hàng trả lãi kế toán cho tiến hành tính lãi trong tháng cho khách hàng để phản ánh vào tài khoản “ Thu lãi cho vay ” Công thức tính lãi: Lãi cho vay = Số tiền gốc cho vay x lãi suất (tháng) Bút toán thu lãi trực tiếp. Nợ: - TK tiền mặt ( nếu khách hàng trả bằng tiền mặt) - Tk tiền gửi (nếu khách hàng trích tài khoản tiền gửi) Có: TK thu lãi cho vay Đến hạn nếu khách hàng không trả được theo cam kết. Kế toán ghi Nhập: TK lãi chưa thu được - Kế toán thu lãi sau. Hàng tháng Ngân hàng vẫn tính và hạch toán số lãi phát sinh vào thu nhập, đối ứng với Tài khoản Tài khoản “ lãi phải thu về hoạt động tín dụng ”. Trường hợp này, lãi phát sinh tháng thường được tính vào ngày cố định trong tháng hoặc tính tròn tháng cho khách hàng vay. Công thức tính lãi: Lãi cho vay = Số nợ còn lại x lãi suất (tháng) Sau khi tính được số lãi phát sinh kế toán hạch toán Nợ: TK lãi phải thu từ hoạt động tín dụng Có: TK thu lãi cho vay Khi nhận được lãi do khách hàng trả trong hạn thoả thuận Nợ: - TK tiền mặt (nếu khách hàng trả bằng tiền mặt) - Tk tiền gửi (nếu khách hàng trích tài khoản tiền gửi) Có: TK lãi phải thu từ hoạt động tín dụng Trường hợp khi đáo hạn, nếu lãi của kỳ cuối cùng Ngân hàng chưa hạch toán treo vào lãi phải thu thì số lãi này được hạch toán thẳng vào thu nhập. Nợ : TK tiền mặt hoặc tiền gửi của khách hàng (tổng số lãi cho vay ) Có : TK lãi phải thu từ hoạt động tín dụng (số lãi đã hạch toán dự thu) Có : TK thu lãi cho vay (số lãi chưa hạch toán dự thu ) Trường hợp khách hàng không trả lãi đúng hạn và quá thời hạn quy định hoặc khoản nợ gốc của số lãi này được điều chuyển sang nợ không đủ tiêu chuẩn thì số lãi đó được coi như có nguy cơ rủi ro với số lãi đã hạch toán dự thu thì kế toán phải trích lập dự phòng rủi ro và theo dõi ở tài khoản ngoại bảng. Kế toán trích dự phòng Nợ: TK chi dự phòng Có: TK dự phòng rủi ro lãi phải thu Đồng thời ghi Nhập: TK lãi chưa thu được Trong trường hợp số lãi bị thất thoát không thu được thì Ngân hàng phải sử dụng dự phòng để bù đắp nếu không đủ thì phải hạch toán vào phí khác. Nợ: TK dự phòng rủi ro lãi phải thu (số dự phòng ) Nợ: TK chi phí khác (số thiếu ) Có: TK lãi phải thu Sau này thu được sẽ coi như thu bất thường, nếu không thu được thì bị loại khỏi sổ sách. Trường hợp lãi dự phòng thu được. Kế toán hạch toán Nợ: TK thích hợp Có: TK lãi phải thu Đồng thời hoàn nhập số dự phòng không sử dụng đến Theo chuẩn mực kế toán quốc tế ghi Nợ: TK dự phòng rủi ro lãi phải thu Có: TK chi dự phòng Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam Nợ: TK dự phòng rủi ro lãi phải thu Có: TK thu nhập khác Đồng thời Xuất: TK lãi chưa thu được 2 Quy trình kế toán cho vay theo hạn mức tín dụng + Thủ tục vay Khách hàng làm đơn xin vay vốn cho kỳ kế hoạch gửi tới Ngân hàng cùng các tài liệu khác theo yêu cầu. Sau khi tiến hành thẩm định và tính toán mức dư nợ bình quân trong quý của cán bộ tín dụng, giám đốc sẽ quyết định duyệt hạn mức dư nợ trong quý. Sau đó hai bên cùng ký kết hợp đồng vay vốn trong quý theo mẫu thống nhất do Ngân hàng ban hành. Mỗi lần rút vốn vay, khách hàng lập giấy nhận nợ với Ngân hàng kèm theo bảng kê chứng từ sử dụng tiền vay và các giấy tờ có liên quan khác để Ngân hàng kiểm soát trước khi phát tiền vay. + Kế toán giai đoạn giải ngân Căn cứ vào tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ giải ngân.Số tiền cho vay phải nằm trong hạn mức