Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Việt Nam

Lời nói đầu Sau hơn 15 năm đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước đã đem lại những thay đổi to lớn, sâu sắc và toàn diện trên toàn bộ các mặt, lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội đặc biệt là sự ổn định về chính trị của đất nước. Đóng góp cho sự thành công và phát triển của đất nước không thể không kể đến vai trò của hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam nói chung, Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNNo&PTNT) Việt

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nam nói riêng bởi đó là những nhân tố quan trọng kích thích toàn bộ nền kinh tế dựa trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Từ đó tạo ra những điều kiện thuận lợi, tiền đề cho sự phát triển, chuyển biến mới tích cực, mạnh mẽ, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới. Trong suốt quá trình phát triển của mình, NHNNo&PTNT Việt Nam luôn giữ vị trí quan trọng là một Ngân hàng chủ đạo với hoạt động kinh doanh ngày càng đóng vai trò chủ yếu trong việc điều tiết, thu hút, cung cấp vốn, dịch vụ Ngân hàng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những bất cập, khó khăn làm hạn chế hiệu quả kinh doanh ngân hàng trong việc đóng góp vào phát triển nông nghiệp, nông thôn theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Như vậy buộc NHNNo&PTNT Việt Nam cần có sự đổi mới để phù hợp với tình hình thực tiễn cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Mà hoạt động đầu tiên, cần thiết nhất cho sự chuyển đổi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đó là tín dụng Ngân hàng bởi hoạt động tín dụng được xem như là cơ sở, có vai trò quan trọng cho sự lớn mạnh của các Ngân hàng, và bản thân hoạt động tín dụng Ngân hàng là một khái niệm rủi ro do đó cần có những giải pháp cụ thể, tích cực giúp cho Ngân hàng kiểm soát được các rủi ro, tạo cho NHNNo&PTNT Việt Nam lớn mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đáp ứng có hiệu quả mọi yêu cầu của nền kinh tế. Với đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHNNo&PTNT Việt Nam” gồm các chương: Chương I: Lý luận chung về hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng hiệu quả tín dụng của NHNNo&PTNT Việt Nam Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHNNo&PTNT Việt Nam Đề tài nhằm góp phần xác lập hoạt động tín dụng của NHNNo&PTNT Việt Nam phù hợp, hiệu quả thông qua những phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng Ngân hàng của NHNNo&PTNT Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hoạt động tín dụng Ngân hàng phù hợp với tình hình thực tiễn và xu thế hội nhập khu vực, thế giới. Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về đề tài, em luôn được sự giúp đỡ và chỉ dẫn của mọi người, đặc biệt là sự quan tâm và hướng dẫn tận tình của thầy giáo Tiến sĩ Hoàng Xuân Quế đã giúp em khắc phục nhiều thiếu sót và hạn chế của bản thân trong việc nghiên cứu đề tài, giúp cho đề tài có ý nghĩa hơn trong thực tiễn. Em xin chân thành cảm ơn ! Chương I: Lý luận chung về hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại I. Tín dụng ngân hàng: Khái niệm: Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất. Hoạt động tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu tạm thời thiếu hụt về vốn của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế hoặc các cá nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhu cầu tiêu dùng hàng ngày. Trong quá trình phát triển mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh có thay đổi về môi trường kinh tế hoặc phương pháp hoạt động, có thể ảnh hưởng tới hoạt động của Ngân hàng thương mại nhưng hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt động cơ bản. Hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động của Ngân hàng thương mại và là một trong những hoạt động sinh lời chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên, khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng (hoặc các trung gian khác), ví dụ như tín dụng ngân hàng thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Việc xác định như thế nào là rất cần thiết để định lượng tín dụng trong các hoạt động kinh tế. Tổ chức tín dụng: là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. 2. Các nguyên tắc tín dụng Ngân hàng: Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc nhà được cụ thể hoá trong các quy định của ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại. - Khách hàng phải cam kết hào trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định: Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải cáo trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết với các tổ chức, cá nhân cung ứng. Do vậy, Ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển. - Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dung theo đúng mục đích được thoả thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định khác của Ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các ngân hàng. Bên cạnh đó mỗi ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi tại điều khoản “ Mục đích sử dụng vốn vay “ trong hợp đồng tín dụng, đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái luật pháp và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng. - Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn vay và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay (Tài sản đảm bảo cho một món vay có thể khác với tài sản tương đương hình thành từ vốn vay) 3. Phân loại tín dụng Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và và mục đích quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại: a. Phân loại theo thời gian: Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với Ngân hàng vì thời gian liên quan đến mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thông lệ quốc tế, thời hạn tín dụng được phân thành: - Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống Tín dụng trung và dài hạn: Từ 12 tháng trở lên. ở Việt Nam, theo thời gian tín dụng được phân thành - Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm. Ngân hàng cho vay kinh doanh dưới rất nhiều hình thức, trong đó có các hình thức được sử dụng rộng rãi nhất bao gồm: Các khoản cho vay kinh doanh ngắn hạn: ệ Cho vay mua hàng dự trữ ệ Cho vay vốn lưu động ệ Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng ệ Cho vay kinh doanh chứng khoán ệ Cho vay kinh doanh bán lẻ ệ Cho vay trên tài sản (cho vay đối với các khoản phải thu , bao thanh toán và cho vay trên cơ sở hàng dự trữ) Các khoản cho vay kinh doanh dài hạn: ệ Cho vay kỳ hạn mưa thiết bị và các tài sản cố định khác ệ Cho vay luân chuyễn ệ Cho vay theo dự án ệ Cho vay tài trợ hoạt động mua lại công ty b. Phân loại theo hình thức: Gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê + Chiết khấu giấy tờ có giá (trái phiếu, kỳ phiếu, thẻ tiết kiệm...) là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của giấy tờ có giá trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một giấy tờ có giá chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Đây là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt động tín dụng. Ngân hàng tuy cung ứng tiền cho người bán, song thực chất là thay thế người mưa trả tiền trước cho người bán. + Cho vay: là việc ngân hàng “đưa tiền “ cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong thời gian xác định. + Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lời. + Cho thuê: là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. c. Phân loại theo tài sản đảm bảo: Theo Điều 4 mục 1 tại nghị định 178/NĐ - CP ngày 29/12/1999 của chính phủ đã quy định rõ “ Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm theo quy định của Nghị định này và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp tổ chức tín dụng nhà nước cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ, thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản vay này được chính phủ xử lý “ Do đó căn cứ năng lực, uy tín và phương án kinh doanh của từng khách hàng ngân hàng sẽ quyết đinh cho vay có tài sản đảm bảo hay không có tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo tiền vay bao gồm: + Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay + Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba + Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vồn vay Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép Ngân hàng có được nguồn thu thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ. Biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: + Tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. + Tổ chức tín dụng nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ. + Tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị xã hội. d. Phân loại tín dụng theo rủi ro: Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro.Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dầu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, băo gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán. Cách phần loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời. e. Phân loại khác: - Theo nghành kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng ...) - Theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định) - Theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng ...) Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của Ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. II. Hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng: Chuyển sang kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường thì khả năng tạo ra nguồn vốn cho mỗi hoạt động kinh doanh đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế – xã hội. Với các thức hoạt động “ vay để cho vay” làm cho các Ngân hàng thương mại luôn tìm mọi cách để huy động vốn và cho vay với khả năng tối đa. Chứng tỏ, tín dụng Ngân hàng vừa là một công cụ vừa là một hoạt động kinh doanh chủ yếu và quan trọng của các Ngân hàng thương mại. 1. Khái niệm hiệu quả hoạt động tín dụng Hiệu quả tín dụng được hiểu theo đúng nghĩa là vốn cho vay của Ngân hàng được khác hàng sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ…một cách hiệu quả để tạo ra một số tiền lớn hơn để hoàn trả Ngân hàng cả gốc và lãi, trang trải các chi phí khác và có lợi nhuận. Như vậy, qua một quá trình chu chuyển vốn (T - H - T') như trên Ngân hàng sẽ thu hồi được vốn gốc và lãi, còn khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả. Xét về tổng thể, Ngân hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế vừa tạo ra hiệu quả xã hội. Trong thực tế, hiệu quả tín dụng cũng còn được hiểu là chất lượng tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hiệu quả tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích ghi của Ngân hàng thương mại với sự phát triển của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh của Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Như vậy, đây là một phạm trù vô cùng rộng lớn. Quan niệm về hiệu quả tín dụng vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu có thể tính toán được như kết quả kinh doanh, nơi quá hạn…) vừa trừu tượng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, quy trình thủ tục đơn giản, thuận tiện mức độ an toàn vốn tín dụng, tác động tới nền kinh tế…). Để có hiệu quả tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín trong hoạt động. Nói cách khác, hiệu quả tín dụng tỷ lệ với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động tín dụng. Hiểu đúng đắn hiệu quả, phân tích và đánh giá đúng đắn hiệu quả tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác nguyên nhân của những tồn tại về hiệu quả tín dụng sẽ giúp cho Ngân hàng tìm được biện pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay. 2. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. a. Hiệu quả hoạt động tín dụng với phát triển kinh tế xã hội Tín dụng đã thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế xã hội, ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá tín dụng ngày càng phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng trong xã hội, do vậy hiệu quả tín dụng ngày càng được quan tâm bởi vì: * Thứ nhất: Hiệu quả tín dụng tào điều kiện cho Ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân, tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư , góp phần điều hoà vốn nền kinh tế, giảm lượng tiền thừa trong lưu thông, giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn. * Thứ hai: Hiệu quả tín dụng ngân hàng góp phần ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế: Thông qua nghiệp vụ cho vay vốn bằng hình thức chuyển khoản (không dùng tiền mặt) trên thị trường ngân hàng có khả năng mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần số tiền thực có trong lưu thông. Đảm bảo hiểu quả tín dụng sẽ tạo điều kiện cho các Ngân hàng cung cấp các loại hình thanh toán phù hợp với yêu cầu kinh tế * Thứ ba: Tín dụng là công cụ để thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội: Khi hiệu quả tín dụng được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đầu tư đúng hướng để khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên, lao động, vốn, đảm bảo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển cân đối giữa các nghành, vùng trong cả nước theo định hướng phát triển kinh tế mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn. b. Hiệu quả hoạt động tín dụng đối với khách hàng: Trong quá trình sản xuất kinh doanh mỗi khách hàng đều có những “thời cơ và thách thức“ trong những thời điểm nhất định. Khi những dự án, cơ hội kinh doanh có hiệu quả trong khi nguồn vốn tham gia của bản thân có hạn. Nếu nguồn vốn vay Ngân hàng đáp ứng kịp thời, thời hạn cho vay hợp lý thì sau một quá trình kinh doanh khách hàng trả nợ vay đúng hạn (gốc + lãi) đảm bảo các nghĩa vụ với nhà nước, có lãi, tạo việc làm cho xã hội... thì đồng vốn Ngân hàng đã phát huy hiệu quả. Một yếu tố quan trọng quyết định thành công trong sản xuất kinh doanh là phải sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn để giảm chi phí lãi suất tín dụng trên cơ sở đó để giảm giá thành phí lưu thông. Do vậy các chủ thể kinh tế phải chủ động tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm để hàng hoá bán nhanh từ đó thu hồi vốn có hiệu quả nhằm trả nợ đúng hạn Hay nói cách khác hiệu quả tín dụng góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, và làm lành mạnh tài chính của khách hàng. Hiệu quả tín dụng được đảm bảo cũng có nghĩa là Ngân hàng tồn tại và phát triển và nhờ vậy Ngân hàng có điều kiện cung ứng vốn tín dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh của khách hàng. Mặt khác để đồng vốn cho vay đạt hiệu quả thì ngân hàng phải thường xuyên hỗ trợ, tư vấn, tiến hành kiểm trả kiểm soát việc sử dụng vốn vay qua đó cùng với khách hàng uốn nắn và chấn chỉnh những thiếu sót trong các hoạt động tài chính của họ. c. Hiệu quả hoạt động tín dụng đối với ngân hàng: Thứ nhất: Tín dụng góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển phù hợp với định hướng của nhà nước, là đòn bẩy kinh tế để kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển trên cơ sở không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế. Thứ hai: Hiệu quả tín dụng phải được biểu hiện trực tiếp ở lợi nhuận nghĩa là lãi lỗ cụ thể là bao nhiêu, vì khi chuyển sang kinh doanh thì việc lấy thu bù chi và có lãi là vấn đề sống còn của mỗi Ngân hàng thương mại. Những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tín dụng ngân hàng như: Mức độ rủi ro mang đến cho ngân hàng, mức độ tiết kiệm chi phí hoạt động của Ngân hàng. Như vậy hiệu quả tín dụng ngân hàng phải thể hiện trên cả hai bình diện là lợi ích xã hội và hiệu quả kinh tế ngân hàng, không được coi trọng mặt này xem nhẹ mặt kia và ngược lại. 3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng 3.1. Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản: Chúng ta đã biết, số vốn tự có của một Ngân hàng liên quan tới các khoản rủi ro dự đoán. Nếu một Ngân hàng dự đoán có rủi ro lớn trong các khoản mục cho vay thì nên có nhiều vốn tự có trong khi thực hiện chính sách cho vay. Về cơ bản, một Ngân hàng có hai sự lựa chọn khi xác định quy mô vốn tự có. Ngân hàng có thể tăng vốn khi các rủi ro dự đoán gia tăng hoặc có thể đầu tư vào các tài sản tương đối ít rủi ro hơn. Việc quyết định quy mô của vốn Ngân hàng không dễ dàng nhưng rất quan trọng, một Ngân hàng muốn phát triển phải mở rộng cơ sở vốn của nó nhưng đồng thời phải giữ được mức rủi ro nhất định. Phần lớn các Ngân hàng thương mại trên thế giới có tỷ lệ vốn trên tổng tài sản có đạt 7 - 10% và được điều chỉnh theo mức độ rủi ro RATA (Risk adjusted Total Assets). Tỷ lệ vốn tự có trên tổng số tài sản có lớn hơn 10% là chỉ số tốt. Tỷ lệ này thấp hơn quy định có thể do Ngân hàng phát triển nhanh do thua lỗ hay thu nhập trong một thời kỳ nào đó. 3.2. Tỷ lệ dư nợ trên nguồn vốn huy động Tỷ lệ tổng dư nợ trên nguồn vốn huy động = Tổng đư nợ cho vay Tổng nguồn vốn huy động Đây là một công cụ đo lường đáng tin cậy về hoạt động cho vay của Ngân hàng. Hệ số này xác định hiệu quả đầu tư của một đồng vốn huy động, nó giúp nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của Ngân hàng với tổng vốn huy động. Tỷ lệ này bình quân đầu người trong cả nước thường là 80%. Tuy nhiên tỷ lệ này biến đổi từ 30% trong những khu vực kinh tế trì trệ đến 100% tại các trung tâm tiền tệ lớn hay các Ngân hàng khu vực. Khi tỷ lệ cho vay trên tổng nguồn vốn huy động thấp - thí dụ dưới 40% thì điều đó có nghĩa là Ngân hàng không tìm kiếm được nhiều khách hàng và dự án vay vốn có hiệu quả hoặc Ngân hàng dè dặt trong hoạt động cho vay của mình. Đây là một thực tế thường thay đổi với những Ngân hàng nhỏ. 3.3. Tỷ lệ dư nợ cho vay có bảo đảm trên tổng dư nợ Tỷ lệ này đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao càng tốt, nó đảm bảo khả năng thu hồi nợ vay của Ngân hàng trong trường hợp có những biến động lớn của nền kinh tế hoặc những rủi ro bất khả kháng xảy ra đối với khách hàng, dự án vốn dẫn đến người vay gặp khó khăn không có khả năng trả nợ. Tỷ lệ này có tính chất đặc thù riêng ở Việt Nam nhất là trong thời điểm hiện nay Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép các tổ chức tín dụng tự quyết định và chịu trách nhiệm về việc cho vay không có bảo đảm của mình vì vậy nếu các khoản cho vay có đảm bảo càng nhiều thì chất lượng và an toàn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng càng cao. 3.4. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng dư nợ quá hạn Tổng dư nợ vay Nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng là hiện tượng đến thời hạn thanh toán khoản nợ (mặc dù phía ngân hàng đã dùng nhiều biện pháp như giãn nợ, gia hạn nợ vay) nhưng khách hàng vần không có khả năng thanh toán. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng Nợ quá hạn trước hết kết quả sản xuất kinh doanh yếu kém của khách hàng làm thất thoát vốn, doanh thu không đủ bù đắp chi phí hoặc do việc định kỳ hạn trả nợ vay chưa phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng (ví dụ: cho vay trồng rừng thời hạn cho vay chỉ 2 năm, nhưng phải sau 5 năm mới đến thời kỳ thu hoạch mới có nguồn trả nợ dẫn đến nợ vay đến hạn phải làm đơn xin gia hạn, chuyển nợ quá hạn) Về cơ bản, tỷ lệ nợ quá hạn càng cao loại trừ yếu tố bất khả kháng (thiên tai, dịch bệnh dẫn đến khách hàng không có nguồn để trả nợ vay) chứng tỏ trong khâu thẩm định, khâu cho vay của Ngân hàng “ có vấn đề “ do buông lỏng quản lý hoặc là do trình độ nghiệp vụ của cán bộ Ngân hàng còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ. 3.5. Mức lãi ròng biên tế Mức vay lãi ròng biên tế cũng giống như mức lợi nhuận của doanh nghiệp, nó là mức chênh lệch giữa lãi và chi phí của một ngân hàng. Mức lãi được tính bằng cách lấy thu nhập trừ đi chi phí lãi, tất cả chia cho Tổng tài sản Có sinh lãi ròng. Mức lãi ròng được các nhà quản lý Ngân hàng theo dõi chặt chẽ vì nó báo trước khả năng sinh lãi của Ngân hàng. Nếu mức chênh lệch giữa thu nhập và chi phí lãi nhỏ thì rõ ràng nếu mong muốn một doanh lợi nào đó thì các biện pháp phải được áp dụng để gia tăng lợi tức bằng bất cứ cách nào hoặc giảm bớt các chi tiêu. 3.6. Thu nhập từ tiền lãi ròng Tiền lãi ròng cho vay là khoản thu nhập cao nhất của Ngân hàng, gồm có hai phần: + Thu nhập trực tiếp từ lãi cho vay, đầu tư. + Lãi suất phải trả cho tất cả các loại tiền gửi, chứng chỉ tiền gửi và tiền vay trực tiếp. Đây là một tỷ lệ được tính trên tổng tài sản có và phải ở mức từ 4 - 5%. Theo kinh nghiệm, Ngân hàng nào có tỷ lệ này thấp hơn 3% là Ngân hàng sắp gắp khó khăn. Một điểm khác có thể làm rõ thu nhập từ tiền lãi ròng thấp là mục ghi tài sản bán đi có lời trong bản kê thu nhập và chi phí của Ngân hàng. Nhiều Ngân hàng làm như vậy nhưng tiền lời thu được từ mục này không thể tạo sự khác biệt sau cùng về lỗ, lãi. Nếu Ngân hàng cứ tiếp tục làm như vậy từ năm này qua năm khác thì đó là dấu hiệu của sự tụt dốc nhanh chóng. 3.7. Quan hệ với khách hàng Một trong những đặc trưng quan trọng của tín dụng đó là lòng tin, điều đó cũng có nghĩa là quan hệ tín dụng là sự kết hợp giữa 3 yếu tố: Nhu cầu của khách hàng, khả năng của Ngân hàng và sự tin tưởng lẫn nhau giữa Ngân hàng và khách hàng. Vì vậy, quan hệ khách hàng trong đó có sự tín nhiệm là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng. Sự tín nhiệm của Ngân hàng càng cao khả năng thu hút khách hàng càng lớn, ngược lại khách hàng có uy tín với Ngân hàng được vay vốn dễ dàng hơn và với lãi suất ưu đãi hơn so với các đối tượng khác. Như vậy, nếu các Ngân hàng có tín nhiệm, chất lượng phục vụ tốt, có chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng, sẽ thu hút được nhiều khách hàng tốt tạo điều kiện tăng trưởng và nâng cao hiệu quả tín dụng. 3.8. Nhóm các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng không thể định lượng Bên cạnh những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả có thể tính toán như trên, còn có những tiêu chí khác để đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng không thể đo lường và tính toán cụ thể: - Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù hợp với thực tế hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong từng giai đoạn. - Hệ thống trang thiết bị, công nghệ hiện đại hỗ trợ cho công tác nghiệp vụ một cách thuận lợi, hiệu quả. - Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có trình độ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp, đây là yếu tố cuối cùng và quan trọng nhất trong mọi hoạt động của ngân hàng. - Quy trình nghiệp vụ tín dụng khoa học, phù hợp với thực tế, đảm bảo quản lý chặt chẽ quá trình cấp tín dụng, vừa thuận tiện với khách hàng, vừa đảm bảo tín dụng cho ngân hàng. - Uy tín mà ngân hàng đã tạo dựng được trong nền kinh tế và các mối quan hệ với các khách hàng truyền thống. 