Lời nói đầu
Huy động, khai thác và sử dụng tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển, đặc biệt ở những nước đang phát triển là một yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước phụ thuộc trực tiếp vào tốc độ thu hút vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nhất là khi nền kinh tế ngày càng phát tri
102 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1587 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển, các hoạt động tín dụng trung và dài hạn cũng góp phần quan trọng trong thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần ổn định tiền tệ và giá cả, tạo công ăn việc làm, tạo sức mạnh cạnh tranh, ổn định đời sống.
Cho vay đầu tư phát triển là một hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhằm hỗ trợ những dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư, theo chiến lược phát triển kinh tế hàng năm. Trong thời gian qua, cho vay đầu tư phát triển đã có những đóng góp quan trọng trong việc chuyển dịch và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, để đáp ứng tốt hơn nữa cho một nền kinh tế đang bước vào giai đoạn mới, đặc biệt là yêu cầu đổi mới hệ thống tài chính quốc gia, năm 1999, Nhà nước thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển, tiếp tục thực hiện hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Hoà nhịp cùng với sự phát triển của cả nước, Hà Nội đã có những thành tựu to lớn trong những năm qua. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức hai con số. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh bên cạnh khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Trong những thành tựu to lớn này có sự đóng góp không nhỏ của tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, nhất là cho vay đầu tư, mà đầu mối là Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội.
Cho vay đầu tư phát triển là một hình thức chiếm vị trí chủ yếu trong hoạt động hỗ trợ đầu tư của chi nhánh Quỹ, đem lại sự lành mạnh cho hệ thống tài chính nhà nước, giải quyết khó khăn về vốn cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước, tiếp tục tạo điều kiện cho thành phố tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất để Hà Nội tực sự trở thành trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của cả nước.
Nhận thức được điều đó, Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội đã không ngừng cố gắng, chủ động tìm kiếm, hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển của thành phố và đã đạt được những kết quả ban đầu rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của mình, chi nhánh quỹ còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, làm giảm hiệu quả hoạt động của Chi nhánh Quỹ cũng như gây cản trở cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Vì vậy, một yêu cầu đặt ra là phải đánh giá được những mặt đã làm được và những điều còn tồn tại trong hoạt động của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội, tìm ra nguyên nhân để từ đó có các giải pháp hữu hiệu tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, đẩy mạnh hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước, hoàn thành thắng lợi mục tiêu phát triển của nền kinh tế và của thành phố Hà Nội.
Với mong muốn góp một phần giải quyết những khó khăn này, em chọn viết đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội”. Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 phần:
Chương I: Tổng quan về cho vay đầu tư phát triển.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đầu tư phát triển tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội.
Chương III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt dộng cho vay đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội.
Ngân hàng- tài chính là một lĩnh vực rất phức tạp. Mặc dù đã nỗ lực nhưng với kiến thức còn nhiều hạn chế, chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được những ý kiến đóng góp để em có thể hoàn thiện hơn chuyên đề này cũng như kiến thức của bản thân.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo- Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tài; các cô chú, anh chị ở Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội, đặc biệt là Phòng Tín dụng, bảo lãnh và hỗ trợ lãi suất Trung ương đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em để em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn.
Chương I:
Tổng quan về cho vay đầu tư phát triển
1.1. Hoạt động cho vay trong phạm trù tín dụng.
1.1.1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm hoạt động cho vay.
Cho vay là một hoạt động quan trọng nằm trong phạm trù tín dụng, ra đời khi xã hội bắt đầu phân chia giai cấp, sự tư hữu xuất hiện và quan hệ trao đổi bắt đầu. Trong xã hội ấy, có kẻ giàu người nghèo, có kẻ thừa người thiếu và có cả những người thừa lúc này nhưng thiếu lúc khác. Vì thế, sự ra đời của quan hệ vay mượn là một tất yếu khách quan. Ta gọi quan hệ vay mượn, tạm thời sử dụng vốn của lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng và nguyên tắc hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là tín dụng.
Điều đó có nghĩa, tín dụng là một phạm trù chỉ sự gặp nhau của hai nhu cầu có tính tạm thời, vận động ngược chiều nhau là cho vay và đi vay. Nó là mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay mà trong đó, do có sự khác nhau về quyền sở hữu, người “thừa” vốn lại muốn số vốn ấy phải sinh lời sẽ nhường quyền sử dụng vốn cho người khác trong một thời gian nhất định còn người “thiếu” vốn muốn sử dụng vốn phải đi vay. Sự thừa hay thiếu vốn này chỉ là sự thừa thiếu tương đối và có tính thời điểm.
Là một mặt của quan hệ tín dụng, cho vay được hiểu là việc người cho vay nhường quyền sử dụng vốn cho người khác và sau một thời gian thu lại cả vốn lẫn lãi. Về bản chất, đó là việc người “thừa” vốn “bán” vốn cho người “thiếu” vốn. Nó có một số đặc điểm như đặc điểm của quan hệ tín dụng:
Phải dựa trên sự tin tưởng và nguyên tắc hoàn trả. Nó khẳng định rằng việc sử dụng vốn là tạm thời, trong một khoảng thời gian xác định và không có sự chuyển quyền sở hữu.
Đối tượng trong quan hệ này là vốn, có nghĩa là người ta quan niệm nó không chỉ trong lĩnh vực tiền mặt và còn có trong hàng hoá hay phi hàng hoá.
Trong quan hệ tín dụng không quy định ai chỉ là người cho vay, ai chỉ là người đi vay. Đây là mối quan hệ ràng buộc phức tạp. Bất kỳ ai cũng đều có lúc thừa vốn và lúc thiếu vốn, có thể vừa là người cho vay lại vừa là người đi vay.
Ta còn thấy, cho vay và đi vay là quan hệ mua bán vốn. Do tính chất đặc biệt của loại hàng hoá này, so với quan hệ mua bán hàng hoá, nó có một số đặc điểm khác biệt.
Sự vận động của quyền sở hữu và quyền sử dụng tương đối độc lập với nhau. Khác với quan hệ mua bán hàng hoá, ở đây chỉ có quyền sử dụng vận động.