tín dụng còn lại, tiền vay được sử dụng đúng với mực đích đã thoả thuận trên hợp đồng tín dụng. Kế toán hạch toán Nợ: TK cho vay theo HMTD Có: TK tiền mặt (nếu giải ngân bằng tiền mặt ) Hoặc TK tiền gửi của người thụ hưởng (nếu thanh toán chuyển khoản cùng Ngân hàng ) Hoặc TK thanh toán giữa các Ngân hàng (nếu thanh toán chuyển khoản khác Ngân hàng ) + Kế toán giai đoạn thu nợ Căn cứ vào cam kết trả nợ trên hợp đồng tín dụng, khi có tiền thu bán hàng hoặc thu nhập khác dùng cho trả nợ thì khách hàng có thể thoả thuận với Ngân hàng thu trực tiếp vào tài khoản cho vay thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Khi thu nợ: Nợ: TK thích hợp (tiền mặt, tiền gửi…) Có: TK cho vay theo HMTD Nếu khách hàng vi phạm cam kết trả nợ Ngân hàng sẽ điều chỉnh sang nợ không đủ tiêu chuẩn và áp dụng lãi qua hạn, trường hợp này bộ phận kế toán lập chứng từ lưu hồ sơ cho vay + Kế toán thu lãi Thực hiện thu lãi theo phương thức tích số hàng tháng và thường không áp dụng hạch toán dồn tích. Tổng tích số dư nợ trong tháng x lãi suất tháng Số lãi phải thu = ----------------------------------------------------------- 30 ngày Tổng tích số dư nợ trong tháng = SDN tài khoản cho vay x Số ngày duy trì SDN tài khoản cho vay. Nợ: - TK tiền mặt (nếu khách hàng trả bằng tiền mặt) - TK tiền gửi (nếu khách hàng trích tài khoản tiền gửi) Có: TK thu lãi cho vay Trường hợp khách hàng không có tiền trả lãi sẽ hạch toán ngoài bảng Nhập: TK lãi chưa thu được Quá thời hạn quy định phải đánh gía lại khoản nợ điều chuyển sang nợ không đủ tiêu chuẩn 1.2.2 Dự phòng phải thu khó đòi Hoạt động cho vay thường chiếm một tỷ trọng cao trong tổng tài sản có của Ngân hàng và mang lại nguồn thu nhập lớn. Tuy nhiên các khoản cho vay thường chứa đựng nhiều rủi ro, vì vậy Ngân hàng cần phải đánh giá đúng chất lượng tín dụng , khả năng tổn thất từ hoạt động tín dụng để xác định giá trị tài sản có rủi ro. Một trong những biện pháp đó là việc Ngân hàng tiến hành phân loại các khoản cho vay theo mức độ rủi ro có thể xảy ra để trích lập dự phòng. Dự phòng rủi ro là dự phòng được hạch toán vào chi phí hoạt động trên cơ sở trích lập dự phòng phần giá trị khoản cho vay tính theo mức độ rủi ro. Tại Việt Nam: Hiện nay ở Việt Nam việc phân loại và trích lập dự phòng rủi ro được thực hiện theo quyết định 493/ 2005 - QĐ - NHNN ngày 22/04/2005. Các Ngân hàng phân loại nợ theo 5 nhóm và tiến hành trích lập như sau: * Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn. Đối với loại này Ngân hàng không phải trích lập dự phòng. * Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ. Ngân hàng sẽ tiến hành trích lập dự phòng 5%. * Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi. Ngân hàng trích lập dự phòng là 20% * Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất cao, Sẽ tiến hành trích lập 50% * Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Ngân hàng tiến hành trích lập 100% Riêng đối khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng. Số tiền dự phòng cụ thể phải trích tính theo công thức: R= max{0, (A-C) x r } Trong đó R: Số tiền dự phòng cụ thể phải trích A: Giá trị của khoản nợ C: Giá trị tài sản bảo đảm R: Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể Ngoài các khoản dự phòng cụ thể, tổ chức tín dụng còn phải trích thêm dự phòng chung. Được trích bằng 0.75% tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4. Kinh