4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng Hoạt động tín dụng luôn là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất, nó đem lại khoảng 70% toàn bộ lợi nhuận của Ngân hàng thương mại. Song trong thời gian gần đây, nợ quá hạn có xu hướng gia tăng, nhiều món vay khó được hoàn trả; qua đó thấy rằng hiệu quả tín dụng đang là một vấn đề bức xúc hiện nay của các Ngân hàng thương mại. Hiệu quả phụ thuộc vào 4 yếu tố sau đây: + Người cho vay + Người vay + Môi trường kinh tế + Môi trường pháp lý. Một sản phẩm của Ngân hàng có chất lượng tốt thông thường là kết quả tổng hợp của 4 yếu tố nói trên. Do vậy, việc tạo lập môi trường kinh tế, môi trường pháp lý và hàng loạt các vấn đề khác có liên quan tới người vay có một ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả tín dụng. Xuất phát từ nhận định trên, chúng ta cần xem xét đến những nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng. 4.1. Nhìn từ góc độ người cho vay Trong cơ chế thị trường cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác, Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì tất yếu phải giải quyết các mâu thuẫn trong quá trình khách hàng giữa người mua và người bán, giữa thế mạnh của mình có với các Ngân hàng khác. Trong quá trình giải quyết các mâu thuẫn đó các ngân hàng cạnh tranh nhau quyết liệt và tất yếu có ngân hàng giành ưu thế trong cạnh tranh, có ngân hàng phải chịu những rủi ro thất bại. Qua theo dõi, điều tra chúng ta thấy, các rủi ro tín dụng xuất phát từ phía Ngân hàng, phần lớn do một số nguyên nhân sau: - Do việc mong muốn mở rộng tín dụng một cách quá tải, vượt qua khả năng quản lý, kiểm soát của ngân hàng. Ngân hàng thương mại hoạt động trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt với mục tiêu lợi nhuận là trên hết nên các ngân hàng ra sức mở rộng mạng lưới khách hàng , tìm kiếm khách hàng mới để tăng trưởng khối lượng tín dụng; nhiều khi để lôi kéo khách hàng, ngân hàng đã bỏ qua nhiều điều kiện cần thiết, hoặc hạ thấp những tiêu chuẩn tín dụng đầu tư, giải quyết cho khách hàng vay vốn khi không được thẩm định kỹ lưỡng và không đủ thông tin, nên cho vay vượt nhiều lần vốn tự có của doanh nghiệp, cho vay không đủ tài sản đảm bảo nợ vay… và chính những món vay đó khi không hoàn trả được sẽ gây thiệt hại lớn cho ngân hàng. - Về chính sách, thể lệ, chế độ tín dụng ngân hàng ban hành nhiều khi chưa được kịp thời; cũng có quá nhiều văn bản chồng chéo, quy định trùng lắp hoặc chưa chặt chẽ nên việc áp dụng vào thực tế gặp nhiều vướng mắc, ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng. Thêm vào đó, việc xây dựng hệ thống thông tin tín dụng, thông tin về khách hàng, khoản vay chưa được sự thực coi trọng; sự kiểm tra, kiểm soát chưa thường xuyên, kịp thời, khách hàng cung cấp thông tin thiếu chính xác.. dẫn đến tình trạng quá tải về dư nợ, vượt quá khả năng quản lý, kiểm soát của ngân hàng; có nhiều khoản nợ khách hàng sử dụng vốn kém hiệu quả, sai mục đích cũng chưa đủ điều kiện để phát hiện kịp thời, khi phát hiện được thì đã quá muộn và gây tổn thất… - Do thực hiện qui định thể lệ tín dụng, thế chấp cầm cố tài sản đảm bảo nợ vay chưa tốt. Thế chấp, cầm cố tài sản một điều kiện pháp lý đảm bảo cho ngân hàng thu hồi được nợ vay trong trường hợp xảy ra rủi ro bất khả kháng, người vay không còn khả năng thanh toán. Trong những năm qua, việc thế chấp, cầm cố tài sản ở các ngân hàng hầu hết thực hiện chưa tốt. Việc thẩm định phương án và tài sản thế chấp nhiều khi chỉ mang tính hình thức, không có tác dụng. Trường hợp phổ biến là việc định giá tài sản thế chấp đôi khi thiếu chính xác; chứng từ sở hữu không đầy đủ tính pháp lý, tài sản không đảm bảo tính dễ bán, dễ chuyển nhượng, như vậy khi cần phát mại tài sản để thu hồi nợ vay thì không hoàn trả đủ vốn vay hoặc không đủ cơ sở pháp lý để phát mại. Cá biệt còn có những trường hợp khách hàng đem một tài sản đi thế chấp nhiều ngân hàng để vay vốn nhưng không bị phát hiện gây thiệt hại các ngân hàng. - Cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn đối với một số doanh nghiệp mà vốn tự có, vốn chủ sở hữu của họ rất ít, trong những trường hợp này rất dễ gây rủi ro lớn vì một doanh nghiệp thua lỗ sẽ rất khó thu hồi vốn vay cho ngân hàng. - Trình độ, năng lực cán bộ tín dụng còn nhiều bất cập, do đó khả năng phân tích thẩm định, phán đoán trước khi đầu tư dự án chưa sâu sắc, việc dự đoán diễn biến thị trường tương lai của dự án rất phức tạp, đòi hỏi phải có những kiến thức tổng hợp, sâu rộng về kinh tế, xã hội, đời sống và nhu cầu của dân cư… Mặt khác, vốn tự có của các doanh nghiệp còn rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng 10 đến 20% của vốn đi vay nên các doanh nghiệp có nhu cầu vốn gần như vô hạn đối với vốn vay ngân hàng; doanh nghiệp Nhà nước khi đi vay vốn đầu tư không phải thế chấp nếu có dự án khả thi. Vì vậy, nếu ngân hàng quyết định tài trợ đầu tư dự án mà chưa kiểm tra, đánh giá đầy đủ được tính khả thi, hiệu quả của dự án, năng lực tài chính thực sự và khả năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, mọi yếu tố rủi ro tiềm ẩn… thì thất bại của dự án là khó tránh khỏi và ngân hàng chính là người phải gánh chịu thiệt hại sau cùng. 4.2. Nhìn từ góc độ người đi vay. Trong môi trường nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần cạnh tranh khốc liệt, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chứa đựng rất nhiều rủi ro, từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Trong quan hệ tín dụng, doanh nghiệp là người được ngân hàng tín nhiệm trao quyền sử dụng vốn. Vì vậy, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng cũng chính là rủi ro của ngân hàng. Điều khẳng định này buộc chúng ta phải tiến hành xem xét vấn đề về người cho vay có liên quan thế nào tới hiệu quả tín dụng. - Trình độ quản lý, kỹ năng kinh doanh của khách hàng còn nhiều hạn chế, trong khi đây chính là yếu tố hết sức quan trọng, quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp khi vay vốn họ lập phương án sản xuất kinh doanh rất hiệu quả, chứng minh đầu vào và đầu ra khả thi, nhưng do không tính hết đến biến động của thị trường nên bị thua lỗ. Trong một số món vay trung và dài hạn để nhập máy móc thiết bị, do phân tích dự án không chính xác dẫn đến máy móc nhập về không phát huy được tác dụng gây thiệt hại lớn, không thể hoàn trả tiền vay cho ngân hàng. Một điều thấy rõ nữa là năng lực quản lý của bộ máy lãnh đạo doanh nghiệp còn bị hạn chế nhiều mặt và kinh nghiệm thực tiễn nên không có khả năng xử lý kịp thời những khó khăn trong kinh doanh dẫn đến tình trạng thua lỗ của doanh nghiệp. - Khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, không đảm bảo độ an toàn trong sử dụng vốn gây lãng phí thậm chí mất vốn. Ví dụ như nhiều doanh nghiệ._.p dùng tiền vay của ngân hàng quay vòng không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng với phương án, mục đích khi xin vay, trong khi đó hoạt động kinh doanh gặp những biến động lớn về thị trường tiêu thụ, nhu cầu tiêu dùng… do không tính toán, dự đoán trước nên thua lỗ, ứ đọng hàng hoá, vốn và không có khả năng trả được nợ đúng hạn; thậm chí khách hàng còn dùng vốn vay ngắn hạn đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản nên không trả được nợ đúng hạn, cá biệt có thể bị mất vốn do không tài sản đầu tư khó có khả năng phát mại hoặc đòi hỏi thời gian rất dài. - Các doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau kể cả vốn vay ngân hàng. Có một số doanh nghiệp tuy được cấp giấy phép hoạt động và đăng ký kinh doanh nhưng thiếu vốn hoặc không có vốn hoạt động nên dẫn đến hiện tượng là các doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau, thậm chí cả lừa đảo rồi bỏ trống làm doanh nghiệp vay vốn ngân hàng gặp khó khăn không trả được nợ hoặc có thể dẫn tới phá sản… - Hiện nay, Pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ thống kê kế toán chính xác, kịp thời. Việc quy định cơ quan có chức năng có trách nhiệm thực hiện kiểm tra, kiểm soát tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng chưa rõ ràng và cụ thể, trách nhiệm thuộc về ai? Việc kiểm toán tình hình tài chính doanh nghiệp không mang tính quy định, bắt buộc mà thuy thuộc vào điều kiện của doanh nghiệp hoặc khi có nhu cầu vay vốn hay quản lý thì doanh nghiệp mới thực hiện kiểm toán theo yêu cầu. Do đó, số liệu quyết toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp chưa phản anh chính xác thực trạng sản xuất kinh doanh và tài chính của đơn vị hoặc khôngđủ căn cứ để đánh giá. Vì vậy, khi xét duyệt cho vay ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong việc đánh giá năng lực tài chính thực sự và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để có đủ cơ sở quyết định cho vay. - Thực trạng hiện nay là các doanh nghiệp trong nước hầu hết là thiếu vốn, hoạt động chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng; nhiều doanh nghiệp Nhà nước không theo kịp với phương thức sản xuất kinh doanh đổi mới, thường có thói quen trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp tài trợ của Nhà nước; có đội ngũ công nhân đông đảo nhưng chưa lành nghề, chưa được đào tạo chuyên môn một cách chính quy cộng với sự lạc hậu về máy móc thiết bị, dẫn tới năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao không đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại. Muốn tồn tại, đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp buộc phải tự mình bươn chải, tính toán xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, phải vay vốn ngân hàng để đầu tư cho sản xuất thay cho việc chờ nguồn cấp vốn từ ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, với năng lực tài chính hạn chế lại phải vay vốn ngân hàng gần như toàn bộ để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh kể cả vay 100% vốn ngắn hạn và vốn đầu tư dài hạn, chi phí sản xuất, khấu hao cơ bản, lãi vay tính trong giá thành sản phẩm rất lớn… cộng thêm với áp lực của các khoản vay nợ làm cho năng lực cạnh tranh và tính năng động của doanh nghiệp rất yếu; "loay hoay trong tấm lưới vô hình đó", chỉ những biến độ rất nhỏ của thị trường, của nền kinh tế làm cho các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và thực sự khó khăn trong việc hoàn trả vốn vay gây thiệt hại cho ngân hàng. 4.3. Nhìn từ góc độ môi trường kinh tế. Bất kỳ một loại hình kinh doanh nào đều chịu sự chi phối của môi trường xung quanh nó. Môi trường kinh tế gây không ít ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng thương mại, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Trong kinh doanh tín dụng, nếu ngân hàng không dự đoán được sự biến động sẽ dẫn đến làm ăn kém hiệu quả và gây ra rủi ro không nhỏ. - Sự biến động giá của tiền tệ trong quá trình kinh doanh tín dụng cũng là một loại rủi ro với ngân hàng. Nó chính là hao mòn vô hình của khoản tiền mà ngân hàng cho vay. Khi người đi vay hoàn trả tiền vay cho ngân hàng (bao gồm cả gốc lẫn lãi) thì có nghĩa là giá trị chuyển nhượng tạm thời sau một thời gia nhất định đã quay về với số lượng lớn hơn. Tuy nhiên, lượng giá trị chênh lệch giữa lượng giá trị mà ngân hàng bỏ ra trước đó mới chỉ phản ánh được sự lớn lên về mặt lượng còn giá trị thực tăng lên hay không còn phụ thuộc vào sự biến động giá trị đồng tiền trong thời gian cấp tín dụng. Biểu hiện của sự tổn thất ở đây chính là vốn của ngân hàng không được bảo toàn trên thực tế và những rủi ro do sự giảm giá cuả đồng tiền khó nhận biết và đánh giá được nó. Ngân hàng sẽ không