Giá cả của khoản tín dụng chính là lãi suất. Thông thường, khoản lãi là rất nhỏ so với khoản vốn. Có nghĩa là giá cả không ngang bằng với giá trị. Nó là biểu hiện bằng tiền của giá trị sử dụng của số vốn trong thời gian xác định.
Sự tin tưởng trong quan hệ tín dụng phải ở mức độ cao hơn quan hệ mua bán hàng hoá rất nhiều. Đó là vì nó liên quan đến những rủi ro có thể gây ra phá sản và có thể kéo theo sự sụp đổ của cả nền kinh tế.
1.1.2. Các loại hình cho vay.
Để phân chia các loại hình cho vay, người ta có thể căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau. Trong phạm vi bài viết này chỉ xin đề cập đến một vài cách phổ biến nhất.
1.1.2.1. Căn cứ vào thời hạn cho vay: người ta chia làm 3 loại hình là cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn mà gắn liền với nó là đặc điểm tuần hoàn và luân chuyển vốn trong doanh nghiệp.
- Cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn dưới 12 tháng. Các khoản cho vay này thường nhằm mục đích bù đắp cho nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp.
- Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng. Các khoản cho vay này thường phục vụ cho việc áp dụng các sáng kiến cải tiến kỹ thuật, thay đổi sản phẩm bán ra thị trường, đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô vừa và nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh hoặc sửa chữa lớn và vừa đối với tài sản cố định.
- Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn trên 60 tháng. Nó thường được sử dụng với mục đích đáp ứng các nhu cầu về vốn cố định, để đầu tư dài hạn, đầu tư phát triển sản xuất các dự án, các công trình xây lắp, đầu tư xây dựng mới các nhà máy, xí nghiệp.
1.1.2.2. Căn cứ vào quy mô của vốn vay: dựa vào tiêu thức này, người ta chia ra 3 loại hình cho vay.
- Cho vay trong hạn mức là việc cho vay theo hợp đồng tín dụng mà điều khoản chủ yếu là hạn mức. Hạn mức là số tiền cao nhất trong một kỳ mà ngân hàng phải cho doanh nghiệp vay vô điều kiện trong khoảng thời gian xác định. Có hai cách cho vay trong hạn mức là cho vay một lần và cho vay luân chuyển.
- Cho vay ngoài hạn mức là việc ngân hàng và doanh nghiệp thoả thuận thêm với nhau về lượng vay và lãi suất khi ký hợp đồng tín dụng.
- Cho vay quá ngạch là việc ngân hàng cho khách hàng vay ngay cả khi khách hàng chưa trả nợ cũ. Về nguyên lý, đây là sự trợ giúp của ngân hàng khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng đặc biệt khó khăn với hy vọng doanh nghiệp vượt qua khó khăn, ngân hàng thu hồi được nợ; hoặc gặp điều kiện cực kỳ thuận lợi, giúp khách hàng chớp được thời cơ.
1.1.2.3. Căn cứ vào tài sản đảm bảo tiền vay: chia làm 2 loại hình là cho vay có tài sản đảm bảo và cho vay không có có tài sản đảm bảo tiền vay.
- Cho vay có tài sản đảm bảo tiền vay là việc cho vay của ngân hàng căm cứ vào giá trị tài sản của khách hàng, được khách hàng kê khai làm tài sản đảm bảo cho số tiền vay của ngân hàng. Việc cho vay có thế chấp này lại có hai loại hình là cho vay thế chấp và cho vay cầm cố.
Trong cho vay thế chấp, khách hàng kê khai tài sản đem ra thế chấp. Trong quá trình vay, tài sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng của người vay. Những quyền này chỉ mất khi khách hàng không thanh toán khi đến hạn và bị quyết định xử lý tài sản thế chấp.
Còn trong cho vay cầm cố, khi khách hàng vay tiền, khách hàng chưa mất quyền sở hữu với tài sản cầm cố nhưng tài sản đó nằm trong tay ngân hàng, do ngân hàng quản lý và quyền sử dụng tài sản thuộc về ngân hàng. Chi phí sử dụng vốn trong trường hợp này không chỉ là lãi suất đi vay mà còn là chi phí do mất quyền sử dụng tài sản.
- Cho vay không có tài sản đảm bảo tiền vay là việc ngân hàng quyết định cho vay dựa vào lòng tin và uy tín của khách hàng. Đó có thể là cho vay tín chấp- căn cứ vào uy tín trực tiếp của người vay tiền, hoặc cho vay bảo lãnh- dựa vào uy tín của người thứ ba đứng ra bảo lãnh.
1.1.2.4. Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay:
- Cho vay đối với sản xuất kinh doanh: là việc cung cấp vốn đáp ứng cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh. Trong loại hình cho vay này, người ta có thể phân chia nhỏ hơn theo các mục đích khác nhau của doanh nghiệp:
+ Cho vay với mục đích đầu tư phát triển để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh... của người có nhu cầu vay vốn. Đây thường là các khoản vay trung và dài hạn, phục vụ việc cải tiến công nghệ, sửa chữa lớn tài sản cố định hoặc xây mới các xí nghiệp, nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị, máy móc...
+ Cho vay với mục đích thanh toán, chi trả là các khoản vay có tính chất tạm thời trong khoảng thời gian các doanh nghiệp chưa kịp thu tiền bán hàng để thanh toán tiền mua hàng hay trả dịch vụ theo hợp đồng mới.
+ Cho vay với mục đích dự trữ: Người vay không có nhu cầu sử dụng vốn vay vào mục đích sản xuất mà để mua hàng hoá dự trữ trong thời gian dài. Tài trợ cho mục đích này cũng thường phải là cho vay trung dài hạn.
