LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của việc lựa chọn đề tài
Đất nước ta sau 15 năm đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đang tiến bước vào thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước Cùng với xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới hiện nay, nước ta đã và đang tích cực chủ động tham gia hiệu quả vào các tổ chức khu vực và thế giới như: ASEAN, AFTA, APEC và đặc biệt là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Ngày 7/11/2006 là bước ngoặt đánh dấu b
149 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1490 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước phát triển mới của Việt Nam, có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập môi trường buôn bán, quan hệ hợp tác kinh tế với toàn thế giới.
Xăng dầu là mặt hàng chiến lược có vai trò chi phối với tất cả các ngành trong nền kinh tế và đời sống xã hội dân cư và là mặt hàng nhập khẩu gần như hoàn toàn nên phụ thuộc rất lớn về cung và giá cả vào thị trường thế giới. Từ đầu năm 2004 đến nay, giá xăng dầu trên thị trường thế giới liên tục biến động tăng và ở mức cao ảnh hưởng rất lớn đến giá cả trong nước cũng như chính sách kiềm chế và ổn định lạm phát của Chính phủ. Công ty xăng dầu Quân đội là một trong mười một đơn vị được phép nhập khẩu xăng dầu của cả nước, trải qua các năm hoạt động Công ty cũng đã không ngừng cố gắng trong việc tìm hướng khai khác, tìm hiểu thị trường nâng cao hiệu quả nhập khẩu và quy mô kinh doanh để hoàn thành nhiệm vụ nhập khẩu xăng dầu do Bộ Thương mại cấp Quota và đáp ứng nhu cầu xăng dầu phục vụ quốc phòng và kinh tế.
Tuy nhiên do những biến động khách quan của thị trường thế giới cũng như những nhân tố chủ quan của Công ty như khả năng tích luỹ tài chính còn hạn chế, đối tác kinh doanh cũng chưa đa dạng và còn chịu sự chi phối của chính sách nhập khẩu của Nhà nước nên Công ty gặp nhiều khó khăn trong quá trình nhập khẩu, xây dựng chiến lược kinh doanh để phát triển quy mô kinh doanh.
Nhằm tháo gỡ những khó khăn và nâng cao hơn nữa hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty xăng dầu Quân đôi, đòi hỏi cần phải có những giải pháp thích hợp. Vì lý do đó, đề tài luận văn: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội” đã được lựa chọn và nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng công tác nhập khẩu của Công ty xăng dầu Quân đội, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội từ giai đoạn 2002 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích và so sánh. Các số liệu phục vụ quá trình nghiên cứu lấy từ sách báo, tạp chí có liên quan tới chuyên đề.
Nội dung nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục luận văn được kết cấu thành 3 chương
Chương1: Lý luận cơ bản về hoạt động kinh doanh nhập khẩu và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội
Chương2: Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty xăng dầu Quân đội
Chương3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH NHẬP KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU XĂNG DẦU CỦA CÔNG TY XĂNG DẦU QUÂN ĐỘI
1.1 Một số vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh nhập khẩu và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả nhập khẩu xăng dầu
1.1.1 Khái niệm, mục tiêu và vai trò của hoạt động nhập khẩu
1.1.1.1 Khái niệm nhập khẩu
Nhập khẩu hàng hoá là một nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế. Đó là việc mua bán hàng hoá từ các tổ chức kinh tế, các công ty nước ngoài và tiến hành tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại thị trường nội địa hoặc tái xuất khẩu với mục đích thu lợi nhuận, nối liền quá trình sản xuất với tiêu dùng.
1.1.1.2 Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu
Khác với các hoạt động mua bán trong nước, nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, được thực hiện giữa các chủ thể kinh tế ở các quốc gia khác nhau, nó là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài.
Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu là việc sử dụng có hiệu quả khối lượng ngoại tệ tiết kiệm được để nhập khẩu các nguồn vật tư, hàng hoá phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, đồng thời đảm bảo cho sự phát triển đồng bộ, nâng cao năng suất lao động, bảo vệ các ngành sản xuất trong nước, giải quyết sự khan hiếm của thị trường nội địa. Bên cạnh đó, thông qua công tác nhập khẩu để đảm bảo cho sự phát triển ổn định của các ngành kinh tế mũi nhọn mà khả năng trong nước chưa cung cấp đủ nguyên liệu cho chúng, tạo ra những nguồn lực mới cho sản xuất, khai thác triệt để lợi thế so sánh của quốc gia mình nhằm kết hợp hài hoà giữa nhập khẩu và cán cân thanh toán.
1.1.1.3 Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
Nhập khẩu là một bộ phận không thể tách rời của thương mại quốc tế, nó tác động trực tiếp đến sản xuất và đời sống của mỗi quốc gia. Nhập khẩu thể hiện mối quan hệ kinh tế, mức độ phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế nước ta với nền kinh tế các nước trên thế giới. Nó tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế mỗi quốc gia về sức lao động, vốn, tài nguyên, khoa học kỹ thuật…
Với xu thế của nền kinh tế thế giới hiện nay, Việt Nam cũng như các quốc gia khác đang không ngừng mở rộng quan hệ buôn bán quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng lớn mạnh cùng với việc hình thành trung tâm thương mại, khối mậu dịch tự do đã chứng tỏ việc lưu chuyển hàng hoá giữa các quốc gia không ngừng được cải thiện và nâng cao. Khi đó vai trò của hoạt động nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn đối với việc ổn định và phát triển kinh tế quốc gia nói riêng và phát triển nền kinh tế thế giới nói chung.
Thứ nhất, nhập khẩu là cơ sở để bổ sung hàng hoá trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, ngoài ra nhập khẩu còn làm đa dạng hoá hàng hoá như chủng loại, chất lượng cho phép thoả mãn nhu cầu trong nước. Nhập khẩu tăng cường sự chuyển giao công nghệ, tạo sự cạnh tranh vượt bậc của nền sản xuất xã hội, tiết kiệm được chi phí và thời gian hạ giá thành sản phẩm; đồng thời nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội và hàng nhập ngoại, tức là tạo ra động lực buộc các nhà sản xuất trong nước không ngừng cải tiến và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, hạ
Thứ hai, nhập khẩu tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất, chuyển dịch cơ cấu theo từng bước Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Thông qua hoạt động nhập khẩu mà các doanh nghiệp hay cơ sở sản xuất có thể học hỏi kinh nghiệm sản xuất từ phía đối tác để từ đó đầu tư mua sắm trang thiết bị dây chuyền công nghệ nhằm sản xuất các mặt hàng nhập khẩu ngay tại trong nước. Việc đầu tư này giúp doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm hơn so với hàng nhập. Người tiêu dùng thì có lợi vì mua sản phẩm được với giá rẻ hơn mà chất lượng thì tương đương hàng ngoại, còn nhà sản xuất thì giảm được chi phí, có thể dung phần vốn đó để tái sản xuất hay đầu tư vào lĩnh vực khác mà cũng mang lại lợi nhuận.
Thứ ba, nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về mặt hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động. Hoạt động nhập khẩu giúp người dân có thể tiếp cận với những nền kinh tế cao hơn thông qua các sản phẩm mà trong nước chưa sản xuất được. Quá trình nhập khẩu cũng qua nhiều khâu, vì vậy tạo điều kiện cho nhiều người tham gia và chuyên môn cũng khác nhau.
Thứ tư, nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy sản xuất, thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo điều kiện phát triển đầu vào cho hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam ra nước ngoài. Ở Việt Nam hiên nay, hàng xuất khẩu chủ yếu là các mặt hàng có công nghệ thấp như lương thực, giày da, may mặc…Các mặt hàng này mang lại lợi nhuận không cao, lãi nhiều thì đầu vào của chúng ta còn thiếu. Chính vì thế thông qua hoạt động nhập khẩu chúng ta có thể nhập vào những nguyên vật liệu và từ đó sản xuất ra thành phẩm ngay tại trong nước. Bên cạnh đó, nhờ thực hiện các giao dịch trong quá trình nhập khẩu mà có thể hình thành các mối quan hệ đa chiều với các đối tác ở nhiều nước trên thế giới.
Thứ năm, thông qua việc phát triển kinh doanh nhập khẩu, chúng ta mới có điều kiện mở mang dân trí, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để đầu tư vào sản xuất và phục vụ đời sống. Trên cơ sở phân công lao động quốc tế, hợp tác và liên kết quốc tế để đẩy mạnh kết hợp giữa công nghiệp với cuộc sống văn minh của nhân loại, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của đất nước.
Nhờ có hoạt động nhập khẩu mà các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Khi tham gia cạnh tranh bắt buộc các doanh nghiệp phải hình thành một chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp với thị trường, đồng thời hoàn thiện tốt công tác quản lý phù hợp với xu thế chung nhằm tạo ra nhiều cơ hội mới thông qua quan hệ với các đối tác nước ngoài trên cơ sở lợi ích của cả hai bên.
Phát huy được vai trò của hoạt động nhập khẩu là một vấn đề không đơn giản, nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự lựa chọn đúng đắn để xác định rõ các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu, có như thế mới khai thác được các lợi thế so sánh và đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.2 Các hình thức nhập khẩu
1.1.2.1 Nhập khẩu uỷ thác
Nhập khẩu uỷ thác là việc doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp khác đứng ra giao dịch trực tiếp với đối tượng nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu và nhận được một khoản phí hoa hồng gọi là khoản phí uỷ thác. Hình thức này được sử dụng khi một bên thì có vốn, còn một bên thì có kinh nghiệm.
Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp uỷ thác chỉ cần bỏ thêm một khoản tiền để trả cho người được uỷ thác mà không phải tham gia vào bất kỳ một quá trình nào của hoạt động nhập khẩu. Đồng thời tránh được các rủi ro do chính bản thân mình gây ra khi thực hiện hoạt động nhập khẩu này. Những tổn hại do bên được uỷ thác phải chịu trách nhiệm.
Tuy nhiên nhược điểm của nó là bên uỷ thác sẽ phải mất một số tiền nhất định mà nếu tự làm thì họ sẽ giảm được chi phí nhập khẩu và việc lựa chọn được bên nhận uỷ thác thực sự có đủ năng lực thay họ làm công việc nhập khẩu cũng gặp nhiều khó khăn.
1.1.2.2 Nhập khẩu tự doanh
Đây là hoạt động nhập khẩu trực tiếp của một đơn vị kinh tế được phép nhập khẩu độc lập. Khi doanh nghiệp tự cảm thấy có thể nhập khẩu độc lập mặt hàng nào đó thì sẽ sử dụng hình thức này sẽ thu được mọi khoản lợi nhuận nhưng cũng phải chịu mọi tổn thất do hoạt động này gây nên.
Hình thức nhập khẩu này đòi hỏi doanh nghiệp cần xem xét kỹ lưỡng từng bước, từ nghiên cứu thị trường, đầu vào, đầu ra cho đến ký kết và thực hiện hợp đồng… để tránh gây tổn thất.
1.1.2.3 Nhập khẩu hàng đổi hàng
Đây là hình thức nhập khẩu được áp dụng đối với các nước có mối quan hệ thân quen, mang tính hỗ trợ nhau. Nó là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh toán trong trường hợp này không dùng đến tiền mà sử dụng khối lượng hàng hoá có giá trị tương đương để trao đổi.
Đặc điểm của hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng:
Thứ nhất, hoạt động nhập khẩu này mang lại lợi ích lớn hơn cho các bên liên quan bởi cùng một hợp đồng mà có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động xuất và nhập, do đó có thể thu lãi từ cả hai hoạt động này.
Thứ hai, hàng hoá xuất và nhập tương đương nhau về giá trị.
Thứ ba, bạn hàng trong hoạt động xuất khẩu cũng là bạn hàng trong hoạt động nhập khẩu.
Nhược điểm của hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng là nghiệp vụ rất phức tạp vì xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu, người mua đồng thời là người bán nên khó tách bạch được quyền lợi và nghĩa vụ nếu xảy ra sai sót.
1.1.2.4 Nhập khẩu liên doanh
Đây là hoạt động nhập khẩu hàng hoá dựa trên cơ sở thảo thuận liên kết giữa các doanh nghiệp nhằm phối hợp cùng nhau tiến hành giao dịch và đưa ra phương hướng tối ưu để thúc đẩy hoạt động này theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, do đó cả hai sẽ cùng hưởng lợi nhuận và cùng chịu rủi ro. Nhập khẩu liên doanh thường được tiến hành khi cả hai bên cùng góp vốn.
Ưu điểm của hình thức nhập khẩu liên doanh là so với nhập khẩu tự doanh, các doanh nghiệp chịu ít rủi ro hơn bởi mỗi doanh nghiệp tham gia nhập khẩu liên doanh chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng phân bổ theo số vốn góp.
Nhược điểm của hình thức nhập khẩu này là lợi nhuận bị chia sẻ, doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu hàng được tính kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế doanh thu trên doanh số đó.
1.1.2.5 Nhập khẩu tái xuất
Đây là hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào trong nước nhưng không tiêu dùng nội địa mà để xuất khẩu sang nước thứ ba. Loại hàng nhập này không qua chế biến ở nước tái sản xuất. Chính vì thế mà doanh nghiệp tham gia nhập khẩu theo hình thức này sẽ không phải mất thuế nhập khẩu, họ sẽ được hoàn thuế sau khi kết thúc hoạt động.
