Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong thời gian tới

MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………..1 NỘI DUNG………………………………………………………………………………..3 CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUỸ BHXH VÀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH………...3 I. TỔNG QUAN VỀ BHXH …………………………………………………………… .3 1. Khái niệm BHXH…………………………………………………………………...3 2. Bản chất của BHXH………………………………………………………………...4 3. Đối tượng và chức năng của BHXH………………………………………………. .5 4. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH…………………………………………………….. .7 5. Hệ thống các chế độ BHXH………………………………………………………...8 II.

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1382 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÝ LUÂN CHUNG VỀ QUỸ BHXH ……………………………………………… .9 1. Khái niệm quỹ BHXH……………………………………………………………....9 2. Đặc trưng của quỹ BHXH…………………………………………………………10 3. Vai trò của quỹ BHXH…………………………………………………………….12 4. Nguồn hình thành và sử dụng quỹ BHXH…………………………………………14 5. Mô hình quỹ BHXH……………………………………………………………….17 6. Các nhân tố tác động đến quỹ BHXH……………………………………………...18 7. Các nguyên tắc cân đối quỹ BHXH………………………………………………..20 III. VẤN ĐỀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH …………………………………………………..21 1. Sự cần thiết của đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH …………………………………..21 2. Đặc điểm của đầu tư quỹ BHXH…………………………………………………..22 3. Nguyên tắc cơ bản đầu tư quỹ BHXH……………………………………………..23 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư quỹ BHXH………………………….25 5. Sử dụng vốn đầu tư từ quỹ BHXH………………………………………………..26 6. Đánh giá hiệu quả đầu tư quỹ BHXH……………………………………………. 30 CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TĂNG TRƯỞNG QUỸ BHXH VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA……………………. 33 I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BHXH VIỆT NAM…………………………………….. 33 1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của BHXH Việt Nam………….. 33 2. Chức năng và nhiệm vụ của BHXH Việt Nam……………………………………35 3. Hệ thống tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam………………………………….. 37 II. THỰC TRẠNG QUỸ BHXH VIỆT NAM…………………………………………40 1. Quỹ BHXH Việt Nam giai đoạn từ trước năm 1995……………………………...40 2. Quỹ BHXH Việt Nam giai đoạn từ năm 1995 đến nay……………………………43 3. Quỹ BHXH Việt Nam và nguy cơ mất cân đối quỹ……………………………….54 III. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH VIỆT NAM………………... 57 1. Các quy định pháp lý……………………………………………………………....57 2. Thực trạng hoạt động đầu tư quỹ BHXH…………………………………………..58 3. Kinh nghiệm đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH ở một số nước và một số trung gian tài chính khác………………………………………………………………………...64 CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TĂNG TRƯỞNG QUỸ BHXH VIỆT NAM…………………………………….70 I. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN BHXH VIỆT NAM…………..70 1. Mục tiêu phát triển BHXH Việt Nam …………………………………………….70 2. Phương hướng phát triển BHXH của Đảng và Nhà nước………………………....71 II. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH VIỆT NAM……………………………………………………………………………....72 1. Đầu tư quỹ BHXH phải đứng trên lợi ích của người lao động, của Nhà nước và của xã hội…………………………………………………………………………… …..72 2. Đầu tư vào các tài sản tài chính là chiến lược lâu dài và quan trọng nhất trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH……………………………………………………………………………….73 3. Tham gia vào thị trường chứng khoán……………………………………………..74 III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH VIỆT NAM……....75 1. Giải pháp nâng cao hiệu quả tạo lập nguồn vốn…………………………………...75 2. Giải pháp tổ chức quản lý nguồn vốn đầu tư……………………………………....79 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ BHXH ………………………………….79 VI. ĐIỀU KIỆN CHO VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH ……...81 1. Về phía Nhà nước………………………………………………………………….81 2. Về phía Bảo hiểm xã hội Việt Nam………………………………………………..82 KẾT LUẬN………………………………………………………………………………84 TÀI LIỆU THAM KHẢO LỜI MỞ ĐẦU Trên thế giới, BHXH đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Ngày nay, BHXH đã trở thành một công cụ bảo vệ hữu hiệu mang tính nhân văn sâu sắc, giúp con người vượt qua được những khó khăn rủi ro phát sinh trong cuộc sống và trong quá trình lao động như: ốm đau, chăm sóc y tế, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, tuổi già…Vì thế BHXH ngày càng trở thành nền tảng cơ bản cho ASXH của mỗi quốc gia và được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đến nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến đời sống cán bộ, công nhân viên cũng như toàn dân; cụ thể là luôn quan tâm đến phát triển chế độ chính sách BHXH, trong đó vấn đề đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH ngày càng được quan tâm đặc biệt. Kể từ năm 1995 đến nay, số dư quỹ BHXH liên tục tăng; nhưng nếu xét trong trạng thái “động”, cân đối trong thời gian dài khoản 50 năm thì nguy cơ mất cân đối quỹ BHXH đã được các nhà hoạch định chính sách và quản lý BHXH dự báo: Nếu tính toán theo như chế độ hiện hành thì khoảng năm 2020 thu sẽ cân đối chi, sau đó quỹ giảm dần và đến năm 2030 thì quỹ BHXH sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất khả năng chi trả. Để khắc phục tình trạng thiếu hụt của quỹ xảy ra trong tương lai, tăng tiềm lực tài chính cho quỹ và để giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN, thì việc đẩy mạnh hiệu quả đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH là giải pháp quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu trên và khắc phục những thiếu hụt quỹ, em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong thời gian tới”. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, nên em rất mong được sự góp ý đánh giá quý báu của các thầy cô để giúp em nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề này. Để hoàn thành được đề tài này, em đã nhận được rất nhiều sụ giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn, của các cán bộ đang làm việc tại BHXH Việt Nam nói chung và tại Ban Kế hoạch - Tài chính nói riêng. Qua đây cho phép em gủi lời cảm ơn đến Thạc sỹ Nguyễn Ngọc Hương và các cô chú anh chị đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực tập tốt nghiệp, hoàn thiện chuyên đề này Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh sách tài liệu tham khảo, nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về quỹ BHXH và đầu tư quỹ BHXH Chương II: Thực trạng hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Việt Nam trong thời gian qua Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Việt Nam Hà nội, tháng 4 năm 2007 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Huyền Thu NỘI DUNG CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUỸ BHXH VÀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH I. TỔNG QUAN VỀ BHXH 1. Khái niệm BHXH Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại…Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đâu hay bị tai nạn lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm…Khi rơi và những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: Cần được khám chữa bệnh và điều trị ốm đâu, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng…Bởi vậy muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước…Rõ ràng, những cách đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. Khi nền kinh tế phát triển thì quan hệ thuê mướn cũng ngày càng phổ biến và quan hệ chủ thợ cũng hình thành. Để đảm bảo lợi ích của người lao động Chính phủ đã xây dựng lên một quỹ chung do Chính phủ đứng ra tổ chức và yêu cầu: - Giới chủ phải trích từ phần lợi nhuận thu được một khoản tiền nhất định để đóng góp vào quỹ này; - Giới thợ phải trích từ tiền công, tiên lương hàng tháng một khoản nhỏ để nộp vào quỹ này; - Chính phủ hứa sẽ bảo trợ cho quỹ và thậm chí bù thiếu cho quỹ. Quỹ này được sử dụng với mục đích để phân phối lại cho những người lao động không may bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động…Mối quan hệ ràng buộc như vậy được thế giới gọi là BHXH đối với người lao động. Cho đến nay vẫn chưa có được một khái niệm chính thống về BHXH. Trong đề tài này chỉ xin đưa ra hai khái niệm khá phổ biến về BHXH: - “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội”. - “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biệm pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của chính phủ ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm mất thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết”. Đây là khái niệm về BHXH của tổ chức lao động quốc tế ILO, phản ánh một các tổng quát về mục tiêu, bản chất và chức năng của BHXH đối với mỗi quốc gia. Mục tiêu cuối của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội đối với mỗi người. 2. Bản chất của BHXH Cùng với quá trình phát triển, tiến bộ của loài người, BHXH được coi là một chính sách xã hội quan trọng của bất kì Nhà nước nào, nhằm bảo đảm an toàn cho sản xuất, cho đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong xã hội. Với cách hiểu như vậy, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu: - BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước. - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản…Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. - Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. - Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá : + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ; + Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật; + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thừa nhận. 3. Đối tượng và chức năng của BHXH 3.1. Đối tượng của BHXH BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh ở các nước châu Âu. Tuy ra đời lâu như vậy, nhưng đối tượng của BHXH vẫn có nhiều điểm chưa thống nhất, đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH với đối tượng tham gia BHXH. BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu…Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH. Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nứoc mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó. 3.2. Chức năng của BHXH Với đối tượng nói trên, BHXH có những chức năng chủ yếu sau: - Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đây là chức năng cơ bản nhất, nó liên quan đến toàn bộ hoạt động BHXH nói chung. Sở dĩ như vậy vì: + Nó góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ từ một nguồn thu nhập khác là BHXH; + Việc thay thế hoặc bù đắp ở đây liên quan đến toàn bộ quá trình lao động và người lao động, quá trình này thể hiện chủ yếu ở tiền lương tiền công; + Việc thay thế hoặc bù đắp ở đây lại phụ thuộc chủ yếu ở quỹ BHXH. - Phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Chức năng này góp phần trực tiếp đảm bảo tính công bằng xã hội. - Góp phần kích thích người lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất để từ đó nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa người lao động - người sử dụng lao động - xã hội. Sở dĩ như vậy là vì: + Cả ba bên đều thấy mình có lợi; + Chính sách BHXH ra đời góp phần thực hiện an sinh xã hội không chỉ trong phạm vi quốc gia mà trong phạm vi quốc tế. 4. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Điều này cũng có nghĩa là khó có thể có những nguyên tắc chung thống nhất áp dụng cho mọi thời kỳ, mọi quốc gia. Tuy nhiên BHXH cũng có những nguyên tắc hoạt động cơ bản: - Nguyên tắc: “Số đông bù số ít”. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch của BHXH nói riêng và của bảo hiểm nói chung. Nó được quán triệt trong quá trình lập quỹ dự trù và chi trả bảo hiểm. - Nguyên tắc: “Đảm bảo mọi thành viên trong xã hội đều có quyền tham gia và được hưởng quyền lợi từ BHXH”; BHXH là một trong những quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi trong tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 như sau: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế,xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người”. - Nguyên tắc: “ BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện”; BHXH bắt buộc là cơ sở để tiến tới thực hiện BHXH toàn dân và tiến tới xây dựng hệ thống chế độ BHXH tối ưu nhất. Tính bắt buộc được thực hiện trong các nghĩa vụ tham gia và nghĩa vụ đóng góp, gồm mức đóng góp về tiền và thời gian cần thiết của việc tham gia đối với từng chế độ BHXH cụ thể. Hơn nữa, tính bắt buộc này được thể hiện hoá ở hầu hết các nước dưới hình thức các chính sách, chế độ BHXH, cụ thể là những quy định của Chính phủ hay luật BHXH. Tính tự nguyện trong BHXH chính là việc cho phép người lao động tham gia BHXH có quyền lựa chọn hình thức và chế độ tham gia cho phù hợp với nhu cầu và khả năng của bản thân. - Nguyên tắc: “ Đảm bảo tính công bằng trong xã hội”; Tính công bằng trong BHXH gồm công bằng trong cơ hội tham gia BHXH, trong tỷ lệ hợp lý giữa mức đóng và mức hưởng, tất cả nhằm mục đích chủ yếu vì lợi ích của số đông cộng đồng. Mặc dù vậy, tính công bằng tuyệt đối là không thể có vì BHXH còn hoạt động theo một nguyên tắc chung của bảo hiểm đó là nguyên tắc: “Số đông bù số ít”. - Nguyên tắc: “ Xác định mức đóng và hưởng hợp lý”; Đóng và hưởng phải hợp lý thì chính sách BHXH đó mới đảm bảo được tính công bằng. Mặt khác, sự hợp lý này còn ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng người tham gia thực tế, quyết định sự thành công của chính sách BHXH đối với mỗi quốc gia; có như vậy người lao động mới tự giác đóng góp vào quỹ BHXH theo quy định. - Nguyên tắc: “ BHXH phải đảm bảo chi trả bù đắp được thu nhập cho người lao động để họ có thể duy trì được cuộc sống ở mức tối thiểu khi họ bị mất sức lao động tạm thời cũng như nghỉ hưu”. 5. Hệ thống các chế độ BHXH Chính sách BHXH là một trong những chính sách cơ bản nhất của mỗi quốc gia, thường được Nhà nước luật hoá căn cứ vào điều kiện kinh tế, xã hội của quốc gia trong mỗi thời kỳ cũng như đặc điểm của nguồn lao động xã hội và việc phân ngành kinh tế xã hội…Còn chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH của mỗi nước; cụ thể hoá mục đích của từng chế độ, đối tượng hưởng, điều kiện hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng trợ cấp BHXH. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1919), tổ chức lao động quốc tế được thành lập ( viết tắt là ILO). Sự kiện này đã góp một phần rất quan trọng trong việc phát triển chính sách BHXH. Năm 1952, ILO có khuyến cáo các nước trên thế giới tham gia công ước 102 (Tháng 6 năm 1952 tại Giơne vơ - Thụy Sỹ). Tại công ước này, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm 9 chế độ: 1. Chăm sóc y tế 2. Trợ cấp ốm đau 3. Trợ cấp thất nghiệp 4. Trợ cấp tuổi già 5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp 6. Trợ cấp gia đình 7. Trợ cấp sinh đẻ 8. Trợ cấp tàn tật 9. Trợ cấp tiền tuất Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3); (4); (5); (8); (9). Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau: + Các chế độ được xây dựng theo luật pháp các nước; + Hệ thống các chế độ mang tính chất san sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính; + Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định; + Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ; + Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH; + Các chế độ BHXH thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội. Toàn bộ hệ thống cũng như mỗi chế độ BHXH trong hệ thống trên khi xây dựng đều phải dựa vào những cơ sở như: Cơ cấu ngành kinh tế quốc dân, tiền lương và thu nhập của người lao động, hệ thống tài chính của quốc gia…Đồng thời tùy từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học, yếu tố môi trường như: Tuổi thọ bình quân của người lao động, nhu cầu dinh dưỡng, xác suất tai nạn lao động và tử vong, độ tuổi sinh đẻ của lao động nữ, môi trường lao động… II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUỸ BHXH 1. Khái niệm quỹ BHXH Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp những biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Ngân sách Nhà nước và quỹ BHXH có nhiều điểm tương đồng trong quá trình tạo lập và sử dụng. Hoạt động của NSNN và quỹ BHXH đều không nhằm mục đích kiếm lời. Quá trình hình thành và sử dụng của mỗi loại đều được biểu hiện dưới hình thức giái trị (tiền tệ). Việc thu - chi ngân sách và quỹ BHXH đều được quy định bằng pháp luật và cơ chế quản lý phải tuân theo nguyên tắc cân đối nguồn thu và chi … Tuy nhiên, giữa NSNN và quỹ BHXH có những điểm khác nhau cơ bản. NSNN ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước và thực hiện chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Bộ máy Nhà nước càng lớn, chức năng và nhiệm vụ càng mở rộng thì thu chi ngân sách càng lớn. Quan hệ phân phối của nhà nước mang tính pháp lý rất cao và dựa vào quyền lực chính trị, kinh tế của Nhà nước. Quan hệ phân phối này chủ yếu là phân phối lại, không mang tính chất hoàn trả và phản ánh lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, nó chi phối các quan hệ, các lợi ích bộ phận và cá nhân nhằm đảm bảo cho nền kinh tế - xã hội được phát triển ổn định. Trong khi đó, quỹ BHXH ra đời, tồn tại và phát triển với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, các quan hệ thuê mướn nhân công. Mặc dù thu - chi BHXH đều được Nhà nước quy định bằng các văn bản pháp luật, nhưng chủ yếu dựa vào quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích giữa các bên tham gia theo nguyên tắc có tham gia thì mới được hưởng quyền lợi BHXH. Quan hệ phân phối của quỹ BHXH có tính chất pháp lý thấp hơn NSNN và mối quan hệ này trước hết phản ánh lợi ích của các bên tham gia BHXH, sau đó mới đến lợi ích xã hội. Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. 2. Đặc trưng của quỹ BHXH Mặc dù là một quỹ tài chính nhưng phục vụ cho mục tiêu xã hội, vì vậy quỹ BHXH có những nét đặc trưng riêng khác với những loại quỹ tài chính khác.Cụ thể: - Việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH không vì mục tiêu lợi nhuận Mục đích khi hình thành quỹ BHXH là nhằm huy động sự đóng góp của người lao động,người sử dụng lao động, Nhà nước trong một số trường hợp và các nguồn thu hợp pháp khác để có một lượng tiền đủ lớn, đảm bảo đủ chi trả các trợ cấp BHXH cho các trường hợp bị giảm hoặc bị mất hẳn các khoản thu nhập thường xuyên từ lao động do gặp phải những sự kiện hoặc những “rủi ro xã hội” đã nêu và những chi phí cho hoạt động thường xuyên của bộ máy BHXH. Khác với bảo hiểm thương mại, trong kết cấu phí BHXH không tính phần lợi nhuận của bên bảo hiểm (cơ quan BHXH). Trong tổng phí BHXH chỉ bao gồm phí thuần và phụ phí (bao gồm quản lý phí và phí dự phòng - nếu có). Trong quá trình sử dụng quỹ, các chi phí chi trả trợ cấp BHXH chiếm phần lớn trong tổng chi, phần chi quản lý thường chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp và những chi phí này là những chi phí thực sự cần thiết đảm bảo cho cả hệ thống hoạt động bình thường. - Quỹ BHXH vừa có tính chất hoàn trả vừa có tính chất không hoàn trả: Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ: người lao động vừa là đối tượng tham gia và đóng góp BHXH, đồng thời họ cũng là đối tượng nhận trợ cấp, được chi trả từ quỹ BHXH cho dù chế độ, thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người khác nhau tuỳ thuộc vào những biến cố, rủi ro mà họ phải gặp, cũng như mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của họ. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ: cùng tham gia và đóng góp BHXH, nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau, nhưng có những người được ít lần hơn thậm chí không được hưởng. Chính từ đặc điểm này nên một số đối tượng được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH thường lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của họ và ngược lại. Điều đó thể hiện tính chất xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH. - Quỹ BHXH có quá trình tích luỹ để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính. Đặc trưng này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người lao động. Vì vậy, đến lượt mình BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Nhiều nhà kinh tế cho rằng: Quỹ BHXH là “của để giành” của người lao động phòng khi ốm đau tai nạn, tuổi già… Nguồn quỹ này được đóng góp và tích luỹ lại trong suốt quá trình lao động. Nếu xem xét tại một thời điểm cụ thể nào đó, quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi để chi trả trong tương lai. Lượng tiền này có thể biến động tăng cũng có thể biến động giảm do mất an toàn, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Do đó, bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH. - Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Quỹ BHXH là khâu tài chính trung gian cùng với NSNN và tài chính doanh nghiệp hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên, mỗi khâu tài chính được tạo lập, sử dụng cho một mục đích riêng và gắn với một chủ thể nhất định. Vì vậy, chúng luôn độc lập với nhau trong quản lý và sử dụng. Thế nhưng tài chính BHXH, NSNN và tài chính doanh nghiệp lại có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật Nhà nước. - Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Kinh tế - xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH, nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng cao. Đồng thời khi kinh tế - xã hội ngày càng phát triển người lao động và người sử dụng lao động sẽ có thu nhập cao hơn, do đó họ càng có điều kiện tham gia và đóng góp BHXH… 3. Vai trò của quỹ BHXH - Vai trò đối với bản thân hệ thống BHXH Quỹ BHXH được coi là “xương sống” của hệ thống BHXH. Hệ thống BHXH có ổn định và phát triển được hay không phụ thuộc vào sự hoạt động của quỹ BHXH. Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm bao gồm: người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước; trong một số trường hợp còn có các nguồn thu khác được dùng để chi trả cho những trường hợp được hưởng trợ cấp BHXH theo quy định của pháp luật về BHXH và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH. Như vậy, vai trò của quỹ BHXH được thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, đối với người lao động: người lao động khi tham gia BHXH, nếu gặp những biến cố hay những “rủi ro xã hội” như thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, thất nghiệp …, thông qua hệ thống trợ cấp BHXH được nhận những khoản tiền bảo hiểm để trang trải cho những chi phí do những biến cố hoặc rủi ro xã hội này gây ra. Ở đây, quỹ BHXH có vai trò rất lớn là bù đắp hỗ trợ cho những thiếu hụt về thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ lao động nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất thu nhập từ lao động nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động do những biến cố hoặc “rủi ro xã hội” nêu trên. Nói cách khác¸quỹ BHXH giữ vai trò góp phần đảm bảo an toàn cho người lao động và gia đình họ. Tuy nhiên, mức độ đảm bảo thu nhập đến đâu và được thực hiện như thế nào phụ thuộc vào khả năng thanh toán của quỹ BHXH và phụ thuộc vào chính sách BHXH của quốc gia trong mỗi thời kỳ, trên cơ sở nguyên tắc trợ cấp BHXH không được cao hơn so với tiền lương thu nhập từng nghề nghiệp trước khi nghỉ hưởng trợ cấp BHXH, nhưng không được thấp hơn tiền lương tối thiểu do nhà nước quy định. Nếu như quỹ BHXH thu được nhiều (thu đúng, thu đủ và đầu tư tăng trưởng tốt) và số người bị rủi ro ít (số người thụ hưởng ít) thì mức độ đáp ứng của quỹ BHXH cao hơn. Ngược lại, nếu như nguồn thu của quỹ thấp (thu không được đủ, đầu tư tăng trưởng quỹ kém…)và số người bị rủi ro nhiều… thì mức độ đáp ứng của quỹ sẽ bị thấp đi. Tuy nhiên như đã nêu ở trên, quỹ BHXH không chỉ là một quỹ xã hội, nên dù muốn hay không, trợ cấp BHXH cũng phải đảm bảo ở mức độ nhất định cho người lao động. Đây là vai trò nổi trội, hơn hẳn của quỹ BHXH so với các loại quỹ tài chính khác. Thứ hai, đối với hệ thống BHXH: Để cả hệ thống BHXH hoạt động được bình thường, các hoạt động nghiệp vụ và các hoạt động quản lý đòi hỏi phải có những chi phí nhất định. Ở hầu hết các nước, các chi phí này tuỳ theo từng nước được tính bằng một tỷ lệ nhất định trên tổng thu của quỹ BHXH, hoặc được ấn định bằng một mức nào đó trên cơ sở những chi phí của những năm trước đó. Tuy nhiên, dù tính theo cách nào thì những chi phí này đều do quỹ BHXH đảm bảo. Như vậy, hiệu quả hoạt động của bộ máy BHXH, đời sống của các nhân viên ngành BHXH, ở mức độ nào đó phụ thuộc vào tình hình hoạt động (bao gồm cả hoạt động đầu tư) của quỹ BHXH. Mặt khác, quỹ BHXH do tính đặc thù của hoạt động BHXH nên có một bộ phận của quỹ tạm thời nhàn rỗi. Phần nhàn rỗi này của quỹ BHXH được đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau cảu nền kinh tế. Thông qua hoạt động đầu tư của quỹ BHXH tạo thêm nguồn lực tài chính để duy trì và phát triển hệ thống BHXH; đồng thời việc đầu tư tăng trưởng quỹ sẽ tăng cường khả năng chi trả thường xuyên cho các đối tượng được hưởng chế độ BHXH. - Vai trò của quỹ BHXH đối với nền tài chính quốc gia Như đã nêu, với tư cách là một quỹ tài chính, dòng tiền của quỹ BHXH luôn luôn được lưu thông và vì vậy ảnh hưởng đến nền tài chính chung của quốc gia. Hoạt động của Quỹ BHXH được thể hiện ở hai dòng di chuyển của tiền tệ là dòng di chuyển vào và dòng di chuyển ra. Dòng di chuyển vào thông qua sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và các nguồn thu khác. Dòng di chuyển này về cơ bản là một phần thu nhập của dân cư, của doanh nghiệp đưa vào BHXH (trên cơ sở đóng phí). Nói cách khác, quỹ BHXH (từ giác độ dòng tiền vào) đã thúc đẩy quá trình lưu thông tiền tệ trong dân cư - mọi sự lưu thông có chủ định và vì vậy có vai trò điều chỉnh nhất định dòng tài chính quốc gia. Dòng di chuyển ra của BHXH là các chi phí BHXH bao gồm chi trả các trợ cấp BHXH và các chi phí cho hoạt động nội bộ BHXH. Các chi phí này rất lớn và như vậy quỹ BHXH có vai trò máy bơm tiền vào lưu thông tạo ra cơ cấu về tiêu dùng. Mặt khác thông qua việc đầu tư vốn vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế, quỹ BHXH cũng cung cấp một lượng vốn lớn và đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, trong điều kiện nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế không ngừng tăng lên, thì việc cung ứng vốn cho nội bộ nền kinh tế thông qua các tụ điểm tài chính như quỹ BHXH có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nói cách khác thông qua dòng di chuyển ra, quỹ BHXH đã làm tăng quy mô tài chính cho nền kinh tế; không những thế, quỹ BHXH còn góp phần điều chỉnh cơ cấu tài chính, cơ cấu đầu tư, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước… Ngoài ra, thông qua việc đầu tư như mua tín phiếu, trái phiếu kho bạc nhà nước, công trái xây dựng tổ quốc hoặc cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng vay…, quỹ BHXH đã tham gia m._.ột cách đắc lực vào việc thực hiện các chính sách tiền tệ, giữ vững sự ổn định tiền tệ và góp phần kiểm soát lạm phát. - Vai trò đối với chính trị - xã hội: Việc hình thành quỹ BHXH tạo ra hệ thống an toàn xã hội, thông qua quá trình phân phối lại quỹ BHXH góp phần thực hiện mục tiêu đảm bảo an toàn xã hội về kinh tế cho mọi thành viên trong xã hội. 4. Nguồn hình thành và sử dụng quỹ BHXH 4.1. Nguồn hình thành quỹ BHXH Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây: - Người sử dụng lao động đóng góp - Người lao động đóng góp - Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm - Các nguồn khác (như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi). Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau. Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế đọ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH … Mức đóng BHXH thực chất là phí BHXH, phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thế có những căn cứ tính toán khác nhau: - Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở xác định mức phí đóng - Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng. - Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ đó có thế xác định được mức phí phải đóng. Phí BHXH xác định theo công thức: P = f1 + f2 +f3 Trong đó: P - Phí BHXH f1 - Phí thuần tuý trợ cấp BHXH f2 - Phí dự phòng f3 - Phí quản lý Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn, ngoài ra phải có phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn. 4.2. Sử dụng quỹ BHXH Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau đây: - Chi trợ cấp cho các chế độ bh - Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH - Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Trong đó, chi trợ cấp BHXH theo các chế độ là lớn nhất và quan trọng nhất, khoản chi này thường được thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc, có thu mới có chi, thu trước chi sau. Vì vậy, quỹ chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có nguồn thu. Thu ở chế độ nào thì chi ở chế độ đó. Tuy nhiên, quá trình sử dụng quỹ BHXH mà phần sử dụng nhiều nhất là chi trả các chế độ còn phụ thuộc vào việc thành lập quỹ BHXH theo phương thức nào: - Nếu chỉ thành lập một quỹ BHXH tập trung thống nhất thì việc chi trả cũng phải đảm bảo tính thống nhất theo các nội dung chi. - Nếu quỹ BHXH được hình thành theo 2 loại: Quỹ BHXH ngắn hạn và quỹ BHXH dài hạn thì việc chi trả và quản lý chi sẽ cụ thể hơn. Phương thức này đảm bảo cho công tác chi trả sát thực tế và đúng mục đích hơn. Đồng thời tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia các chế độ BHXH dài hạn. - Nếu quỹ BHXH được thành lập theo từng chế độ (còn gọi là quỹ BHXH thành phần) thì việc chi trả sẽ càng trở nên đơn giản và đảm bảo đúng mục đích. Nội dung chi trả: gắn liền với nội dung kinh tế - xã hội của từng chế độ hoặc từng nhóm chế độ. Cụ thể: + Đối với chế độ hưu trí và tử tuất Việc chi trả bắt nguồn từ việc bảo hiểm thu nhập cho người lao động bị già yếu hết tuổi lao động và qua đời mà bất kỳ người lao động nào cũng phải trải qua. Muốn được chi trả, người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia đóng góp. Quyền lợi được hưởng tương ứng với mức đóng góp phí BHXH của từng người lao động. Phí BHXH nộp cho các chế độ hưu trí và tử tuất được cơ cấu vào tiền lương, tiền công. + Đối với chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Nội dung chi trả bắt nguồn từ việc ổn định sản xuất kinh doanh, ổn định kinh tế cho người sử dụng lao động và ổn định cuộc sống cho người lao động khi họ bị ốm đau, tai nạn hoặc thai sản. Để có quỹ chi trả, người sử dụng lao động và người lao động đều phải có trách nhiệm đóng phí. Số phí này cũng phải được hạch toán đầy đủ vào giá thành sản phẩm để tạo nguồn tài chính nộp phí bảo hiểm. Phương thức này có ưu điểm là dễ dàng cân đối thu chi, từ đó góp phần xác định mức đóng và mức hưởng trong từng chế độ một các chính xác. Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng cho chi quản lý như: Tiền lương cho những người làm việc trong hệ thống BHXH, khấu hao tài sản cố định,văn phòng phẩm,…Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lời, mục đích đầu tư quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ. 5. Mô hình quỹ BHXH Xét dưới góc độ nguồn tài chính để hình thành, quỹ BHXH có các mô hình sau: - Quỹ BHXH Nhà nước: Theo mô hình này, quỹ BHXH có nguồn hình thành duy nhất là do NSNN cấp. Chủ sử dụng lao động và người lao động không phải đóng góp vào quỹ. - Quỹ BHXH hỗn hợp (Mô hình quỹ BHXH theo nền kinh tế thị trường): Ở mô hình này quỹ BHXH có 3 loại: + Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, người lao động, Nhà nước đóng góp và hỗ trợ. + Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động và của người tham gia BHXH. + Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, Nhà nước đóng và hỗ trợ. Người tham gia bảo hiểm không phải đóng góp vào quỹ. - Quỹ BHXH cá nhân (Quỹ BHXH tự nguyện). Theo mô hình này, quỹ BHXH có nguồn hình thành duy nhất từ sự đóng góp của cá nhân người tham gia BHXH. Xét dưới góc độ hình thức tham gia thì quỹ BHXH có hai mô hình: - Quỹ BHXH bắt buộc: Nhà nước ban hành chính sách, chế độ tạo lập và sử dụng quỹ để bắt buộc một số đối tượng tham gia BHXH. Sự đóng góp của họ hình thành nên quỹ BHXH bắt buộc.