- Cho vay đối với tiêu dùng: Các khoản vay này nhằm đáp ứng cho nhu cầu mua sắm phục vụ cho mục đích tiêu dùng chứ không phải mục đích sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, người ta có thể dựa vào rất nhiều tiêu thức khác nhau để phân chia các loại hình cho vay như căn cứ vào loại khách hàng, theo lãi suất, theo loại tiền cho vay... Việc phân chia hoạt động cho vay thành các loại hình cho vay khác nhau cho phép ngân hàng, các tổ chức cho vay có điều kiện quản lý các khoản vay này dễ dàng hơn, có hiệu quả và chất lượng cao hơn. Tuy nhiên, cũng cần thấy rõ rằng, việc phân chia các loại hình cho vay này chỉ là tương đối. Muốn đạt kết quả tốt hơn trong quản lý, cần phải có sự kết hợp của nhiều tiêu thức.
Cho vay đầu tư phát triển là một loại hình cho vay quan trọng không chỉ đối với tổ chức tài chính cho vay mà còn đối với nền kinh tế quốc dân vì mục đích của nó là tài trợ cho hoạt động đầu tư phát triển nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người trong xã hội. Bởi vậy, trong chiến lược phát triển, người ta rất quan tâm đến loại hình cho vay này, nhất là cho vay đầu tư phát triển trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
1.2. Hoạt động cho vay đầu tư phát triển.
1.2.1. Đầu tư phát triển và các nguồn vốn cho đầu tư phát triển
1.2.1.1. Đầu tư phát triển
1.2.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư phát triển
Thuật ngữ “đầu tư” (investment) được hiểu là sự bỏ ra, sự hy sinh cái gì đó ở hiện tại có thể là tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ… nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Đối với nền kinh tế, đầu tư là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Dựa vào bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, người ta chia đầu tư thành đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển trong mối quan hệ với các loại đầu tư khác là loại đầu tư có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Nó được hiểu là việc người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm, lắp đặt trang thiết bị và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
Với mục đích phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội cả trước mắt cũng như lâu dài, đầu tư phát triển có hai đặc điểm cơ bản là tính sinh lợi và thời gian đầu tư kéo dài.
Tính sinh lợi là một đặc tính hàng đầu của hoạt động đầu tư, không thể coi một hoạt động là hoạt động đầu tư nếu việc sử dụng vốn không nhằm mục đích mang lại một khoản thu nhập có giá trị lớn hơn lượng vốn bỏ ra ban đầu. Những giá trị mà hoạt động đầu tư mang lại có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau như góc độ tài chính hay góc độ kinh tế xã hội, có thể là ngắn hạn, trước mắt hay dài hạn. Hoạt động đầu tư phát triển chỉ thực sự mang lại hiệu quả khi nó có những tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời nó phải mang lại hiệu quả về mặt tài chính cho chủ đầu tư.
Một đặc điểm nổi bật của hoạt động đầu tư phát triển là thời gian đầu tư thường kéo dài. Vì lẽ đó, lượng tiền, vật tư và lao động cần huy động rất lớn, vốn đầu tư thu hồi chậm, nằm khê đọng lâu nên tỷ suất sinh lời của vốn nhỏ. Hơn nữa, nhà đầu tư phải gánh chịu nhiều rủi ro từ phía tự nhiên như thay đổi về thời tiết, khí hậu... hay từ phía xã hội do những biến động về các điều kiện kinh tế vĩ mô, sự thay đổi các chính sách, môi trường đầu tư...
Qua đó ta có thể chỉ ra ba điểm khác biệt cơ bản giữa đầu tư phát triển và các hoạt động đầu tư ngắn hạn khác:
* Trong hoạt động đầu tư phát triển, vốn đầu tư có thể sử dụng cho các mục đích cá biệt khác nhau nhưng đều có mục tiêu cuối cùng là đầu tư phát triển, do đó nó mang ý nghĩa dài hạn, khác với đầu tư khác thường có mục đích kinh doanh thu lợi trực tiếp.
* Việc sử dụng vốn đầu tư phát triển thường là theo các mục tiêu đã được hoạch định. Vốn đầu tư được sử dụng chủ yếu là đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế xã hội. Hoạt động đầu tư phát triển từ khâu chuẩn bị dự án dến triển khai thực hiện dự án và khai thác hiệu quả sau đầu tư thường là một quá trình tương đối dài, có khi tới hàng chục năm.
* Do mục đích của đầu tư là phục vụ đầu tư phát triển nên quá trình đầu tư vốn chủ yếu nhằm hình thành cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật- xã hội và các tài sản cố định khác trong nên kinh tế.
1.2.1.1.2. Vai trò của đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển có vai trò là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư phát triển được thể hiện trên cả giác độ toàn bộ nền kinh tế và cả các doanh nghiệp.
Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế, đầu tư phát triển nói riêng và đầu tư nói chung vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Về mặt cầu, đầu tư chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng cầu của nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (World Bank), đầu tư thường chiếm khoảng 24- 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Tác động của đầu tư vào tổng cầu là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng. Sự thay đổi này được nhìn thấy trong hình vẽ :
Khi tổng cầu tăng, đường D dịch chuyển sang D’, kéo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q0 sang Q1 và giá cả của đầu tư tăng từ p0 đến p1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 sang E1
p
S’
S
E1
p1
p0
p2
E0
E2
D’
D
Q
Q0 Q1 Q2
Tác động đến tổng cung, khi thành quả của đầu tư phát triển phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên. Nhìn vào hình trên, thấy rõ đường S dịch chuyển sang S’, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q1 lên Q2, và do đó, giá cả sản phẩm giảm từ p1 xuống p2. Lúc này, điểm cân bằng từ E1 chuyển sang E2. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất phát triển. Đó là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức được rằng tác động của đầu tư lên sự ổn định kinh tế có tính hai mặt. Đó là do sự tác động của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung là không đồng thời về mặt thời gian, khiến cho mỗi sự thay đổi về đầu tư vừa là yếu tố duy trì, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. Bởi vậy, nó đòi hỏi các nhà chính sách mỗi khi ra quyết định đầu tư phải tính được các tác động hai mặt này để có thể hạn chế các tác động xấu, phát huy các tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của nền kinh tế trong sự phát triển.
Không những thế, đầu tư và nhất là đầu tư phát triển có tác động rất lớn đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo ngành nghề hoặc lãnh thổ. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường để đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự tăng trưởng nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông lâm ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Còn đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng yếu kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
Đặc biệt, đầu tư là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ dù cho đó là con đường tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ hay con đường nhập công nghệ từ nước ngoài.