Nhập khẩu tái xuất có những đặc điểm riêng, khác với các hình thức nhập khẩu khác đó là:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập, bảo đảm sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động này.
Thứ hai, doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch xuất nhập khẩu, doanh số tính trên giá trị hàng xuất khẩu đó vẫn phải chịu thuế doanh thu.
Thứ ba, doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai bản hợp đồng, một hợp đồng xuất khẩu và một hợp đồng nhập khẩu và không phải chịu thuế xuất nhập khẩu về các hình thức kinh doanh.
Thứ tư, để bảo đảm thanh toán, hợp đồng tái xuất thường dùng thư tín dụng giáp lưng (Back to Back L/C).
1.1.3 Nội dung của hoạt động nhập khẩu
Giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ ngoại thương được thực hiện trên phạm vi quốc tế, do đó nội dung của hoạt động kinh doanh nhập khẩu phức tạp hơn so với việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ trong nước. Các nghiệp vụ chính của hoạt động nhập khẩu bao gồm:
1.1.3.1 Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Đối với các đơn vị kinh doanh quốc tế, việc nghiên cứu thị trường nước ngoài có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho công tác nhập khẩu có đầy đủ thông tin cần thiết để từ đó đưa ra những quyết định chính xác về thị trường nhập khẩu.
Những nội dung cần nắm vững về thị trường nước ngoài gồm: Tình hình kinh tế - chính trị, luật pháp và chính sách thương mại quốc tế, tỷ giá hối đoái, điều kiện vận tải và tình hình giá cước... Đây là những nét khái quát cơ bản để đánh giá tình hình kinh tế - xã hội của nước đối tác. Bên cạnh những điểm này, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu phải thực hiện các bước sau:
Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu
Nghiên cứu dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng
Nghiên cứu giá cả hàng hoá và sự biến động của giá cả trên thị trường thế giới
Lựa chọn bạn hàng
Lựa chọn mặt hàng nhập khẩu
1.1.3.2. Lựa chọn phương thức giao dịch
a. Giao dịch thông thường
Giao dịch thông thường là một trong những phương thức buôn bán phổ biến nhất, thường thấy nhất, nó có thể diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trên cơ sở tự nguyện của các bên.
Giao dịch thông thường có thể là giao dịch trực tiếp giữa bên mua với bên bán, cũng có thể là giao dịch thông qua thương nhân trung gian.
a1. Giao dịch thông thường trực tiếp
Bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau, việc mua và việc bán không ràng buộc nhau. Bên mua có thể chỉ mua mà không bán, bên bán có thể chỉ bán mà không mua.
Các bước tiến hành giao dịch gồm:
- Hỏi giá: Đây là việc người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng. Nội dung của một hỏi giá gồm: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng, giá cả, loại tiền, thể thức thanh toán, điều kiện cơ sở giao hàng...
- Chào hàng: Là đề nghị của một bên về các điều kiện của hợp đồng. Có 2 loại chào hàng: chào hàng cố định (là việc chào bán một lô hàng nhất định cho một người mua, có nêu rõ thời gian mà người chào hàng bị ràng buộc trách nhiệm vào lời đề nghị của mình); chào hàng cố định (là loại chào hàng không ràng buộc trách nhiệm người phát ra nó).
- Đặt hàng: Là lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng.
- Hoàn giá: Là mặc cả về giá cả hoặc về các điều kiện giao dịch.
- Chấp nhận: Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng (hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó hợp đồng được giao kết.
- Xác nhận: Hai bên mua và bán, sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau về điều kiện giao dịch, xác nhận lại các điều kiện giao dịch gửi cho bên đối tác.
a2. Giao dịch qua trung gian
Giao dịch qua trung gian là việc người mua hoặc người bán quy định những điều kiện trong giao dịch mua bán về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán…phải qua một người thứ ba để đàm phán và đi đến ký kết hợp đồng - người trung gian buôn bán.
Người trung gian buôn bán phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới.
b. Buôn bán đối lưu:
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về.
Có 7 hình thức buôn bán đối lưu cơ bản:
- Hàng đổi hàng: Là hình thức mua bán đối lưu mà các bên trao đổi hàng hoá với nhau, hàng hoá giao đi và hàng hoá nhận về có số lượng và giá trị tương đương, hoạt động trao đổi diễn ra đồng thời và không sử dụng tiền tệ làm phương tiện thanh toán.
- Mua bán bù trừ: Là phương thức mua bán đối lưu mà các bên trao đổi hàng hoá với nhau, một bên giao hàng với giá trị hàng hoá và nhận về tương đương với lượng hàng giao xong, có sử dụng tiền tệ làm phương tiện thanh toán bù trừ.
- Mua đối lưu: Là phương thức mua bán đối lưu mà một bên giao hàng đi với cam kết sẽ mua lại một mặt hàng nào đó đã xác định trong tương lai.
- Mua bồi hoàn: Là phương thức mua bán đối lưu mà một bên giao hàng đi với cam kết mua một loại hàng nào đó không xác định trong tương lai nhằm bồi hoàn toàn bộ giá trị ngoại tệ cho bên kia.
- Chuyển nợ: Là hình thức mua bán đối lưu mà một bên chuyển cho bên thứ ba cam kết thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm của mình đối với bên kia trong quan hệ trao đổi hàng với hàng.
- Mua bán bình hành: Là một phương thức mua bán đối lưu mà người tham gia lựa chọn một trung gian đại diện cho mình theo dõi và quyết toán sau những kỳ kinh doanh nhất định để thanh toán theo hình thức bình hành.
- Hình thức mua bán: Là hình thức mua bán đối lưu mà một bên giao cho bên kia dây chuyền máy móc thiết bị nhằm nhận về thành phẩm được sản xuất ra từ chính dây chuyền, thiết bị đó bù trừ cho giá trị dây chuyền sản xuất thiết bị.
c.Đấu giá quốc tế
Đấu giá quốc tế là một phương thức giao dịch kinh doanh được tổ chức ở một nơi công khai nhất định mà những người mua được tự do xem hàng trước, cạnh tranh trả giá và hàng hoá được trao cho người trả giá cao nhất.
Đấu giá quốc tế có thể chia thành hai loại chính:
- Loại hình trả giá lên: Là hình thức bán đấu giá theo đó người trả giá cao nhất so với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng.
- Loại hình đặt giá xuống: Là hình thức đấu giá theo đó người đầu tiên chấp nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp.
d. Đấu thầu hàng hoá quốc tế
Đây là một phương thức hoạt động thương mại, theo đó một bên mua hàng hoá thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiên hợp đồng.
Đấu thầu hàng hoá gồm hai loại chính:
- Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu không hạn chế số lượng các bên dự thầu.
- Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ mưòi một số nhà thầu nhất định tham dự thầu.
e. Giao dịch tại hội chợ, triển lãm
Giao dịch tại hội chợ là một phương thức giao dịch kinh doanh tại những nơi, địa điểm và thời gian nhất định được tổ chức định kỳ nhằm mục đích mua bán hàng hoá.
Giao dịch tại triển lãm cũng là một phương thức giao dịch kinh doanh diễn ra tại những nơi, địa điểm và thời gian nhất định với mục đích giới thiệu về thành tựu của một nền kinh tế hay các lĩnh vực.
Ngoài ra còn có giao dịch tại sở giao dịch, thương mại điện tử. Tuỳ thuộc vào tình hình, điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp quyết định lựa chọn phương thức giao dịch mua bán cho thích hợp.
1.1.3.3 Đàm phán, ký kết hợp đồng
Đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu là việc hai bên mua và bán tiến hành trao đổi, thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch (điều kiện mua bán, điều kiện hợp tác kinh doanh…) mà mỗi bên có thể chấp nhận được. Đàm phán có vai trò quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu, nó là cơ sở để ký kết hợp đồng và nó ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia.
a. Các hình thức đàm phán
- Đàm phán qua thư tín: Hai bên tiến hành giao dịch qua thư từ, điện tín.
- Đàm phán qua điện thoại: Là phương thức đàm phán nhanh nhất giúp hai bên nhanh chóng nắm bắt thời cơ cần thiết nhưng phí tổn điện thoại giữa các nước rất cao, bị hạn chế về mặt thời gian và trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng không có gì là bằng chứng cho cuộc thoả thuận.
- Đàm phán gặp mặt trực tiếp: Là hình thức đàm phán tối ưu giúp đẩy nhanh quá trình giải quyết mọi quan hệ trong giao dịch. Hai bên tiến hành gặp gỡ trực tiếp, trao đổi, bàn bạc, thống nhất và ký kết hợp đồng.
b. Trình tự đàm phán
Trình tự đàm phán bao gồm các bước: hỏi giá, phát giá, đặt hàng, hoàn giá, chấp nhận, xác nhận.
c. Ký kết hợp đồng
Hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa hai bên có quốc tịch khác nhau, theo đó một bên được gọi là người bán (người xuất khẩu) có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên kia (người nhập khẩu) một lượng tài sản nhất định được gọi là hàng hoá. Còn bên kia được gọi là người mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán tiền hàng đầy đủ cho bên bán.
Nội dung của hợp đồng nhập khẩu:
- Số hợp đồng, ký hiệu (nếu có)
- Ngày, tháng, năm, nơi ký hợp đồng
- Những căn cứ để ký kết
- Những thông tin liên quan đến các bên: tên, địa chỉ, số điện thoại, số tài khoản, người đại diện (nếu có) của các bên
- Những điều khoản của hợp đồng: điều kiện tên hàng, phẩm chất, điều khoản về số lượng hay trọng lượng, điều khoản về giá cả, điều khoản giao hàng, điều khoản thanh toán.
Ngoài ra còn có các điều khoản khác như: điều kiện vận tải, bảo hiểm, bất khả kháng, khiếu nại, trọng tài.
- Phần kết thúc nêu rõ số bản hợp đồng, ngôn ngữ sử dụng để ký kết hợp đồng, giá trị pháp lý của bản hợp đồng, thời hạn có hiệu lực của hợp đồng.
- Chữ ký và dấu của các bên tham gia hợp đồng.
d. Tổ chức thực hiện hợp đồng
Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu đơn vị kinh doanh phải thực hiện các công việc sau:
Xin giấy phép nhập khẩu.
Thực hiện những công việc bước đầu của khâu thanh toán.
+ Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C thì cần thực hiện các công việc sau: làm đơn xin mở L/C, thực thi ký quỹ và mở L/C.
+ Nếu thanh toán bằng CAD thì nhà nhập khẩu cần tới Ngân hàng yêu cầu mở tài khoản ký thác để thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu.
+ Nếu thanh toán bằng TT trả trước thì nhà nhập khẩu cần làm thủ tục chuyển tiền theo đúng quy định của hợp đồng.
+ Nếu thanh toán bằng nhờ thu hoặc chuyển tiền trả sau thì nhà nhập khẩu chờ người bán giao hàng rồi mới tiến hành công việc của khâu thanh toán.
- Thuê phương tiện vận tải: Nếu trong hợp đồng mua bán quy định hàng được giao ở nước người xuất khẩu, phương tiện vận tải do người mua lo (điều kiện giao hàng EXW, FAS, FCA, CFR, FOB) thì người mua sẽ thuê phương tiện vận tải.
- Mua bảo hiểm: Khi mua hàng theo các điều kiện EXW, FCA,FAS, CFR, CPT nhà nhập khẩu cần phải mua bảo hiểm cho hàng hoá. Nhà nhập khẩu cần làm những công việc sau:
+ Chọn điều kiện thích hợp để mua bảo hiểm: Nhà nhập khẩu cần căn cứ vào đặc tính của hàng hoá, cách đóng gói, phương tiện vận chuyển…để chọn điều kiện bảo hiểm thích hợp, đảm bảo an toàn cho hàng hoá và đạt hiệu quả kinh tế cao.
+ Làm giấy yêu cầu bảo hiểm.
+ Đóng phí bảo hiểm và lấy chứng thư bảo hiểm.
- Làm thủ tục hải quan.
+ Khai báo và nộp tờ khai hải quan, nộp hoặc xuất trình giấy phép và các giấy tờ cần thiết khác theo quy định của pháp luật.
+ Đưa đối tượng kiểm tra hải quan đến điểm quy định để kiểm tra.
+ Làm nghĩa vụ nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật và nộp lệ phí hải quan.
- Kiểm tra hàng hoá
Sau khi nhận hàng bên nhập khẩu sẽ làm thủ tục kiểm tra hàng hoá. Theo Nghị định 200/CP và thông tư liên bộ Giao thông vận tải-ngoại thương số 52/TTLB ngày 25/01/199, hàng nhập khẩu cần được kiểm tra kỹ càng, mỗi cơ quan tuỳ theo chức năng của mình tiến hành công việc kiểm tra đó. Cơ quan giao thông, đơn vị kinh doanh nhập khẩu, các cơ quan kiểm dịch nếu hàng nhập là động vật, thực vật.
- Khiếu nại.
- Thanh toán.
- Thanh lý hợp đồng.
1.1.4 Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
1.1.4.1 Nhóm chỉ tiêu tổng hợp
* Nhóm chỉ tiêu phản ánh số lượng
Lợi nhuận: Lợi nhuận (P) vừa được coi là một nhân tố để tính toán hiệu quả kinh doanh, vừa được coi là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định. Đây là chỉ tiêu cơ bản nhất đánh giá hiệu quả kinh doanh. Chỉ tiêu này được tính theo công thức:
P = D – (Z + Th + TT)
Trong đó:
P: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh.