Đối tượng tham gia gồm người sử dụng lao động và người lao động. - Quỹ BHXH tự nguyện: Trên cơ sở Nhà nước ban hành chính sách, chế độ tạo lập và sử dụng quỹ để cho đối tượng được quyền tự lựa chọn tham gia phù hợp với điều kiện và nhu cầu của họ. Ở mô hình này, đối tượng tham gia thường là cá nhân không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc hoặc là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nhưng họ tham gia bổ sung để được hưởng quyền lợi ngoài chế độ BHXH bắt buộc. Xét dưới góc độ thời gian hưởng chế độ BHXH thì quỹ có 2 mô hình: - Quỹ BHXH ngắn hạn: Quỹ được hình thành từ sự đóng góp của đối tượng tham gia BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn như: ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hưởng một lần. - Quỹ BHXH dài hạn: Quỹ được hình thành từ sự đóng góp của đối tượng tham gia BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH dài hạn như: Hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp trả hàng tháng. Xét dưới góc độ cân đối thu - chi thì quỹ có 2 mô hình cơ bản: - Mô hình toạ thu - toạ chi: Cân đối quỹ được xác định hàng năm, thu không đủ chi thì Ngân sách Nhà nước cấp bù (giống như mô hình quỹ nước tha trước năm 1995) - Mô hình tồn tích: Cân đối quỹ BHXH được xác định dài hạn; dựa vào các phương pháp tính toán thống kê, xác suất theo quy luật số lớn để xác định tổng nguồn thu vào quỹ BHXH và tổng số chi ra từ quỹ BHXH, để tính cân đối thu - chi dài hạn khoảng 10, 20 và 30 năm. Trong mô hình này có hai loại là tồn tích cá nhân và tồn tích cộng đồng. Với mô hình tồn tích cá nhân thì mọi sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, của người lao động, khoản tiền lãi đầu tư trong năm được lưu giữ và tồn tích vào một tài khoản cá nhân cho từng người, thuộc quyền sở hữu của cá nhân họ; Ở mô hình này thì không sợ mất cân đối quỹ, nhưng lại làm mất bản chất của BHXH là chia sẻ rủi ro, thực chất là “khoản tiết kiệm bắt buộc”. Quỹ BHXH theo mô hình tồn tích cộng đồng (giống của nước ta hiện nay) đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng, mang đúng bản chất của BHXH; quỹ được dùng chung cho tất cả mọi người tham gia BHXH nên tính nhân văn và xã hội cao; có thể hình dung, quỹ BHXH như một ngôi nhà chung của mọi người tham gia BHXH, dùng che trở cho họ khi gặp rủi ro, ngôi nhà này càng to càng vững chắc thì khả năng che trở càng tốt. 6. Các nhân tố tác động đến quỹ BHXH - Chính sách tiền lương - tiền công: Thu nhập của người lao động là đối tượng của BHXH. Vì vậy, chính sách tiền lương là nhân tố đầu tiên tác động đến quy mô của quỹ BHXH. Giữa chính sách tiền công - tiền lương và chính sách BHXH nói chung và việc tăng giảm quỹ BHXH nói riêng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chính sách tiền lương là tiền đề và là cơ sở cho việc thực hiện chính sách BHXH, trên cơ sở tính toán mức đóng và mức hưởng BHXH lại phụ thuộc vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Như vậy, khi Nhà nước nâng mức lương tối thiểu lên thì mức đóng BHXH cũng tăng lên và đương nhiên số thu BHXH cũng tăng lên tương ứng với sự tăng lên của quỹ BHXH. - Lực lượng lao động: Người lao động là đối tượng tham gia BHXH, họ là những người trong độ tuổi lao động, là những người trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội. Như vậy, nếu một quốc gia có dân số “già”- tức là số người trong độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ thấp trong tổng số dân số - sẽ dẫn đến mất cân đối quỹ BHXH bởi vì số người tham gia đóng góp vào quỹ ngày càng ít đi trong khi số người hưởng chế độ BHXH đặc biềt là chế độ hưu trí ngày càng tăng. Mặt khác, do nguyên tắc của BHXH là “số đông bù số ít”, nếu số người tham gia BHXH ngày càng nhiều thì sự rủi ro đến với mỗi người lao động sẽ được dàn trải rất rộng, từ đó tính chất xã hội của bảo hiểm sẽ ngày càng được thể hiện rõ nét, quỹ BHXH sẽ càng vững mạnh, khả năng chi trả tăng lên và làm tăng phần quỹ nhàn rỗi. - Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phản ánh khả năng tiết kiệm tiêu dùng và đầu tư của Nhà nước, vì thế nếu quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định thì chắc chắn đời sống của người dân sẽ cao dần lên, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi, là điều kiện để người lao động tham gia BHXH được nhiều hơn, để các chủ doanh nghiệp sẵn sàng tham gia BHXH cho người lao động và làm giảm tình trạng trốn đóng góp BHXH của họ. Thêm nữa, khi đời sống kinh tế cao thì nhận thức của người lao động cũng cao lên, ngoài việc ý thức bảo đảm cuộc sống hàng ngày cho bản thân và gia đình, họ còn mong muốn có khoản trợ giúp trong tương lai khi không may gặp rủi ro xã hội khiến họ bị mất hoặc bị giảm thu nhập. Tất cả những yếu tố trên tác động tích cực làm tăng thu BHXH. - Mức chi trả các chế độ BHXH: Mức chi trả các chế độ BHXH phụ thuộc vào: số lượng các chế độ BHXH được áp dụng, số người hưởng và tỉ lệ hưởng các chế độ BHXH. Nếu một quốc gia triển khai và áp dụng nhiều các chế độ trong số 9 chế độ thì số thu BHXH ngày càng lớn. Mặt khác, tỉ lệ hưởng càng cao có nghĩa là số tiền chi trả cho các chế độ càng lớn, chính điều này đặt ra yêu cầu thu BHXH ngày càng chặt chẽ hơn để tránh tình trạng mất cân đối quỹ BHXH. Khi tuổi nghỉ hưu càng tăng lên thì mức chi trả lương hưu sẽ giảm, mức thu lại càng tăng nên sẽ giảm nguy cơ mất cân đối quỹ. - Nguồn lãi từ hoạt động đầu tư quỹ BHXH: Nếu quỹ BHXH được thiết kế theo mô hình toạ thu - toạ chi thì quỹ luôn được cân đối ngay trong năm và không có kết dư. Nếu quỹ được thiết kế theo mô hình tồn tích thì hàng năm đều có kết dư, đây là nguồn vốn rất quan trọng để đầu tư vào các lĩnh vực có độ rủi ro thấp. Nếu hoạt động đầu tư có hiệu quả thì tiền lãi từ hoạt động này sẽ làm quy mô quỹ vững mạnh, đảm bảo cân bằng trong thời gian dài. 7. Các nguyên tắc cân đối quỹ BHXH Để quỹ BHXH tồn tại và hoạt động độc lập, về nguyên tắc quỹ phải được cân đối có nghĩa là các khoản thu BHXH tối thiểu phải đảm bảo nhu cầu chi trả các chế độ BHXH và chi quản lý bộ máy. Cân đối quỹ BHXH được hiểu là mối quan hệ tương đương về lượng và sự bằng nhau giữa hai đại lượng thu - chi, ngoài ra cân đối quỹ BHXH còn thể hiện ở việc bố trí cơ cấu và quan hệ số lượng giữa các yếu tố trong cơ cấu thu - chi quỹ BHXH. Cân đối quỹ BHXH về hình thức là cân đối giữa thu và chi. Về thực chất, cân đối quỹ BHXH phản ánh nguồn lực tài chính có thể chi phối trực tiếp, nó thể hiện sự cân đối tài chính trong phạm vi của một quỹ. Cũng giống như sự phát triển của mọi sự vật, cân đối thu - chi quỹ BHXH là tương đối chứ không tuyệt đối, luôn ở trạng thái vận động, cân đối và không cân đối chuyển hoá lẫn nhau. Cân đối quỹ BHXH được thể hiện trong suốt quá trình phát sinh giải quyết mâu thuẫn giữa thu và chi, do đó ít nhiều có số dư có thâm hụt (trong phạm vi cho phép). Các trường hợp đó đều phải coi là phạm vi cân đối cơ bản, đều là hình thức biểu hiện của cân đối quỹ BHXH. Từ sự vận động thu - chi của quỹ BHXH, về nguyên tắc cân đối phải đảm bảo: Tổng số tiền Tổng chi Tổng chi Tổng thu + sinh lời từ = các chế độ + phí cho + Chi khác đầu tư BHXH quản lý Từ đó cho biết nguyên nhân chính làm mất cân đối quỹ BHXH: - Mức độ phát triển của nền kinh tế - Hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH - Cơ cấu hợp lý giữa các khoảng thu- chi BHXH - Cơ chế quản lý tài chính BHXH kém hiệu quả. Các nguyên tắc cân đối quỹ BHXH: Để đảm bảo cho quỹ BHXH tồn tại độc lập với NSNN trong nền kinh tế thị trường và trở thành một bộ phận của hệ thống tài chính quốc gia, một tụ điểm của thị trường tài chính thì nguyên tắc cân đối quỹ BHXH là: - Tổng số thu từ người lao động và chủ sử dụng lao động phải lớn hơn tổng số chi cho các chế độ BHXH và phần tích luỹ ngày càng cao làm gia tăng khoản chi đầu tư tăng trưởng. - Trong trường hợp bội chi quỹ BHXH thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư tăng trưởng quỹ để đảm bảo quỹ luôn được cân đối - Tổng số chi cho các chế độ BHXH dài hạn và ngắn hạn không vượt quá tổng số thu vào các quỹ BHXH dài hạn và ngắn hạn. - Lợi nhuận đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH mang lại phải đảm bảo nguyên tắc: không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích tăng trưởng quỹ BHXH. III. VẤN ĐỀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH 1. Sự cần thiết của đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Trong hoạt động của quỹ BHXH, do tính đặc thù của quá trình thu - chi BHXH nên quỹ BHXH luôn có một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi, phần tiền này với tư cách là một bộ phận tài chính cần phải được đem đầu tư. Có rất nhiều lý do dẫn đến cần phải đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH, nhưng chủ yếu là các lý do sau: - Trong các nguồn thu của quỹ thì có một bộ phận được dụng ngay (cho các trợ cấp BHXH ngắn hạn); nhưng phần lớn dùng để chi trả cho các trợ cấp BHXH dài hạn mà tính từ khi đóng phải hàng chục năm sau mới phải chi (nếu chỉ tính riêng cho từng cá nhân). Đối với những hệ thống BHXH trẻ (như Việt Nam), số người đóng góp hiện tại lớn hơn nhiều so với số người hưởng BHXH hiện tại, thì số tiền chưa được dùng đến ngay rất lớn. Đây được gọi là phần nhàn rỗi tương đối của quỹ BHXH. Theo quy luật tiền tệ, phần nhàn rỗi của quỹ BHXH không được để đóng băng mà phải được đưa vào lưu thông, phải được đầu tư để tránh những rủi ro về tiền tệ như lạm phát và các rủi ro khác. Do vậy, đầu tư trước hết là để đảm bảo giá trị của phần vốn này, mặt khác phần sinh lời thực tế (sau khi đã trừ đi lạm phát) sẽ làm tăng quy mô của quỹ BHXH, góp phần cải thiện cho các trợ cấp ngắn hạn; đồng thời đảm bảo cho các hoạt động của BHXH được tốt hơn cả trong hiện tại và tương lai. - Do thiết kế kỹ thuật, có tính tới yếu tố thu nhập hiện thời của người lao động, nên phí BHXH chỉ là phí tối thiểu. Nếu tính riêng cho một người lao động thì phần đóng góp của họ không đủ chi trả cho họ từ sau khi nghỉ hưu cho đến khi chết. Vì vậy, trong kỹ thuật tính phí BHXH phải dựa trên số đông bù số ít và có tính đến các yếu tố đầu tư. Do vậy, nếu không đầu tư tăng trưởng quỹ thì quỹ BHXH không thể chi dùng đủ cho tương lai, trong khi nhu cầu thụ hưởng của người lao động ngày càng cao theo thời gian. - Là một bộ phận của tài chính quốc gia, muốn nền kinh tế tăng trưởng, cải thiện đời sống chung cho nhân dân, các nguồn lực tài chính phải được huy động tối đa, do vậy sự huy động phần nhàn rỗi của quỹ BHXH vào nền kinh tế là yêu cầu có tính khách quan, vừa góp phần tăng trưởng quỹ, vừa góp phần tăng vốn cho nền kinh tế. Thông qua việc đầu tư vốn vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội hoặc các thị trường tài chính ( thông qua mua cổ phiếu, trái phiếu…), quỹ BHXH đã cung cấp một lượng vốn lớn và đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và tăng trưởng nền kinh tế; góp phần lành mạnh hoá thị trường tài chính của đất nước. - Khi quỹ BHXH ổn định và tăng trưởng, phần chi từ NSNN cho BHXH sẽ giảm đi và NSNN sẽ có điều kiện để tập trung chi vào các mục tiêu trọng yếu khác. - Hiện nay, mặc dù các chế độ ngắn hạn luôn có kết dư, song các chế độ dài hạn như hưu trí và tử tuất thì tốc độ tăng thu luôn thấp hơn tốc độ tăng chi, như vậy trong vòng 30 năm tới nếu chỉ dựa vào các khoản thu thì quỹ có nguy cơ mất cân đối. Vì vậy, phải có biệm pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ. 