Từ đó, có thể khẳng định rằng đầu tư có tác động mạnh đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.2.1.2. Các nguồn vốn cho đầu tư phát triển
Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, vốn đầu tư là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự tăng trưởng kinh tế. Do vậy, để đảm bảo cho mục tiêu tăng trưởng nhanh, nền kinh tế phải có những giải pháp nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đáp ứng cho đầu tư, đặc biệt là đầu tư phát triển. Muốn làm được điều đó, phải hiểu rõ đặc điểm của vốn cho đầu tư phát triển.
1.2.1.2.1. Đặc điểm của vốn cho đầu tư phát triển.
Vốn cho đầu tư phát triển có những đặc điểm của một vốn- một loại hàng hoá đặc biệt, được lưu thông trên thị trường tài chính. Đó là:
Thứ nhất, vốn phải vận động và sinh lời. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, vì vậy vốn phải được huy động và khai thác triệt để đưa vào sử dụng nhằm mục đích sinh lợi và phát huy hiệu quả trong nền kinh tế.
Thứ hai, vốn bao giờ cũng gắn với một chủ sở hữu nhất định. Tính hiệu quả và tính sinh lời của vốn đòi hỏi phải gắn liền với quá trình quản lý vốn. Muốn quản lý vốn có hiệu quả thì vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định trong quá trình đầu tư.
Thứ ba, vốn được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau và đưa vào đầu tư phát triển theo nhiều cách thức khác nhau. Để khai thác tối đa nguồn vốn phải đa dạng hoá các phương thức huy động đồng thời sử dụng vốn một cách có hiệu quả với các phương thức sử dụng vốn linh hoạt nhưng lại phải phù hợp với tính chất nguồn huy động.
Thứ tư, vốn phải được tích luỹ và tập trung để phát huy hiệu quả. Trong từng yêu cầu đầu tư cá biệt, phải tích luỹ vốn đến một mức độ để đáp ứng được yêu cầu về quy mô cần thiết của dự án. Đối với toàn bộ nền kinh tế, vốn cũng phải được tích luỹ và tập trung ở một mức độ cần thiết thì mới đáp ứng được yêu cầu để phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, vốn cho đầu tư phát triển còn có một đặc điểm nổi bật được quy định do đặc trưng của đầu tư phát triển. Đối tượng của đầu tư phát triển là các tài sản cố định, là cơ sở vật chất của xã hội. Nó có tính dài hạn. Bởi vậy, vốn cho đầu tư phát triển, muốn phát huy được hiệu quả phải là vốn trung và dài hạn. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định lựa chọn nguồn huy động vốn cũng như kế hoạch sử dụng vốn, tiến độ và phương pháp giải ngân...
1.2.1.2.2. Các nguồn vốn cho đầu tư phát triển
Việc xác định được các nguồn vốn cho đầu tư phát triển có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, cho phép huy động tối đa các nguồn này và sử dụng phù hợp theo tính chất của từng nguồn, từ đó cho phép hoạt động đầu tư phát triển đạt hiệu quả cao nhất.
Trong một nền kinh tế mở, ta có đồng nhất thức:
GDP = C + S = C + I + ( T - G) + X - M
Với X: giá trị hàng hoá xuất khẩu (export)
M: giá trị hàng hoá nhập khẩu (import)
Từ đó ta có đồng nhất thức:
(I - S) + (T - G) = (M - X)
suy ra:
I = S + (G -T) + (M – X)
S + (G - T): tiết kiệm trong nước
M - X: đầu tư nước ngoài
Từ sự phân tích trên, có thể thấy, vốn cho đầu tư nói chung và đầu tư phát triển nói riêng được huy động từ hai nguồn: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài.
1.2.1.2.2.1. Nguồn vốn trong nước
Đây là bộ phận có vai trò quan trọng trong chi cho đầu tư phát triển, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng và là nhân tố quyết định đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Nguồn vốn trong nước là bộ phận vốn có được do tiết kiệm từ nội bộ nền kinh tế, bao gồm tích luỹ của các quỹ đầu tư của Nhà nước, từ các doanh nghiệp và tiết kiệm của dân cư. Cụ thể là:
+ Vốn đầu tư của các doanh nghiệp
Nguồn vốn này được hình thành từ nguồn khấu hao cơ bản, vốn tự tích luỹ từ lợi nhuận sau thuế trở thành lợi nhuận giữ lại và một bộ phận vốn huy động từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu... Vốn đầu tư của các doanh nghiệp được sử dụng chủ yếu để đầu tư mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp dưới các hình thức như đầu tư chiều sâu, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới trang thiết bị, kỹ thuật công nghệ nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm... Nguồn vốn do các doanh nghiệp đầu tư chiếm khoảng 14-15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
+ Vốn tích luỹ của dân cư
Là bộ phận vốn nhàn rỗi trong dân cư có thể huy động cho đầu tư phát triển. Bộ phận vốn này thường có khối lượng nhỏ và phân tán tuy nhiên xét trên phạm vi toàn xã hội, nó chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong tổng nguồn vốn chi cho đầu tư phát triển. Chính vì vậy, nguồn vốn này, nếu có thể tập hợp lại thì cũng có ý nghĩa rất quan trọng, bổ sung cho vốn đầu tư phát triển.
+ Vốn tín dụng đầu tư
Là nguồn vốn vay của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác để đầu tư. Nguồn vốn này do các đơn vị trên quản lý và sử dụng theo luật các tổ chức tín dụng.
Trong cơ cấu vốn của các doanh nghiệp luôn có nợ vay với một tỷ lệ tối ưu nhằm làm cho chi phí vốn trung bình (WACC- Weighted Average Cost of Capital) là thấp nhất. Doanh nghiệp sử dụng nợ vay để tận dụng ưu thế của đòn bẩy tài chính.
% thay đổi EPS
DFL =
% thay đổi EBIT
trong đó:
DFL là mức độ đòn bẩy tài chính (Degree of Financial Leverage).