D: Doanh thu tiêu thụ trong 1 kỳ kinh doanh.
Z: Giá thành sản phẩm trong 1 kỳ kinh doanh.
Th: Các loại thuế phải nộp sau mỗi kỳ.
TT: Các tổn thất sau mỗi kỳ kinh doanh.
Công thức cho thấy, nếu ta so sánh giữa tổng doanh thu mà doanh nghiệp đạt được và tổng chi phí (Z + Th + TT) mà doanh nghiệp phải bỏ ra thì sẽ biết được lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được là lãi hay lỗ.
* Chỉ tiêu phản ánh chất lượng
Hiệu quả tương đối: Là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Nó được tính bằng công thức:
KQ
H1 =
CF
Trong đó:
KQ: Kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
CF: Chi phí của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Công thức cho biết lượng hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được từ một phương án kinh doanh, từng thời kỳ kinh doanh.
CF
H2 =
KQ
Công thức cho biết một đơn vị chi phí thì tạo ra bao nhiêu đơn vị kết quả hoặc một đơn vị kết quả thì tạo ra từ bao nhiêu đơn vị chi phí.
Tỷ suất lợi nhuận: Chỉ tiêu này được tính theo hai công thức:
S P
P1 =
S DT
Trong đó:
S P: Tổng lợi nhuận từ hoạt động nhập khẩu.
S DT: Tổng doanh thu từ hoạt động nhập khẩu.
Chỉ tiêu cho biết một đồng doanh thu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
S P
P2 =
S VSX
Trong đó:
S P: Tổng lợi nhuận từ hoạt động nhập khẩu
S VSX: Tổng vốn sản xuất của hoạt động nhập khẩu
Chỉ tiêu cho biết một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
1.1.4.2 Nhóm chỉ tiêu hệ quả bộ phận
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư: Chỉ tiêu này được tính toán căn cứ vào mức lợi nhuận thu được sau mỗi kỳ kinh doanh và do đó, nó cho biết rõ hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư sau khi đã được vật hoá. Thời hạn thu hồi vốn đầu tư phản ánh khoảng thời gian mà vốn đầu tư dần dần được thu hồi lại sau mỗi kỳ kinh doanh và được xác định theo công thức:
VDT
TV =
P
Trong đó:
TV: Thời hạn thu hồi vốn đầu tư
P: Lợi nhuận thu được sau mỗi kỳ kinh doanh
VDT: Tổng số vốn đầu tư chu kỳ kinh doanh đó
Chỉ tiêu này cho thấy thời hạn thu hồi vốn đầu tư mà càng ngắn thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư sẽ càng cao và ngược lại
Chỉ tiêu hệ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (E)
P
E =
VDT
Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư.
1.1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động liên quan đến nhiều yếu tố trong nước và quốc tế. Nó luôn luôn thay đổi do tác động tổng hợp của các nhân tố này trong những giai đoạn nhất định. Bản thân hoạt động này không thể tiến hành tự động được mà phải do một chủ thể nhất định tiến hành, nên nó cũng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố của chủ thể.
1.1.5.1 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
a. Môi trường chính trị, luật pháp trong nước và quốc tế
Môi trường chính trị trong nước và quốc tế có ảnh hưởng lớn đến hoạt động nhập khẩu của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Chính trị ổn định khuyến khích môi trường kinh doanh và tăng cường hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực và cơ sở hạ tầng. Đổi lại, môi trường ổn định yêu cầu hệ thống pháp luật hùng mạnh, mọi tranh chấp được giải quyết nhanh chóng và công bằng. Nói chung, quan hệ chính trị thuận lợi làm tăng cơ hội trao đổi quốc tế và giảm rủi ro.
b. Chính sách thương mại quốc tế
Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống các chính sách, công cụ và biện pháp thích hợp mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục đích đã định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó.
Trong thực tế, chính sách thương mại quốc tế khác nhau giữa các quốc gia và thay đổi qua các thời kỳ lịch sử, được biểu hiện dưới hai dạng điển hình là chính sách mậu dịch tự do và chính sách bảo hộ mậu dịch.
Chính sách mậu dịch tự do là chính sách thương mại quốc tế trong đó Chính phủ nước chủ nhà không phân biệt hàng hoá nội địa trên thị trường nước mình, do đó không thực hiện các biện pháp cản trở hàng hoá nước ngoài xâm nhập thị trường nước mình, mở rộng thị trường nội địa, cho hàng hoá nước ngoài tự do xâm nhập thông qua việc xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan.
Chính sách bảo hộ mậu dịch là chính sách thương mại quốc tế trong đó Chính phủ của một quốc gia áp dụng các biện pháp để cản trở và điều chỉnh dòng vận động của hàng hoá nước ngoài xâm nhập vào thị trường nước mình. Chính sách này có đặc điểm hạn chế nhập khẩu hàng hoá nước ngoài thông qua các hàng rào thuế quan và phi thuế quan tương đối dày đặc.
c. Sự biến động của tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ tới hoạt động nhập khẩu. Mọi việc tính giá và thanh toán trong kinh doanh nhập khẩu đều sử dụng ngoại tệ. Đối với các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái tác động trực ._.tiếp tới chi phí và kết quả kinh doanh. Tỷ giá hối đoái quyết định mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Sự biến động của tỷ giá hối đoái gây nên sự biến động lớn trong tỷ trọng xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia. Khi tỷ giá hối đoái tăng, đồng nội tệ mất giá so với đồng ngoại tệ thì hoạt động nhập khẩu bị hạn chế, kích thích xuất khẩu và ngược lại. Đó là xu hướng tác động của tỷ giá hối đoái khi có sự biến động đến hoạt động xuất nhập khẩu trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế với những quốc gia, những khu vực chịu ảnh hưởng của sự biến động đó.
d. Sự biến động của thị trường trong nước và quốc tế.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu có thể coi là chiếc cầu nối thông suốt thị trường trong nước và thị trường quốc tế, tạo ra sự phù hợp gắn bó cũng như phản ánh tác động qua lại giữa các thị trường. Khi có sự thay đổi về giá cả, ảnh hưởng đến nhu cầu của thị trường này đồng thời ảnh hưởng đến sự ứng xử ở thị trường kia.
Cũng như vậy, thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn nhu cầu trong nước, sự biến động của nó về lượng cung, về sản phẩm mới, về sự đa dạng của hàng hoá, dịch vụ cũng sẽ tác động tới hoạt động nhập khẩu ở thị trường trong nước.
e. Sự phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng
Ngày nay, với sự lớn mạnh của mình, hệ thống tài chính ngân hàng can thiệp vào tất cả các doanh nghiệp lớn hay nhỏ thuộc mọi thành phần kinh tế. Hệ thống tài chính ngân hàng có vai trò to lớn trong việc quản lý, cung cấp vốn, đảm trách việc thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng và kịp thời cho các doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu sẽ không thuận lợi nếu không có sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng.
Dựa trên các quan hệ uy tín, nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng rất thuận lợi. Các doanh nghiệp tham gia các hoạt động nhập khẩu sẽ được đảm bảo về lợi ích. Hơn thế nữa, nhiều doanh nghiệp có uy tín và có mối quan hệ mật thiết với ngân hàng sẽ được ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho vay với lượng vốn lớn đã kịp thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt tốt các cơ hội, thu được nhiều lợi nhuận.
f. Giao thông vận tải – thông tin liên lạc
Hoạt động nhập khẩu là họat động kinh tế diễn ra giữa các doanh nghiệp ở các nước khác nhau, xa cách nhau về không gian địa lý. Do đó hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc có vai trò to lớn đối với hoạt động nhập khẩu và cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động nhập khẩu phát triển. Thực tế cho thấy rằng, sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc như điện thoại, Fax, Telex… đã đơn giản hoá các khâu của hoạt động nhập khẩu, giảm hàng loạt các chi phí nhờ sự nhanh gọn, kịp thời, chính xác; sự phát triển của hệ thống giao thông vận tải như đội tàu biển, máy bay vận tải, các tuyến đường sắt…cũng góp phần làm cho hoạt động nhập khẩu được nhanh chon, an toàn và hiệu quả.
1.1.5.2 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Nếu như các nhân tố trên đều là các nhân tố mà doanh nghiệp phải thích ứng thì các nhân tố bên trong doanh nghiệp là các nhân tố mà doanh nghiệp có thể kiểm soát và nó tác động trực tiếp đến họat động kinh doanh của doanh nghiệp, đó là các yếu tố quản lý, nhân sự, vốn, công nghệ.
Thứ nhấ,t là cơ cấu bộ máy quản lý: Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới công tác nhập khẩu của doanh nghiệp vì mọi chiến lược kinh doanh được đề ra trong dài hạn cũng như trong ngắn hạn đều do nhân tố quản lý quyết định. Trình độ quản lý tốt là yếu tố tiên quyết thành công của bất kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói chung và doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng.
Thứ hai, là đội ngũ cán bộ làm công tác nhập khẩu: Đây là nhân tố quan trọng vì chiến lược kinh doanh của cấp quản lý có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào trình độ của cán bộ nhập khẩu. Việc thực hiên hoạt động nhập khẩu phải thông qua nhiều khâu và nhiều giai đoạn, vì thế đội ngũ nhân lực giỏi và dày dặn kinh nghiệm sẽ giúp ích cho công ty rất nhiều trong quá trình hoạt động.
Thứ ba, là vốn, tài chính: Một doanh nghiệp muốn hoạt động sản xuất kinh doanh thì cần phải có vốn. Tiềm lực về vốn giúp doanh nghiệp có thể tái sản xuất hay đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào mang lại lợi nhuận. Doanh nghiệp thực hiện hoạt động nhập khẩu thông qua nguồn vốn tự có và các nguồn vốn vay. Nếu tiềm lực tài chính bị hạn chế thì hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng theo. Chính vì thế doanh nghiệp cần phải có chiến lược huy động vốn, phân chia và sử dụng nguồn vốn sao cho hiệu quả với mỗi hoạt động, quay vòng vốn nhanh để đầu tư tái sản xuất đem lại lợi nhuận cao nhất.
Thứ tư, là công nghệ: Công nghệ của doanh nghiệp bao gồm hệ thống máy móc, trang thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Công nghệ là tư liệu sản xuất của doanh nghiệp, nó giúp cho năng suất lao động được nâng cao hơn, công nghệ phát triển giúp giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm tăng sức cạnh tranh. Doanh nghiệp nhập khẩu có công nghệ cao cũng là điều kiện tiên quyết giúp quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó đạt hiệu quả và lợi nhuận cao.
Các nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau, trong đó nhân tố con người là quan trọng nhất có vai trò quyết định thúc đẩy những nhân tố khác phát triển.
1.2 Sự cần thiết khách quan của việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội
1.2.1 Đặc trưng hàng xăng dầu
Xăng dầu có vai trò vô cùng quan trọng đối với con người và chúng ta không thể sống mà thiếu nguồn năng lượng này, thể hiện ở các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Xăng dầu là một loại chất lỏng dễ bay hơi nên không bảo quản được lâu và là nhiên liệu đốt nên dễ gây cháy nổ, có độ rủi ro cao trong quá trình vận chuyển, lưu kho và sử dụng. Do tính chất vật lý đặc biệt của xăng dầu, việc bảo quản, vận chuyển, mua bán theo những điều kiện nhất định với những tiêu chuẩn chặt chẽ nên việc kinh doanh nhập khẩu xăng dầu phải tuân thủ những điều kiện nhất định, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xăng dầu phải có những ràng buộc về năng lực, quy mô và trình độ tối thiểu bắt buộc.
Thứ hai: Xăng dầu là mặt hàng chiến lược, có vai trò chi phối đến tất cả các ngành trong nền kinh tế và đời sống xã hội dân cư. Bên cạnh là nguồn nhiên liệu dùng cho tiêu dùng của dân cư, xăng dầu còn là nguồn nguyên liệu cho công nghiệp hoá dầu, nhất là nguyên liệu sản xuất sợi tổng hợp cho các ngành dệt may, sản xuất phân đạm, chất nổ, chất dẻo; nhiên liệu cho tất cả các ngành công nghiệp khác như: dầu nhờn, nhựa đường, chất tổng hợp…Nhu cầu tiêu dùng xăng dầu cho sản xuất và đời sống hàng ngày là rất lớn và liên tục tăng.
Thứ ba: Xăng dầu là một hàng hoá có vai trò đặc biệt. Năng lượng là yếu tố đầu vào không thể thiếu của sản xuất, mà xăng dầu là loại năng lượng quan trọng chưa thể thay thế được. Xăng dầu còn là hàng hoá đặc biệt bởi vì xăng dầu cũng là năng lượng phục vụ dân sinh, quốc phòng và an ninh. Vì vậy, xăng dầu vừa là hàng hoá với thị trường hình thành và phát triển như thị trường các hàng hoá khác, các quan hệ cung - cầu và giá cả là yếu tố quyết định thị trường xăng dầu. Mặt khác, vì là hàng hoá đặc biệt nên các quốc gia đều có chính sách, qui hoạch, chiến lược về sản xuất, tiêu thụ và dự trữ xăng dầu cho nước mình nhằm ổn định sản xuất và tiêu thụ, chống lại các cơn sốt xăng dầu của thế giới.