tránh khỏi rủi ro khi hoạt động của nền kinh tế không ổn định, lạm phát ở mức độ cao. Nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới, môi trường kinh doanh của các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại còn chưa hoàn thiện, thiếu nhiều yếu tố trong đó chủ yếu là hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước còn chưa đồng bộ. - Môi trường kinh tế có ảnh hưởng lớn đến sức mạnh tài chính của người vay, gây thiệt hại hoặc thành công đối với người cho vay. Trong những giai đoạn hưng thịnh, người vay hoạt động tốt do có lợi tức tương đối cao, nhưng trong giai đoạn khủng hoảng thì khả năng trả nợ bị giảm sút. Thông thường các khoản nợ cho vay tiêu dùng gặp khó khăn tài chính chẳng bao lâu sau khi xảy ra khủng hoảng nhưng thường có ảnh hưởng chậm hơn so với vay kinh doanh. Lạm phát có ảnh hưởng bất lợi lớn tới hiệu quả tín dụng. Giá cả tăng vọt dẫn tới nhu cầu tín dụng cao. Tuy nhiên, trong một giai đoạn lạm phát diễn ra, các công ty tài chính có ảnh hưởng mạnh và các cá nhân gặp phải khó khăn lớn về tài chính. Cùng với các phí tổn khác, chi phí của dịch vụ nợ cũng gia tăng. Không giống như lợi tức, nợ không giảm trong các giai đoạn suy thoái, có cố định về mặt lượng. Nợ không thay đổi tương ứng với sức mua của đồng tiền và kết quả trở thành gánh nặng khi kinh tế suy giảm - một gánh nặng mà một số người vay không thể tiếp tục gánh nổi vì vậy thiệt hại cho vay xảy ra. 4.4. Nhìn từ góc độ môi trường pháp lý Cũng như một trường kinh tế, môi trường pháp lý tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, nó có thể tạo tiền đề cho sự phát triển cũng như làm hàng rào cản phá hoạt động kinh doanh hiệu quả của các doanh nghiệp. Thực trạng hiện nay của nước ta hiện nay: - Môi trường pháp lý cho kinh doanh tín dụng ngân hàng mặc dù đã được cải tiến bổ sung nhưng chưa đầy đủ và đồng bộ. Nhà nước chưa có luật về sở hữu, chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản nhưng điều kiện đặt ra là phải thế chấp tài sản có đủ giấy tờ pháp lý. Pháp lệnh thống kê - kế toán chưa đủ hiệu lực. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không hạch toán, quyết toán theo quy định. Tín dụng thương mại (mua bán chịu) trở thành phổ biến trong giao dịch thương mại, nhưng chưa có luật lưu thông kỳ phiếu thương mại nên xảy ra tình trạng chiếm dụng vốn, công nợ dây dưa, lừa đảo, trốn thuế, lậu thuế, sử dụng vốn vay ngân hàng không đúng mục đích mà pháp luật không thể kiểm soát được. - Hiệu lực các cơ quan hành pháp chưa đủ đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp, tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, phát mại tài sản thế chấp… - Quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp còn nhiều sơ hở, Nhà nước cho phép nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức năng, nhiệm vụ vượt quá trình độ, năng lực quản lý, quy mô hoạt động quá lớn so với khả năng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp… dẫn đến vay vốn lớn gấp nhiều lần vốn tự có làm nảy sinh những điều kiện đưa đến rủi ro, thua lỗ trong hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng hiệu quả tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam I Khái quát về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam: 1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thông Việt Nam là một Ngân hàng thương mại (NHTM) quốc doanh lớn, kinh doanh tổng hợp, có xu hướng mỡ rộng tất cả các nghiệp vụ tài chính, ngân hàng hiện đại do đó Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Từ Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Việt Nam được thành lập theo Nghị định 53/ HĐBT (26/03/1988) của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), đến ngày 14/11/1990 đổi tên là Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam theo Quyết định 400/CT ngày 14/11/1990 của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đựơc thành lập lại theo Quyết định số 280/ QĐ - NH5 (15/10/1996) của Thống đốc NHNN Việt Nam, lấy tên là NHNo&PTNT Việt Nam. NHNo&PTNT Việt Nam ra đời trên cở sở thừa kế và phát triển liên tục của các tổ chức tiền thân: Vụ tín dụng nông thôn, Vụ tín dụng nông nghiệp. Từ một Ngân hàng khó khăn khi mới thành lập, NHNNo&PTNT Việt Nam khai trương hoạt động trên cơ sở nhận bàn giao vốn, tài sản và bộ máy của NHNN với tổng số vốn và tài sản là 1.561 tỷ đồng. Trong đó tổng nguồn vốn chỉ có 571 tỷ: huy động từ dân cư 250 tỷ, còn lại là vốn phát hành được chuyển thành vốn vay NHNN) ; với 36.000 nhân viên (1 cán bộ có trình độ tiến sĩ, 1 cán bộ có trình độ phó tiến sĩ, 10% trình độ cao đẳng và Đại học, 50% trình độ trung học, còn lại sơ cấp và chưa qua đào tạo) ; 38 chi nhánh tỉnh, thành phố và 475 chi nhánh huyện thị. Khi đi vào hoạt động, NHNNo&PTNT Việt Nam không có những may mắn như các NHTM Nhà nước khác mà chịu gánh nặng hầu hết về tổ chức nhân sự do NHNN bàn giao. Tại thời điểm này nhiều người gọi NHNNo&PTNT Việt Nam là Ngân hàng mười nhất: Thiếu vốn nhất ; Đông người nhất ; Chi phí kinh doanh cao nhất ; Dư nợ thấp nhất ; Nợ quá hạn nhiều nhất ; Cơ sở hạ tầng lạc hậu nhất ; Tổn thất rủi ro cao nhất; Trình độ nghiệp vụ yếu kém nhất ; Kinh doanh thua lỗ nhất ; Đời sống cán bộ khó khăn nhất ; Tín nhiệm khách hàng thấp nhất. Từ tháng 9 năm 1991 về trước, mọi hoạt động của Ngân hàng do Nhà nước chỉ huy, được Nhà nước bù lỗ và Nhà nước trả lương nhân viên Ngân hàng. Trong hoạt động theo cơ chế bao cấp, mọi cán bộ công nhân viên cũng như khách hàng đều nhân danh là người chủ tập thể, khách nợ, chủ nợ không rõ ràng. Và cùng với nhiều nguyên nhân khác đã dẫn đến hậu quả gần 1.400 tỷ / 1.561 tỷ đồng nợ khê đọng, không đòi được do các tổ chức sản xuất bị giải thể, ngừng hoạt động, bị tan rã. Tuy nhiên, những khó khăn đã không cản trợ những quyết tâm vươn lên, NHNNo&PTNT Việt Nam đã trở thành một trong những NHTM quốc doanh đa năng đang từng bước hiện đại hoá công nghệ kinh doanh và xây dựng một NHTM Nhà nước có đủ sức cạnh tranh trên thị trường theo Pháp lệnh Ngân hàng, Công ty tài chính và Hợp tác xã tín dụng của Nhà nước, NHNNo&PTNT Việt Nam đã trỡ thành NHTM có đủ tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, tự chịu trách nhiệm về tài chính. Vào thời gian này, NHNNo&PTNT Việt Nam có chi nhánh tới cấp huyện thị, xã và hàng ngàn chi nhánh nhỏ được trải rộng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Về tổ chức bộ máy, NHNNo&PTNT Việt Nam đã tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp trên khắp mọi miền của Tổ quốc, tạo mọi thuận lợi giúp dân được vay vốn. Hơn thế nữa, bằng hoạt động nghiệp vụ của mình, NHNNo&PTNT Việt Nam đã triển khai các chính sách của Đảng và Nhà nước tới người dân, kể cả những vùng xa xôi, hẻo lánh. Mặc dù đầu những ngày thành lập nhận bàn giao nợ tồn đọng 800 tỷ đồng, chiếm 51% tổng số vốn, hoạt động thuần tuý là tín dụng. Trong đó có 92% là dư nợ quốc doanh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông – lâm – 6% Hợp tác xã nông nghiệp, Hợp tác xã mua bán, trên địa bàn không có môi trường kinh doanh. Hơn 3.000 xí nghiệp quốc doanh dịa phương tỉnh và huyện là khách hàng của Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp đang chờ giải thể, 12.000 Hợp tác xã tự tan rã đã làm tăng tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi, chiếm 51% tổng dư nợ. Dư nợ bình quân chỉ có 40 triệu đồng/ người, hoạt động thua lỗ, bên bờ vực thẳm. Nhưng đến cuối năm 1991 đã cho 294.724 hộ nông dân với 224 tỷ đồng đã tạo cho NHNNo&PTNT Việt Nam có những kinh nghiệm trong thực tế để mỡ rộng cho vay nền kinh tế cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngoài ra, qua đó cũng tạo cho NHNNo&PTNT Việt Nam dần đi sâu vào quỹ đạo hoạt động của một NHTM hoạt động đích thực. Từng bước NHNNo&PTNT Việt Nam đã đứng vững trong cơ chế thị trường phục vụ tốt cho sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Qua đó thấy rõ NHNNo&PTNT Việt Nam từ bờ vực phá sản đã đi lên với tốc độ phát triển cao. Đặc biệt trong ba năm liên tiếp 1993, 1994, 1995 luôn có lãi và lãi năm sau lớn hơn năm trước. Nếu so với thời điểm của năm 1991 lỗ 82 tỷ, năm 1992 lỗ 52 tỷ thì từng bước những năm sau kinh doanh có lãi mà đỉnh cao là năm 2001 với lợi nhuận đạt 376 tỷ đồng, năm 2002 lợi nhuận đạt 285 tỷ đồng đã chứng tỏ hoạt động của NHNNo&PTNT Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, đội ngũ cán bộ công nhân viên trưởng thành đáng kể. Ngày 13 tháng 7 năm 1995, Chính phủ đã phê duyệt thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo (NHNg) trực thuộc Chính phủ làm nhiệm vụ tập trung vốn và cho vay, thu nợ đối với người nghèo. Đây là một chủ trương mang tính chất Ngân hàng chính sách. Việc NHNg ra đời đã tạo điều kiện cho NHNNo&PTNT Việt Nam chuyên sâu hơn vào lĩnh vực thương mại thông qua dịch vụ uỷ thác. Do đó từ năm 1995 NHNNo&PTNT Việt Nam đã mở hoạt động liên doanh với một số Ngân hàng nước ngoài như thành lập Ngân hàng Vinasam, từ đây đã mở ra một hướng kinh doanh mới. Và đến nay, sau quá trình phát triển cung với đó là chuyển đổi đào tạo, tuyển dụng lại thì đến cuối năm 2002 NHNNo&PTNT Việt Nam có 25.679 cán bộ viên chức với 1.655 chi nhánh. Cán bộ có trình độ Đại học và trên Đại học là 10.431 trong đó có 24 tiến sĩ, 10.237 Đại học, đạt tỷ lệ 49,4%. Với phương châm “ Đi vay để cho vay” cùng với đó là phát triển mạnh theo hướng NHTM đa năng, và đến năm 2002: Tổng nguồn vốn đạt 100.078 tỷ đồng, trong đó tiền gửi không kỳ hạn là 29.732 tỷ đồng; tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng 24.958 tỷ đồng; tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên 27.939 tỷ đồng; nguồn vốn vay NHNN 5.617 tỷ đồng; nguồn vốn uỷ thác đầu tư nước ngoài 4.602 tỷ đồng; nguồn vốn uỷ thác đầu tư cho NHNg 7.230 tỷ đồng. Với kết cấu nguồn vốn: Nội tệ 84.139 tỷ đồng, ngoại tệ quy đổi VND là 8.655 tỷ. Tổng dư nợ đạt 88.379 tỷ (dư nợ cho vay nền kinh tế 79.364 tỷ). Trong đó dư nợ cho vay ngắn hạn 44.526 tỷ đồng, dư nợ cho vay trung và dài hạn 34.838 tỷ đồng, chiếm 43,9% tổng dư nợ; dịch vụ cho vay ngắn và trung hạn ưu đãi hộ nghèo 7.022 tỷ đồng. 2. Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động của NHNN&PTNT Việt Nam hiện nay: Việc tổ chức quản lý thực hiện theo nguyên tắc tập trung tại Ngân hàng NNO & PTNT Việt Nam, có phân cấp quản lý cho các chi nhánh tỉnh vì vậy cơ cấu tổ chức được thực hiện theo 2 cấp: + Tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam + Tại các chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh, thành phố. Điều đó được thể hiện khái quát theo: Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức quản lý của NHNN&PTNT Việt Nam: Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Hội đồng quản trị Bộ phận giúp việc Hội đồng quản trị Tổng giám đốc Các phó Tổng giám đốc Hệ thống kiểm tra kiểm toán nội bộ Hội đồng tín dụng Hệ thống các ban, phòng chức năng tại trụ sở chính Sơ đồ 2: Hệ thống tổ chức của NHNN&PTNT Việt Nam: Trụ sở chính Đơn vị sự nghiệp Văn phòng đại diện Sở giao dịch Chi nhánh cấp 1 Công ty trực thuộc Chi nhánh Chi nhánh cấp II Phòng giao dịch Phòng giao dịch Chi nhánh cấp II Chi nhánh cấp III Phòng giao dịch Ngoài ra, NHNN&PTNT Việt Nam còn có một mạng lưới hoạt động trong nước rộng lớn trên 65 tỉnh thành. NHNN&PTNT Việt Nam luôn chú trọng công tác mở rộng quan hệ Ngân hàng đại lý nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán xuất – nhập khẩu của khách hàng. Năm 1996, số lượng các Ngân hàng đại lý mới chỉ dừng lại ở con số 485 Ngân hàng, đến năm 2000 đã lên tới 657 Ngân hàng và cuối năm 2002 là 784 Ngân hàng tại hơn 90 nước trên thế giới Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Số lượng đại lý 485 500 519 600 657 702 784 II. Tình hình hoạt động kinh doanh tại NHNNo&PTNT Việt Nam 1. Môi trường hoạt động: Trong giai đoạn nhiều biến động trên nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Châu á nói riêng đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến nề kinh tế Việt Nam, đặc biệt cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Nam ấ năm 1997 đã lan toả trở thành cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính Châu á năm 1998 và nền kinh tế Việt Nam cũng đã bị chịu sức ép và tác động mạnh của sự khủng hoảng này. Tổng sản phẩm trong nước đầu năm 1999 chỉ tăng 4,8% so với năm 1998, đồng bản tệ thì bị mất giá mạnh… nhưng với những biện pháp tích cực và hiệu quả nhằm hạn chế ảnh hưởng và sự tác động cuộc khủng hoảng lên nền kinh tế Việt Nam thì đến năm 2002, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,8%, giá trị sản xuất công nghiệp 17,2%, giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,7%… và đến năm 2003 thì tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam là 7,0%. Sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế có tác động đến hoạt động kinh doanh của NHNN&PTNT Việt Nam. 2. Tình hình huy động vốn: Huy động vốn là cơ sở để thực hiện nghiệp vụ cho vay, do vậy việc thực hiện tốt cơ chế này sẻ tạo cho Ngân hàng đạt được kết quả tốt trong kinh doanh. Do đó trong thời gian qua NHNNo&PTNT Việt Nam đã cố gắng thực hiện một cách toàn diện, mạnh mẽ trong các hoạt động: Thực hiện huy động vốn bằng việc huy động từ nguồn tiền của dân cư và các tổ chức kinh tế. Biểu số 1: Tình hình kinh doanh của NHNN&PTNT Việt Nam Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Tổng nguồn vốn huy động 67.132 92.848 131.628 Tổng tài sản 71.523 87.745 122.632 Tổng dư nợ 60.030 79.364 117.873 Nguồn: Báo cáo của ban Ban Kế hoạch tổng hợp năm 2000 - 2003 Tổng nguồn vốn đến 31/12/2003 đạt: 131.628 tỷ đồng (bao gồm cả 1.929 tỷ vay NHNN để xử lý nợ tồn đọng giai đoạn 2), tăng 29.621 tỷ so đầu năm (tăng 31,5%). Ngoài ra, Tổng tài sản cũng như Tổng dư nợ của NHNN&PTNT Việt Nam liên tục tăng trong các năm 2000 đến 2003 phản ánh phần nào hiệu quả tín dụng mà Ngânhàng đã làm được xuất phát từ việc triển khai nhiều hình thức huy động vốn mới, huy động tiết kiệm tích luỹ nhằm thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trên mọi kênh huy động. Công tác huy động vốn đã tạo ra sự cân đối và sử dụng vốn hàng ngày linh hoạt, chặt chẽ, tiết kiệm đảm bảo tốt khả năng thanh toán thường xuyên. Công tác thanh toán, chi trả lãi trái phiếu đảm bảo an toàn, chính xác, kịp thời. Thực hiện phương châm “ Đi vay để cho vay “ theo cơ chế thị trường Ngân hàng NNo & PTNT Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh công tác huy động vốn dưới nhiều hình thức, với những mức lãi suất linh hoạt ở từng thời điểm nhất định và nhiều thời hạn khác nhau để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng gửi tiền. Đồng thời không ngừng mở rông quan hệ hợp tác quốc tế nhằm tăng nguồn vốn huy động từ: các tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức tín dụng quốc tế, nguồn vốn dịch vụ uỷ thác đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn nên đã đảm bảo nguồn để cho vay đáp ứng nhu cầu vay vốn của nền kinh tế. Biểu số 2: Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Tổng nguồn vốn huy động 67.132 92.848 131.628 * Theo loại tiền tệ 67.132 92.848 131.628 VND 60.951 84.193 119.996 Tỷ trọng (%) 90,79 90,68 91,16 Ngoại tệ quy đổi 6.181 8.655 11.632 Tỷ trọng (%) 9,21 9,32 8,83 * Theo thời gian 67.132 92.848 131.628 Ngắn hạn 47.027 54.690 90.196 Tỷ trọng (%) 70,05 58,90 68,52 Trung, dài hạn 20.105 38.158 41.432 Tỷ trọng (%) 29,95 41,10 31,48 Nguồn: Cơ cấu nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT Việt Nam 2001 – 2003 Ban Kế hoạch tổng hợp. Trong đó tiền gửi của khách hàng là: 114.452 tỷ đồng, tăng 29.894 tỷ so với đầu năm (tăng 38,5%) và chiếm tỷ trọng 86,95% trong tổng nguồn vốn. Với tiền gửi không kỳ hạn: 34.216 tỷ, tăng 15,1% so với đầu năm chiếm tỷ trọng 29,9% nguồn tiền gửi khách hàng. - Tiền gửi có kỳ hạn < 12 tháng: 38.804 tỷ, tăng 55,4% so với đầu năm chiếm tỷ trọng 34,0% nguồn tiền gửi khách hàng Tiền gửi có kỳ hạn >12 tháng: 41.432 tỷ, tăng 48,3% so với đầu năm chiếm tỷ trọng 36,1% nguồn tiền gửi khách hàng. Còn đối với nguồn vốn nội tệ là: 119.996 tỷ đồng, tăng 28.573 tỷ so với đầu năm (tăng 31,3%) và chiếm tỷ trọng 91% tổng nguồn vốn. Nguồn vốn ngoại tệ quy đổi VND: 11.632 tỷ, tăng 1.048 tỷ so với đầu năm (tăng 34,3%) và chiếm tỷ trọng 9,0% tổng nguồn vốn. Có sự cân bằng trong việc huy động nguồn vốn theo thời gian, tỷ trọng của các loại nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn thường gần bằng nhau. Và từ năm 2000 đến nay có sự chuyển dịch nguồn huy động từ ngắn hạn sang trung dài hạn: năm 2000 nguồn trung dài hạn là 13.261 tỷ đồng chiếm 26,30%, năm 2001 là 20.105 tỷ đồng chiếm 29,95%, năm 2002 là 38.158 tỷ đồng chiếm 41,10%. Sự gia tăng cả về số tuyệt đối của nguồn vốn trung dài hạn này cần được phát huy và phát triển hơn bởi nó có tính chất ổn định lâu dài, tăng cường nguồn tiền gửi từ các tổ chức kinh tế với chi phí thấp. Tóm lại, hiệu quả hoạt động tín dụng ngày càng được nâng cao thể hiện ở nguồn vốn huy động ngày càng tăng, cơ cấu vốn tín dụng đổi mới nâng dần tỷ trong cho vay trung dài hạn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Cùng với sự tăng trưởng tín dụng, ngân hàng đã hạn chế và có nhiều biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh tế. Hiệu quả tín dụng của Ngân hàng NNo & PTNT Việt nam mang lại càng củng cố lòng tin củ các cấp Đảng đoàn thể chính quyền, doanh nghiệp, nông dân và các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên bên cạnh những thành công trên hoạt động tín dụng của Ngân hàng NNo & PTNT Việt nam còn có những tồn tại và hạn chế nhất định đồi hỏi cần phải tiếp tục cải tiến không ngừng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng và đứng vững trên thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. - Huy động vốn từ đi vay: đây là một loại hình thức mà Ngân hàng khi thiếu vốn kinh doanh sẽ thực hiện việc đi vay các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. Biểu số 3: Số liệu về tình hình vay vốn Đơn vị: Tỷ đồng TT Chỉ tiêu 2001 2002 2003 I Tổng tài sản 71.523 87.745 122.632 II Vốn vay 4.253 1.776 1.876 1 Vay tín dụng trong nước 4.129 1.652 1.708 Tỷ trọng (%) 97,08 93,02 91,05 2 Vay tín dụng nước ngoài 124 124 168 Tỷ trọng (%) 2,92 6,98 8,95 III Vốn vay/ Tổng tài sản 0,06 0,02 0,015 Nguồn: Cơ cấu nguồn vốn huy động của NHNNo&PTNT Việt Nam từ năm 2001– 2003 – Ban Kế hoạch tổng hợp. Qua bảng số liệu, vốn vay chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong Tổng tài sản (năm 2001 chiếm 6% Tổng tài sản, năm 2002 chiếm 2% và năm 2003 chiếm 1,5%) Trong Tổng nguồn vốn vay tín dụng thì chủ yếu là vay trong nước, năm 2001 vốn vay trong nước chiếm 97% Tổng vốn vay, năm 2002 là 93%, còn năm 2003 chiếm 91%. Như vậy đã có sự chuyển dịch khá đáng kể trong cơ cấu nguồn vốn vay tín dụng trong nước và nước ngoài. Ngân hàng đã chú trọng hơn trong các hoạt động tín dụng nước ngoài. Huy động vốn thông qua cơ chế phát hành các giấy tờ có giá: Với việc phát hành chủ yếu là kỳ phiếu và trái phiếu ngoài ra còn có tiết kiểm hưởng lãi bậc thang, tiết kiệm đảm bảo bằng vàng … NHNNo&PTNT Việt Nam đã tăng thêm một phần nguồn vốn huy động của mình, tuy nhiên vẫn đang còn nhiều hạn chế bởi chưa có những chính sách khuyến khích hay thu hút người dân và các tổ chức kinh tế tham gia mua các giấy tờ có giá thêm vào đó là chưa đa dạng hoá các hình thức. Nhìn chung, NHNNo&PTNT đã và đang cố gắng khắc phục những thiếu sót của mình. Biểu số 4: Tình hình phát hành các giấy tờ có giá Đơn vị: Tỷ đồng TT Chỉ tiêu 2001 2002 2003 I Tổng nguồn vốn 67.132 92.848 131.628 II Ngắn hạn 2.161 2.259 2.974 Tỷ trọng (%) 21,49 15,10 17,31 1 Chứng từ tiền gửi 2 Giấy tờ có giá 2.161 2.259 2.974 III Dài hạn 7.893 12.736 14.202 Tỷ trọng (%) 78,51 84,90 82,69 Tổng cộng 10.054 14.955 17.176 IV Giấy tờ có giá / Tổng nguồn vốn (%) 0,15 0,16 0,13 Nguồn: Cơ cấu nguồn vốn huy động của NHNNo&PTNT Việt Nam 2001 – 2003 – Ban Kế hoạch tổng hợp. Các giấy tờ có giá trị dài hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong các đợt phát hành (Năm 2001 chiếm 78,51%, năm 2002 chiếm 84.90%, năm 2003 chiếm 82,69%). Bên cạnh đó, giá trị của các giấy tờ có giá ngày càng tăng qua các năm. Năm 2001 là 10.054 tỷ, năm 2002 là 14.955 tỷ, name 2003 là 17.176 tỷ đồng. Đối với Tổng nguồn vốn thì các giấy tờ có giá chiếm tỷ lệ 15% vào năm 2001, 16% vào năm 2002 và 13% ở năm 2003. 3. Tình hình sử dụng vốn: Thực chất đó là quá trình cho vay vốn của một Ngân hàng thương mại nói chung và NHNNo&PTNT Việt Nam nói riêng. Thực trạng của hoạt động này chứng tỏ đây là một việc làm phức tạp, đòi hỏi cần nhiều nguồn thông tin chính xác. Biểu số 5: Tình hình cho vay vốn Đơn vị: Tỷ đồng TT Chỉ tiêu 2001 2002 2003 1 Tổng dư nợ 60.030 79.364 117.873 A Dư nợ tín dụng ngắn hạn 34.370 44.526 65.838 Tỷ trọng (%) 57,25 56,10 55,86 Trong đó: Quá hạn 273 1.712 1.679 Tỷ lệ (%) 0,45 2,16 1,42 B Dư nợ tín dụng trung, dài hạn 25.660 34.838 52.035 Tỷ trọng (%) 42,75 43,90 44,14 Trong đó: Quá hạn 146 164 192 Tỷ lệ (%) 0,24 0,21 0,016 2 Tổng nguồn vốn huy động 67.132 92.848 131.628 3 Tổng tài sản có 71.523 87.745 122.632 4 Tổng dư nợ / Tổng nguồn vốn huy động 0,894 0,855 0,895 5 Tổng dư nợ / Tổng tài sản có 0,839 0,904 0,961 6 Nợ quá hạn / Tổng dư nợ 0,007 0,023 0,015 7 Nợ ngắn hạn / Tổng dư nợ 0,573 0,561 0,559 8 Nợ trung, dài hạn/ Tổng dư nợ 0,427 0,439 0,442 Nguồn: Báo cáo các chỉ tiêu cơ bản của NHNNo&PTNT Việt Nam từ 2001 – 2003 – Ban Kế hoạch tổng hợp. Còn riêng năm 2003 thì tính đến ngày 31/12 đạt 117.873 tỷ đồng, tăng 29.493 tỷ so đầu năm (tăng 33,3%) vượt mục tiêu đề ra của Hội đồng quản trị. Trong đó dư nợ NHNo: 111.619 tỷ, tăng so đầu năm 37,2%; Dư nợ uỷ thác đầu tư cho NHCSXH: 6.254 tỷ. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế là 114.899 tỷ, tăng so đầu năm 28.327 tỷ (tăng 32,7%). Trong đó dư nợ cho vay VND: 105.115 tỷ, tăng 26.653 tỷ so năm 2002 (tăng 31,9%) và chiếm tỷ trọng 91,5% dư nợ cho vay. Dư nợ cho vay ngoại tệ đổi VND: 9.784 tỷ, tăng 4.251 tỷ so với đầu năm (tăng 86%) và chiếm tỷ trọng 8,5% dư nợ. Đối với cho vay ngắn hạn: 62.711 tỷ, tăng 16.193 tỷ so với đầu năm (tăng 34,8%); cho vay trung dài hạn: 48.908 tỷ, tăng 14.070 tỷ so với đầu năm (tăng 40,4%) chiếm tỷ trọng 43,8% tổng dư nợ. Từ đây cho thấy hoạt động kinh doanh của NHNNo&PTNT Việt Nam có khối lượng tín dụng đầu tư cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn. Đồng thời, hiệu quả tín dụng luôn được đảm bảo, dư nợ quá hạn của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng cao (trên 70%) nhưng nợ quá hạn luôn theo xu thế giảm dần. Đây là những biểu hiện tốt trong việc lành mạnh hoá dư nợ cũng như nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của NHNNo&PTNT Việt Nam theo định hướng của Nhà nước về phát triển các thành phần kinh tế quốc doanh. 