EPS là cổ tức (Earning Per Share)
EBIT là thu nhập trước thuế và lãi (Earning Before Interest and Tax)
+ Vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước
Là nguồn vốn được hình thành từ các khoản thu Ngân sách Nhà nước theo luật Ngân sách. Đây là nguồn đầu tư chủ yếu để xây dựng và đảm bảo cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội của đất nước. Phần lớn nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách được sử dụng cho chi đầu tư phát triển theo kế hoạch với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng, đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh Nhà nước, góp vốn cổ phần liên doanh trong các lĩnh vực đòi hỏi có sự tham gia của Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước có thể thực hiện đầu tư phát triển thông qua nhiều hình thức như cấp phát, cho vay theo chỉ định, nguồn khấu hao cơ bản để lại...
1.2.1.2.2.2. Nguồn vốn ngoài nước
+ Vốn FDI (Foreign Direct Investment)
Là nguồn vốn do các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài đầu tư vào trong nước để sản xuất kinh doanh hoặc góp vốn liên doanh với một tổ chức, cá nhân trong nước theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài. Với các nước đang phát triển như Việt Nam, nguồn vốn FDI là nguồn quan trọng để phá vỡ vòng luẩn quẩn của sự phát triển, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo động lực để phát triển kinh tế xã hội.
Nguồn vốn FDI không những đem lại hiệu quả kinh tế, có tính khả thi cao mà lại còn không có các ràng buộc về mặt chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho Ngân sách Nhà nước. Mặt khác, việc sử dụng vốn FDI trong đầu tư phát triển còn cho phép nước tiếp nhận có thể tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Tuy nhiên, nó lại đòi hỏi cơ sở hạ tầng cũng như hành lang pháp lý và trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý của cán bộ trong nước phải đạt một mức độ đủ để phát huy và khai thác tính hiệu quả của nguồn vốn này trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật.
+ Vốn ODA (Official Development Assistance)
Bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, các khoản vốn vay dài hạn với lãi suất ưu đãi của Chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF, ADB. Vốn ODA thường có khối lượng lớn nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu đầu tư phát triển của đất nước. Tuy nhiên, để được tiếp nhận và giải ngân nguồn vốn này, nước nhận viện trợ phải đáp ứng được các yêu cầu từ phía viện trợ và chịu những ràng buộc về mặt chính trị. Vì vậy, nếu sử dụng vốn ODA kém hiệu quả thì sẽ để lại rất nhiều hậu quả xấu trong kinh tế xã hội cho đất nước.
+ Vốn đầu tư từ nguồn viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ (NGOs)
Đây là nguồn đầu tư nước ngoài khá quan trọng, được thực hiện theo các chương trình tài trợ từ thiện nhân đạo và chủ yếu đối với lĩnh vực xã hội. Hiện nay, nguồn vốn này thường có khối lượng thấp và chủ yếu đầu tư vào các dự án nhỏ trong các lĩnh vực văn hoá xã hội.
Trong nền kinh tế phát triển như vũ bão hiện nay, không một doanh nghiệp nào đủ khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của mình bằng vốn tự có và doanh nghiệp nào cũng muốn tận dụng ưu thế của nợ vay trong đòn bẩy tài chính. Bởi vậy, nghiệp vụ cho vay của các ngân hàng thương mại cũng như các tổ chức tài chính quốc gia, quốc tế thu hút sự quan tâm rất lớn của các doanh nghiệp, đặc biệt là cho vay đầu tư phát triển.
1.2.2. Hoạt động cho vay đầu tư phát triển trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
1.2.2.1. Đặc điểm và tầm quan trọng của hoạt động cho vay đầu tư phát triển.
Cho vay đầu tư phát triển một loại hình trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong đó, các chủ thể tham gia gồm có Nhà nước, các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức kinh tế- xã hội, các ngân hàng và chủ thể nước ngoài. Cho vay đầu tư phát triển thể hiện ra ngoài với hình thức là sự vay mượn tạm thời một số vốn nhất định nhưng về bản chất, nó còn chứa đựng những mối quan hệ giữa Nhà nước và các chủ thể khác của nền kinh tế, trong đó, Nhà nước đóng vai trò điều hành vĩ mô đối với nền kinh tế và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý xã hội.
Tín dụng đầu tư phát triển, với nguồn vốn quan trọng nhất là nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước, nếu được sử dụng một cách hiệu quả sẽ thực sự trở thành một công cụ để Nhà nước tiến hành đầu tư phát triển đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư của toàn xã hội.
Mục đích của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là đầu tư, hỗ trợ cho những dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước hoặc các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư. Tín dụng đầu tư phát triển cũng được thực hiện trên quan hệ vay mượn giữa Nhà nước với các chủ thể khác trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời gian quy định song với tính chất đầu tư phát triển, loại hình tín dụng này khác với các nguồn tín dụng khác ở chính sách ưu đãi giành cho các đối tượng được hưởng, chẳng hạn như chính sách lãi suất, thời gian vay vốn, thời gian ân hạn và các điều kiện về tài sản đảm bảo tiền vay. Thông thường, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại, thời gian vay vốn và thời gian ân hạn dài hơn, các điều kiện về tài sản đảm bảo tiền vay rộng rãi và đơn giản hơn. Ngoài ra, tín dụng đầu tư phát triển còn được cung cấp dưới một số hình thức khác như hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư... Những điều kiện ưu đãi này nhằm giúp cho các đối tượng được hưởng có được những điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất kinh doanh theo sự khuyến khích, theo chủ trương và chính sách của Nhà nước.
Cho vay đầu tư phát triển trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức tín dụng dài hạn, nên nó cũng có những đặc điểm như sự tin tưởng và tính hoàn ._.trả. Ngoài ra, nó còn có những đặc trưng riêng như tính cưỡng chế, tính chính trị và xã hội, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Những đặc trưng này được thể hiện rõ trong các điều kiện của người đi vay về tính chất pháp lý, về năng lực tài chính, điều kiện về dự án đầu tư, về quy trình thẩm định dự án, và nhất là về mức vốn vay, lãi suất cho vay, lãi suất nợ quá hạn, thủ tục vay vốn.