Thứ tư: Đây là mặt hàng có độ nhạy cảm rất cao, mọi sự thay đổi giá sẽ có tác động trực tiếp tới hoạt động của đất nước trên tất cả các mặt: chính trị, quân sự, sản xuất, đời sống xã hội. Sự gia tăng về giá xăng dầu tạo áp lực gây ra lạm phát thông qua hiện tượng giá cánh kéo. Do xăng dầu là yếu tố đầu vào của hầu như tất cả các ngành kinh tế khác nên giá đầu vào tăng, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi sẽ kéo theo đầu ra sản phẩm tăng lên dẫn đến chỉ số giá cả nói chung gia tăng, ảnh hưởng đến sức mua của xã hội và gây ra áp lực lạm phát.
Thứ năm: Xăng dầu là mặt hàng phải nhập khẩu gần hoàn toàn nên giá cả phụ thuộc lớn vào sự tăng, giảm giá trên thế giới. Một sự gia tăng mạnh giá xăng dầu có thể tạo ra gánh nặng đối với nền kinh tế. Nếu lấy giá xăng dầu Platt Singapore bình quân tháng 5/2005 so với giá bình quân năm 2000 thì xăng Mogas 92 tăng 43,7%; xăng Mogas 97 tăng 55,9%, làm giá nguyên liệu nhựa các loại đã tăng khoảng 15-20%; giá thành một số loại hàng hoá dịch vụ cũng tăng từ 2-5%, trong đó giá thép tăng 12,5%, cước vận tải đường bộ tăng 2%, đánh bắt hải sản xa bờ tăng 4,1%...chi phí sản xuất tăng sẽ tác động đến năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ sáu: Đây là mặt hàng thường xuyên biến động do rất nhiều yếu tố trong đó phải kể đến chính sách về giá dầu của OPEC. Các quyết định cũng như chính sách của OPEC nhằm đem lại lợi ích cho các quốc gia thành viên, song lại ảnh hưởng rất lớn và làm biến động nền kinh tế toàn cầu thông qua sự điều chỉnh về giá cũng như lượng cung dầu.
1.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội.
Nhu cầu xăng dầu trong nước của Việt Nam ngày càng tăng cùng với quá trình phát triển kinh tế. Trong giai đoạn 2004-2006, nhu cầu xăng trong nước tăng bình quân khoảng 6,1%/năm, từ gần 10,2 triệu tấn vào năm 2004 lên hơn 14,2 triệu tấn năm 2006. Trong khi đó, năng lực chế biến các sản phẩm xăng dầu của Việt Nam lại gần như bằng không. Mỗi năm, năng lực chế biến các sản phẩm xăng dầu trong nước chỉ ở vào khoảng 200.000 – 300.000 tấn, xấp xỉ 2% tổng nhu cầu trong nước. Do đó, nhu cầu xăng dầu trong nước chủ yếu được đáp ứng từ nguồn nhập khẩu.
Trong số 11 doanh nghiệp được Bộ Thương mại cấp phép nhập khẩu xăng dầu, Petrolimex chiếm tỷ trọng lớn nhất khoảng 60% thị phần tiêu thụ xăng trên cả nước, còn thị phần nhập khẩu của Công ty xăng dầu quân đội chiếm tỷ trọng gần 6%. Trong các năm gần đây, đặc biệt từ năm 1996 đến nay, Công ty là một trong các đầu mối được Chính phủ giao nhập khẩu trực tiếp và kinh doanh xăng dầu, Công ty luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao: đảm bảo đúng, đủ số lượng, chủng loại và chất lượng xăng dầu cho nhiệm vụ Quân sự phục vụ toàn quân trong mọi tình huống theo nhiệm vụ Bộ Quốc phòng giao, đồng thời tham gia cung ứng xăng dầu cho thị trường phục vụ dân sinh và kinh tế, góp phần quan trọng bình ổn giá cả thị trường theo quy định của Chính phủ với khối lượng trung bình hàng năm từ 500.000 – 600.000 m3 theo nhiệm vụ Quốc phòng và chỉ tiêu Bộ Thương mại.
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty còn bị hạn chế và gặp nhiều khó khăn bởi nguyên nhân khách quan như giá dầu tăng cao và những diễn biến phức tạp của thị trường xăng dầu thế giới 2 năm gần đây tác động tới nền kinh tế toàn cầu, khu vực và từng quốc gia; bên cạnh đó, Chính phủ liên tục điều chỉnh thuế nhập khẩu với các sản phẩm xăng dầu theo diễn biến giá cả xăng dầu trên thị trường thế giới; bị ảnh hưởng bởi chính sách thương mại quốc tế trong nước, các nước đối tác và theo thông lệ quốc tế; cơ chế hành chính, thủ tục hải quan còn chưa thông thoáng, làm nhiều khâu, yêu cầu nhiều giấy phép và xuất trình nhiều giấy tờ qua nhiều Bộ ngành, quy trình thẩm định còn rườm rà gây khó khăn cho Công ty tham gia hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu.
Nguyên nhân chủ quan là do tiềm lực của Công ty còn nhiều hạn chế. Về vốn, vốn tự có của Công ty rất nhỏ chủ yếu là vốn vay ngân hàng. Kinh nghiệm và trình độ chuyên môn của nhân viên xuất nhập khẩu chưa cao, về nghiệp vụ còn kiêm nghiệm, không chuyên môn hoá, số lượng nhân viên trong Phòng kinh doanh nhập khẩu thiếu không có đủ nhân viên để đi làm thủ tục giao nhận với các kho đặc biệt tại các kho gửi hàng. Trong công tác nghiên cứu thị trường, chưa chủ động tìm kiếm đầu mối và đa dạng hoá đối tác, vẫn phụ thuộc chủ yếu vào các thị trường truyền thống như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore. Ngoài ra, Công ty còn thiếu những cơ sở vật chất như chưa có phương tiện vận chuyển tàu biển, phải thuê nên tăng chi phí, kho dự trữ bảo quản hàng không đủ, sức chứa kho hạn chế ảnh hưởng đến chiến lược và quá trình nhập khẩu của Công ty.
1.3 Kinh nghiệm điều chỉnh chính sách giá xăng dầu của một số quốc gia Châu Á
1.3.1 Cơ chế quản lý giá xăng dầu của Malaysia
Có thể nói Malaysia là nước điển hình về việc Nhà nước quản lý giá xăng dầu theo một cơ chế được gọi là cơ chế định giá tự động APM (Automatic Pricing Mechanism) được thực hiện từ năm 1983 cho đến nay. Mục tiêu của việc thực hiện cơ chế này là giữ ổn định giá, ổn định việc cung cấp xăng dầu, kiểm soát lạm phát và tạo cơ sở chắc chắn, ổn định và có thể tiên đoán được cho việc đầu tư của các công ty dầu khí.
Theo cơ chế này thì giá bán lẻ xăng dầu ở Malaysia do Nhà nước xác định cho 3 vùng khác nhau là Kuala Lumpure, Kota Kinabalu và Kuching. Những vùng nằm càng xa các vùng nói trên thì giá bán lẻ sẽ càng cao hơn do phải cộng thêm chi phí vận chuyển. Giá bán lẻ được xác định theo công thức:
Giá bán lẻ = Giá nhập khẩu + Chi phí tiếp thị + Chi phí phân phối + Hoa hồng đại lý bán lẻ + Lợi nhuận cho nhà phân phối + Phụ thu hay trợ giá của Nhà nước. Trong đó: Giá nhập khẩu là giá Plattts Singapore bình quân của 2 tháng trước do công ty Megraw Hill công bố hàng ngày.
Ở Malaysia có 7 nhà phân phối bán lẻ xăng dầu được hưởng cơ chế giá này là: BP, Shell, Caltex, Exon- Mobil, BHP, Conoco và Petronas. Tuy nhiên, khi giá quá cao như hiện nay, Nhà nước phải bù giá nhưng chỉ cho một số đối tượng được hưởng. Chẳng hạn, đối với dầu Diesel thì chỉ có các công ty vận chuyển hàng hoá và tàu đánh cá của ngư dân có đăng ký và báo cáo kết quả vận chuyển hàng năm thì mới được hưởng giá bù lỗ. Đối với xăng thì có thêm người tiêu dùng là cá nhân có xe máy hoặc ô tô thông qua việc phát phiếu mua hàng với định mức do Nhà nước ấn định (bằng mức sử dụng trung bình của một đầu xe máy).
Giá bán lẻ này được tính và điều chỉnh trên cơ sở hàng tháng.
Khoản phụ thu hay trợ giá của Nhà nước tuỳ thuộc tình hình giá xăng dầu trên thị trường quốc tế cao hay thấp. Khi giá thấp, nhà phân phối có lãi nhiều thì Nhà nước thu thêm một khoản thông qua phụ thu. Ngược lại, khi giá cao và tăng nhanh, để giữ giá bán lẻ đủ thấp và tăng chậm, Nhà nước sẽ bù giá một cách hợp lý.
Ví dụ về việc xác định giá bán lẻ xăng dầu vào thời điểm tháng 8 năm 2005 ở Malaysia như sau:
Bảng 1.1: GIÁ BÁN LẺ Ở MALAYSIA THÁNG 8/2005
Đơn vị tính: Cent Ringit/lít
Thành phần giá
Dầu Diesel
Xăng 97
Xăng 92
LPG (Kg)
Giá nhập khẩu
172,44
164,21
151,57
167,20
Chi phí phân phối phối
6,92
6,92
6,92
21,82
Hoa hồng đại lý
3,50
8,00
8,00
21,42
Lợi nhuận công ty
1,75
4,45
4,45
11,35
Phụ thu/(Bù giá)
59,13
24,20
15,56
93,92
Giá bán lẻ
128,10
162,00
158,00
145,00
Nguồn: Tạp chí dầu khí (Tháng 10/2005)
Nhận xét: Cơ chế định giá nói trên có ưu điểm nổi bật là ổn định được giá cả hoặc điều khiển được giá cả cho nó tăng từ từ trước những cơn đột biến về giá cả, đạt được các mục tiêu của quản lý, tránh được việc thất thoát xăng dầu do buôn lậu qua các nước có cơ chế định giá xăng dầu theo thị trường tự do hoặc có giá cao hơn. Tuy nhiên, cơ chế này cần khoản bù lỗ khá lớn do đó phải là những nước giầu không có khó khăn về ngân sách quốc gia. Ngoài ra, việc cấp phát phiếu cũng là việc làm phức tạp, liên quan đến tiền nên không tránh khỏi có tiêu cực.
1.3.2 Kinh nghiệm điều hành giá xăng dầu ở Indonesia
Indonesia nằm trong nhóm các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC). Đây là quốc gia sản xuất dầu mỏ lớn thứ 17 trên thế giới, đóng góp khoảng 1,2 triệu thùng/ ngày, trong khi trữ lượng ước tính vào khoảng 9,7 tỷ thùng. Xuất khẩu dầu thô của Indonesia chủ yếu là đến các nước Nhật, Hàn Quốc, Úc, Singapore, Trung Quốc và Mỹ. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, với công suất lọc dầu khoảng 1 triệu thùng/ngày của 9 nhà máy thuộc Tổng công ty Nhà nước Pertamina, lượng dầu thô còn để xuất khẩu là không lớn. Hơn nữa, do nhu cầu trong nước với các sản phẩm xăng dầu tăng mà công suất khai thác và lọc dầu có hạn, Indonesia đã phải tăng nhập khẩu các sản phẩm xăng dầu.
Giá bán lẻ các sản phẩm xăng dầu của Indonesia giống như trường hợp của Việt Nam trước khi có Nghị định 55/2007/NĐ-CP của Chính phủ, cũng do Chính phủ quy định. Giá bán này thấp hơn giá bán quốc tế, và phần chênh lệch được Chính phủ trợ cấp. Tuy nhiên, kể từ khi Tổng công ty Yudhoyono lên nắm quyền, chính sách trợ cấp đã bắt đầu được thay đổi. Trước những diễn biến bất lợi của giá dầu, chi ngân sách cho trợ giá xăng dầu đã trở thành gánh nặng cho Chính phủ. Mức trợ cấp nhiên liệu năm 2004 đã tăng lên đến 61.000 tỷ rupiah, tức khoảng 6,5 tỷ đô la Mỹ (Tổng công ty dầu khí Việt Nam). Tuy nhiên, để hạn chế tác động tiêu cực đến các đối tượng thu nhập thấp và bất ổn định chính trị, Chính phủ Indonesia cam kết thực hiện giảm trợ giá từ từ theo một lộ trình cụ thể. Hện tại Indonesia vẫn giữ trần giá bán lẻ xăng dầu, nhưng mức giá đã được điều chỉnh sát hơn so với giá thế giới. Các hộ nghèo được hưởng trợ cấp trực tiếp từ ngân sách. Tuy nhiên, một số nhóm người tiêu dùng vẫn phản ứng khá quyết liệt với Chính phủ và việc “nới giá” xăng dầu đã làm lạm phát tăng cao (hơn 16% năm 2005).