2. Đặc điểm của đầu tư quỹ BHXH Ở mỗi quốc gia, công tác đầu tư quỹ BHXH đều có những nét riêng, nhưng hầu hết đều có những đặc điểm chủ yếu sau: - Quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở chủ yếu là đóng góp của các bên tham gia BHXH, vốn đầu tư của quỹ không phải là vốn kinh doanh mà là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi dự trữ cho tương lai nhằm để chi trả các trợ cấp BHXH cho người lao động khi tham gia BHXH. Do đó không có khái niệm kinh doanh quỹ BHXH mà chỉ là các hoạt động đầu tư phần nhàn rỗi tương đối của quỹ BHXH. - Sự chuyển quyền sử dụng vốn trong công tác đầu tư quỹ BHXH chủ yếu được tiến hành dưới các hình thức mua bán vốn như: mua cổ phiếu, trái phiếu, công trái, tín phiếu, cho vay, mua bất động sản… - Ở hầu hết các nước, Chính phủ đều quy định danh mục đầu tư, hoặc phân cấp rõ ràng danh mục đầu tư gắn liền với trách nhiệm của các cấp, các ngành để hạn chế rủi ro của quỹ. - Quỹ BHXH là thuộc sở hữu của các bên tham gia đóng góp, đó là quỹ của xã hội dùng để chi cho các chế độ BHXH theo quy định. Vì vậy, việc đầu tư của quỹ phải đảm bảo yêu cầu thu hồi vốn thuận tiện, hết thời hạn đầu tư phải thu hồi được cả vốn và lãi, dễ dàng chuyển đổi các nguồn vốn đem đầu tư thành tiền mặt khi cần. - Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH cũng phải tuân thủ yêu cầu khách quan của các quy luật kinh tế trên thị trường vốn. 3. Nguyên tắc cơ bản đầu tư quỹ BHXH Do quỹ BHXH có những đặc trưng riêng, khác với những tổ chức tài chính khác, nên việc đầu tư tăng trưởng quỹ phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau: - Nguyên tắc: “Đảm bảo an toàn khi đầu tư”. Mục tiêu hình thành quỹ BHXH là để góp phần đảm bảo an toàn thu nhập cho người lao động và sâu sa hơn là đảm bảo an sinh xã hội cho dân cư. Vì vậy, an toàn là nguyên tắc hàng đầu trong việc đầu tư quỹ BHXH. Có thể nói, quỹ BHXH về bản chất là tài sản của nhiều thế hệ lao động, luôn luôn gắn liền với đời sống của hàng triệu người tham gia BHXH và gia đình họ. Quỹ BHXH được bảo toàn và tăng trưởng tốt sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của người lao động tham gia BHXH và góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần ổn định và phát triển đất nước. Ngược lại, nếu quỹ BHXH không được sử dụng đúng, không đảm bảo được giá trị, mất an toàn ( thâm hụt) thì đời sống của người tham gia và thụ hưởng sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên; hậu quả là sé dẫn đến rối loạn xã hội nghiêm trọng. Nhiều Chính phủ đã phải sụp đổ do những vấn đề có liên quan đến lợi ích của người tham gia BHXH. - Nguyên tắc: “khả năng thanh toán thường xuyên”. Mục tiêu lập quỹ BHXH là để đáp ứng được những chi trả các trợ cấp BHXH ở bất cứ thời điểm nào và ở bất cứ đâu. Nói cách khác, quỹ BHXH phải luôn ở chế độ sẵn sàng có tiền để chi trả trợ cấp BHXH định kỳ hoặc đột suất. Chính vì vậy, phần chưa dùng đến của quỹ BHXH mới được gọi là phần nhàn rỗi tương đối. Do đó, nguyên tắc cơ bản khi tổ chức các hoạt động đầu tư của quỹ BHXH là dù đầu tư quỹ vào lĩnh vực nào, dưới hình thức nào cũng phải đảm bảo khả năng chuyển đổi các tài sản đầu tư thành tiền và có thể thu hồi được dễ dàng. Chính phủ nhiều quốc gia thường quản lý danh mục đầu tư chặt chẽ. ILO khuyến cáo trong cơ quan BHXH nên có bộ phận đầu tư và phải có chuyên gia đánh giá đầu tư chuyên nghiệp. Việc đánh giá này phải nêu lên được những ưu nhược điểm của các danh mục dự định đầu tư để có lựa chọn những danh mục hợp lý nhất, đảm bảo nguyên tắc có khả năng thanh toán này. - Nguyên tắc: “ Hiệu quả”. Yêu cầu của nguyên tắc này là đầu tư tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH phải mang lại lợi nhuận. Đây cũng là yêu cầu tất yếu của hoạt động đầu tư, bởi vì mọi đầu tư vốn đều nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Khoản lợi nhuận này phải được thực hiện qua từng dự án đầu tư trong từng giai đoạn cụ thể. Nghĩa là kết quả của hoạt động đầu tư phải cao hơn chi phí đã bỏ ra. Để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi phải tuân thủ quy luật lãi suất dương và lãi suất phải được điều chỉnh kịp thời theo sự biến động của chỉ số lạm phát và lãi suất thị trường; mặt khác, phải có chiến lược đầu tư tổng thể và có lộ trình đầu tư trên cơ sở xác định được danh mục đầu tư, các lĩnh vực đầu tư chủ yếu. - Nguyên tắc: “Đảm bảo phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội”. Quỹ BHXH được dùng để chi trả trả trợ cấp các chế độ BHXH và chi hoạt động nội bộ BHXH; ngoài ra vẫn còn một phần quỹ nhàn rỗi, khoản tiền này khá lớn được tồn tích qua nhiều năm nhiều thế hệ; vì vậy không thể để ứ đọng một chỗ mà phải đem đi đầu tư tăng trưởng quỹ. Đây là một hoạt động rất quan trọng, nó như một “cỗ máy” có vai trò bơm tiền vào lưu thông góp phần phát triển kinh tế. Nói cách khác, quỹ BHXH là một quỹ tài chính nên thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế là hoàn toàn đúng đắn. Yêu cầu của nguyên tắc này là việc đầu tư phải hướng vào sự phát triển bền vững, vì vậy cần có sự đánh giá về hiệu quả đầu tư tăng trưởng quỹ để đảm bảo cân đối thu chi, góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước, đồng thời hoạt động đầu tư quỹ phải gắn với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước như: đầu tư vào các công trình giao thông, các ngành kinh tế trọng điểm của khu vực, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động… - Nguyên tắc: “Đảm bảo lợi ích xã hội”. BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng của Nhà nước. Mục đích của BHXH là đảm bảo thu nhập cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an sinh xã hội và mục đích xa hơn của BHXH là nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nâng cao mức sống chung của dân cư. Vì vậy, song song với các yêu cầu về hiệu quả kinh tế nhằm tăng trưởng quỹ, việc đầu tư quỹ BHXH phải đạt hiệu quả về mặt xã hội, đảm bảo được các lợi ích xã hội, cần chú trọng tới các dự án phục vụ công cộng và các mục tiêu xã hội thực sự cho dù hiệu quả kinh tế đầu tư có thể thấp. Đầu tư quỹ BHXH phải luôn gắn liền với các chính sách về xã hội như dân số, lao động và môi trường sống… Nguyên tắc này phải được vận dụng trong tất cả các nghiệp vụ đầu tư, từ việc xác định danh mục hạn mức đến xác định mức lãi đầu tư vốn, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, đồng thời tuân thủ một cách nghiêm túc yêu cầu khách quan của các quy luật. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư quỹ BHXH 4.1. Các nhân tố khách quan - Môi trường đầu tư: Đây là nhân tố tác động trực tiếp đến hiệu quả đầu tư quỹ. Môi trường đầu tư thuận lợi tạo điều kiện cho cơ quan BHXH đưa luồng tiền tạm thời nhàn rỗi vào hoạt động một cách nhanh chóng nhất, tránh hiện tượng ứ đọng vốn; từ đó tác động tới lợi suất của việc đầu tư, tạo điều kiện lựa chọn danh mục đầu tư ít rủi ro và có lợi suất tối ưu. - Cơ chế pháp lý về đầu tư quỹ: Những định chế pháp lý về đầu tư quỹ BHXH đầy đủ và đồng bộ là yếu tố có tính quyết định tới hiệu quả đầu tư quỹl. Những quy định pháp lý bắt buộc phải được thể chế hoá như: Nguyên tắc đầu tư, danh mục đầu tư, tỉ lệ phân bổ nguồn vốn đầu tư, phân phối lợi nhuận từ hoạt động đầu tư… Một hệ thống định chế pháp đầy đủ và đồng bộ sẽ là cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho quỹ BHXH tham gia đầu tư trên thị trường đồng thời nó cũng tác động tích cực đến lợi tức và rủi ro mong đợi của hoạt động đầu tư. - Chính sách tài chính tiền tệ quốc gia: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ tác động mạnh mẽ đến hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô từ đó tác động đến hiệu quả đầu tư. Đối với chính sách tài khoá, nếu Chính phủ kiểm soát được thâm hụt NSNN, xác định được nguồn bù đắp bội chi cho NSNN làm lành mạnh hoá động NSNN, sẽ là cơ sở để cơ quan BHXH định hướng hoạt động đầu tư. Đối với chính sách tiền tệ, nếu Chính phủ kiểm soát được tỷ lệ lạm phát ở một tỷ lệ thích hợp cũng là cơ sở để cơ quan BHXH xác định một lợi suất mong đợi hợp lý nhằm đảm bảo giá trị thực của quỹ trong tương lai. 4.2. Nhân tố chủ quan - Hiệu quả hoạt động của tổ chức đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH: Đây là yếu tố quyết định đến hiệu quả đầu tư quỹ BHXH. Để đảm bảo lợi ích người lao động thì việc nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ BHXH luôn được thực hiện bởi một tổ chức chuyên trách về đầu tư có trình độ chuyên môn. - Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động đầu tư: Hoạt động đầu tư quỹ BHXH là một hoạt động đầu tư phức tạp đòi hỏi nhiều thông tin từ nhiều phía. Đế cơ quan bảo hiểm ra quyết định đúng đắn thì việc trang bị cơ sở vật chất, thiết bị và công nghệ đầu tư hiện đại là một việc làm thiết yếu trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH. - Sự phối kết hợp với các tổ chức tài chính tín dụng khác: BHXH là một trung gian tài chính phi ngân hàng, hoạt động đầu tư quỹ BHXH đặc biệt là đầu tư vào thị trường tài chính luôn luôn gặp phải sự cạnh tranh của các tổ chức tài chính như Ngân hàng, các công ty Bảo hiểm…, vì vậy hiệu quả của việc phối kết hợp của các tổ chức tài chính trung gian trong nền kinh tế thị trường sẽ tác động đến hiệu quả đầu tư quỹ BHXH đồng thời hạn chế những rủi ro đối với cơ quan BHXH. 5. Sử dụng vốn đầu tư từ quỹ BHXH 5.1. Tiêu chuẩn lựa chọn tài sản đầu tư từ quỹ BHXH Nhà đầu tư xem xét 5 yếu tố trọng điểm sau để làm căn cứ ra quyết định đầu tư: - Của cải: là lượng tài sản có được để đem đi đầu tư và đây là yếu tố quan trọng thể hiện tiềm lực của nhà đầu tư. Đối với BHXH, lượng tài sản này chính là nguồn quỹ tạm thời nhàn rỗi. Thông thường, ở hầu hết các nước, khoản tiền này sẽ được đầu tư vào một danh mục cụ thể theo quy định của pháp luật mỗi nước, tuy nhiên tỷ lệ đầu tư vào các loại hình này lại phụ thuộc rất nhiều vào tiềm lực của nguồn vốn đầu tư. Khi nguồn vốn này tăng lên thì có thể lựa chọn vào nhiều loại hình đầu tư khác nhau, trong đó có thể sử dụng một lượng vốn nhất định để tham gia vào các lĩnh vực đầu tư có lợi nhuận cao nhưng mức độ rủi ro khá lớn; theo tiêu chuẩn này thì tỉ lệ vốn đầu tư vào các loại chứng khoán sẽ tăng cao hơn so với đầu tư vào tiền gửi ngân hàng. Khi lượng tiền trong két tăng lên đến một mức nào đó thì nó có thể đầu tư để kiếm lời, nếu lãi suất tăng lên thì số tiền mặt được gửi để tiến hành giao dịch sẽ giảm xuống. - Lợi suất kỳ vọng: Là hiệu suất sinh lời mà nhà đầu tư mong muốn và dự kiến có thể đạt được khi quyết định bỏ vốn đầu tư. Trong cùng một môi trường đầu tư, Nhà đầu tư sẽ lựa chọn tài sản nào có lợi suất kỳ vọng cao hơn. Đối với BHXH thì tiêu chuẩn này hết sức quan trọng, đặc biệt đối với nghiệp vụ dài hạn với yêu cầu đầu tư phải đạt được lãi suất nhất định. BHXH chỉ có thể đầu tư vào loại tài sản có hiệu suất sinh lời cao nhất khi các yếu tố khác tương tự nhau. - Mức độ rủi ro: Rủi ro thường tương quan với lợi suất kỳ vọng, vì thế để đảm bảo nguyên tắc “an toàn”, BHXH sẽ phải lựa chọn tài sản có mức độ rủi ro thấp chứ không thể ưu tiên loại tài sản có lợi suất kỳ vọng cao. - Tính thanh khoản: Tính thanh khoản là khả năng chuyển đổi các loại tài sản đầu tư thành tiền, nó sẽ giúp cho cơ quan BHXH ổn định chi tiêu và rút vốn trong các trường hợp cần thiết. Tính thanh khoản của các tài sản là khác nhau, tiền mặt có tính thanh khoản cao nhất, sau đó đến trái phiếu, các loại cổ phiếu,…Khi các yếu tố khác không thay đổi, tính thanh khoản của một tài sản này cao hơn so với tài sản kia, dẫn tới lượng cầu về tài sản đó tăng. - Chi phí thông tin: BHXH sẽ phải giảm chi phí cho việc đánh giá TSCĐ. Những tài sản có chi phí thông tin ít như trái phiếu chính phủ, trái phiếu của các tổ chức tín dụng mạnh. Ngược lại, cổ phiếu và trái phiếu công ty, khoản cho vay cho các tổ chức hoặc cá nhân vay đòi hỏi chi phí thông tin lớn. Điều này được thể hiện ở bảng sau: Bảng tiêu chuẩn lựa chọn tài sản đầu tư Các yếu tố Lượng cầu về tài sản Lý do Của cải Tăng Nhà đầu tư có nhiều tiềm lực hơn để lựa chọn Lợi suất kỳ vọng tài sản so với lợi suất mong đợi của tài sản khác. Tăng Nhà đầu tư thu được nhiều lợi nhuận hơn Rủi ro đi liền với lợi tức mong đợi của tài sản Giảm Nhà đầu tư không ưa rủi ro Tính thanh khoản Tăng Tài sản dễ dàng chuyển thành tiền mặt để ổn định chi tiêu Chi phí thông tin Giảm Nhà đầu tư mất nhiều tiền để thu lượm,phân tích lợi tức trên tài sản 5.2. Phương pháp trích lập nguồn vốn đầu tư từ quỹ BHXH * Đặc trưng của nguồn vốn đầu tư (NVĐT) - Là khoản tạm thời nhàn rỗi nhằm thực hiện nhiệm vụ của BHXH đối với người lao động chứ không phải là nguồn vốn kinh doanh. - Quy mô của NVĐT trong quỹ BHXH phụ thuộc vào số người tham gia BHXH, số người hưởng trợ cấp BHXH và chính sách thu - chi quỹ bh - Tỷ trọng vốn đầu tư chiếm trong tổng thể nguồn vốn của quỹ BHXH càng lớn thì khả năng tài chính của quỹ càng vững mạnh. - Nguồn vốn đầu tư trong quỹ BHXH là số tồn tích qua thời gian dài, đây là số vốn thực trong quỹ, điều này khác với nguồn vốn ngân sách. * Phương pháp trích lập NVĐT từ quỹ BHXH Để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đầu tư nguồn ._.