Ngày nay, muốn tăng trưởng kinh tế thì phải huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển mà vốn là một trong những nguồn lực không thể thiếu. Tín dụng trung dài hạn nói chung, tín dụng đầu tư phát triển nói riêng là một trong những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển nên nó có ý nghĩa to lớn trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Là một hình thức chủ yếu trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, cho vay đầu tư phát triển đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế:
1.2.2.1.1. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển
Mục đích tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là hỗ trợ vốn, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất trong một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và những vùng khó nhăn cần khuyến khích đầu tư. Đó chính là đầu tư để sửa chữa, thay thế, khôi phục tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật, đổi mới quy trình công nghệ, xây dựng mới các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật và xã hội có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Kết quả mang lại là máy móc, thiết bị được tăng cường không những nhiều hơn về số lượng mà còn cao hơn về trình độ công nghệ, đem lại năng lực sản xuất cao hơn.
Khi một dự án đầu tư đi vào hoạt động với máy móc, thiết bị, công nghệ, cơ sở vật chất được trang bị đầy đủ làm cho năng lực sản xuất kinh doanh tăng lên, sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra không những nhiều hơn về số lượng mà còn đa dạng hơn về mẫu mã, phong phú hơn về chủng loại và chất lượng cao hơn, từ đó, nâng cao khả năng cạnh tranh, kích thích nhu cầu xã hội, đưa cả kinh tế và xã hội cùng tiến lên.
1.2.2.1.2. Thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu
Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì kim ngạch xuất nhập khẩu được mở rộng tức là khẳng định sản phẩm của chúng ta cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu lựa chọn đầu tư những máy móc, trang thiết bị như thế nào để có hiệu quả cao nhất, tránh tình trạng đầu tư những loại máy móc lạc hậu, không đồng bộ gây ra những lãng phí không cần thiết mà thậm chí còn gây ra những tác hại cho xã hội, môi trường...
Nhờ có nguồn vốn đầu tư dài hạn mà các doanh nghiệp có thể đầu tư phát triển cơ sở vật chất và năng lực sản xuất với máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại. Nhờ đó có thể sản xuất ra được những hàng hoá có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới và sẽ tăng được kim ngạch xuất nhập khẩu. Như vậy, cho vay đầu tư phát triển thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu.
1.2.2.1.3. Tạo nguồn thu vững chắc cho Ngân sách Nhà nước
Cho vay đầu tư phát triển trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất. Khi sản xuất phát triển tạo ra nhiều hàng hoá để tiêu thụ trong nước và để xuất khẩu, thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách sẽ lớn và ổn định. Các khoản thuế đó có thể là thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế sử dụng tài nguyên, thuế thu nhập doanh nghiệp...
1.2.2.1.4. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá
Thông qua việc cung cấp tín dụng đầu tư phát triển, Nhà nước có thể tập trung cho vay phát triển đối với ngành này cũng như hạn chế phát triển đối với ngành khác, từ đó thúc đẩy việc chuyển dịch kinh tế theo một cơ cấu ngành hợp lý. Không chỉ có vậy, đó còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Bên cạnh đó, cũng thông qua cho vay đầu tư phát triển, Nhà nước có thể tạo điều kiện thuận lợi để những vùng khó khăn nhất có cơ hội phát triển mạnh mẽ để theo kịp những vùng khác, đồng thời, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở trong những ngành trọng yếu mà có nhu cầu bức bách về vốn, công nghệ, thị trường để những cơ sở này, những ngành này phát huy tác dụng nhanh, mạnh và hiệu quả, nhờ đó tạo nên lực kéo, đưa toàn bộ nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.2.2.1.5. Tạo thêm việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp.
Giải quyết việc làm là vấn đề hết sức quan trọng mà mọi quốc gia đều phải quan tâm trong chiến lược phát triển của mình. Bởi vậy, một trong những đối tượng được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là các dự án tạo thêm được nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, góp phần ổn định xã hội.
Tóm lại, cho vay đầu tư phát triển có một vai trò rất quan trọng trong việc góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
2.2.2. Các nguyên tắc của tín dụng đầu tư phát triển trong cho vay đầu tư.
- Nhà nước thống nhất quản lý các nguồn vốn ưu đãi cho đầu tư phát triển và giao cho Quỹ Hỗ trợ phát triển quản lý các nguồn vốn này.
- Đầu tư tiết kiệm, tránh lãng phí, thất thoát vốn.
- Đầu tư tập trung dứt điểm, chống phân tán dàn trải, vốn đầu tư phải được bố trí đủ theo tiến độ thi công, đảm bảo đưa nhanh dự án vào sử dụng nhằm tăng nhanh năng lực sản xuất.
- Xoá bỏ hoàn toàn cơ chế xin- cho trong tín dụng đầu tư phát triển nhằm nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh, tránh tình trạng bao cấp qua con đường tín dụng như những năm 80.
- Đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
- Chỉ cho vay đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, cần tập trung vốn cho các dự án của một số ngành mũi nhọn, chương trình kinh tế lớn của Chính phủ và những lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư theo qui định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi), tránh tình trạng cho vay tràn lan, thiếu trọng điểm, dàn hàng ngang mà tiến sẽ không đạt hiệu quả.
- Các điều kiện ưu đãi bao gồm ưu đãi về lãi suất, về thời hạn vay, về thời gian ân hạn, về thế chấp tài sản, về thuế và sử dụng đất... phải đảm bảo tính linh hoạt và tương đối ổn định.
- Giảm tối thiểu những khó khăn, rườm rà trong quá trình thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho chủ đầu tư trong việc vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
1.2.2.3. Quy trình cho vay đầu tư phát triển.
Là một loại hình cho vay trung dài hạn, cho vay đầu tư phát triển cũng có một quy trình như cho vay ở các ngân hàng thương mại nhưng nằm trong quan hệ tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, loại hình cho vay này mà đầu mối thực hiện ở Việt Nam hiện nay là Quỹ Hỗ trợ phát triển lại phải tuân thủ những quy định về lập và giao kế hoạch vốn hàng năm hết sức chặt chẽ. Nói cách khác, khách hàng muốn được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, ngoài việc thuộc đối tượng vay vốn, tiến hành đúng các quy trình như một khoản vay ở các ngân hàng thương mại, chủ đầu tư phải đăng ký và được ghi kế hoạch vốn hàng năm.