nghiệm của các nước về cách trích lập dự phòng các khoản vay khó thu hồi: Theo chuẩn mực kế toán quốc tế. Dự phòng các khoản vay khó thu hồi cần được trích lâp khi số tiền tổn thất đã được xác định cụ thể hoặc có thể chưa xác định nhưng có các dấu hiệu phát sinh tổn thất . Nói cách khác, việc trích lập dự phòng chủ yếu dựa trên kết quả đánh giá khả năng thu hồi hay mức độ rủi ro của khoản vay. Để áp dụng cách trích lâp dự phòng này các Ngân hàng phải phân loại tín dụng theo mức độ rủi ro. Hệ thống phân loại tín dụng này hiện nay đã được một số nước trên thế giới sử dụng. Theo cách phân loại này, một khoản vay được chia thành hai loại chính. Khoản vay có mức độ rủi ro chấp nhận được thường được gọi là khoản vay hiệu quả được trích lâp ở tỷ lệ chung và khoản vay được liệt vào danh sách theo dõi. Loại khoản vay thứ hai bao gồm: - Khoản vay có dấu hiệu rủi ro ( thể hiện quatiêu thức như: Khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp không hợp lý, trì hoản trả nợ…) - Ở mức độ rủi ro cao hơn khi bị nghi ngờ khó thu hồi tức các tiêu thức trên được xác thực và có xu hướng xấu đi - Cuối cùng là khoản vay khó thu hồi và có khă năng phải xoá nợ Để xác định một khoản vay thuộc mức độ rủi ro nào các Ngân hàng thường dựa vào các chỉ riêu: Thứ nhất lịch sử quan hệ tín dụng giữa khách hàng và Ngân hàng: Đánh giá thông qua các hằng số trì hoản nợ, gia hạn nợ, trả nợ đáo hạn, sử dụng vốn vay… Thứ hai luồng tiền và dư nợ hiện tại của doanh nghiệp tại Ngân hàng (số lượng tiền mặt thu được bình quân ngày, tháng so với dư nợ vay Ngân hàng). Chỉ tiêu này giúp Ngân hàng biết được khả năng người vay có thể trả nợ ngay lập tức bao nhiêu. Qua đó cán bộ tín dụng cũng biết được khoảng thời gian nào khách hàng có lượng tiền lớn từ đó xác định thời hạn trả nợ cho hợp lý Thứ ba chất lượng quản lý của đội ngũ lãnh đạo, tiêu thức này sẽ đo lường một phầnvận mệnh và mức độ rủi ro tiềm ẩn của người vay. Thứ tư tài sản thế chấp và tính thanh khoản của nợ. Phản ánh khả năng chi trả của người vay trong trường hợp mất khả năng trả nợ. Thứ năm bảo lãnh của bên thứ ba. Đánh giá khoản tín dụng ở mức độ rủi ro là bao nhiêu phụ thuộc vào khả năng trả nợ thay của người bảo lãnh khi khoản vay bị trì hoãn trả nợ. Ngoài các chỉ tiêu trên, các tham số như xu hướng của mặt hàng khinh doanh, chính sách nhà nước, thếu, mức độ cạnh tranh…cũng đánh giá môth phần mức độ rủi ro tiềm ẩn của khoản tín dụng đầu tư. Dựa vào các chỉ tiêu trên, từ đó đưa ra được mức độ rủi ro từ đó Ngân hàng sẻ có biện pháp trích lập cho phù hợp. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHO VAY TẠI NHNO & PTNT THANH TRÌ 2.1 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của NHNo & PTNT Thanh trì 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển. NHNo & PTNT ra đời theo NĐ 53/NĐ- HĐBT ngày 26/3/1988 với tên gọi là Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam, chính thức đi vào hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam từ ngày 01/7/1988. Lúc đó có 43 Chi nhánh Tỉnh Thành Phố, 448 Chi nhánh huyện với 31.470 cán bộ viên chức. Tổng nguồn vốn 575 tỷ đồng, tổng dư nợ là 554 tỷ đồng. NHNo & PTNT Thanh trì được thành lập theo quyết định số 458 ngày 01/09/1995 , đóng trụ sở tại huyện Thanh Trì. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức Tính đến cuối năm 2005 chi nhánh có 83 cán bộ công nhân viên. Trong đó có 4 chi nhánh cấp 2 và 2 phòng giao dịch. Trong đó Trình độ trên đại học 2 người (chiếm 2,41%) Trình độ đại học 57 người (chiếm 68,67%) Trình độ trung, sơ cấp 18 người (chiếm 21,69%) Chưa qua đào tạo 6 người (chiếm 7,23%) Giám đốc Hiện nay cán bộ tổ chức của NHNo & PTNT Thanh trì được phân bổ theo mô hình như sau: P.Giám đốc P. Giám đốc Phòng hành chính Phòng thanh toán QT Phòng kinh doanh Phòng thẩm định Phòng kế toán NQ Phòng KTKT nội bộ 2 phòng giao dịch trực thuộc 4 chi nhánh trực thuộc Nhiệm vụ của các phòng ban được quy định rõ trong quyết định số 169/QĐ- HĐBT ngày 07/9/2000 của Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt Nam. a) Ban giám đốc.( Bao gồm 1 giám đốc và 2 phó giám đốc) - Giám đốc: Là người trực tiếp lãnh đạo điều hành mọi hoạt động của chi nhánh theo đúng quy định, chịu trách nhiệm trước pháp luật, hội đồng quản trị, tổng giám đốc về các quyết định của mình. - Phó giám đốc: Trong phạm vi được phân công, uỷ quyền phó giám đốc có thể nhân danh giám đốc thực hiện: Tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn các hoạt động của chi nhánh theo đúng quy định, giải quyết những vấn đề cụ thể phát sinh hàng ngày thuộc lĩnh vực được phân công và chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật về những quyết định của mình. Chủ động phối hợp giữa những phó giám đốc để giải quyết những vấn đề liên quan đến lĩnh vực được phân công. Phân tích tình hình kinh tế, nghiệp vụ kinh doanh, đề xuất sáng kiến phục vụ cho công tác chỉ đạo. Xây dựng chương trình công tác hàng tuần, tháng, quý, năm và thực hiện theo chương trình đã được giám đốc duyệt. Duyệt các chương trình công tác hàng tuần của các phòng nghiệp vụ được giám đốc phân công, uỷ quyền, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các chương trình được duyệt. Thực hiện các công ciệc khác khi giám đốc giao. b) Phòng kinh doanh Hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển kinh doanh ngắn, trung và dài hạn. Quyết toán các kế hoạch đến các chi nhánh. Nghiên cứu, đề xuất chiến lược khách hàng, chiến lược huy động vốn tại địa phương. Thực hiện cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, điều hoà vốn. Tổng hợp phân tích hoạt động kinh doanh quý, năm. Dự thảo các báo cáo sơ kết, tổng kết. Đề xuất các biện pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro. Tổng hợp, báo cáo chuyên đề theo quy định… c) Phòng kế toán ngân quỹ - Trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán theo quy định của Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng nông nghiệp. - Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính quyết toán kế hoạch thu, chi tài chính, tiền lương đối với các chi nhánh NHNo & PTNT trên địa bàn trình Ngân hàng nông nghiệp cấp trên phê duyệt. - Quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng theo quy định. - Tổng hợp lưu trữ hồ sơ, tài liệu về hạch toán, kế toán quyết toán và các báo cáo theo quy định. - Thực hiện các khoản nộp ngân sách nhà nước theo quy định. - Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước. - Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ theo quy định. - Chấp hành các chế độ báo cáo và kiểm tra chuyên đề.