ài. CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TĂNG TRƯỞNG QUỸ BHXH VIỆT NAM I. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN BHXH VIỆT NAM 1. Mục tiêu phát triển BHXH Việt Nam Bảo hiểm xã hội là một trong những nội dung cơ bản của quyền con người trong xã hội văn minh. Ở nước ta, BHXH là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa về kinh tế - xã hội - chính trị và nhân văn sâu sắc, đã được hiến pháp quy định: “Hưởng BHXH là quyền của tất cả người lao động trong các thành phần kinh tế”, văn kiện Đại hội đại biểu của Đảng lần thứ VII đã khẳng định: “Thực hiện chế độ BHXH đối vớ người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế”, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Khẩn trương mở rộng hệ thống BHXH và ASXH…thực hiện các chính sách bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm BHXH cho người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế, cứu trợ những người gặp rủi ro bất hạnh.”. Vì vậy, mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý BHXH trong nền kinh tế thị trường là phải xây dựng một quỹ BHXH tồn tại độc lập với NSNN, đảm bảo cân đối tự hạch toán độc lập đúng như bản chất vốn có của nó, đồng thời đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa quyền lợi và nghiã vụ nhằm ổn định cuộc sống của người lao động. BHXH Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cũng như đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước cần phải xác định rõ, đúng đắn mục tiêu và nhiệm vụ sau: - Mọi hoạt động của BHXH đều phải thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần thay thế thu nhập của các đầu tư tham gia BHXH khi họ bị ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN, hưu trí, tử tuất nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho họ. Đó là mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội của đất nước góp phần giữ vững thể chế của Đảng và Nhà nước. - Từng bước thực hiện BHXH đến mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân và tiến tới thực hiện BHYT toàn dân. - Tăng nhanh nguồn thu quỹ BHXH từ sự đóng góp của các bên tham gia, thực hiện chi đúng, chi đủ, kịp thời, giảm đần nguồn chi từ NSNN, đảm bảo cân đối quỹ dài lâu. Phần nhàn rỗi đem đầu tư tăng trưởng mà chủ yếu là trái phiếu Chính phủ và các trái phiếu khác, phần còn lại đầu tư vào các dự án quốc gia nhằm góp phần phát triển kinh tế đất nước. - Nâng cao năng lực quản lý của bộ máy ngành BHXH Việt Nam. 2. Phương hướng phát triển BHXH của Đảng và Nhà nước * Nhận thức đúng vai trò của BHXH trong quản lý Nhà nước, bảo đảm ASXH và nguyên tắc tổ chức, quản lý phát triển BHXH. - BHXH là hoạt động sự nghiệp dịch vụ công, một trong những chức năng của quản lý Nhà nước. Kinh tế thị trường càng phát triển, tăng trưởng càng cao thì nguy cơ phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, nạn thất nghiệp gia tăng, tiềm ẩn bất ổn định xã hội lớn…nên việc tăng cường quản lý Nhà nước với hệ thống chính sách BHXH phù hợp là cơ sở để kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững. - Quán triệt các nguyên tắc cơ bản của BHXH là mở rộng mọi thành viên xã hội tham gia BHXH, đảm bảo tính bền vững của quỹ BHXH, tính ổn định về thể chế tổ chức BHXH (ổn định lâu dài, quản lý hiệu quả), tính chuyên nghiệp và hiện đại, Nhà nước giữ vai trò đóng góp và bảo trợ rủi ro. * Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế BHXH. - Cụ thể hoá Luật BHXH, trong đó tập trung xác định rõ đầu tư tham gia BHXH bắt buộc và tự nguyện; quyền lợi , nghĩa vụ và trách nhiệm của người tham gia BHXH, của tổ chức BHXH, của các Bộ, ngành liên quan như Bộ Lao động – Thương binh xã hội, Bộ nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch và Đầu tư,… - Thể chế tài chính: xác định các nguồn tài chính, có thể quản lý sử dụng quỹ BHXH, các chế độ kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. - Thể chế về tổ chức bộ máy và nhân sự của hệ thống BHXH. * Thực hiện quỹ BHXH tồn tại độc lập với NSNN trong nền kinh tế thị trường và trở thành một bộ phận của hệ thống tài chính Quốc gia, một tụ điểm của thị trường tài chính, thực hiện cân đối thu chi quỹ và các biệm pháp đảm bảo an toàn và tăng trưởng quỹ . * Hoàn thiện mô hình tổ chức bên trong của BHXH Việt Nam. - Mô hình tổ chức BHXH Việt Nam bao gồm cả BHYT là tổ chức sự nghiệp độc lập thuộc Chính phủ là phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính, tách bạch chức năng quản lý hành chính Nhà nước và sự nghiệp dịch vụ công. BHXH Việt Nam là tổ chức thực hiện dịch vụ công về thực hiện các chính sách pháp luật về BHXH. Do đó, cần có quan điểm nhất quán trong việc giữ ổn định mô hình tổ chức BHXH Việt Nam như hiện nay. - Vấn đề tập trung hiện nay là tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức bên trong của hệ thống BHXH Việt Nam theo hướng hình thành các tổ chức dịch vụ bảo hiểm theo từng loại hình bảo hiểm: Bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm thai sản ốm đau, BHYT, tai nạn lao động,…hoặc tổ chức theo mô hình BHXH tự nguyện và bắt buộc. * Xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức ngành BHXH Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, hình thành đội ngũ cán bộ hoạt động xã hội chuyên nghiệp. - Đổi mới nội dung và phương thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đạt tiêu chuẩn ngạch bậc. - Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ, đảm bảo vận hành hệ thống quản lý theo yêu cầu điện tử hoá. * Mở rộng các hoạt động quốc tế trong khu vực và trên thế giới, tham gia các tổ chức tương ứng của khu vực và quốc tế. Chia sẻ kinh nghiệm tổ chức BHXH và kinh nghiệm mở rộng các loại hình BHXH, vấn đề xã hội hoá các hoạt động dịch vụ. II. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH NÓI CHUNG VÀ Ở VIỆT NAM NÓI RIÊNG. 1. Đầu tư quỹ BHXH phải đứng trên lợi ích của người lao động, của Nhà nước và của xã hội. 1.1.Cơ sở quan điểm - Mục đích đầu tư quỹ BHXH trước hết là nhằm đảm bảo thực hiện trách nhiệm của BHXH đối với người lao động, do đó mọi hoạt động luôn đặt lợi ích người lao động lên hàng đầu. - Quỹ BHXH là một quỹ tài chính nằm ngoài NSNN nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống của người lao động, do đó hoạt động đầu tư của quỹ BHXH phải luôn luôn hướng tới mục tiêu tăng trưởng quỹ, dần dần giảm bớt gánh nặng cho NSNN. - Mục tiêu hoạt động của quỹ BHXH là nhằm ổn định và phát triển nền kinh tế - xã hội. Vì thế hoạt động của quỹ BHXH phải góp phần đắc lực vào việc làm tăng lợi ích xã hội đó là tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. 1.2. Định hướng Trong hoạt động đầu tư của quỹ BHXH cần phải có quan điểm rõ ràng và đúng đắn khi đánh giá và lựa chọn phương án đầu tư. Quy trình tạo lập và phân tích các dự án đầu tư phải thực hiện hai nhóm mục tiêu chính đó là: Nhóm mục tiêu về tài chính và nhóm mục tiêu kinh tế - xã hội. - Nhóm mục tiêu tài chính, hoạt động đầu tư của quỹ BHXH phải đạt được lợi nhuận nhất định nào đó, tối thiểu là bằng tỷ lệ trượt giá để hoạt động đầu tư không làm tăng giá trị của quỹ thì ít nhất cũng phải bảo toàn được nguồn vốn đầu tư. - Nhóm mục tiêu kinh tế - xã hội, hoạt động đầu tư của quỹ phải góp phần giải quyết các vấn đề dân số, việc làm và công bằng xã hội. 2. Đầu tư vào các tài sản tài chính là chiến lược lâu dài và quan trọng nhất trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH. 2.1. Cơ sở của quan điểm - Xuất phát từ nguyên tắc đầu tư từ quỹ BHXH, đặc biệt là nguyên tắc an toàn và thanh khoản. Để đảm bảo khả năng thanh toán của các khoản đầu tư, BHXH phải ưu tiên đầu tư vào các tài sản tài chính. - Xuất phát từ nguồn vốn đầu tư của quỹ BHXH là chỉ tạm thời nhàn rỗi, việc đầu tư bằng nguồn vốn này phải hướng vào tài sản tài chính. Chứng khoán đáp ứng được yêu cầu thanh khoản của hoạt động đầu tư quỹ như: Cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ. - Thị trường tài chính nước ta đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiên, các loại tài sản tài chính đã và đang ngày càng đa dạng và mang đến những cơ hội kiếm lời tôt. Như vậy, về lâu dài việc đầu tư vào các loại chứng khoán sẽ phải là hoạt động đầu tư quan trọng nhất của quỹ BHXH. 2.2. Định hướng cơ bản - Để đầu tư quỹ BHXH vào thị trường tài chính thì phải phù hợp với đặc điểm của nguồn vốn đầu tư. BHXH cần phải phân định rõ ràng nguồn vốn đầu tư ngắn hạn và dài hạn có yêu cầu sử dụng không giống nhau. Sau khi phân định nguồn vốn cần phải xây dựng chiến lược phân bổ vốn vào các loại tài sản tài chính sao cho phù hợp với tính chất và đặc điểm của từng nguồn vốn. - Đối với nguồn vốn ngắn hạn, chỉ nên để đầu tư vào các tài sản tài chính ngắn hạn. các loại tài sản này phải có tính lỏng cao và khả năng tạo ra dòng thu nhập trong thời gian ngắn. Do đó, mua và giữ các trái phiếu ngắn hạn, mua và bán cổ phiếu để hưởng chênh lệch giá. - Đối với nguồn vốn dài hạn, cần ưu tiên đầu tư vào các loại chứng khoán dài hạn, các chứng khoán này phải thoả mãn các yêu cầu: Khả năng tạo ra thu nhập cao và ổn định; thời hạn nắm giữ chứng khoán phải trùng khớp với thời gian chi trả dự kiến của các chế độ BHXH dài hạn; lãi suất chứng khoán có thu nhập ổn định, cộng với lãi suất thu được do tái đầu tư, thu nhập đó phải lớn hơn lãi suất giả định làm căn cứ tính phí BHXH dài hạn. Do đó, đầu tư vào trái phiếu là chiến lược quan trọng nhất trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH đặc biệt là trái phiếu Chính phủ. 3. Tham gia vào thị trường chứng khoán Hoạt động đầu tư quỹ BHXH chỉ được thực hiện trên cơ sở phân tích rủi ro và xu hướng vận động của thị trường thông qua việc vận dụng các lý thuyết kinh tế hiện đại đã được kiểm chứng ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. 