Quy trình và thủ tục cho vay đầu tư phát triển có thể được khái quát qua sơ đồ sau:
Chính phủ hoặc cơ quan có thẩm quyền
(1) (7) ra quyết định đầu tư
Chủ đầu tư
Giao kế hoạch vốn ghi kế hoạch vốn cho
dự án
(6) trình quyết định cho vay
Quỹ Hỗ trợ phát triển
Uỷ ban Nhân dân thành phố hoặc các bộ ngành
(2) thông báo
(3) đăng ký kế hoạch
(5) thẩm định về mặt Thẩm định về mặt (5)
kinh tế tài chính kỹ thuật, môi trường
(4) lập hồ sơ vay vốn
(8) ký hợp đồng tín dụng, và dự án đầu tư
giải ngân và thu hồi nợ
1.2.2.3.1. Lập và giao kế hoạch vốn hàng năm.
Đây là cơ sở để thực hiện cho vay đầu tư phát triển. Kế hoạch vốn vay đầu tư phát triển là một bộ phận của kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được thủ tướng Chính phủ giao hành năm về nguồn vốn và tổng mức vốn cho vay (trong đó có danh mục và mức vốn cho vay các dự án nhóm A) theo cơ cấu ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế. Trình tự lập và giao kế hoạch vốn như sau:
+ Lập kế hoạch:
Hàng năm vào thời gian lập dự toán ngân sách Nhà nước năm sau theo qui định của Luật ngân sách, căn cứ vào tiến độ thực hiện dự án đã được xác định trong kế hoạch đầu tư và văn bản hướng dẫn lập kế hoạch của Nhà nước, chủ đầu tư lập kế hoạch vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước gửi Bộ (cơ quan ngang Bộ) chủ quản và Uỷ ban Nhân dân (UBND) thành phố.
Đầu tháng 9, các Bộ và UBND thành phố tổng hợp kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước của các dự án theo phạm vi quản lý chia theo cơ cấu ngành, lĩnh vực, vùng gửi Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính và Quỹ Hỗ trợ phát triển.
Cuối tháng 9, căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế xã hội và qui hoạch phát triển vùng, ngành, lãnh thổ và đề nghị của các Bộ, UBND thành phố, Quỹ Hỗ trợ phát triển sẽ lập báo cáo gửi Bộ Kế hoạch đầu tư và Bộ Tài chính để cân đối trình Chính phủ về nguồn và tổng mức vốn tín dụng đầu tư phát triển trong đó có kế hoạch cho vay đầu tư.
+ Thông báo kế hoạch
Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi Thủ tướng Chính phủ quyết định giao kế hoạch vốn của Nhà nước cho Quỹ Hỗ trợ phát triển, Quỹ Hỗ trợ phát triển phải thông báo kế hoạch cho vay đầu tư cho các Bộ, UBND thành phố và các tổ chức có liên quan khác.
Căn cứ vào kế hoạch Nhà nước giao, trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận được thông báo, các Bộ, UBND thành phố và các tổ chức có liên quan phải đăng ký kế hoạch với Quỹ Hỗ trợ phát triển (danh mục dự án và mức vốn vay của từng dự án) theo nguyên tắc ưu tiên bố trí vốn cho các dự án chuyển tiếp theo tiến độ đã xác định trong quyết định đầu tư và trong hợp đồng tín dụng đã ký.
Xét về phía doanh nghiệp, để được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, doanh nghiệp có dự án được hưởng tín dụng ưu đãi phải lập dự án khả thi và hồ sơ ưu đãi gửi cho Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển thành phố.
1.2.2.3.2. Phân tích trước khi cho vay.
Cán bộ tín dụng hướng dẫn chủ đầu tư lập và gửi một bộ hồ sơ vay vốn đến Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển. Cán bộ tín dụng sẽ phải kiểm tra xem dự án có đúng quy hoạch không và phải tiến hành phân tích tín dụng để đảm bảo việc ra quyết định cho vay là chính xác, đảm bảo việc thu hồi nợ gốc và lãi.
Việc phân tích tín dụng bắt đầu bằng việc tiếp cận thông tin về khách hàng. Có rất nhiều cách tiếp cận thông tin như phỏng vấn người xin vay, qua Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, điều tra nơi hoạt động của người vay, từ bạn hàng, từ đối thủ cạnh tranh và nhất là phân tích các báo cáo tài chính, phương án tài chính của dự án và phương án trả nợ. Từ đó, tiến hành thẩm định chủ đầu tư và dự án đầu tư.
Cho vay trung dài hạn được tiến hành chủ yếu trên các dự án đầu tư. Khi đó, thẩm định dự án đầu tư mà cơ sở là hồ sơ vay vốn của chủ doanh nghiệp là nhân tố đầu tiên và quyết định đến hiệu quả tín dụng. Trong thẩm định, hai nội dung cơ bản cần được quan tâm là thẩm định chủ đầu tư và thẩm định dự án đầu tư.
1.2.2.3.2.1. Thẩm định chủ đầu tư:
Mục đích của việc thẩm định chủ đầu tư là để xem xét chủ đầu tư có nguyện vọng cũng như khả năng trả nợ hay không. Khi thẩm định chủ đầu tư, cần xem xét nguyện vọng của chủ đầu tư có chính đáng không, tư cách pháp nhân của chủ đầu tư có thoả mãn không, uy tín của chủ đầu tư như thế nào và nhất là năng lực tài chính của chủ đầu tư. Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp là:
- Khả năng thanh toán: Đây là chỉ tiêu mà các tổ chức cho vay quan tâm nhất. Nó phản ánh khả năng tài chính của doanh nghiệp trong việc đáp ứng những khoản nợ của đơn vị. Người ta thường sử dụng các chỉ tiêu khả năng thanh toán chung, khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán tức thời và khả năng thanh toán cuối cùng. Nhìn chung, các hệ số này lớn hơn 1 là bình thường và càng cao càng tốt. Nếu nhỏ hơn là khả năng thanh toán yếu và càng nhỏ càng yếu. Riêng hệ số khả năng thanh toán nhanh lớn hơn 0,5 là tốt, còn hệ số khả năng thanh toán cuối cùng nhỏ hơn 1 là tình hình tài chính của doanh nghiệp rất xấu.