1.3.3 Chính sách giá xăng dầu của Thái Lan
Ở Thái Lan, Chính phủ kiểm soát giá cả một số lượng lớn các mặt hàng. Việc định giá được thực hiện thông qua đạo luật về định giá và chống độc quyền do Hội đồng Trung ương về định giá và chống độc quyền quy định. Các biện pháp cụ thể áp dụng cho mặt hàng xăng dầu nhập khẩu là: Quy định giá bán lẻ tối đa cho mặt hàng xăng dầu - mặt hàng dễ có sự biến động về giá. Đối với mặt hàng này, người bán không được phép bán cao hơn giá quy định, phải ghi rõ giá bán lẻ trên sản phẩm. Việc quy định mức giá trần này nhằm bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Khi mức giá của xăng dầu biến động cao, tránh hiện tượng người bán điều chỉnh mức giá lên cao hơn so với quy định, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Song điều này dễ gây ra tình trạng buôn lậu xăng dầu của Thái Lan với các quốc gia khác.
Về trợ giá đối với Diesel của Thái Lan đã chấm dứt vào cuối tháng 2/2005. Người tiêu dùng phải trả thêm 0,6% Bath/1lít (240 VNĐ/1 lít) trong đợt điều chỉnh giá sau một năm được trợ giá đối với loại sản phẩm này. Đối với các loại nhiên liệu khác, Chính phủ vẫn còn trợ giá với mục tiêu giữ cho mức giá bằng 3/4 giá thị trường thế giới. Giá xăng trung bình ở Bangkok hiện nay khoảng 10.200 đồng/lít. Chính phủ Thái Lan chủ trương dần dần thả nổi giá để giá nhiên liệu tiến dần đến giá thị trường thế giới trong vòng 3 năm tới. Để đảm bảo an ninh năng lượng, Thái lan đẩy mạnh đầu tư cho tìm kiếm thăm dò dầu, khai thác sử dụng khí đốt đồng thời tăng cường xây dựng công nghiệp lọc hoá dầu để biến nước này thành trung tâm thương mại, cung cấp sản phẩm dầu trong khu vực. Vì trữ lượng dầu khí nội địa không lớn nên Thái Lan phát triển ngành năng lượng theo hướng như các nước không có nguồn tài nguyên dầu khí.
1.3.4 Những bài học rút ra đối với Việt Nam
Thực tế cho thấy, ở hầu hết các nước, Nhà nước đều quản lý giá xăng dầu. Theo dõi giá bán lẻ xăng ở các nước, mặc dù giá dầu thô tăng từ 13 USD/thùng vào năm 1998 lên tới 70 USD/thùng vào năm 2004 (tăng khoảng 5 lần) nhưng giá bán lẻ xăng chỉ tăng từ 0,6 USD/lít lên 1,2 USD/lít, tăng 2 lần (theo công bố điều chỉnh giá mới nhất tại Malaysia thì xăng A95 có giá là 0,538 USD/lít hay 198 cent ringit/lít, 1 USD=3,68 ringit). Như vậy Nhà nước quản lý giá xăng dầu là hiện tượng phổ biến trên thế giới. Có một số lý do quan trọng như sau:
- Một là, đây là loại hàng hoá đặc biệt có ảnh hưởng lớn tới sản xuất và đời sống của nhân dân. Sức cạnh tranh của cả một nền kinh tế có thể bị kém đi một cách tương đối so với các nước khác khi giá nhiên liệu tăng cao mà Nhà nước không can thiệp. Khi giá nhiên liệu đột ngột tăng cao tới 7 lần như vừa qua thì khó có một nền kinh tế nào có thể đứng vững nếu không có biện pháp kiềm chế giá cả, chỉ cho tăng chút ít và tăng từ từ.
- Hai là, xăng dầu được dùng ở khắp mọi nơi trên đất nước do đó, giá xăng dầu phải bảo đảm thống nhất một giá trên phạm vi cả nước để tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp và mức sống ngang bằng cho người dân ở mỗi khu vực địa lý khác nhau, tạo sự phát triển đồng đều giữa các miền. Yêu cầu này đặt ra vấn đề là Nhà nước phải có chính sách quản lý giá thích hợp thì mới đạt được điều đó.
- Ba là, phân phối xăng dầu có tính độc quyền tự nhiên do phải có đầu tư lớn và có chuyên môn cao, vốn lớn. Theo nguyên tắc về quản lý độc quyền thì Nhà nước phải quản lý, có cơ chế điều tiết về giá cả và chất lượng sản phẩm để tránh những ảnh hưởng tiêu cực của các hành vi độc quyền.
- Bốn là, do xăng dầu là mặt hàng thiết yếu nên về nguyên tắc việc kinh doanh phân phối này luôn luôn có lợi nhuận rất cao. Vì vậy Nhà nước phải quản lý để điều tiết thu nhập và bảo vệ người tiêu dùng, tránh việc tăng “giá vô tội vạ” có thể xảy ra ngay cả khi tình hình thị trường bình thường.
- Năm là, việc giữ ổn định giá xăng dầu là tiền đề để thu hút đầu tư. Nhà đầu tư thường sợ nhất phải đầu tư vào một thị trường không ổn định vì không thể dự báo trước những gì sẽ xẩy ra sắp tới và do đó không thể tính được hiệu quả tài chính của dự án. Vì vậy, chính sách giữ cho thị trường ổn định một cách tương đối trước những biến cố của thị trường thế giới là một việc cần làm để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Việc Nhà nước quản lý giá xăng dầu là cần thiết, đây cũng là cơ chế phổ biến ở nhiều nước, Việt Nam cũng nằm trong số đó và thực hiện cơ chế quản lý có phụ thu hoặc bù giá. Nhà nước trong trường hợp này đóng vai trò như một cái “bánh đà” để điều hoà giá cả: thu tiền vào túi lúc giá thấp thông qua phụ thu hoặc thuế cao để rồi lại đưa ra để bù giá khi giá nhập khẩu cao nếu cần thiết. Cơ chế này cũng đặt ra một số vấn đề cần giải quyết là: Mức bù giá như thế nào là hợp lý ? kém linh hoạt và rất bị động khi có biến: thường là không biết khi nào thì cần tăng giá để giảm bù lỗ, thời gian để đưa ra quyết định lâu và bị phản ứng, vấn đề buôn lậu qua biên giới…đặc biệt không phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, tạo tâm lý ỷ lại, không có sức ép thúc đẩy các đơn vị sản xuất kinh doanh đẩy mạnh áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đổi mới quản lý, tăng năng suất, sử dụng hợp lý định mức tiêu hao nguyên, nhiên vật liệu, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, bảo đảm để hàng hoá làm ra cạnh tranh cung cấp trên thị trường
Biểu đồ 1.1: GIÁ XĂNG DẦU THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC
Nguồn: Tạp chí dầu khí tháng 3/2007
Nước ta vẫn còn là nước nghèo, thu nhập của người dân còn thấp, sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp nước ta vẫn còn yếu nhưng đã phải bước vào quá trình hội nhập, cạnh tranh quốc tế. Trong những năm qua, Nhà nước quy định chính sách giá hành chính đối với các mặt hàng xăng, dầu và mức giá này cũng dao động cùng thị trường thế giới nhưng tăng rất nhỏ so với giá thế giới, hỗ trợ bù giá nhiên liệu xăng cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu vì thế Nhà nước phải gánh chịu một khoản chi ngân sách rất lớn. Mục đích của cơ chế giá này là khống chế lạm phát ở mức 1 con số vì xăng dầu có ảnh hưởng tới hầu hết giá cả của các loại hàng hoá. Khi Việt Nam đã vào WTO, hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các mặt hàng kinh doanh phải đảm bảo theo nguyên tắc thị trường, vì thế Chính phủ đã ra Nghị định 55/2007/NĐ-CP ban hành ngày 16/4/2007 về kinh doanh xăng dầu để thay thế cho Quyết định 187/2003/QĐ-TTg, theo đó các doanh nghiệp xăng dầu được tự quyết định giá bán xăng trên cơ sở giá thế giới, thuế nhập khẩu, các chi phí đầu vào…và đảm bảo đúng quy định của Nhà nước và lợi nhuận hợp lý để tái đầu tư, phát triển sản xuất và các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tạo sự chủ động cho doanh nghiệp trong quá trình tổ chức kinh doanh. Bên cạnh đó là việc xác lập hệ thống phân phối của từng doanh nghiệp đầu mối gắn liền với trách nhiệm để tạo tiền đề cho việc tổ chức kinh doanh xăng dầu đi vào nề nếp, giữ vững sự ổn định thị trường. Nhà nước chỉ quản lý gián tiếp bằng các quy định về điều kiện kinh doanh xăng dầu; điều hoà cung cầu; mua bán hàng dự trữ quốc gia và thực hiện kiểm soát các yếu tố hình thành giá khi có dấu hiệu liên kết độc quyền hay đầu cơ nâng giá. Hiện nay, Chính phủ đã trao cho doanh nghiệp quyền tự quyết định giá bán lẻ xăng, đến cuối năm sẽ bỏ trợ cấp dầu mazut, đầu năm tới sẽ bỏ trợ cấp dầu diezen. Tuy nhiên, khi đã trao quyền tự quyết giá bán lẻ cho các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý sẽ phải xây dựng những nguyên tắc để chống liên minh độc quyền và tăng giá không đúng, đồng thời đảm bảo sự bình ổn của thị trường (như Thái Lan đã thành lập Hội đồng Trung ương chống độc quyền). Với cơ chế này, người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ yếu tố cạnh tranh của các doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng phục vụ, giá cả để dành khách hàng, thị phần.
Tóm lại, qua tình thình thực tế ở nhiều nước kết hợp với phân tích đặc điểm của thị trường sản phẩm xăng dầu, có thể kết luận là việc quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực bán lẻ xăng dầu để bình ổn kinh tế vĩ mô ở thời điểm hiện nay là hết sức cần thiết. Tuy nhiện trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO với cam kết đến năm 2009 sẽ mở cửa thị trường xăng dầu hoàn toàn, khi đó sẽ có rất nhiều tập đoàn nước ngoài vào đầu tư và công ty kinh doanh nhỏ sẽ rất dễ bị phá sản, vì thế việc giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp quyết định giá xăng là quy luật tất yếu của thị trường nhằm xây dựng, tạo lập nhiều doanh nghiệp kinh doanh thuộc các thành phần, tạo lập thị trường cạnh tranh mạnh mẽ và hợp pháp, nâng cao trình độ kinh doanh và quản lý của cả doanh nghiệp và Nhà nước. Các doanh nghiệp vừa tự chủ kinh doanh theo cơ chế thị trường, mặt khác phải chịu sự chi phối, điều hành của chính sách quản lý theo quy luật kinh tế của Nhà nước, đảm bảo không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp để tránh gây ra những tác động lớn ảnh hưởng đến giá cả, chỉ số tiêu dùng và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU XĂNG DẦU CỦA CÔNG TY XĂNG DẦU QUÂN ĐỘI
2.1 Tổng quan chung về Công ty xăng dầu Quân đội
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty xăng dầu Quân đội
2.1.1.1 Sự ra đời và phát triển của Công ty
Từ đầu năm 1965, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta phát triển nhanh chóng. Vận mệnh của Tổ quốc đứng trước những thách thức nghiêm trọng. Đánh Mỹ và thắng Mỹ trở thành nghĩa vụ cứu nước khẩn cấp, thiêng liêng nhất đối với mỗi người Việt Nam, là sứ mệnh trọng đại của nhân dân và quân đội ta.
Xăng dầu là mặt hàng chiến lược, dễ cháy nổ, là mục tiêu đánh phá quan trọng của địch; do đó phải có lực lượng kỹ thuật đặc thù để bảo đảm khí tài bảo quản, cấp phát, vận chuyển...Các kho của quân đội ta lúc này không đủ sức chứa và bảo đảm xăng dầu cho các đơn vị trong điều kiện máy bay địch bắn phá ngày càng ác liệt. Việc thường xuyên tổ chức, tăng cường một lực lượng đảm bảo khí tài xăng dầu để bảo đảm vật tư và sửa chữa phương tiện vận chuyển xăng dầu là một yêu cầu đòi hỏi cấp bách.
Được sự uỷ quyền của Thủ trưởng Tổng cục Hậu cần (TCHC), ngày 30/9/1965, Cục trưởng Cục quản lý Xe máy chính thức ký Quyết định số 732/QĐ thành lập xưởng MX351. Đầu năm 1967, hệ thống kho xưởng phát triển ngày càng nhiều, để giữ bí mật, Xưởng MX351 được trên quyết định mang số hiệu Q165 và được đầu tư củng cố phát triển thành một xí nghiệp chuyên bảo đảm khí xăng dầu tiền thân của Công ty xăng dầu Quân đội ngày nay. Xí nghiệp Q165 (MX315) thực sự trở thành cơ sở bảo đảm kỹ thuật tin cậy, góp phần đẩy nhanh tiến độ vận chuyển chi viện xăng dầu cho các chiến trường. Kể từ khi ra đời, Xí nghiệp Q165 không ngừng kiện toàn biên chế tổ chức, hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất quốc phòng và tham gia các hoạt động kinh tế trong đổi mới phương thức bảo đảm vật chất hậu cần.
Bước vào năm 1996, sản xuất cơ khí của đất nước có rất nhiều khó khăn về công nghệ và kỹ thuật. Xí nghiệp Khí tài xăng dầu 165 cũng nằm trong bối cảnh chung đó, trình độ tay nghề, tư duy làm ăn theo kiểu thời bao cấp nên năng suất và chất lượng chưa cao, mặt khác vốn lưu động rất ít và tổ chức bộ máy chưa đồng bộ và phù hợp với kinh tế thị trường.