3.1. Cơ sở quan điểm - Thị trường chứng khoán là một sản phẩm đỉnh cao của kinh tế thị trường. Đó là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán các loại chứng khoán có thể mang lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư. Trong nền kinh tế mọi mô hình và quyết định về tài chính đều phải tính đến yếu tố thị trường chứng khoán như là một vấn đệ mang tính cốt lõi. Do đó hoạt động đầu tư quỹ BHXH cũng không tách rời thị trường chứng khoán. - Tham gia vào thị trường chứng khoán là xu hướng mang tính chiến lược. Tuy nhiên, việc đầu tư vào thị trường này đòi hỏi phải hết sức thận trọng. Để tham gia vào thị trường chứng khoán đòi hỏi phải vận dụng những lý thuyết kinh tế hiện đại về thị trường chứng khoán đã được kiểm chứng ở các nước có nền kinh tế phát triển để có quyết định đầu tư đúng đắn. 3.2. Định hướng cơ bản - Tối đa hoá danh mục đầu tư bằng vận dụng tính linh hoạt các mô hình lưa chọn danh mục tài sản đầu tư. - Ưu tiên hàng đầu việc sử dụng nguồn vốn đầu tư của BHXH để đầu tư vào các trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu Chính phủ, đồng thời phải xây dựng phương án đầu tư trái phiếu có hiệu quả. III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH VIỆT NAM 1. Giải pháp nâng cao hiệu quả tạo lập nguồn vốn 1.1. Mở rộng đối tượng tham gia. Hiện nay, theo luật BHXH có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc; trong đó các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác,…và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động đều phải tham gia BHXH cho người lao động của mình; điều đó có nghĩ là các tổ chức và cá nhân có thuê mướn từ 1 lao động trở lên đã phải tham gia BHXH, khác hẳn với trước kia là phải từ 10 lao động trở lên. Như vậy, với Luật mới này thì đối tượng tham gia BHXH đã tăng lên khá cao so với trước đây, và đây chính là điều kiện thuận lợi cho quỹ BHXH đảm bảo cân đối thu chi và phát triển bền vững. Trong Luật BHXH cũng đã quy định rõ ràng các chế độ BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp sắp tới được triển khai. - Thiết kế chế độ hưu trí, tử tuất tự nguyện : Đối tượng của BHXH tự nguyện là hầu hết người lao động không có quan hệ lao động. Ở nước ta, đối tượng này chủ yếu là nông dân, thợ thủ công cá thể và những người tự tạo ra việc làm. Theo số liệu thống kê năm 2001, thu nhập bình quân của người ở khu vực nông thôn là 300-400 nghìn đồng/tháng. Với mức thu nhập này từ mức trung bình trở lên, hàng tháng người nông dân có thể tiết kiệm một khoản nhất định để đảm bảo tuổi già. Nhu cầu cầu của người lao động qua kết quả điều tra cho thấy 81,24% tổng số lao động xã hội có nhu cầu tham gia BHXH Hưu trí, chiếm 91,7% tổng số người có nhu cầu tham gia BHXH; 35,75% người có nguyện vọng tham gia chế độ tử tuất và 29,3% người có nguyện vọng tham gia chế độ ốm đau. Tuy nhiên, trong nền kinh tế phát triển mạnh mẽ như hiện nay, các loại hình Bảo hiểm Nhân thọ của các công ty bảo hiểm cũng đồng loạt đưa ra các sản phẩm bảo hiểm mới phù hợp với hầu hết các tầng lớp nhân dân, đây chính là các đối thủ cạnh tranh lớn đối với các loại hình BHXH tự nguyện. Nhưng ta có thể nhận thấy một lợi thế vô cùng lớn của BHXH đó chính là quan niệm của nhân dân về BHXH là sự uy tín, sự đảm bảo chắc chắn cho tương lai của người tham gia. Vì vậy để có thể thực hiện rộng rãi chế độ bảo hiểm tự nguyện thì trước tiên BHXH Việt Nam phải có sự đầu tư trong công tác tuyên truyền đến mọi tầng lớp nhân dâm. - Xây dựng Bảo hiểm thất nghiệp: Thất nghiệp và thiếu việc làm đang là vấn đề bức xúc hiện nay đối với nước ta. Hơn nữa, nước ta đã là một thành viên của tổ chức WTO, tham gia vào quá trình tự do hoá thương mại thì thất nghiệp trở thành một vấn đề của nền kinh tế nước ta, khi đó hàng loạt các công ty không đáp ứng những tiêu chuẩn của thị trường sẽ bị sụp đổ, và như vậy sẽ có hàng vạn người thất nghiệp. Vì vậy, bảo hiểm thất nghiệp là một tất yếu cần triển khai trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc triển khai này không phải đơn giản, nhất là khi các loại hình thất nghiệp ở nước ta rất đa dạng. Mặc dù trong luật BHXH đã đề cập đến vấn đề này nhưng thực sự các quy định trong đó còn quá chung chung; chỉ chưa đầy hai năm nữa Bảo hiểm thất nghiệp được triển khai mà hầu hết người lao động vẫn chưa thực sự được tiếp cận với những thông tin về loại hình bảo hiểm này.Vấn đề đặt ra hiện nay là phải tuyên truyền rộng rãi BHXH nói chung và Bảo hiểm thất nghiệp nói riêng đến mọi người dân. - Vận động đông đảo người dân tham gia BHYT: trước hết dần dần đưa BHYT học sinh- sinh viên trở thành bắt buộc. Đối với BHYT tự nguyện, các đối tượng là nông dân, người lao động tự do sẽ thực hiện BHYT tự nguyện theo từng bước, từng giai đoạn, tiến tới thực hiện BHYT bắt buộc trong cả nước. 1.2. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền Hiện nay, nhiều người lao động chưa hiểu rõ về các chính sách, chế độ BHXH, đặc biệt là lao động trong khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên chưa tham gia vào BHXH hoặc bị giới chủ chiếm dụng khoản đóng góp đó của họ mà không hay biết. Để tăng số người tham gia BHXH, tăng thu cho quỹ cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin tuyên truyền. Bài học kinh nghiệm về công tác tuyên truyền có hiệu quả là phải có nội dung biệm pháp tuyên truyền đối với từng đối tượng, không thể áp dụng một biệm pháp chung cho nhiều đối tượng. Đối tượng nào không hiểu về chính sách chế độ nào thì tuyên truyền về chính sách chế độ đó, đồng thời phải biết phối hợp với các cơ quan thông tin tuyên truyền đại chúng trong công tác tuyên truyền về BHXH. Có như vậy mới giúp người lao động hiểu rõ được các chính sách chế độ BHXH, từ đó họ tự nguyện tham gia đóng BHXH và đấu tranh với chủ sử dụng lao động đóng BHXH cho họ. 1.3. Có chế tài xử phạt đối với trường hợp không chấp hành chính sách chế độ BHXH Hiện nay tình trạng chưa kịp đóng hoặc cố tình không chịu đóng BHXH của chủ sử dụng lao động là rất phổ biến. Nhiều doanh nghiệp còn chấp nhận chụi phạt khi bị cơ quan phát hiện còn hơn là đóng đầy đủ BHXH cho người lao động. Đây là một thực tế cần phải được chấn chỉnh ngay. Biệm pháp xử phạt này nhămg tăng cường pháp chế trong thu BHXH. Nhưng hiện nay, trong các văn bản pháp quy của Nhà nước mới giao cho BHXH Việt Nam quyền kiểm tra, chứ không có quyền xử lý các trường hợp vi phạm chính sách như: nộp chậm hoặc không nộp BHXH, thủ đoạn ký hợp đồng dưới 3 tháng để trốn đóng BHXH; khi phát hiện ra lại không có quyền xử phạt mà lập các biên bản gửi các cơ quan có thẩm quyển xử lý nên không kịp thời. Để công tác thu có hiệu quả, thì Chính phủ cần giao cho ngành BHXH có quyền kiểm tra, thanh tra, quyền xử phạt. Đặc biệt, mức xử phạt cũng phải được điều chỉnh lớn hơn hoặc bằng mức thu BHXH ở đơn vị đó. 1.4. Tăng cường công tác quản lý chống thất thoát quỹ. Tăng cường công tác quản lý quỹ BHXH thực chất là công tác tổ chức khoa học các nghiệp vụ thống kê, kế toán, hạch toán thu - chi, đồng thời nghiêm khắc xử lý các hiện tượng buông lỏng quản lý, tham ô, lãng phí. Để quản lý quỹ BHXH được an toàn không bị thất thoát quỹ cần phải thực hiện tốt các vấn đề sau: - Thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc quản lý quỹ tập trung thống nhất, không phân tán quỹ, chia nhỏ quỹ cho nhiều cơ quan quản lý . - Tổ chức thực hiện công tác thống kê, kế toán, hạch toán khoa học, rõ ràng theo đúng chế độ kế toán Nhà nước, thực hiện chế độ công khai quỹ . - Thực hiện nghiêm khắc sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về công tác đầu tư tăng trưởng quỹ . Trong khi thực hiện phải thực hiện đầy đủ các nguyên tắc đầu tư: An toàn, hiệu quả, thu hồi vốn nhanh và lợi ích xã hội. - Thường xuyên kiểm tra công tác thu - chi quỹ - Nghiêm khắc xử lý các trường hợp buông lỏng quản lý quỹ, tham ô, lãng phí gây thất thoát quỹ . - Nhanh chóng ban hành các văn bản cụ thể hoá luật; xây dựng quy trình quản lý thu BHXH cho phù hợp với từng đối tượng. 1.5. Thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ công chức viên trong ngành BHXH Đây là điều kiện cơ bản nhất, quyết định hiệu quả của từng giải pháp vì áp dụng giải pháp nào cũng cần có đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ. Thường xuyên tiến hành rà soát, đánh giá lại đội ngũ công viên chức thuộc thẩm quyền quản lý trên cơ sở đó bố trí điều chỉnh lại cho phù hợp. Khó khăn lớn nhất của công tác nhân sự là trong thời gian đầu mới thành lập thì chuyên môn nghiệp vụ của những công chức, viên chức còn hạn chế,không đồng đều và chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ đổi mới. Nhưng do yêu cầu triển khai ngay các hoạt động của ngành, BHXH Việt Nam đã chỉ định BHXH các tỉnh, Thành phố thực hiện phương trâm vừa học vừa làm vừa tổng vừa tổng kết rút kinh nghiệm để nâng cao dần nghiệp vụ chuyên môn cho công viên chức. Chính vì vậy mà đến nay đội ngũ cán bộ ngành đã không ngừng lớn mạnh về cả chất và lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ được giao. Để đáp ứng được yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn tới, đòi hỏi cần có những giải pháp về công tác đào tạo và đào tạo lại đối với cán bộ như sau: - Đưa ra mục tiêu, nội dung, đối tượng và phương pháp đào tạo - Thời gian và điều kiện đào tạo (cơ sở vật chất, kinh phí…) - Phối hợp với các trường Đại học khẩn trương hoàn chỉnh giáo trình về chuyên ngành đào tao BHXH, thực hiện việc tuyển dụng lớp thế hệ cán bộ mới nghiêm ngặt được đào tạo chính quy. - Phối hợp với các trường Đại học và các trung tâm dạy nghề tổ chức đào tạo lại một số cán bộ hiện có. - Tuyển mới và đào tạo cán bộ trong ngành về trình độ quản lý, sử dụng công nghệ thông tin đối với toàn bộ cán bộ trong ngành. 1.6. Phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại Trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, việc quản lý thu - chi, quản lý đối tượng không chỉ dừng lại bằng các phương tiện thủ công, mà phải áp dụng kỹ thuật tiên tiến: - Phải triển khai nhanh dự án phát triển công nghệ thông tin trong toàn ngành. Khi dự án được triển khai, toàn hệ thống được nối mạng, khi đó sẽ có điều kiện quản lý quỹ được chặt chẽ, hạn chế thất thoát quỹ; đồng thời có điều kiện quản lý mở rộng đối tượng tham gia BHXH, có nhiều thông tin phục vụ cho công tác khai thác nguồn thu, tăng nhanh số người tham gia BHXH sẽ được khai thác trên mạng. - Đầu tư các phương tiện kỹ thuật như: phương tiện hiện đại phục vụ cho công tác thông tin tuyên truyền; các phương tiện thiết bị phục vụ việc bảo vệ an toàn tiền mặt…đồng thời phải bố trí đủ kinh phí hoạt động bộ máy. - Triển khai công tác đóng nộp chi trả qua hệ thống ATM, mở tài khoản riêng cho mỗi người trong hệ thống Ngân hàng. - Xây dựng cơ sở vật chất cho ngành BHXH, đặc biệt ở cấp quận huyện để tạo điều kiện cho người lao động thuận tiện đóng nộp, khiếu nại và dễ dàng cho người tham gia BHXH tự nguyện. 