4. Thực trạng quản lý, điều hoà vốn: Quản lý và điều hoà vốn của NHNNo&PTNT Việt Nam được thể hiện qua: huy động vốn và sử dụng vốn. Chúng được thể hiện qua các cơ chế quản lý và điều hành trên phương diện các cơ chế quản lý về chính sách, cơ chế nghiệp vụ hoạt động kinh doanh của NHNNo&PTNT Việt Nam. Cụ thể hoá qua quản lý điều hành mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn, các cơ chế về huy động vốn, sử dụng vốn, thực hiện các mục tiêu trong từng thời kỳ hoạch định, theo các cơ chế tác nghiệp cụ thể … 5. Tình hình quản lý đối với khách hàng: Đối với hoạt động tín dụng Ngân hàng nói riêng, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung thì khách hàng chính là cơ sở, nhân tố quyết định tính hiệu quả của những hoạt động đó. Do đó công tác khách hàng của NHNNo&PTNT Việt Nam luôn được coi trọng, với phương châm “ biết người, biết ta” nên chiến lược khách hàng luôn được xác lập theo cả không gian và thời gian. Cùng với đó là những phân tích đánh giá môi trường kinh doanh, đối thủ cạnh tranh cũng như trình độ công nghệ kỹ thuật, trình độ cán bộ, nguồn vốn …đã giúp cho NHNNo&PTNT Việt Nam đánh giá đúng thực lực của mình từ đó có những biện pháp thu hút khách hàng phù hợp với thị trường vừa giữ được khách hàng cũ vưà phát triển khách hàng mới. Chính vì vậy khách hàng của NHNNo&PTNT Việt Nam vẫn được phát triển cả về số lượng và chất lượng. Biểu số 6: Số lượng khách hàng của NHNNo&PTNT Việt Nam (2001 – 2003) Năm Khách hàng 2001 2002 2003 - DNNN 1.760 2.100 2.156 - DNNQD 5.011 8.800 9.640 - Số hộ có dư nợ 5.203.900 6.400.000 7.100.600 Nguồn: Ban tín dụng NHNNo&PTNT Việt Nam ở đây thấy rằng số lượng khách hàng là các Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) chiếm số lượng không lớn, lý do bởi Nhà nước đang thực hiện chính sách cổ phần hoá các DNNN để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các DN. Còn đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) và các hộ sản xuất đều tăng lên qua các năm. III. Thực trạng hiệu quả hoạt động tín dụng tại NHNN & PTNT Việt Nam Trong quá trình kinh doanh của Ngân hàng, thực trạng hiệu quả hoạt động tín dụng luôn đòi hỏi là một công việc thường xuyên và được xem xét hay đánh giá một cách toàn diện và chính xác. Để thấy rõ điều này cần phải tìm hiểu tình hình tín dụng đối với nền kinh tế dựa trên các chỉ tiêu đánh giá tính hiệu quả của hoạt động tín dụng . Cụ thể là: 1. Các chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng: Biểu số 7: Chỉ số hoạt động tín dụng của NHNN&PTNT Việt Nam TT Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1 Nợ quá hạn / Tổng dư nợ 0,007 0,023 0,015 2 Nợ ngắn hạn / Tổng dư nợ 0,573 0,561 0,559 3 Nợ trung, dài hạn/ Tổng dư nợ 0,427 0,439 0,442 4 Tỷ lệ an toàn vốn 0,025 0,034 0,029 Nguồn: Ban tín dụng NHNNo&PTNT Việt Nam a. Chỉ số Nợ quá hạn / Tổng dư nợ: Đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng của các NHTM, chỉ số này thấp thì chứng minh hiệu quả tín dụng cao. ở đây, chỉ số này ngày càng giảm (từ 0,023 năm 2002 xuống còn 0,015 năm 2003) chứng tỏ NHNN&PTNT Việt Nam đang thực hiện tốt các quy chế tín dụng, thu hồi và giải quyết nợ quá hạn, đây là một thành công của NHNN&PTNT Việt Nam trong hoạt động kinh doanh tín dụng trong việc xúc tiến mạnh và cơ cấu lại nợ, lành mạnh hoá tín dụng. b. Chỉ số Dư nợ ngắn hạn / Tổng dư nợ và Dư nợ dài hạn / Tổng dư nợ: Chỉ số này xác định cơ cấu tín dụng trong trươngg hợp Tổng dư nợ._. phải là lực lượng chủ yếu để thường xuyên tăng trưởng nguồn vốn tín dụng. Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế mở và sử dụng các tài khoản được thuận tiện; không phân biệt đối xử mở tài khoản giữa DNNN với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hoặc với hộ tư nhân, cá thể nếu có đủ điều kiện. Đơn giản hoá một số thủ tục, mở rộng địa bàn thanh toán (không lệ thuộc vào địa dư hành chính)… Mục tiêu mở rộng huy động tiền gửi ở NHN0& PTNT Việt Nam là nhằm thu hút tối đa mọi nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế. Một mặt để tăng cường nguồn vốn tín dụng đầu tư sinh lợi, mặt khác tạo điều kiện mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt; giảm tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi phí phát hành tiền mặt. Hai mặt này có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau và tăng cường hiệu quả vận động vốn tiền tệ trong nền kinh tế, góp phần giảm lạm phát. - Mở rộng phạm vi sử dụng tài khoản tiền gửi. - áp dụng chế độ thưởng phạt đối với công tác thanh toán và sử dụng tiền mặt. Để đảm bảo nghĩa vụ và quyền lợi của cả đôi bên: khách hàng và ngân hàng, nên có những chính sách thưởng phạt rõ ràng. Nếu ngân hàng chậm thanh toán theo yêu cầu của khách hàng hoặc chuyển sai địa chỉ thì ngân hàng phải bồi thường cho khách hàng phù hợp với thiệt hại do ngân hàng gây ra cho khách hàng. Ngược lại, nếu khách hàng vi phạm quy chế thanh toán, quản lý tiền mặt như đổi séc hưởng tỷ lệ, cho thuê mướn tài khoản… thì bị phạt. Qua một thời kỳ nhất định, ngân hàng cần tổng kết và có chế độ thưởng cho khách hàng thực hiện tốt các copong tác thanh toán và quản lý tiền mặt. Quy chế này trong thời kỳ bao cấp và đầu thời kỳ đổi mới đã được đặt ra nhưng việc thực hiện còn hạn chế, nay cần phát huy ở mức hợp lý hơn. - Cần có chiến lược khách hàng, đặc biệt là khách hàng có số dư tiền gửi lớn và thường xuyên nộp tiền mặt vào ngân hàng lớn. Ngân hàng có chính sách phổ cập và ưu đãi suất cả tiền gửi và cho vay với mức độ phù hợp so với thông thường qua ngân hàng. Hai là: Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn. Việc tăng cường và khuyến khích các doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng là rất cần thiết và quan trọng, góp phần thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, bởi vì tài chính hộ gia đình cũng là một bộ phận trong hệ thống tài chính. Do đó cần mở ra các hình thức huy động vốn phong phú đa dạng hơn, viên chức ngân hàng phải tiếp cận trực tiếp với hộ gia đình, doanh nghiệp để có thể huy động vào ngân hàng lượng vốn ngày càng lớn chứ không phải chờ đợi khách hàng đến với ngân hàng là chủ yếu. - áp dụng nhiều hình thức huy động tiết kiệm khác nhau: Chủ tịch Hội đồng quản trị NHN0& PTNT Việt Nam đã ban hành văn bản số 404/HĐQT - KHTH (10/10/2001) “V/v: Ban hành quy định các hình thức huy động vốn trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam” Nhằm phát triển các loại tiết kiệm không thời hạn và có thời hạn, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm gởi góp, tiết kiệm bằng VNĐ đảm bảo giá trị theo vàng và ngoại tệ… Để thực hiện cần mở rộng mạng lưới huy động đến tận địa bàn dân cư; đơn giản thủ tục, đổi mới phong cách giao dịch, đặc biệt phải thực hiện sớm và mở rộng tiền gửi một nơi, lĩnh nhiều hơn. Mở rộng hình thức tiết kiệm thành các hình thức có khả năng chuyển nhượng (hoặc nghiệp vụ chiết khấu), tiết kiệm dưỡng lão, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm học đường, tiết kiệm xây dựng nhà ở… Đặc biệt là cơ chế lãi suất tiết kiệm phải được điều chỉnh sao cho cả ngân hàng và người gửi có được lãi suất thoả đáng. Lãi suất tiết kiệm phải kích thích người gửi, gửi càng lâu lãi suất càng cao nhằm động viên tối đa nguồn tiền nhàn rỗi mà trước đây người dân thường cất trữ bằng vàng, ngoại tệ để dự phòng. Việc áp dụng nhiều hình thức huy động vốn chắc chắn sẽ làm nguồn vốn tăng lên, đáp ứng tối đa nhu cầu đa dạng của dân chúng. Huy động vốn phải trên cơ sở đảm bảo an toàn, bí mật, thuận tiện cho khách hàng. Việc huy động vốn bằng hình thức này hay hình thức khác không thể tự ý “bày đặt”, mà phải nghiên cứu kỹ thị trường và các yếu tố ảnh hưởng. Chẳng hạn, mỗi một hình thức huy động mới ra đời phải nghiên cứu cụ thể các yếu tố: sự ổn định kinh tế, trình độ kinh tế hàng hoá, chính trị, xã hội, đời sống của dân, phong tục tập quán… - Mở rộng việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng. Hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng được thực hiện mấy năm trở lại đây đã phát huy tác dụng tốt và có hiệu quả; trên cơ sở rút kinh nghiệm cần tiếp tục duy trì và phát triển nó. NHN0& PTNT Việt Nam căn cứ vào nhu cầu vốn của các doanh nghiệp từng thời kỳ, từng hoàn cảnh mà phát hành kỳ phiếu đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu vốn của họ. Lãi suất phát hành kỳ phiếu thường cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm cùng loại vì việc phát hành kỳ phiếu là không thường xuyên và mỗi khi phát hành đều có mục đích. Thực tế hiện nay NHN0& PTNT luôn phát hành kỳ phiếu để tạo vốn và phần lớn số dư tiền gửi tiết kiệm lại được rút ra và chuyển sang mua kỳ phiếu có mục đính, như vậy việc huy động vốn sẻ ít đem lại hiệu quả thiết thực, cụ thể là làm tăng thêm chi phí kinh doanh cho ngân hàng. Để khắc phục cần xác định lãi suất huy động vốn thông qua kỳ phiếu ngân hàng trên cơ sở mức độ rủi ro và thời gian đến hạn. Bên cạnh hình thức huy động kỳ phiếu như lâu nay vẫn làm, nên áp dụng hình thức huy động kỳ phiếu chuyển nhượng, tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi và góp phần phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán ở nước ta. Ba là: Huy động vốn thông qua thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Để có vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trước hết phải cải cách và hoàn thiện thị trường tín dụng nhằm đổi mới các quan hệ tín dụng giữa NHN0& PTNT Việt Nam với khách hàng bằng cách đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, tăng cường việc cung ứng vốn của NHNN cho NHN0& PTNT Việt Nam trên cơ sở tái chiết khấu, tái cấp vốn. Hiện nay trên lĩnh vực này hệ thống Ngân hàng Việt Nam thực hiện còn giới hạn, thậm chí nhiều khi coi như không có, hoặc có cũng chỉ là giải quyết có tính chất vụ việc không thường xuyên. Do đó, cần phải gấp rút hoàn thiện và phát triển các thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán. Nên thành lập trung tâm tư vấn tín dụng và đầu tư để giúp đỡ người có tiền vốn nhàn rỗi lựa chọn hình thức đầu tư có lợi nhất tuỳ thuộc vào khối lượng tiền vốn của từng người và kế hoạch sử dụng nguồn vốn của họ. Trước mắt trung tâm tư vấn tín dụng và đầu tư hoạt động dưới sự bảo trợ của NHNN, sau một thời gian có thể chuyển sang hoạt động dịch vụ, vừa làm tư vấn, vừa làm Marketing cho NHN0& PTNT Việt Nam. Bốn là: Hoạt động kinh tế của NHN0& PTNT Việt Nam cần gắn ksết với việc hình thành và phát triển các trung gian tài chính khác để luân chuyển vốn, vận động vốn có hiệu quả. Vốn cho CNH, HĐH nền kinh tế mà trực tiếp là lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nguồn vốn tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, được hình thành từ nhiều năm; nguồn vốn tín dụng ngân hàng chỉ là một bộ phận trong tổng nguồn vốn đó. Hơn nữa bản thân NHN0& PTNT Việt Nam cũng là một trung gian tài chính, nên sự phối kết hợp trong hệ thống là một lẽ đương nhiên. Do đó, muốn hoạt động kinh doanh của NHN0& PTNT Việt Nam phát huy hiệu quả và đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì phải gắn kết với các nguồn vốn đầu tư của trung gian tài chính khác hoạt động trên thị trường tài chính cùng đầu tư vào quá trình CNH, HĐH nền kinh tế. Điều này phải được thể hiện rõ trong chiến lược tạo vốn gắn liền với việc giải quyết các yêu cầu cung ứng và chuyển dịch các nguồn vốn trong nền kinh tế giữa các chủ nguồn vốn, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp. Chính vì vậy, các giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu vốn là một bộ phận cấu thành của chính sách huy động và sử dụng vốn của NHN0& PTNT Việt Nam. Chính sách này có liên quan và định hướng trước