Để tiếp tục quán triệt Nghị Quyết 05/NQ-TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết 06 của Đảng uỷ quân sự Trung ương về đổi mới sản xuất ở các doanh nghiệp quốc phòng, ngày 22 tháng 4 năm 1996, Bộ Quốc phòng quyết định đổi tên Xí nghiệp Khí tài xăng dầu 165 thành Công ty Khí tài xăng dầu 165 và bổ sung ngành nghề kinh doanh cho công ty như sau:
- Sản xuất, sửa chữa các sản phẩm của ngành xăng dầu.
- Sản xuất kinh doanh trang thiết bị dụng cụ, phương tiện phòng hộ lao động
- Cung ứng xăng dầu cho quốc phòng và kinh tế.
Căn cứ vào phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước Bộ Quốc phòng, văn bản số 11/CP-ĐMDN 29/3/1999. Ngày 12/5/1999, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định đổi tên công ty Khí tài xăng dầu 165 thuộc Tổng cục Hậu cần thành Công ty Xăng dầu Quân đội. Công ty đặt trụ sở tại 125 đường Nguyễn Phong sắc - Quận Cầu Giấy - Hà Nội.
2.1.1.2 Chức năng của Công ty xăng dầu Quân đội
Công ty xăng dầu Quân đội hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, sửa chữa, nhập khẩu trực tiếp khí tài xăng dầu. Do hoạt động có hiệu quả đến nay Công ty đã được Bộ Quốc Phòng và các cơ quan Nhà nước bổ sung nhiều ngành nghề thuộc chuyên ngành xăng dầu của Quân đội, cụ thể là:
- Sản xuất sửa chữa khí tài xăng dầu và doanh cụ bảo đảm cho quốc phòng và kinh tế.
- Xây dựng các trạm kho bể và các công trình xăng dầu bảo đảm cho quốc phòng và kinh tế.
- Nhập khẩu xăng dầu mỡ bảo đảm cho quốc phòng và kinh tế (là một trong 9 đầu mối nhập khẩu xăng dầu bảo đảm dự trữ và cân đối xăng dầu cho quốc gia).
- Vận tải xăng dầu bảo đảm cho quốc phòng và kinh tế.
Hiện nay công ty xăng dầu Quân đội tập trung sản xuất kinh doanh vào 3 lĩnh vực sau:
+ Xây dựng hoàn chỉnh các công trình xăng dầu trong và ngoài Quân đội. Công ty đang tiến hành và tiếp tục xây dựng một số các công trình trong thời gian vừa qua như: Xây dựng kho xăng dầu cho Trung tâm công nghiệp Long Bình, kho dầu FO, xây dựng kho bể chứa xăng dầu Tam Đảo - Cục xăng dầu - Tổng cục Hậu cần (TCHC) gồm 4 bể 1000, xây dựng kho xăng dầu của Học viện Chính trị Quân sự, của Cục đối ngoại - Bộ Quốc Phòng…
+ Bảo đảm xăng dầu cho Quân._.u Á có thể tăng thêm 200.000 thùng/ngày.
Các nhà kinh tế và các nhà phân tích thị trường dự báo, giá dầu mỏ sẽ vẫn giữ ở mức cao trong năm 2007, do sản lượng và năng lực sản xuất khó có thể tăng lên đáng kể trong tương lai gần. Các chuyên gia cho rằng, năng lực sản xuất hạn chế là một trong những động lực chính đẩy giá dầu mỏ tăng cao. Nếu loại trừ yếu tố lạm phát, vốn đầu tư vào ngành dầu mỏ và khí đốt thế giới chỉ tăng 5% trong cả giai đoạn 2000 – 2005. Một số nước sản xuất dầu mỏ chủ chốt trên thế giới đã phát huy gần hết công suất hoặc giảm số lượng dự trữ do các nhân tố kinh tế khác. Trong tháng 12/2006, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) - chiếm 1/3 số lượng dầu mỏ trên toàn cầu – đã cắt giảm sản lượng khai thác 1,2 triệu thùng/ngày (giảm 4%).
Biểu đồ 3.1: NHU CẦU DẦU MỎ CỦA CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN VÀ THẾ GIỚI TRONG GIAI ĐOẠN 2007 - 2010
Đơn vị: Triệu thùng/ngày
Nguồn: Energy Information Administration (2007)
Các nhà phân tích dự báo rằng, những bất ổn về địa chính trị hiện nay tại Trung Đông sẽ gây ra mối lo ngại đối với thị trường dầu mỏ thế giới và đẩy giá dầu thô tăng lên. Trung Đông chiếm tới hơn 1/3 sản lượng dầu mỏ toàn cầu, hơn 2/3 lượng dầu thô xuất khẩu trên thế giới và gần 2/3 trữ lượng dầu mỏ trên thế giới chưa được khai thác. Do vậy, bất cứ diễn biến căng thẳng nào về chính trị trong khu vực, như khủng hoảng chính trị giữa Libăng và Israel, đều có thể gây nên mối lo ngại đối với nguồn cung dầu mỏ trên toàn cầu.
Các nhà kinh doanh cũng lo ngại về khả năng xuất khẩu dầu mỏ của Iran bị gián đoạn, nếu Liên hợp quốc áp đặt lệnh cấm vận đối với nước này liên quan đến vấn đề phát triển hạt nhân. Iran là nhà sản xuất dầu mỏ lớn thứ hai trong OPEC, sau Saudi Arabia với năng lực sản xuất 4 triệu thùng dầu thô/ngày và xuất khẩu 2,4 triệu thùng dầu/ngày. Một báo cáo mới đây của Hãng Fimat Group cho rằng, nếu thị trường thế giới mất nguồn dầu mỏ của Iran thì giá dầu thô giao dịch kỳ hạn có thể lên trong mức 80-85 USD/thùng. Trong khi đó, tại Nigeria – nhà sản xuất dầu mỏ hàng đầu châu Phi, với khả năng xuất khẩu 2,5 triệu thùng/ngày - sản lượng khai thác mới đây đã giảm 20% sau một loạt vụ tấn công quân sự.
Ngoài ra, còn tiềm ẩn những nguy cơ về thiên tai đối với sản xuất dầu mỏ trên thế giới. Như cơn bão Katrina và Rita trong năm 2005 đã phá huỷ nặng nề các cơ sở sản xuất dầu mỏ và khí đốt tại Vịnh Mexico và đẩy giá dầu thô giao kỳ hạn khi đó lên mức cao chưa từng thấy.
Ông Edward Morse, chuyên gia về năng lượng thuộc Hãng Lahman Brothers dự báo rằng, giá dầu mỏ trong năm 2007 sẽ tăng trung bình 8 USD/thùng so với mức giá năm 2006. Theo dự báo mới nhất của Bộ Năng lượng Mỹ, trong nửa đầu năm 2007, mỗi tháng giá dầu thô có thể tăng khoảng 2 USD/thùng. Trong khi đó, nhiều nhà phân tích năng lượng cũng khẳng định, giá dầu mỏ giao kỳ hạn có thể duy trì ở mức cao trong năm 2007 trước mối lo ngại về việc OPEC tiếp tục cắt giảm sản lượng khai thác.
3.2 Phương hướng hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty giai đoạn 2007 – 2010
Năm 2007 sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới các sản phẩm, dịch vụ tham gia thị trường kinh tế mức độ cạnh tranh diễn ra sẽ gay gắt hơn về mẫu mã, chất lượng, giá cả, thái độ phục vụ và cơ chế bán hàng với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước. Là một đầu mối nhập khẩu xăng dầu phục vụ Quốc phòng và kinh tế, Công ty luôn xác định rõ nhiệm vụ, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo khắc phục mọi khó khăn tìm mọi biện pháp để hoàn thành nhiệm vụ nhập khẩu xăng dầu, ổn định và mở rộng thị trường ở cả ba miền Bắc – Trung – Nam.
- Căn cứ kết quả thực hiện kế hoạch nhập khẩu năm 2006; nhiệm vụ Quốc phòng, kinh tế trong 3 năm tới 2007 – 2010.
- Căn cứ kế hoạch của các các Cục chuyên ngành: về công tác bảo đảm xăng dầu, vận chuyển xăng dầu 3 năm tới 2007 – 2010.
- Căn cứ nhu cầu đặt hàng xăng dầu của các đơn vị, đại lý và Tổng đại lý của Công ty
- Căn cứ chỉ tiêu nhập khẩu xăng dầu Bộ Thương mại giao cho Công ty năm 2007: 580 ngàn tấn xăng dầu các loại.
Công ty đã đề ra phương hướng hoạt động nhập khẩu xăng dầu giai đoạn 2007 – 2010:
+ Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu: Chi nhánh Công ty tại thành phố Hồ Chí Minh, Chi nhánh Công ty tại Thành phố Đà Nẵng nâng cao kiến thức nhập khẩu và Điều ước Quốc tế về Thương mại. Thường xuyên cập nhật thông tin; đặc biệt là thông tin liên quan đến tiêu thụ, chế độ chính sách về xuất nhập khẩu của Nhà nước; nhất là sự biến động của thị trường xăng dầu Thế giới để tham mưu kịp thời cho Chỉ huy Công ty về thời điểm, địa điểm và giá cả xăng dầu để ký hợp đồng ngoại nhập khẩu xăng dầu.
+ Tìm kiếm nguồn hàng nhập khẩu, các đối tác nhập khẩu bảo đảm đạt chỉ tiêu Quota mà Bộ Thương mại đề ra. Chú trọng trong khâu đàm phán về các điều khoản, điều kiện trong hợp đồng nhập khẩu bảo đảm phù hợp với tiêu chuẩn hàng hoá. Quy định của Nhà nước.
+ Rút kinh nghiệm quản lý các đại lý, mở rộng có trọng tâm, chọn lọc chất lượng hệ thống đại lý xăng dầu ở Miền Nam, Miền Bắc; đẩy mạnh sản lượng tiêu thụ và khống chế được mức dư nợ tiền hàng. Chú trọng công tác mở rộng thị trường để ký thêm các hợp đồng đại lý xăng dầu ở khu vực miền Trung.
Đồng thời đảm bảo đầy đủ các khoản nộp ngân sách, ổn định đời sống cán bộ công nhân viên, phát triển vốn, đảm bảo hiệu quả trong kinh doanh.
Bảng 3.1: KẾ HOẠCH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY NĂM 2007-2009
Hàng hoá
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Hàng KT
Hàng QP
Hàng KT
Hàng QP
Hàng KT
Hàng QP
Xăng 92
1.400,000
52,000
1.800,000
62,000
2.500,000
70,000
Dầu DO
3.595,482
215,000
5.50,482
275,000
8.50,482
345,000
Tổng cộng
4.995,482
267,000
6,850,482
337,000
10.550,482
415,000
Đơn vị : Tỷ đồng
Công ty xác định mục tiêu cho nhiệm kỳ 2007 – 2010 như sau:
+ Tạo sự chuyển biến vững chắc về chất lượng chính trị, trình độ và năng lực công tác quản lý trên các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Xây dựng Công ty đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động, có bản lĩnh chính trị vững vàng, sẵn sàng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; có phẩm chất đạo đức tốt, chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, bảo đảm đơn vị thường xuyên vững mạnh toàn diện, đảng bộ, đảng uỷ và cấp uỷ trong sạch vững mạnh, 100% đảng viên đạt mức 1. Các tổ chức quần chúng đạt vững mạnh xuất sắc.
+ Hoàn thành tốt mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và nhiệm vụ cấp trên giao, theo đúng quy định của luật pháp Nhà nước, các quy định của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần và nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế. Thực hiện tốt nghĩa vụ nộp ngân sách với Nhà nước, quân đội, tích cực tham gia đóng góp xây dựng quỹ vì người nghèo và quỹ đền ơn đáp nghĩa.
+ Phát huy dân chủ, đề cao kỷ luật, thực hiện nền nếp chính quy. Phấn đấu giảm tỷ lệ tai nạn giao thông, an toàn lao động xuống mức thấp nhất, không có vụ việc vi phạm kỷ luật nghiêm trọng. Đời sống vật chất tinh thần cán bộ, công nhân viên giữ được ổn định và cải thiện, năm sau cao hơn năm trước.
+ Đẩy mạnh hoạt động công tác thi đua khen thưởng, phong trào thi đua quyết thắng và phong trào thi đua sáng kiến cải tiến kỹ thuật, công nghệ trong toàn Công ty có nền nếp thường xuyên liên tục và lồng ghép; đồng thời thực hiện đầy đủ có hiệu quả các cuộc vận động và phong trào thi đua của các tổ chức quần chúng.
Để thực hiện các chỉ tiêu trên, Công ty đưa ra nội dung biện pháp chủ yếu:
+ Trong thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh phải lãnh đạo chặt chẽ khâu quản lý kế hoạch, giao kế hoạch, khâu ký kết các hợp đồng theo đúng pháp luật và có hiệu quả. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu mỗi tổ chức.
+ Tăng cường mối quan hệ với các cục chuyên ngành, các đơn vị trong quân đội, các khách hàng kinh tế… Tích cực nghiên cứu cải tiến chế thử những sản phẩm mới phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhiệm vụ quốc phòng và kinh tế.
+ Nâng cao các biện pháp quản lý như: Chất lượng, giá cả, sử dụng vốn phát huy vai trò của ban thanh tra nhân dân.