…. d) Phòng kiểm tra,kiểm toán nội bộ. Tham mưu cho ban giám đốc trong việc chỉ đạo điều hành hoạt động của chi nhánh theo đúng quy định, hạn chế rủi ro kinh doanh và bảo vệ an toàn tài sản đảm bảo tính chuẩn xác của số liệu hạch toán. Trực tiếp triển khai tác nghiệp các nghiệp vụ kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh của chi nhánh, tổ chức tiếp dân, tiếp nhận đơn thư tố cáo, xác minh đề xuất phương án giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngoài ra các phòng Hành chính, Thanh toán quốc tế..mỗi phòng đều có chức năng và nhiệm vụ riêng và cũng được quy định cụ thể trong quyết định 169/QĐ- HĐBT ngày 07/9/2000. Như vậy với đội ngũ gọn nhẹ, cán bộ nhân viên có trình độ , nhiệt tình hăng say trong công việc, chi nhánh NHNo & PTNT Thanh trì trong thời gian qua đã đạt được những thành công đáng kể. Tạo dưng được chỗ đứng cho mình, xây dưng được mối quan hệ tôt đẹp với khách hàng. 2.1.3 Tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn Huyện Thanh trì gồm 16 xã, thị trấn có diện tích đất tự nhiên là 6.325,5 ha trong đó đất nông nghiệp là 3.491,3 ha, dân số của huyện là 164.000 người, lao động trong độ tuổi là 87.500 người, lao động nông nghiệp là 40.320 người. Tốc độ tăng trưởng bình quân năm đạt 14 %. - Nông nghiệp tăng 2,45 % năm. - Công nghiệp tăng 20,6% năm. - Dịch vụ, thương mại tăng 18,5 % năm. - Sản xuất nông nghiệp chuyển đổi mạnh cơ cấu cây trồng vật nuôi đã chuyển được 255 ha từ trồng lúa sang nuôi trồng thuỷ sản, đã phát triển 103 trang trại có giá trị sản xuất trên 50 triệu đ/ 1 trang trại. Hình thành các khu sản xuất tập trung như thuỷ sản Đông Mỹ, Đại Áng, rau an toàn Duyên Hà, Yên Mỹ, chăn nuôi Tả Thanh Oai. - Sản xuất công nghiệp tăng cả về số lượng và chất lượng, năm 2000 có 33 doanh nghiệp đến năm 2005 tăng lên 75 doanh nghiệp, số hộ sản xuất là 93 hộ. Đang xây dựng cụm công nghiệp Ngọc Hồi thu hút 33 doanh nghiệp vào đầu tư. - Dịch vụ thương mại phát triển chưa mạnh mới xây dựng xong trung tâm Thương mại, mạng lưới chợ chưa phát triển, một số dịch vụ mới bước đầu phát triển. - Thu hút được 241.747 triệu đồng cho đầu tư phát triển Trong những năm vừa qua Thanh Trì đã có những bước phát triển đáng kể. đặc biệt các cơ chế chính sách về đầu tư tín dụng, đảm bảo tiền vay, lãi suất …được ban hành về cơ bản đã được ứng dụng trong thực tiễn, tháo gỡ một phần những vướng mắc về cơ chế, thủ tục, tạo môi trường pháp ký thuận lợi cho công tác tín dụng của Ngân hàng. Bên cạnh những thuận lợi trên, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn như kinh tế của huyện vẫn còn kém phát triển, nông nghiệp vẫn chiếm khá lớn, trong khi đó cơ sở hạ tầng lại thấp kém, dân trí còn hạn chế, việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế còn chậm, phát triển một số ngành còn mang tính tự phát, doanh nghiệp chủ yếu là vừa và nhỏ, vốn tự có thấp, công nghệ lạc hậu. 2.2 Khái quát kết quả hoạt động của chi nhánh 2.2.1 Về nguồn vốn hoạt động NHNo & PTHT Thanh trì là một Chi nhánh của NHNo & PTNT Việt Nam nên vốn tự có của ngân hàng là nguồn vốn do NHNo Việt Nam quản lý. Hoạt động cơ bản của các Ngân hàng là kinh doanh tiền tệ và để thực hiện đúng vai trò “đi vay để cho vay” của mình thì công tác huy động vốn là một nhiệm vụ tiên quyết trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Với các hình thức huy động đa dạng NHNo & PTNT Thanh trì đã có những thành tựu đạt được cụ thể: Bảng 2.1: Tình hình vốn huy động Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Số tiền Số tiền So với 2003 Số tiền So với 2004 Tổng NVHĐ 603.806 655.042 108% 864.180 