2. Giải pháp tổ chức quản lý nguồn vốn đầu tư - BHXH cần sớm thành lập tổ chức chuyên trách thực hiện đầu tư: Ở Việt Nam hiện nay chưa có một tổ chức chuyên trách thực hiện nhiệm vụ đầu tư quỹ BHXH. Mọi hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ do Ban Kế hoạch – Tài chính thuộc BHXH Việt Nam thực hiện; do đó mang lại hiệu quả chưa cao. - BHXH Việt Nam nên lựa chọn dịch vụ uỷ thác để quản lý nguồn vốn đầu tư hoặc thành lập Ban quản lý đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH: Trước mắt BHXH Việt Nam chưa có đủ điều kiện thành lập công ty đầu tư tăng trưởng quỹ chuyên nghiệp thì có thể sử dụng một trong hai mô hình quản lý nguồn vốn trên. - Huy động triệt để nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi vào hoạt động tài chính. 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ BHXH 3.1. Giải pháp về chính sách trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH Để xây dựng chính sách trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH được tập trung vào các nội dung sau: Phân định rõ ràng nguồn vốn đầu tư Theo tính chất nhàn rỗi của nguồn vốn đầu tư, vốn đầu tư quỹ BHXH được chia thành 2 loại + Nguồn vốn đầu tư ngắn hạn:Nên sử dụng mua tín phiếu kho bạc Nhà nước, kỳ phiếu của NHTM,… + nguồn vốn đầu tư dài hạn: Nên đầu tư vào tài sản tài chính dài hạn và mức độ rủi ro khác nhau. - Đa dạng hoá danh mục đầu tư. Để hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt Nam đạt hiệu quả cao, bên cạnh các hoạt động đầu tư trên, Chính phủ cần cho phép quỹ BHXH đầu tư vào các lĩnh vưc: + Cung cấp dịch vụ cho thuê tài chính + Góp vốn liên doanh, vốn cổ phần + Kinh doanh bất động sản + Quy định cụ thể hạn mức đầu tư đối với từng lĩnh vực Hạn mức đầu tư là chỉ số vốn đầu tư tối đa ma quỹ BHXH có thể sử dụng để đầu tư vào một tài sản,một dự án hay một danh mục nào đó. + Đối với lĩnh vực đầu tư an toàn, chủ yếu là đầu tư thông qua tổ chức tài chính tiền tệ của Nhà nước: cho NSNN vay, mua trái phiếu, kỳ phiếu của Nhà nước hoặc các tổ chức tài chính Nhà nước phát hành… thì nên sử dụng khoảng 80% nguồn vốn đầu tư quỹ BHXH . + Đối với lĩnh vực đầu tư có khả năng sinh lời cao nhưng rủi ro nhiều: Bất động sản, cổ phiếu, trực tiếp đầu tư vào các dự án kinh doanh … thì nên sử dụng khoảng 20% nguồn vốn đầu tư từ quỹ BHXH. - Phân cấp thẩm quyền quy định đầu: tư cụ thể đối với Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng quản lý quỹ BHXH và Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. - Ban hành các chính sách khuyến khích và ưu đãi đối với hoạt động đầu tư quỹ BHXH + Miễn thuế cho các hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH coi đó là một khoản NSNN cấp bù cho quỹ + Đơn giản hoá các thủ tục hành chính có liên quan đến hoạt động đầu tư quỹ BHXH. + Ưu tiên cho BHXH Việt Nam được đầu tư vào các lĩnh vực, dự án mà ở đó vốn đảm bảo an toàn, rủi ro ít mang lại hiệu quả cao cho xã hội. 3.2. Xây dựng chiến lược tương thích đối với từng loại nguồn vốn đầu tư của quỹ BHXH - Ưu tiên hàng đầu cho các trái phiếu có độ an toàn cao như: Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu của các tổ chức tài chính có tiềm lực kinh tế mạnh - Xây dựng chiến lược xử lý rủi ro đối với trái phiếu đầu tư + Khồng bán trái phiếu trước kỳ hạn mà sử dụng tiền mới thu của các đối tượng tham gia đóng góp để thanh toán. + Phân tích kinh tế vĩ mô để dự báo xu hướng lãi suất: phân tích kinh tế gồm GDP, lạm phát, thâm hụt NSNN, lãi suất thị trường…; phân tích tiền tệ :cung cầu về tiền. - Lựa chọn danh mục đầu tư trái phiếu tạo dòng tiền ổn định đối với BHXH. Đối với cơ quan BHXH rất cần một dòng tiền ổn định để chi trả các khoản trợ cấp hàng năm. BHXH có thể sử dụng giải pháp kết hợp nhiều trái phiếu có lãi suất dự thưởng và thời hạn khác nhau để thực thi mục đích này. 3.3. Xây dựng danh mục đầu tư tối ưu so với lợi tức tối đa và giảm thiểu rủi ro bằng việc vận dụng linh hoạt các mô hình lựa chọn danh mục tài sản đầu tư đã được kiểm chứng ở các nước áp dụng thành công trong điều kiện cụ thể của nước ta. VI. ĐIỀU KIỆN CHO VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH Về phía Nhà nước - Nhà nước cần nghiên cứu xây dựng các chế độ sao cho mức đóng của các bên thực hiện BHXH và mức hưởng thụ cho từng loại đầu tư hưởng chế độ BHXH; các loại hình BHXH nên áp dụng sao cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng loại hình lao động cũng như phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có như vậy mới góp phần đảm bảo cân đối quỹ BHXH, thuận lợi cho việc tạo nguồn vốn đầu tư. - Hiện nay, Luật BHXH đã có hiệu lực thi hành nhưng những văn bản hướng dẫn chi tiết luật còn khá ít, trong khi đó các loại hình BHXH tự nguyện sắp được triển khai nhưng người dân vẫn chưa thực sự hiểu rõ về nó,vì vậy Nhà nước nên tạo điều kiện hỗ trợ BHXH Việt Nam quảng bá tốt các vấn đề này. Mặt khác Nhà nước cũng quy định rõ quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH cũng như quyền và trách nhiệm của cơ quan BHXH Việt Nam trong việc thực thi các hoạt động BHXH. Điều này giúp cho BHXH Việt Nam có thể thực hiện các biệm pháp tăng cường quản lý chặt chẽ hoạt động thu chi quỹ BHXH và hoạt động đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ . - Nhanh chóng hoàn thiện quy chế quản lý tài chính đối với hoạt động của hệ thống BHXH Việt Nam, trong đó cần xác định rõ trách nhiệm đóng góp và hỗ trợ của NSNN đối với quỹ BHXH cũng như vai trò bảo hộ của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ . - Nhà nước cần cấp bách có những chính sách phát triển thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ…, đặc biệt là thị trường trái phiếu tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. - Cần đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho ngành BHXH để tiếp tục củng cố và từng bước hiện đại hoá toàn bộ hệ thống BHXH Việt Nam, trong đó chú trọng đến việc ứng dụng tin học vào quản lý thông tin và tài chính. - Nâng cao hiệu quả điều hành nền kinh tế vĩ mô. Trong chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ cũng cần phải công bố kế hoạch đầu tư phát triển ngành, vùng, lĩnh vực kinh tế mà ưu tiên cho BHXH Việt Nam có thể xây dựng kế hoạch đầu tư quỹ của mình. 2. Về phía Bảo hiểm xã hội Việt Nam - Lựa chọn phương thức tổ chức quản lý đầu tư phù hợp với quy mô của quỹ BHXH: Có hai phương án để BHXH Việt Nam lựa chọn là thành lập Công ty đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH và thành lập Ban quản lý đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Đối với hoàn cảnh và điều kiện của Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay thì có lẽ nên thành lập mô hình Ban quản lý đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH là phù hợp hơn cả. - Tiếp tục nâng cao trình độ quản lý của các cán bộ trực tiếp làm công tác đầu tư, tuyển dụng và đào tạo đội ngũ cán bộ có khả năng thẩm định các dự án đầu tư tài chính để trong tương lai BHXH Việt Nam có thể thực hiện đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh lớn. - Có chế độ đãi ngộ thoả đáng cho đội ngũ cán bộ làm công tác đầu tư tài chính. Có như vậy các cán bộ này mới thực sự có điều kiện phát huy khả năng vốn có của mình. - Tăng cường đầu tư phát triển và hiện đại hoá cơ sở vật chất phục vụ công việc của toàn hệ thống BHXH Việt Nam, tạo cơ sở hạ tầng cho việc ứng dụng các thành tựu tiên tiến của công nghệ thông tin vào quản lý quỹ BHXH. - Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về quản lý tài chính quỹ BHXH; đồng thời phải tích cực chủ động hợp tác với các cơ quan, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính tín dụng để tranh thủ sự giúp đỡ và tìm kiếm cơ hội đầu tư thuận lợi. - BHXH Việt Nam cần không ngừng mở rộng các hoạt động hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế về đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất cho ngành BHXH cũng như học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong công tác đầu tư quỹ BHXH. KẾT LUẬN Với xu thế phát triển nhanh chóng của thị trường hiện nay, để có thể bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH, để tạo ra được một quỹ BHXH ổn định, vững chắc và thực hiện tốt nhiệm vụ chi trả các chế độ BHXH cho người lao động, đồng thời góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển; thì hoạt động đầu tư quỹ BHXH ở nước ta hiện nay cần được quan tâm nghiên cứu của Nhà nước và các Ban, Ngành có liên quan. Năm vừa qua, tại hội nghị APEC lần thứ 8 đã thông qua lộ trình tự do thương mại và đầu tư; ngày 07/11/2006 Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức WTO. Trong xu thế hội nhập kinh tế tham gia đó, BHXH Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống ASXH Việt Nam, thì hiệu quả đầu tư quỹ BHXH có vai trò to lớn tạo tiềm lực tài chính cho quỹ, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển nhanh, đời sống nhân dân ngày một nâng cao, góp phần tạo ra bộ mặt mới cho đất nước trong quá trình hội nhập. Khi phân tích thực trạng hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt Nam, em đã nhận thấy được một số nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động đầu tư quỹ BHXH, và từ việc nghiên cứu đó em đã đưa vào trong đề tài của mình một số giải pháp có tính trước mắt và lâu dài đối với hoạt động này; nếu thực hiện được có thể sẽ làm cho quỹ BHXH Việt Nam phát triển vững chắc trong tương lai. Do thời gian hạn hẹp và trình độ còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi thiếu sót nên em mong được sự góp ý của các thầy, cô, anh chị trong BHXH Việt Nam để em hoàn thành đề tôt hơn chuyên đề này. Để hoàn thành được đề tài này, em đã nhận được rất nhiều sụ giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn, của các cán bộ đang làm việc tại BHXH Việt Nam nói chung và tại Ban Kế hoạch - Tài chính nói riêng. Qua đây cho phép em gủi lời cảm ơn đến Thạc sỹ Nguyễn Ngọc Hương và các cô chú anh chị đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực tập tốt nghiệp, hoàn thiện chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Bảo hiểm – Nhà xuất bản Thống kê năm 2004/ Chủ biên TÀI SảN. Nguyễn Văn Định - ĐH Kinh Tế Quốc Dân Bảo hiểm xã hội Việt Nam (1998 – 2005) Báo cáo tổng kết hoạt động của BHXH Việt Nam qua các năm Bảo hiểm xã hội Việt Nam – Báo cáo tổng kết hoạt động của BHXH Việt Nam năm 2005 và nhiệm vụ năm 2006 Hệ thống các văn bản pháp quy về BHXH Việt Nam – Nhà xuất bản Tài chính (tháng 01/2000) Tạp chí BHXH Việt Nam năm 2003, 2005,2006,2007. “Góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách BHXH ở nước ta hiện nay” – Nhà xuất bản chính trị quốc gia/PGS- PTS Đỗ Minh Cương, PGS Mạc Văn Tiến (1994). Luật BHXH tháng 6/2006 Một số trang web trên mạng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31903.doc
Tài liệu liên quan