+ Chú trọng bồi dưỡng năng lực toàn diện cho cán bộ nhân viên nhất là năng lực quản lý và năng lực thực tiễn coi trọng đào tạo bồi dưỡng thợ lành nghề và công nhân kỹ thuật bậc cao.
+ Quản lý chặt chẽ công tác đầu tư xây dựng cơ bản khi được cấp trên phê duyệt, khai thác sử dụng có hiệu quả những công trình, trang thiết bị.
3.3 Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội
3.3.1 Giải pháp từ phía Công ty
3.3.1.1 Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và mở rộng thị trường
Trong cơ chế thị trường hoạt động nghiên cứu và mở rộng thị trường có vai trò quan trọng, nó là đòi hỏi tất yếu đối với công ty kinh doanh nhập khẩu. Hoạt động này quyết định quy mô thị trường, bạn hàng đối tác, khả năng tiêu thụ sản phẩm, quy mô khách hàng do đó quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty.
Quá trình nghiên cứu thị trường trong hoạt động nhập khẩu cho phép công ty xác định được nhu cầu thị trường trong nước về số lượng, chất lượng…Nghiên cứu thị trường nước ngoài sẽ cho phép lựa chọn được bạn hàng, xem bạn hàng nào là phù hợp và có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu thị trường trong nước đồng thời có thể dự báo được thị trường nước ngoài, để có được đầy đủ thông tin về thị trường nhập khẩu của doanh nghiệp. Trong điều kiện nguồn cung dầu và giá cả xăng dầu có những biến động lớn không ổn định như hiện nay thì nghiên cứu và dự báo thị trường có vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách kinh doanh nhập khẩu trong tương lai của công ty. Mặc dù hoạt động nghiên cứu, tìm kiếm và mở rộng thị trường có vai trò quan trọng như vậy nhưng Công ty xăng dầu Quân đội vãn chưa thành lập bộ phận nào đảm trách nhiệm vụ này. Vì vậy Công ty phải thành lập một bộ phận Marketing để thực hiện chức năng: nghiên cứu thị trường nhập khẩu để lựa chọn nhà cung cấp, đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng nâng cao uy tín và mở rộng thị phần trong nước.
3.3.1.2 Đa dạng hoá đối tác đồng thời củng cố mối quan hệ với bạn hàng truyền thống
Đa dạng hoá bạn hàng cho phép Công ty ty đảm bảo vững nguồn hàng và tránh được những rủi ro từ yếu tố thị trường. Đây là việc làm rất thiết yếu đối với mặt hàng xăng dầu khi mà tình hình xăng dầu trên thị trường thế giới luôn biến động mạnh và ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của Công ty, đồng thời cũng là cơ sở để Công ty lựa chọn được bạn hàng phù hợp, đáng tin cậy vừa đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước vừa tránh được những tổn thất khi gặp rủi ro khi quá phụ thuộc vào một thị trường nhấi định. Công ty cần phải xác lập quan hệ kinh doanh với các đối tác lớn, các tập đoàn xăng dầu quốc tế, bảo đảm nguồn cung ổn định, mua bán theo hợp đồng dài hạn, không chạy theo nguồn xăng dầu trôi nổi qua các doanh nghiệp trung gian. Tiến tới thiết lập các quan hệ bạn hàng gắn bó lâu dài. Như vậy việc đáp ứng nhu cầu xăng dầu không phụ thuộc biến động giá hàng ngày của thị trường thế giới, mà trước kỳ kế hoạnh đã có dự báo, đã ký hợp đồng nhập khẩu xăng dầu cho cả thời kỳ kế hoạch với giá cả phù hợp, từ đó có thể xác định mức thuế, giá cả xăng dầu nội địa cho cả thời kỳ kế hoạch, không bị động đối phó biến động hàng ngày của thị trường xăng dầu thế giới. Khị lựa chọn bạn hàng đối tác Công ty nên:
- Tìm hiểu đối tác bằng nhiều phương pháp và nhiều nguồn thông tin, có thể qua trang web, qua các phương tiện thông tin đại chúng hay là qua các công ty chuyên cung cấp dịch vụ điều tra công ty là những thông tin rất quan trọng và không thể thiếu để đánh giá đầy đủ năng lực và độ tin cậy của đối tác. Trước khi đặt quan hệ với đối tác cần chú ý:
+ Thông tin tối thiểu ban đầu: tên giao dịch đầy đủ của công ty, loại hình công ty, số đăng ký kinh doanh và địa chỉ cụ thể, điện thoại, fax, địa chỉ email…, kiểm tra tư cách pháp nhân của công ty.
+ Thu thập thông tin về tài chính, khả năng cung cấp của doanh nghiệp đó.
+ Xem chất lượng, mẫu mã giá cả của hàng hoá đó, nhất là mặt hàng xăng dầu thì việc làm này rất quan trọng vì phải nhập xăng dầu từ thị trường có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn của Việt Nam.
+ Tìm hiểu chính sách, pháp luật, tập quán thương mại của đối tác.
+ Xem xét uy tín của đối tác trên thị trường thế giới.
- Bên cạnh việc tìm kiếm và mở rộng quan hệ với bạn hàng mới Công ty cần củng cố và duy trì các mối quan hệ với bạn hàng truyền thống và hướng vào thị trường trọng điểm. Các bạn hàng truyền thống của Công ty hiện nay là: Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Nhât Bản…Tuy nhiên việc đa dạng hoá bạn hàng là rất cần thiết nên muốn có nguồn cung ứng ổn định và đảm bảo, Công ty phải có đầy đủ thông tin về thị trường đối tác, thường xuyên liên lạc qua các phương tiện truyền thông và cử các đại diện thương mại sang nghiên cứu và tìm hiểu để có được thông tin chính xác, đáng tin cậy và hiệu quả.
3.3.1.3 Công ty cần phải tăng cường hoạt động huy động vốn phục vụ hoạt động nhập khẩu.
Nguồn vốn kinh doanh luôn là một yếu điểm của Công ty, trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp mà việc nhập khẩu một chuyến hàng tối thiểu cũng phải 40 tỷ đồng thì việc nhập khẩu một khối lượng lớn từ nhiều đối tác khác nhau vượt ngoài khả năng của Công ty. Nguồn hỗ trợ từ ngân sách Quốc phòng chưa thể đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu của Công ty. Vì thế Công ty phải tăng cường huy động vốn từ nhiều kênh khác nhau:
- Công ty huy động vốn bằng ngân sách Nhà nước: Công ty chỉ có thể huy động vốn từ ngân sách Nhà nước khi thực hiện các hợp đồng nhập khẩu xăng dầu lớn để đáp ứng nhu cầu tiêu dung phục vụ Quốc phòng và kinh tế có tính chiến lược cho sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, nguồn vốn này không phải lúc nào cũng sẵn có một cách dễ dàng và thường được cấp rất hạn chế.
- Huy động vốn từ phía các Ngân hàng: Mặc dù Công ty được sự bảo lãnh của Bộ quốc phòng nên khi vay vốn của Ngân hàng ít khi phải thực hiện ký quỹ. Tuy nhiên không phải lúc nào việc vay vốn Ngân hàng cũng thuận lợi, vì nhiều khi giá nhập khẩu xuống thấp muốn nhập khẩu một khối lượng lớn, Công ty không thể vay quá nhiều mà không thực hiện ký quỹ tối thiểu 10%. Vì thế để có được nguồn vốn vay Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu, Công ty cần phải khẳng định mình là một Công ty hoạt động kinh doanh rất hiệu quả, các dự án vay vốn của Công ty là những dự án khả thi và mạng lại lợi ích kinh tế cao cho cả Công ty và Ngân hàng cho vay. Cho nên trước khi vay vốn Công ty cần phải giải trình chi tiết và cụ thể các bản kế hoạch kinh doanh tới Ngân hàng, để Ngân hàng thấy rằng nguồn vốn cho vay của họ gặp ít rủi ro nên việc vay vốn sẽ dễ dàng hơn.
3.3.1.4 Hoàn thiện trình độ và nghiệp vụ kinh doanh nhập khẩu cho cán bộ làm công tác nhập khẩu
Nghiệp vụ nhập khẩu bao gồm rất nhiều khâu, đòi hỏi người làm công tác nhập khẩu phải có kiến thức sâu rộng, am hiểu về tập quán thương mại của các thị trường mà Công ty có quan hệ làm ăn và không ngừng hoàn thiện mình hơn trong công tác nhập khẩu.
Trong nghiệp vụ nhập khẩu phải thận trọng và khôn khéo trong từng khâu:
- Trong khâu đàm phán, ký kết hợp đồng: Nhập khẩu là hoạt động mua hàng hoá từ các đối tác nước ngoài nên việc giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng cần được chú trọng. Để hoạt động đàm phán và ký kết hợp đồng nhập khẩu đạt hiệu quả cao, cán bộ làm công tác nhập khẩu phải nắm rõ thành thạo các phương thức và kỹ năng đàm phán phải trình độ ngoại ngữ, am hiểu tập quán kinh doanh và nền văn hoá của nước đối tác để có cách ứng xử thích hợp. Những điều khoản về giá cả, chất lượng hàng hoá thường rất quan trọng vì thế giá cả hợp lý và có lợi cho bên nhập khẩu được quyết định bởi tài thương lượng và chiến thuật đàm phán. Người đàm phán phải vận dụng sáng tạo những kỹ thuật trong đàm phán như: kỹ thuật truyền đạt thông tin, kỹ thuật trả lời câu hỏi, kỹ thuật lập luận bác bỏ, kỹ thuật vô hiệu hoá…Quá trình đàm phán vừa là khoa học vừa là nghệ thuật giữa hai yếu tố đó có mối quan hệ qua lại và làm tiền đề cho nhau, ngoài những kỹ thuật cần thiết người đàm phán phải biết áp dụng linh hoạt các nghệ thuật đàm phán như: Tuỳ cơ ứng biến (tìm kiếm, tức thời, nhạy bén nắm bắt cơ hội), từng bước tiên tới (chia nhỏ mục tiêu, nắm bắt tâm lý đối phương để từng bước thực hiện mục tiêu đã được chia nhỏ cho tới khi đạt được mục tiêu cuối cùng), chiến thuật đánh lạc hướng, chiến thuật thả con săn sắt bắt con cá rô, chiến thuật dò đá qua sông…
- Soạn thảo hợp đồng nhập khẩu : Hợp đồng ngoại thương là một văn bản thoả thuận giữa các bên có quốc tịch khác nhau và được xây dựng dưới dạng các điều khoản và điều kiện. Các điều khoản được trình bày phải có sự thống nhất triệt để, đầy đủ , chi tiết và rõ ràng để tránh có những tranh chấp khiếu kiện xảy ra, gây hao tốn công sức, tiền bạc và lãng phí thời gian. Hợp đồng ngoại thương chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia và thông lệ quốc tế đòi hỏi người đàm phán phải hiểu biết về pháp lý, thủ tục ngoại thương để lựa chọn nguồn luật bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho mình.
- Nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lý trong khâu nhận hàng và kiểm tra hàng. Trong khâu này, chú ý khi nhận được chứng từ nhận hàng việc kiểm tra chi tiết cần đối chiếu với yêu cầu của chứng từ mua hàng khi nhận hàng, các cán bộ tiếp nhận cần kiểm tra hàng cẩn thận.
- Nhân sự là yếu tố then chôt quyết định thành công của bất cứ Công ty nào. Việc nâng cao và bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ cho cán bộ kinh doanh nhập khẩu là việc làm hết sức quan trọng đối với Công ty. Đó là:
+ Tổ chức lớp bồi dưỡng, đào tạo lại cán bộ làm công tác nhập khẩu cho phù hợp với tình hình mới. Công ty tiến hành cử các cán bộ trẻ tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn về nghiệp vụ, đồng thời xét tiến cử các cán bộ trẻ có năng lực thực sự đi học tập bồi dưỡng ở nước ngoài để nâng cao trình độ và kinh nghiệm.
+ Chăm lo bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của đội ngũ cán bộ công nhân viên, từng bước nâng cao thu nhập cho người lao động, chăm lo cả về đời sống vật chất tinh thần như thường xuyên tổ chức các hoạt động tham quan, du lịch để khuyến khích về mặt tinh thần để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ.
+ Xây dựng một cơ cấu nhận sự hợp lý khoa học và hiệu quả, tập trung phân công lao động theo chuyên môn không kiêm nghiệm để phát huy được tính sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu.
3.3.1.5 Nâng cao hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho công tác nhập khẩu
Hiện tại kho bảo quản xăng dầu của Công ty chưa đủ, sức chứa kho hạn chế gây bất lợi cho Công ty khi nhập khẩu được giá rẻ nhưng không dự trữ được. Đồng thời điểm gửi hang bị phân tán, tăng chi phí do chuyển tải vì vậy Công ty phải chú trọng đầu tư xây dựng kho mới có trữ lượng lớn, tăng trữ lượng kho và quy hoạch kho về một điểm để thuận tiện cho việc nhập khẩu. Mặt khác hệ thống kho đầu nguồn sẽ đem lại khả năng dự trữ xăng dầu thông dụng cả thường xuyên lẫn sẵn sàng chiến đấu vừa đáp ứng yêu cầu dự trữ của Bộ Quốc phòng, giảm hao hụt tiết kiệm ngân sách. Đồng thời Công ty phải nâng cấp kho đạt công nghệ quản lý, cấp phát tiên tiến đảm bảo nguồn dự trữ để đối phó khi giá cả xăng dầu biến động gây bất lợi cho quá trình nhập khẩu.