132% (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 2003-2005) Như vậy ta thấy trong những năm gần đây, nguồn vốn của Ngân hàng liên tục tăng trưởng. Tổng nguồn vốn huy động tính đến ngày 31/12/2005 đạt hơn 864 tỷ đồng tốc độ tăng trưởng là 132%, tăng 209.138 triệu so với năm 2004. Có thể nói kết quả đạt được như trên là do ban lãnh đạo Ngân hàng luôn chủ động bám sát tình hình cung cầu vốn trên thị trường và đưa ra những chính sách hợp lý nhằm thu hút tiền gửi từ bên ngoài. Cụ thể đa dạng hoá các hình thức tiền gửi với các mức lãi suất hấp dẫn, linh hoạt. Ngoài ra trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta là khá cao điều này kéo theo thu nhập của người lao động tăng cao, lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư cũng tăng theo. Để thấy rõ hơn về nguồn vốn huy động của Ngân hàng, ta đi sâu vào cơ cấu nguồn vốn huy động. - Cơ cấu nguồn vốn huy động theo loại tiền tệ Bảng 2.2: Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền tệ: Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Số tiền % Số tiền % % so với 2003 Số tiền % % so với 2004 NV nội tệ 594.699 98,5 632.163 96,5 106 830.123 96 131 NV ngoại tệ 9.107 1,5 22.879 3,5 251 34.057 4 149 Tổng NV 603.806 655.042 864.180 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 2003-2005) Nhìn vào bảng số liệu ta thấy nguồn vốn nội địa của Ngân hàng đều tăng trưởng hàng năm với tốc độ tương đối đồng đều. Đặc biệt nguồn vốn này luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT Thanh trì ( khoảng 96%) Điều đáng chú ý là nguồn vốn bằng ngoại tệ năm 2004 tăng mạnh so với năm 2003 là 251%, có thể thấy đây là tốc độ tăng trưởng khá lớn. Nguyên nhân có thể là do những năm gần đây, lãi suất ngoại tệ là khá cao và ổn định, trong khi đó tiền Việt Nam lại đang rơi vào tình trạng mất giá nên người dân thích tích trữ ngoại tệ hơn. Năm 2005 vốn huy động bằng ngoại tệ tuy không tăng với tốc độ cao như năm 2004 những cũng tăng 149%. Đây cũng là tốc độ tăng khá lớn. Có thể nói những kết quả đạt được như trên là Ngân hàng đã chú trọng đến công tác huy động vốn cả về nội tệ và ngoại tệ, có những chính sách đúng đắn và hợp lý. Làm cho công tác huy động vốn của Ngân hàng được thuận lợi hơn. Đồng thời Ngân hàng cũng cần phải xem xét tình hình nguồn vốn huy động từ các thành phần kinh tế khác nhau. Bảng 2.3: Cơ cấu vốn huy động theo thành phần kinh tế Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Số tiền % Số tiền % % so với 03 Số tiền % % so với 04 Tiền gửi dân cư 234.741 38,88 238.525 36,42 102 403.730 46,72 169 Phát hành GTCG 90.586 15 98.645 15,06 109 101.529 11,75 103 Tổ chức kinh tế 262.895 43,54 301.212 45,98 115 340.160 39,36 113 Tiền gửi kho bạc 15.234 2,52 16.254 2,48 107 18.001 2,08 111 TCTD khác 350 0,06 406 0,06 116 760 0,09 187 Tổng NV 603.806 655.042 864.180 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 2003-2005) Trong tổng nguồn vốn huy động thì nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế là chiếm tỷ trọng cao hơn cả. Nhưng đến năm 2005 thì tiền gửi của dân cư lại chiếm tỉ trọng lớn hơn trong tổng nguồn vốn huy động(46,72%), tức tiền gửi từ dân cư có xu hướng tăng. Đây thường là tiền gửi tiết kiệm, nên thường có thời hạn dài và tương đối ổn định vì vậy Ngân hàng có thể đảm bảo cho hoạt động tín dụng, đầu tư của Ngân hàng diễn ra ổn định. Trong khi đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế thường là tiền gửi thanh toán vì vậy nó có thời hạn ngắn và không ổn định. Để dảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình được diễn ra một cách thuận lợi Ngân hàng cần chú trọng đảm bảo cân đối giữa hai nguồn huy động này đồng thời đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng, mở rộng hoạt động thanh toán qua Ngân hàng. - Tiền gửi của các tổ chức chiếm một tỉ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng nhưng lại có xu hướng tăng năm 2005 gấp 1,87 lần so với năm 2004. Ngân hàng cần xem xét đồng thời với tỉ trọng tiền vay của các tổ chức tín dụng trong đó có phù hợp với lượng tiền gửi không để có biện pháp quản lý. Nhìn chung lượng tiền huy động từ các thành phần kinh tế trong 3 năm qua đều có xu hướng tăng. Đó là kết quả của những giải pháp đúng đắn và đồng bộ. Vì vậy để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được hiệu quả Ban giám đốc Ngân hàng cần phải có một chính sách sử dụng vốn một cách hợp lý và có hiệu quả. 2.2.2 Công tác sử dụng vốn. Trên cơ sở thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn một cách có hiệu quả NHNo & PTNT Thanh trì cũng đã thực hiện tốt công tác sử dụng vốn của mình. Bảng 2.4: Công tác sử dụng vốn Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Số tiền % Số tiền % % so với 03 Số tiền % % so với 04 Tiền mặt 17.227 2,56 33.829 4,62 196 55.581 6,19 164 Tín dụng 449.676 66,83 527.192 72 117 650.675 72,48 123 Tiền gửi tại NHNN 25.365 3,77 30.264 4,13 119 32.258 3,59 106 Đầu tư GTCG 5.853 0,87 7.807 1,07 133 5.000 0,56 64 Tài sản cố định 55.739 8,29 73.965 10,1 132 16.323 1,82 22 TS có khác 118.970 17,68 59.178 8,08 49 137.846 15,36 233 Tổng tài sản 672.831 702.235 104 897.685 127 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 2003-2005) Trong những năm qua NHNo & PTNT Thanh trì đã thực hiện hạch toán đầy đủ, chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, quản lý quỹ an toàn, đảm bảo khả năng thanh toán, thực hiện có hiệu quả thanh toán không dùng tiền mặt chính xác, an toàn. Từ đó thu hút được nhiều doanh nghiệp, các nhân mở tài khoản, tăng tiền gửi và tăng thu phí dịch vụ. Trong 3 năm qua Ngân hàng đều đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu về tiền mặt cả nội và ngoại tệ cho khách hàng, nhất là nhu cầu chi tiền mặt cho kho bạc, thực hiện điều chuyển kịp thời, đúng chế độ đảm bảo an toàn tài sản kho quỹ, cụ thể: Lượng tiền mặt luôn được duy trì tại quỹ với tỷ lệ 2,56% trong tổng tài sản có năm 2003 và tăng trong những năm sau. Một điều có thể nhận thấy là hoạt động tín dụng của Ngân hàng trong những năm gần đây đều tăng và quan trọng là chiếm một tỷ lệ ngày càng cao trong tổng tài sản. Nếu như năm 2003 hoạt động tín dụng chỉ chiếm 66,83% trong tổng tài sản thì năm 2005 nó đã chiếm hơn 72% trong tổng tài sản. Việc gia tăng hình thức đầu tư này đã mang lại cho Ngân hàng nhiều lợi nhận hơn nhưng Ngân hàng cũng cần phải xem xét vấn đề an toàn trong hoạt động tín dụng. Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước tuy có tăng nhưng không đáng kể. Tỷ trọng trên tổng tài sản cosu hướng giảm. Năm 2003 là 25.365 triệu đồng chiếm 3,77% tổng tài sản có. Đến năm 2005 là 32.258 triệu đồng chiếm 3,58% tổng tài sản. Điều này chứng tỏ nguồn vốn của Ngân hàng được sử dụng khá tốt, không gây nên tình trạng lãng phí vốn. NHNo & PTNT Thanh trì tham gia không nhiều vào hoạt động đầu tư vào giấy tờ có giá và tài sản cố định. Trong hoạt động đầu tư vào giấy tờ có giá không ổn định năm 2004 tăng 133% so với năm 2003 nhưng đến năm 2005 lại giảm chỉ còn 64% so với năm 2004. Tài sản có khác của Ngân hàng cũng biến động không ổn định, năm 2004 giảm xuống còn 49% so với năm 2003 nhưng đến năm 2005 lại tăng lên 233% so với năm 2004. Ngoài việc chú trọng vào đầu tư tín dụng Ngân hàng cũng cần phải đa dạng hoá các hoạt động đầu tư của mình nhằm làm cho nguồn vốn huy động được sử dụng một cách hiệu quả nhất, mang lại thu nhập cao nhất cho Ngân hàng. 2.2.3 Nghiệp vụ thanh toán quốc tế Bảng 2.5: Kết quả hoạt động thanh toán quốc tế Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 Số tiền % so với 2003 Số tiền % so với 2004 Doanh số TTQT Triệu USD 63 75 119 103 137 Phí thu từ TTQT Triệu VNĐ 506 785 129 958 122 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 2003-2005) Do NHNo & PTNT Thanh trì nằm trên địa bàốnc các doanh nghiệp không nhiều lại chủ yếu là hoạt động vừa và nhỏ nên hoạt động thanh toán quốc tế còn chưa thực sự phát triển. Vì vậy doanh số thanh toán quốc tế còn nhỏ năm 2003 là 63 triệu USD năm 2005 đã tăng khá cao so với các năm trước 103 triệu USD. Nhưng vẫn chưa nhiêu. do vậy phí thu từ dịch vụ thanh toán quốc tế còn hạn chế năm 2003 là 506 triệu VNĐ. 2.2.4 Hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Bảng 2.6: Kết quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 Số tiền % so với 2003 Số tiền % so với 2004 Mua ngoại tệ Ngàn USD 70 96 137 140 146 Bán ngoại tệ Ngàn USD 76 105 138 129 123 Phí thu được Triệu VNĐ 350 389 111 436 112 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 2003-2005) Cũng như hoạt động thanh toán quốc tế, hoạt động mua bán ngoại tệ kinh doanh tuy có tăng theo các năm nhưng vẫn chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng thu nhập của Ngân hàng. Năm 2005 lượng ngoại tệ mua vào và bán ra tăng so với năm 2004 là 146% và 123% nhưng phí thu được từ dịch vụ này lại chỉ tăng 112%. Nguyên nhân có thể do tình hình cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt nên các Ngân hàng phải hạ thấp giá bán và nâng cao giá mua. Bên cạnh đó NHNo & PTNT Thanh trì quy đinh chỉ mua không bán ngoại tệ cho các cá nhân vì vậy năm 2004 lượng ngoại tệ bán ra thấp hơn khá nhiều so với lượng ngoại tệ mua vào. 2.2.5 Hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ. Ngoài việc tổ chức tốt các đợt kiểm tra theo đề cương của NHNo & PTNT Việt Nam. Chi nhánh còn thực hiện chương trình tự kiểm tra tín dụng. Hầu hết các nghiệp vụ phát sinh đều được kiểm tra kiểm soát. Sau khi kiểm tra đã tổ chức rút kinh nghiệm và chỉnh sửa nghiêm túc. Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ đã phát huy tốt vai trò của mình, trở thành một công cụ quan trọng trong chỉ đạo và điều hành công việc kinh doanh. Chi nhánh luôn xác định đây là một nghiệp vụ vô cùng quan trọng, cần được duy trì thường xuyên trong hoạt động Ngân hàng. Với nhận thức đó năm 2005 chi nhánh đã thực hiện tự kiểm tra, kiểm soát một cách toàn diện các mặt hoạt động theo đúng quy chế do Nhà nước và ngành ban hành. Kết quả cụ thể về hoạt động kiểm tra kiểm soát của chi nhánh: Kiểm tra 210 bộ hồ sơ cho vay, với số tiền kiểm tra là hơn 115 tỷ. Tổ chức đối chiếu dư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36529.doc
Tài liệu liên quan