hết là hệ thống các tổ chức tài chính trung gian, chuyên làm nghiệp vụ vay, trả (huy động vốn, cho vay vốn) và các nghiệp vụ môi giới, giao dịch vốn. Đó là hệ thống các NHTM, các công ty tài chính, các hợp tác xã tín dụng, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí… Việc hoàn thiện, phát triển hệ thống các tổ chức tài chính trung gian còn nhiều hạn chế. Do đó, cả về số lượng, loại hình và công nghệ phục vụ, đều lạc hậu so với thế giới. Điều đó không những cản trở tới việc thực hiện chính sách, đầu tư mà còn gây thiệt hại rất nhiều cho nền kinh tế do không thu hút được các nguồn vốn nhàn rỗi để đâù tư phát triển và cho sự phát sinh tự phát của các hoạt động tài chính không chính thức (với các dịch vụ cho vay nặng lãi, số, đề, hụi…) Việc khắc phục những thiếu sót trên đòi hỏi phải tiến hành hàng loạt các giải pháp cấp bách bao gồm. - Hình thành và phát triển đa dạng các dịch vụ, sản phẩm mới trong hệ thống NHTM nói chung và NHN0& PTNT Việt Nam nói riêng, các công ty tài chính, các hợp tác xã tín dụng làm nhiệm vụ thu hút vốn từ tất cả các tầng lớp dân cư, các tổ chức xã hội và các doanh nghiệp để cung ứng cho sản xuất kinh doanh va chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Có một hệ thống luật pháp thống nhất, đồng bộ, đảm bảo quyền lợi về tài sản, vốn của người chủ sở hữu các khoản tiền gửi, tiền vay và các hợp đồng cung ứng, sử dụng vốn. - Thực hiện một chính hợp lý và sự cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD để thu hút và cung ứng vốn, đảm bảo giá trị tiền gửi của người có tiền, hạn chế rủi ro, tăng cường chữ tín trong xã hội và trong nhân dân. - Xây dựng và mở rộng đổi mới hoạt động của công ty bảo hiểm, nhằm tăng cường và mở rộng diện của hoạt động bảo hiểm, hạn chế tổn thất do rủi ro bất ngờ gây ra trong hoạt động tín dụng khi đầu tư cho sản xuất và đời sống. Đồng thời, tổ chức bảo hiểm phải trở thành đơn vị cung ứng vốn quan trọng thông qua việc giành một phần phí thu được để mua cổ phiếu của các công ty, trái phiếu hoặc tín phiếu của Nhà nước. - Phát triển đa dạng các hình thức thu hút vốn thông qua việc đấu thầu để phát hành các chứng khoán ngắn hạn và dài hạn của Nhà nước (công trái quốc gia, tín phiếu kho bạc), góp phần hình thành thị trường tài chính (thị trường tiền tệ và thị trường vốn), góp phần hình thành thị trường tài chính (thị trường tiền tệ và thị trường vốn) trong cả nước, trước mắt tổ chức hoạt động tốt công ty chứng khoán tại Thành phố Hồ Chí Minh. - Đổi mới công nghệ phục vụ các tổ chức tài chính trung gian, nhằm mục đích phục vụ nhanh, gọn và kịp thời và yêu cầu về mua, bán chứng khoán, ngoại tệ, về thanh toán, chuyển nhượng các giấy tờ và các hợp đồng mua bán. Nghiên cứu các mặt hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian, của thị trường tài chính và sở giao dịch chứng khoán cho thấy hoạt động này rất phức tạp, nhưng rất cần thiết đối với nền kinh tế trong quá trình luân chuyển các nguồn vốn tiền tệ, phục vụ cho các nhu cầu của sản xuất và đời sống. Để có một thị trường tài chính thực sự, trước hết phải đảm bảo các điều kiện nhất định cho sự ra đời và phát triển của các công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu; sự hoàn thiện và hoạt động đa dạng của các tổ chức tài chính trung gian, mà trung tâm là hệ thống các NHTM. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật phải được ban hành một cách đồng bộ, chặt chẽ, để có thể giám sát hoạt động của thị trường này, chống lại các hành vi lừa đảo, bảo vệ lợi ích của người mua và người bán chứng khoán; kiểm tra tư cách pháp nhânh, tài sản, vốn của các công ty và các nhân viên môi giới trên thị trờng; và cuối cùng là phải có quy chế về luật chơi rõ ràng, bình đẳng cho các bên tham gia thị trường. Tóm lại, việc mở rộng và đa dạng hoá các hình thức huy động và thu hút vốn nhằm tăng vốn kinh doanh của NHN0& PTNT Việt Nam để phục vụ cho quá trình CNH, HĐH nền kinh tế là hết sức quan trọng và cần thiết, song cần có bước đi cụ thể, rõ ràng ở cả tầm vĩ mô, vi mô bao gồm những hình thức trực tiếp, gián tiếp và sự kiên trì trong thực hiện. Chúng ta sẽ khắc phục được khó khăn và tìm ra được những giải pháp xử lý nếu thực sự coi đây là một nội dung cấu thành của chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn để tạo cho NHN0& PTNT Việt Nam phục vụ cho nền kinh tế đất nước. 2. Tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Sử dụng vốn có hiệu quả chính là cần một cơ chế tăng vốn kinh doanh có hiệu quả cao. Vì khi vốn đưa vào sản xuất kinh doanh sẽ tạo nên một cơ chế “vô tận” vốn đẻ ra vốn, sinh sôi nảy nở, nhất là trong điều kiện vốn tiềm năng hiện hữu có hạn… Chính vì vậy, NHNNo&PTNT Việt Nam cần có những nghiên cứu để: 2.1. Thay đổi cách nhìn nhận về đảm bảo tiền vay để mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng Theo các văn bản đã ban hành thì về nguyên tắc cho vay phải có đảm bảo, riêng đối với hộ nông dân vay dưới 10 triệu đồng, cho vay chủ trang trại sản xuất hàng hoá vay dưới 20 triệu đồng, nuôi trồng giống thuỷ sản dưới 50 triệu đồng thì NHNo& PTNT Việt Nam có thể thực hiện biện pháp không bảo đảm bằng tài sản thế chấp; hoặc thực hiện các biện pháp tín dụng có tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay đối với tất cả các thành phần kinh tế. Để mở rộng quy mô tín dụng gắn liền với hoạt động của sản xuất và lưu thông hàng hoá theo chúng tôi trong quan điểm này cần thống nhất: Thứ nhất, không nên coi của bảo đảm tín dụng như là một điều kiện duy nhất mà chỉ xem nó như là một điều kiện bổ sung để thực hiện sự hoàn trả: Để bảo tín dụng là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người đi vay, tức là thiết lập cơ sở pháp lý để có thêm một nguồn thu nợ thứ hai, dự phòng trong trường hợp nguồn thu nợ thứ nhất không thực hiện được. Trong thực tế nhiều chi nhánh của NHNo& PTNT Việt Nam khi cho vay đã coi đảm bảo như là tiêu chuẩn quan trọng nhất và thậm chí coi đó là tiêu chuẩn duy nhất. Chính quan điểm này đã dẫn đến khiếu xem xét một cách thận trọng nguồn trả nợ trực tiếp của khách hàng có hay không, hay nói cách khác là thiếu đánh giá đầy đủ năng lực tài chính của khách hàng. Vì vậy, trong cho vay vấn đề trước tiên phải xem xét người đi vay có khả năng trả nợ không thông qua các tiêu chuẩn như mục đích vay, năng lực tài chính, môi trường kinh doanh… đảm bảo thực hiện ở đây như là một điều kiện bổ sung để phòng ngừa các rủi ro. Thứ hai, để mở rộng tín dụng cần thiết phải đa dạng hoá các hình thức đảm bảo. Trên thực tế đảm bảo tín dụng hiện nay chủ yếu tập trung hàng đầu là thế chấp bất động sản và quyền sử dụng đất. Thứ ba, mở rộng các hình thức đảm bảo. Chẳng hạn, xây dựng ngành kinh doanh kho bãi; mở rộng hình thức cầm cố bằng quyền sở hữu về tài sản… Thứ tư, mở rộng cơ chế cho vay không bảo đảm đối với tất cả các đối tượng và thành phần kinh tế có phương án và dự án kinh doanh có hiệu quả: Nghị quyết số 49/CP do Chính phủ ban hành ngày 06/05/1997 quy định một số giải pháp cấp bách để đảm bảo thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1997, trên cơ sở đó NHNN Việt Nam đã ban hành công văn số 417/CV – NH14 ngày 31/05/1997 hướng dẫn thực hiện, trong đó quy định: “Các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh không phải thế chấp, không giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ của doanh nghiệp mà căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”. Nghị quyết này được đổi mới bằng Nghị định 178/1999/NĐ - CP (29/12/1999) của Chính phủ về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng và Thông tư 06/2000/TT – NNHN1 (04/04/2000) của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện Nghị định 178/1999/NĐ - CP về đảm bảo tiền vay. Theo đó: Việc cho vay không có đảm bảo của các tổ chức tín dụng được mở ra rất rộng đối với các đối tượng và các thành phần kinh tế bằng biện pháp: Đảm bảo tiền vay trong trường hợp cho vay không có đảm bảo bằng tài sản. Cụ thể: - TCTD tự chủ động lựa chọn khách hàng để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. - TCTD Nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ, nhằm thực hiện các dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế đặc biệt, chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước, chương trình kinh tế – xã hội và đối với một số kế hoạch thuộc đối tượng hưởng chính sách tín dụng ưu đãi về điều kiện vay. Trong đó: + Đối với hộ sản xuất nông, lâm ngư, diêm nghiệp vay vốn dưới 10 triệu đồng không cần thế chấp tài sản (Quyết định 67/TTg – QĐ của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 30/3/1999); Hộ nông dân, chủ trang trại sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ hải sản mang tính sản xuất hàng hoá được vay vốn đến 20 triệu đồng không cần thế cấp tài sản (Nghị quyết 03/200/NQ – CP ngày 02/02/2000); Hộ sản xuất giống thuỷ hải sản được vay vốn đến 50 triệu đồng không cần thế chấp tài sản (Quyết định 103/2000/QĐ - TTg ban hành ngày 25/8/2000). - TCTD cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn có bảo lãnh bằng tín chấp của các tổ chức Hội đoàn thêt như: Hộ gia đình nghèo vay vốn có bảo lãnh bằng tín chấp của các cơ sở Hội, đoàn thể như: (Hội nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Liên đoàn lao động Việt Nam) - Cán bộ công nhân viên vay vốn sản xuất kinh doanh phục vụ đời sống có cam kết và xác nhận của cơ quan quản lý tiền lương, tổ chức tín dụng thu nợ từ tiền lương và thu nhập khác (Văn bản 34/CV – NHNN1 ngày 07/01/2000 và văn bản số 98/CV – NHNN1 ngày 28/01/2000). Với các quy định nêu trên đã mở ra cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có uy tín, tình hình tài chính mạnh được phép vay không cầm đảm bảo và tất cả các TCTD được cho vay không đảm bảo theo các điều kiện quy định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy: Tuy Nhà nước đã cho phép các ngân hàng được quyền cho vay không đảm bảo, nhưng điều đó không có nghĩa là phải cho vay không đảm bảo và bất cứ giá nào. Việc chọn lựa có đảm bảo hay không là thuộc thẩm quyền kinh doanh của các ngân hàng và chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình, nhưng không vì trách nhiệm mà quá dè dặt làm ảnh hưởng đến mục tiêu kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và hộ sản xuất, làm chậm tiến trình phát triển kinh tế của đất nước đang trên đường hội nhập. 2.2. Mở rộng tín dụng trung, dài hạn; đồng thời gắn với tín dụng ngắn hạn phục vụ cho phát triển nền kinh tế quốc dân. Chia tách giữa vốn ngắn hạn và dài hạn trong quá trình sử dụng chỉ là phương diện quản lý và nghiên cứu, còn trên thực tế giữa hai loại vốn này luôn luôn vận động đan xen nhau; nên trong quá trình sử dụng vốn cho phát triển nền kinh tế quốc dân phải có cách kết hợp như thế nào để tạo ra hiệu quả tốt nhất; đó là việc phải làm. Nhìn bề ngoài thì thấy rõ hơn: tín dụng phục vụ cho CNH, HĐH nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng trung và dài hạn; nhưng trong cùng một dự án đầu tư, cũng như một đơn vị tổ chức sản xuất kinh doanh bao giờ cũng kết hợp giữa hai loại vốn: vốn cố định và vốn lưu động, kết hợp giữa tài sản lưu động và tài sản cố định. Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng lại càng phải biết cách kết hợp tốt hơn vì nó nhạy cảm hơn các lĩnh vực sản xuất, lưu thông khác. Thực tế hiện nay vấn đề này đã được thừa nhận ngay cả từ trong chính sách; trước đây, thời bao cấp, đã từng nhỏ của nhu cầu tất yếu. Đến nay Nhà nước ta đã có những chính sách “sử dụng vốn ngắn hạn ổn định để đầu tư cho dài hạn:”. Đó là một sự tiến bộ xã hội. Vận dụng trong sự kết hợp chặt chẽ lại càng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tạo vốn của các NHTM nói chung, NHNo& PTNT Việt Nam nói riêng để phục vụ CNH, HĐH nền kinh tế. Bởi vì một thực tế, vận động của vốn là xuất phát từ tạm thời, ngắn hạn qua quá trình trở thành dài hạn và chính qua quá trình đầu tư vốn dài hạn sau này lại chuyển thành ngắn hạn (vốn khấu hau) theo hình thức tái tạo lại ban đầu. Do đó sự kết hợp là một tất yếu, vấn đề là vận dụng nó như thế nào có hiệu quả thiết thực, mang lại lợi ích kinh tế – xã hội cao. Hiện nay nhu cầu về đầu tư tín dụng dài hạn thì lớn, nhưng nguồn vốn lại rất hạn hẹp, nên kết hợp giữa hai loại tín dụng ngắn hạn và dài hạn như thế nào trong quá trình CNH, HĐH nền kinh tế có hiệu quả luôn cần một cơ chế tốt, nhất là NHNo& PTNT Việt Nam đã và đang mở nhiều chi nhánh tại các khu công nghiệp, khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam). Đồng thời phải có cách mở rộng loại tín dụng trung và dài hạn: Trước mắt phải thấy rằng nền kinh tế Việt Nam đã tụt hậu xa so với các nước trong khu vực mà cách đây trên 20 năm bắt đầu một điểm xuất phát gần như nhau. Trình độ công nghệ cũng như máy móc thiết bị của nước ta hiện nay hết sức lạc hậu, nên ảnh hưởng rất lớn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Để thực hiện mục tiêu đổi mới cơ bản thiết bị và công nghệ lạc hậu vào những năm đầu thế kỷ 21, theo các nhà kinh tế thì mức đổi mới hàng năm phải đạt khoảng 15%. Muốn đạt được chỉ tiêu này chúng ta phải có chính sách huy động vốn thích hợp để khai thác nguồn vốn trong nước và mở rộng nguồn vốn từ bên ngoài. Bên cạnh những biện pháp huy động vốn, việc áp dụng phương thức tài trợ thích hợp cũng giúp cho chúng ta mở nguồn vốn đầu tư. Cũng cần thấy rằng trong thời gian qua nguồn vốn trong nước chưa được khai thác triệt để, kể cả nguồn vốn đã huy động vào các ngân hàng; nhiều ngân hàng ứ đọng vốn không cho vay ra được, mặc dù đã được phép chuyển một tỷ lệ nhất định vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn (trước đây: 30% và từ năm 2003 là 35%%). Trong lúc đó nền kinh tế đang thiếu vốn trầm trọng để đổi mới thiết bị công nghệ. Như vậy, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển nói chung và đầu tư để đổi mới thiết bị công nghệ nói riêng, đòi hỏi chúng ta không chỉ có những chính sách, biện pháp huy động vốn thích hợp, mà còn phải đưa vào áp dụng các kỹ thuật tài trợ mới để thực hiện quá trình đầu tư, đây cũng là biện pháp tận dụng nguồn vốn trong nước, tức là nhanh chóng đưa vốn tiết kiệm sang đầu tư, đồng thời nhằm mục đích khai thác thêm các nguồn vốn nhập khẩu từ bên ngoài. 2.3. Nâng cao hiệu quả tín dụng. Trong bối cảnh chung trên tất cả các mặt báo ngành và báo kinh tế hiện nay đều quan tâm đến vấn đề hiệu quả tín dụng ngân hàng ở nhiưêù góc độ; mô tả thực trạng hiệu quả tín dụng ngân hàng còn nhiều yếu kém, phân tích tìm kiếm nguyên nhân và giải pháp cứu chữa… Đây quả thật là một trong những trọng tâm quan trọng nhất của hoạt động ngân hàng, lại càng có ý nghĩa đối với NHN0& PTNT Việt Nam. Phó Thống đóc thường trực NHNN Việt Nam năm 1996 tại hội nghị tổng kết ngành ngân hàng đã từng nhận xét: “Nợ quá hạn không đơn thuần là vấn đề tồn tại trong nghiệp vụ nữa mà phải coi là vấn đề nổi cộm, phải xử lý trong hoạt động ngân hàng. Các TCTD phải coi đây là công việc hàng đầu, là tín nhiệm, là điều kiện tồn tại và phát triển của ngân hàng mình”. Từ đó chúng ta phải xác định rõ trách nhiẹm cả ba phía. - Đối với ngân hàng Nhà nước. Tập trung nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ và chức năng của mình, như hoàn thiện hệ thống văn bản pháp ly liên quan đến hoạt động ngân hàng nói chung, tín dụng ngân hàng nói riêng; bảo đảm công tác quản lý Nhà nước đối với ngành ngân hàng vừa toàn diện vừa chặt chẽ trên cơ sở tiến bộ và hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng hiện nay… - Đối với ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam: + Phải luôn xác định lĩnh vực tín dụng là nơi sản sinh trực tiếp tình trạng nợ quá hạn tăng cao và hiệu quả tín dụng cần được quan tâm chăm sóc. Vì NHN0& PTNT Việt Nam sẽ là người lãnh nhận đầu tiên và nặng nề nhất những hậu quả nếu không khắc phục được tình trạng đó. Để ngăn chặn đà gia tăng nợ quá hạn và cải thiện hiệu quả tín dụng ngay tại các chi nhánh của NHN0& PTNT Việt Nam, thì phải có hàng loạt các biện pháp. Chẳng hạn, rà soát lại toàn bộ các khoản nợ quá hạn cũ, phân tích xác định nguyên nhân và tìm cách xử lý thích hợp đối với từng loại nợ quá hạn nợ, nợ khó đòi, nợ không thu hồi được; nghiêm túc thực hiện việc chuyển nợ quá hạn kịp thời. Đối với các khoản không thể gia hạn được nhằm lành mạnh dư nợ thực chất (năm 2002 đã chuyển nợ quá hạn: 5.503 tỷ đồng, tăng so với năm 2001: 167,3%, vì vậy nợ quá hạn chiếm tỷ lệ 2,3% tăng so với 2001: 1,6%. Kiểm soát chặt chẽ, hạn chế đến mức thấp nhất khả năng phát sinh các khoản nợ quá hạn mới; một giải pháp tận gốc cho vấn đề này có lẽ là cần gấp rút hoàn thiện cơ chế quản lý tín dụng ngân hàng. Theo đó, công tác tín dụng cần được lượng hoá, quy trình hoá các công đoạn, thao tác thủ tục tín dụng theo hướng hợp lý - nhanh gọn và hiệu quả. áp dụng phương pháp xếp hạng tín dụng trên cơ sở thiết lập các tiêu thức đánh giá khoa học và phù hợp thực tiễn; tất cả tạo thành cơ chế trước khi ra các quyết định tín dụng theo hướng tối ưu. Do vậy, NHN0& PTNT Việt Nam rất cần và phải xây dựng cho được cơ chế này. + Trích lập quỹ rủi ro tín dụng nhằm xử lý kịp thời các khoản rủi ro. Trong đầu tư tín dụng vào một số lĩnh vực có nhiểu rủi ro, nhất là cho vay hộ sản xuất luôn gắn với điều kịn thiên nhiên nên thường xuyên bị thiên tai đe doạ. Việc đầu tư tín dụng ngân hàng cho nông nghiệp đã chứa đựng khả năng rủi ro rất lớn, trong khi yêu cầu nâng cao hiệu quả tín dụng và hiệu quả đầu tư là vấn đề cấp bách và thiết thực đối với hoạt động của ngân hàng. Chính vì lẽ đó, cần thiết lập quỹ rủi ro tín dụng với sự tham gia của ngân hàng và NSNN. Cụ thể: - Trích từ lợi nhuận của ngân hàng về đầu tư cho kinh tế hộ và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nhất thiết phải tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên của từng vùng mà quy định. NHNN nên khống chế tỷ lệ (nhóm I = 0%, nhóm II = 20%, nhóm III = 50%, nhóm IV = 100%) theo Quyết định 488/2000/QĐ - NHNN5 (27/11/2000) của Thống dốc NHNN Việt Nam đã được Chủ tịch Hội đồng quản trị NHN0& PTNT Việt Nam cụ thể hoá tại văn bản số 88/HĐQT - 03 (25/4/2001) “V/v: Ban hành Quy định phân loại tài sản” “Có” trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động. III. Một số kiến nghị 1. Kiến nghị đối với Chính phủ : Chính phủ cần có định hướng quy hoạch phát triển đối với từng vùng kinh tế, từng ngành, từng địa phương để hướng sản xuất phù hợp với nhu cầu, tránh tình trạng đầu tư tràn lan không có hiệu quả, cung lớn hơn cầu như các nhà máy đường, bia, gạch tuynel,… như hiện nay. Cần phân biệt rõ chức năng quản lý để giảm thấp sự can thiệp của các cấp quản lý kinh tế vào việc thực hiện các hoạt động tín dụng. Tạo ra tính chủ động cũng như trách nhiệm cho mỗi cán bộ tín dụng tránh chịu sức ép của các cấp chính quyền, sự can thiệp quá sâu của các cấp quản lý Nhà nước về kinh tế gây ảnh hưởng đến quyết định hay kết quả của hoạt động tín dụng. Tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, xác định đúng vị trí của DNNN trong quá trình đổi mới và thực hiện mục tiêu CNH. Đặc biệt tiếp tục thực hiên quá trình cổ phần hoá các DNNN, tạo ra sự đan xen về mặt sở hữu trong các doanh nghiệp cổ phần giúp đẩy mạnh thị trường vốn phát triển. Nâng vốn tự có cho NHNNo&PTNT Việt Nam, đây còn là một yêu cầu bức thiết của các Ngân hàng thương mại khác. Như vậy, Ngân hàng có điều kiện mỡ rộng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế. Chính phủ và các Bộ ngành cần có chính sách xử lý các khoản nợ quá hạn, khó đòi của các Ngân hàng thương mại để tạo nguồn cho các Ngân hàng xử lý, bù đắp các khoản nợ khoanh, xoá, trước hết là nguồn để xoá nợ. 2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng, tạo hành lang pháp lý thuận lợi trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát đối với các Ngân hàng thương mại để chấn chỉnh những sai sót, vi phạm trong việc thẩm định và quyết định cho vay của Ngân hàng. Đồng thời xử lý nghiêm khắc các vi phạm của các Ngân hàng mà đặc biệt là các cán bộ tín dụng thực hiện việc cho vay thiếu trách nhiệm dẫn đến nhiều khoản vay có chất lượng thấp. Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các Bộ ngành để xây dựng trung tâm chuyên thu thập và cung cấp thông tin về các Doanh nghiệp, các hộ sản xuất về mặtpháp lý, lịch sử khách hàng, tình hình tài chính, công nợ để các Ngân hàng nắm bắt rõ hơn về các Doanh nghiệp trước khi quyết định cho vay đồng thời quản lý, kiểm soát được các Doanh nghiệp, tránh tình trạng gian lận trong vay vốn tại Ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần hộ trợ về cơ chế, vốn để áp dụng công nghệ hiện đại vào các khâu trong hoạt động của NHNNo&PTNT Việt Nam mà đặc biệt là hoạt động tín dụng nhằm phục vụ và quản lý khách hàng tốt hơn. Ngoài ra giúp Ngân hàng áp dụng được những công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm trong quản lý, trong kiểm soát rủi ro nhằm từng bước nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động NHNNo&PTNT Việt Nam tiến tới hội nhập trên thế giới. Kết Luận Quá trình đổi mới đang diễn ra ngày càng sâu rộng và triệt để trên mọi nhân tố của nền kinh tế, trong mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với NHNNo&PTNT Việt Nam đã có những đổi mới và hoàn thiện nhưng để sao cho có hiệu quả thì vẫn là một vấn đề bức xúc, có ý nghĩa lớn cả về lý luận và thực tiễn. Riêng hoạt động tín dụng NHNNo&PTNT Việt Nam cũng nằm trong xu hướng đổi mới đó và luôn tự hoàn thiện, khắc phục những hạn chế, khó khăn còn tồn tại góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của NHNNo&PTNT Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng nền kinh tế phát triển vững mạnh. Với luận văn về đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHNNo&PTNT Việt Nam”, em đã phần nào hệ thống hoá vị trí, vai trò và sự cần thiết trong việc nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng. Qua việc đánh giá thực trạng tín dụng, luận văn đã phân tích và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để từ đó khẳng định việc tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại NHNNo&PTNT Việt Nam trong thời gian tới là yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với thông lệ quốc tế. Do trình độ hiểu biết, điều kiện và phạm vi nghiên cứu có hạn nên luận văn khó tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, chỉ dẫn của thầy cô và các bạn để luận văn có ý nghĩa thiết thực hơn. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - Federich Mishkin 2. Quản trị ngân hàng thương mại - Pete Rose 3. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại - TS. Phan Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Thu Thảo. 4. Lý thuyết tài chính tiền tệ - TS. Nguyễn Hữu Tài 5. Tạp chí Lý thuyết tài chính tiền tệ các năm 2002, 2003, 2004. 6. Tạp chí Ngân hàng các năm 2002, 2003, 2004. 7. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam các năm 2001, 2002, 2003. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36165.doc