- Do các nước có tiêu chuẩn xăng dầu khác nhau phù hợp với máy móc trang trang thiết bị của từng nước nên khi nhập khẩu từ nước ngoài Công ty cần phải kiểm tra rất chặt chẽ chất lượng xăng dầu nhập khẩu phù hợp với tiêu chuẩn của Việt Nam. Vì thế Công ty phải có phòng hoá nghiệm riêng để kiểm tra hàng tránh trường hợp tiêu thụ và phân phối xăng không đúng chất lượng gây thiệt hại cho khách hàng ảnh hưởng tới uy tín của Công ty.
- Tiếp tục bổ sung phương tiện vận chuyển: đóng xe xi téc chở xăng dầu, tăng cường ký hợp đồng liên kết về vận chuyển xăng dầu, mua mới trang bị phương tiện để kịp thời chuyển hàng cho hệ thống đại lý và khách hàng hộ công nghiệp
3.3.2 Giải pháp từ phía Nhà nước
Trong quá trình đổi mới kinh tế thì việc chuyển xăng dầu sang kinh doanh theo cơ chế thị trường là nhiệm vụ gặp nhiều khó khăn, trắc trở, Nhà nước vẫn định giá, khả năng đối phó với nhiều biến động giá cả của thị trường xăng dầu thế giới còn lúng túng, vẫn tạo ra những khoản lỗ lớn trong kinh doanh. Tình trạng buôn bán lậu, tạm nhập tái xuất lộn xộn không quản lý được. Nhìn tổng thể, chính sách “ứng xử” với thị trường xăng dầu của Việt Nam còn nặng tính hành chính. Trong hơn một năm trở lại đây đã được thay đổi theo hướng linh hoạt, có tính thị trường hơn và dựa trên phương châm chia sẻ tốn phí, trách nhiệm giữa Nhà nước, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và người dân. Mục tiêu ổn định vĩ mô và hạn chế tác động bất lợi có thể có của biến động xăng dầu tới tăng trưởng kinh tế vẫn rất quan trọng. Tuy nhiên, chính sách đối với thị trường xăng dầu cần có những thay đổi và bước đi phù hợp với các nguyên tắc thị trường và các cam kết hội nhập để hỗ trợ các doanh nghiệp, đầu mối nhập khẩu hoạt động có hiệu quả hơn, hạn chế những rủi ro và nâng cao khả năng cạnh tranh.
3.3.2.1 Hoàn thiện chính sách quản lý xăng dầu
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế nên cơ chế chính sách quản lý kinh doanh xăng dầu trong nước phải phù hợp với thông lệ thị trường xăng dầu quốc tế. Vì vậy cần chuyển đổi cơ chế quản lý kinh doanh xăng dầu nước ta cho phù hợp với thị trường xăng dầu quốc tế.
- Từ bỏ hẳn cơ chế bao cấp, định giá, quản lý theo kiểu hành chính đối với kinh doanh xăng dầu. Cần chuyển kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị trường có điều tiết. Dù giá xăng dầu thế giới biến động hàng ngày, hàng giờ nhưng thị trường xăng dầu trong nước cần được ổn định. Vừa không định giá xăng dầu trong nước cố định một cách cứng nhắc tách rời giá xăng dầu quốc tế, vừa không để giá xăng dầu trong nước nhảy múa theo biến động hàng ngày của giá xăng dầu quốc tế. Định giá theo kiểu hành chính không thể thích ứng với những thời kỳ giá thế giới có biến động lớn vì phải tăng giảm thuế nhập khẩu, điều chỉnh giá để đối phó với tình trạng biến động giá và phải bù lỗ kinh doanh…Kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị trường nên xăng dầu là hàng hoá cũng phải được kinh doanh theo cơ chế thị trường nhưng vì xăng dầu là hàng hoá có vai trò đặc biệt trong sản xuất và đời sống nên thị trường xăng dầu cần có cơ chế điều tiết bảo đảm ổn định thị trường, cân đối cung - cầu cho nền kinh tế. Việc điều tiết cần được hình thành bằng một hệ thống chính sách và công cụ kinh tế để phát huy vai trò tự chủ kinh doanh, nhập khẩu của các doanh nghiệp, trước hết là những doanh nghiệp lớn trong sản xuất, xuất - nhập khẩu và phân phối xăng dầu.
- Có chính sách ổn định, minh bạch nhằm hỗ trợ hoặc ưu đãi cho doanh nghiệp khi mở rộng kinh doanh vào các vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa. Có chính sách tài chính phù hợp hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ điều tiết giá cả thị trường khi có biến động giá cả quốc tế lớn.
- Nhà nước cần cân đối cung - cầu xăng dầu: Nhà nước cần phải có dự báo kế hoạch cung - cầu, giá cả xăng dầu trên thị trường thế giới một cách thường xuyên và sát thực, trên cơ sở đó để có phản ứng chính sách thích hợp; điều hành việc nhập khẩu cho các doanh nghiệp vào thời điểm có lợi nhất cả về số lượng và giá cả; không để xảy ra tình trạng đứt đoạn nguồn cung; có phương án ứng xử bằng công cụ kinh tế nhằm tạo ra “bộ giảm xóc” cho thị trường trong nước. Không chống lại được sự biến động của thị trường thế giới nhưng chuyển sự biến động đó vào thị trường trong nước một cách nhẹ nhàng, không gây sốc cho thị trường trong nước, có sự chủ động điều tiết của Nhà nước và các doanh nghiệp đầu đàn trong kinh doanh nhập khẩu.
3.3.2.2 Tăng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu xăng dầu
Nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước là xây dựng được hệ thống doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu lớn mạnh, tự chủ kinh doanh nhập khẩu, kinh doanh có kế hoạch, chủ động đối phó với tình trạng biến động quốc tế. Nhà nước chỉ hỗ trợ, hướng dẫn cho doanh nghiệp hoạt động, có một loạt chính sách, công cụ kinh tế thích hợp để điều tiết hoạt động của doanh nghiệp theo định hướng chính sách kinh tế của Nhà nước.
- Cần trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu, kinh doanh phân phối xăng dầu, là những doanh nghiệp có vai trò chủ chốt trong hệ thống sản xuất, kinh doanh xăng dầu. Nhà nước không thể tiếp tục trực tiếp can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
- Nhiệm vụ chức năng kinh doanh xăng dầu của các doanh nghiệp được lựa chọn này cần làm rõ, một mặt là kinh doanh theo cơ chế thị trường, tự chủ kinh doanh, mặt khác phải thực hiện một số nhiệm vụ điều tiết thị trường xăng dầu toàn quốc, nhu cầu xăng dầu trên cả nước, nhất là các vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo. Để thực hiện nhiệm vụ điều tiết, Nhà nước sẽ có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện doanh nghiệp tự bù đắp trong kinh doanh, trong hạch toán, không để doanh nghiệp thua lỗ mà Nhà nước cứ phải định giá, bù giá, bù lỗ cho doanh nghiệp.
- Nhà nước không định giá mà có thể định hướng, tham gia điều tiết giá cùng với doanh nghiệp, thoả thuận với doanh nghiệp. Về nguyên tắc là giá cả xăng dầu trong nước phù hợp giá quốc tế, phù hợp với mặt bằng giá cả trong nước, bảo đảm lợi nhuận cho nhà kinh doanh, đảm bảo lợi ích chung của nền kinh tế. Giá xăng dầu do doanh nghiệp quyết định, Nhà nước chỉ có vai trò định hướng và tham gia điều tiết khi có biến động giá quốc tế. Điều tiết không phải chống lại biến động quốc tế mà đảm bảo chuyển đổi thích ứng giá trong nước với giá quốc tế, không gây sốc cho thị trường xăng dầu trong nước. Không thể chấp nhận tình trạng điều chỉnh giá trong nước từng ngày theo biến động giá quốc tế, hoặc để tình trạng giá trong nước chênh lệch lớn kéo dài so với giá quốc tế.
3.3.2.3 Xây dựng chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý
Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, Việt Nam cũng cần có cách tiếp cận chính sách thích hợp. Xu hướng giá nhiên liệu còn đứng ở mức cao, lạm phát và lãi suất tăng đòi hỏi Nhà nước cần điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái nhằm ổn định vĩ mô và duy trì khả năng cạnh tranh đang là thách thức lớn. Việc xác định tỷ giá hối đoái đúng đắn hợp lý là một công cụ để quản lý và điều tiết những mất cân đối trong quan hệ thương mại quốc tế. Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động nhập khẩu. Khi tỷ giá hối đoái tăng, đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ có tác động khuyến khích xuất khẩu nhưng lại gây bất lợi cho nhập khẩu. Nhà nước có thể áp dụng nhiều biện pháp để điều chỉnh tỷ giá hối đoái ở mức phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đất nước. Các biện pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái là: chính sách chiết khấu, chính sách hối đoái, quỹ dự trữ bình ổn hối đoái, phá giá tiền tệ, nâng giá tiền tệ.
Đối với chính sách chiết khấu: Là chính sách của ngân hàng trung ương dùng cách thay đổi lãi suất chiết khấu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái trên thị trường nâng cao đến mức báo động cần phải can thiệp thì ngân hàng Trung ương nâng cao lãi suất chiết khấu, đồng thời lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên, kích thích nguồn vốn nước ngoài chạy vào nước mình để thu lãi cao do đó tỷ giá hối đoái sẽ giảm xuống. Ngược lại khi ngân hàng Trung ương áp dụng lãi suất chiết khấu thấp, tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên.
Chính sách hối đoái: Là biện pháp can thiệp trực tiếp để tác động đến tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá hối đoái lên cao tới mức làm ảnh hưởng xấu tới các hoạt động kinh tế trong nước cũng như hoạt động xuất nhập khẩu, ngân hàng Trung ương tung ngoại tệ ra bán để kéo tỷ giá hối đoái hạ xuống. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm xuống, ngân hàng Trung ương phải mua ngoại tệ vào, tức là kích cầu ngoại hối khi cung chưa kịp biến động để nâng tỷ giá hối đoái lên tới mức hợp lý. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, một trong những điều kiện không thể thiếu được là đòi hỏi ngân hàng phải có dự trữ ngoại tệ đủ lớn để can thiệp vào thị trường khi thật cần thiết.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Sau sáu năm thực hiện nhiệm vụ nhập khẩu xăng dầu của Bộ Quốc phòng và Tổng cục Hậu Cần, Công ty luôn hoàn thành nhiệm vụ nhập khẩu vượt mức quota do Bộ thương mại cấp và cung ứng toàn bộ nhu cầu xăng dầu cho toàn quân và mở rộng thị trường phục vụ nhu cầu cả nước. Tuy nhiên do tiềm lực của Công ty vẫn còn hạn chế ở nhiều mặt nên thị phần nhập khẩu xăng dầu của Công ty chỉ chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn. Nhất là trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới, với cam kết mở cửa thị trường xăng dầu vào năm 2009, Công ty sẽ phải đối mặt với rất nhiều thách thức trước xâm nhập của các doanh nghiệp nước ngoài.
Để công ty luôn đủ sức hoàn thành nhiệm vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh trong tình hình mới điều quan trọng trước tiên đòi hỏi phải thường xuyên tập trung xây dựng Đảng bộ, xây dựng đơn vị thành một khối đoàn kết thống nhất vững mạnh hoàn toàn. Trong xu hướng mở rộng sản xuất kinh doanh, Công ty phải thực sự nhạy bén với thị trường, không ngừng đổi mới phương pháp tổ chức và quản lý sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn, phù hợp với xu hướng phát triển kinh doanh từng thời kỳ. Mỗi cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên công ty cần tích cực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, ra sức xây dựng Công ty vững mạnh, toàn diện, góp phần cùng toàn quân, toàn dân thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội trong thời kỳ cả nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo kinh tế Việt Nam 2005 – Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương 2006 – NXB Lý luận chính trị.
Báo cáo tổng hợp năm 2005, 2006, 2007 của Công ty xăng dầu Quân đội.
Đỗ Đức Bình – Nguyễn Thường Lạng (2004), Giáo trình Kinh tế Quốc tế - Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế.
Giáo trình Kinh doanh quốc tế - Khoa kinh tế và kinh doanh Quốc tế.
Võ Thanh Thu, Quan hệ kinh tế quốc tế, NXB Thống kê 2005
Vũ Hữu Tửu, Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, NXB Giáo dục 2006
Tạp chí Công nghiệp thương mại tháng 5/2006, 7/2006, 2/2007
Tạp chí Dầu khí tháng 10/2005, 7/2006, 1/2007, 3/2007
Tạp chí Thời báo kinh tế Việt Nam tháng 3/2007, 4/2007
Tạp chí Thương mại tháng 5/2006, 7/2006, 2/2007
Tạp chí Tổng công ty dầu khí Việt Nam (2005). “Cơ chế tham gia phân phối và giá bán của Công ty liên doanh lọc hoá dầu Nghi Sơn”
CÁC TRANG WEB
http:// www.mof.gov.vn
http:// www.vnn.vn
http:// www.thanhnien.com.vn
http:// www.vneconomy.com
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29485.doc