- Hệ số về cơ cấu vốn: cán bộ tín dụng thường quan tâm đến hệ số về cơ cấu vốn vì qua hệ số này, có thể biết được liệu hoạt động của doanh nghiệp có an toàn hay không, cơ cấu có hợp lý hay không. Các hệ số thường được quan tâm là hệ số nợ trên tổng tài sản, hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu, tỷ lệ tài sản cố định hoặc tài sản lưu động trên tổng tài sản...
- Bên cạnh các hệ số về khả năng thanh toán và cơ cấu vốn, các tổ chức cho vay còn quan tâm tới, hệ số về khả năng hoạt động và hệ số về khả năng sinh lời. Những hệ số này sẽ góp phần cùng với hệ số về khả năng thanh toán cho phép các tổ chức cho vay đưa ra được quyết định chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.2.2.3.2.2. Thẩm định dự án đầu tư
Sau khi tiến hành thẩm định chủ đầu tư, cần tiến hành thẩm định dự án đầu tư, để có thể đưa ra quyết định xem dự án có được đầu tư hay không. Thẩm định dự án đầu tư bao gồm:
- Thẩm định phương diện thị trường: Bước thẩm định này rất quan trọng với dự án sản xuất sản phẩm mới, mở rộng sản xuất. Nghiên cứu thị trường sẽ giúp cho tổ chức cho vay thấy được xu thế tương lai của sản phẩm mà dự án đó sản xuất, đánh giá được sức cạnh tranh của sản phẩm, qua đó đánh giá được tính khả thi và hiệu quả của dự án.
- Thẩm định phương diện kỹ thuật: phân tích quy mô dự án và công nghệ trang thiết bị; nguyên vật liệu và việc cung cấp nguyên vật liệu; địa điểm xây dựng dự án; quy mô, giải pháp kiến trúc, kết cấu xây dựng, kế hoạch tiến độ và tổ chức, quản lý thực hiện, vận hành dự án nhằm thấy được sự phù hợp của dự án.
- Thẩm định phương diện tài chính của dự án: Với tiền đề là thẩm định thị trường và kỹ thuật, đây là yếu tố quan trọng có tính chất quyết định trong việc ra quyết định có cho vay hay không. Trong phương diện tài chính này, cán bộ tín dụng quan tâm đến phương án tài chính và phương án trả nợ. Bước thẩm định này có thể dùng các phương pháp như phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV- Net Present Value); phương pháp tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR- Internal Rate of Return); phương pháp thời gian hoàn vốn (PP- Payback Period); phương pháp chỉ số doanh lợi (PI- Profitablity Index); phương pháp lợi ích/ chi phí (B/C)...
Tóm lại, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, khi các quan hệ tín dụng ngày càng mở rộng, khâu thẩm định hồ sơ vay vốn càng có ý nghĩa quan trọng trong hiệu quả của cho vay trung và dài hạn.
Dựa vào kết quả thẩm định, cán bộ tín dụng phải có tờ trình trong đó nói rõ có quyết định cho vay hay không. Nếu quyết định cho vay, tiến hành ký hợp đồng tín dụng.
1.2.2.3.3. Ký hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là một văn bản viết, thể hiện sự cam kết giữa tổ chức cho vay và khách hàng về thực hiện các điều khoản ghi trong hợp đồng.
Các điều khoản trong hợp đồng tín dụng bao gồm:
- Mục đích vay là để đầu tư phát triển sản xuất theo đúng đối tượng ưu đãi của Nhà nước, phải phù hợp với khả năng của người vay.
- Mức vốn vay phải dựa theo nhu cầu hợp lý của khách hàng nhưng cũng lại phải tuân thủ những quy định của Nhà nước về mức vốn tối đa theo phân cấp dự án.
- Thời hạn tín dụng được tính từ khi đồng vốn đầu tiên cho vay đến khi đồng vốn cuối cùng được thu về, cả gốc và lãi. Thời hạn tín dụng bao gồm thời gian giải ngân, thời gian ân hạn, thời gian thu nợ và thời gian gia hạn nợ (nếu có).
Việc xác định thời hạn tín dụng cũng phải tuân thủ theo đúng quy định của Chính phủ nhưng phải dựa vào chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng, thời gian hoàn vốn và chu kỳ thu nhập của dự án.
- Lãi suất cho vay đầu tư phát triển là lãi suất ưu đãi do Chính phủ quy định chung và có quy định cá biệt cho một số ngành cụ thể. Lãi suất này được Chính phủ điều chỉnh theo từng thời kỳ khi có sự thay đổi trong lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước.
- Lãi suất nợ quá hạn cũng được xem xét và ghi trong hợp đồng tín dụng. Lãi suất này cũng do Chính phủ quy định, thường thấp hơn lãi suất phạt nợ quá hạn đối với các khoản vay thông thường từ các ngân hàng thương mại.
1.2.2.3.4. Các vấn đề về đảm bảo tiền vay.
Đối với chủ đầu tư không phải là doanh nghiệp Nhà nước, ngoài việc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo tiền vay, phải có tài sản thế chấp trị giá tối thiểu là 30% mức vốn vay. Việc ký hợp đồng thế chấp phải tiến hành trước khi ký hợp đồng tín dụng. Đối với những tài sản mang ra đảm bảo, người ta thường quan tâm tới tính thị trường, quyền sở hữu và quyền chuyển nhượng, khả năng tăng giảm giá trị và khả năng kiểm soát của tổ chức cho vay đối với tài sản thế chấp.
Còn đối với những chủ đầu tư là doanh nghiệp Nhà nước, dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo tiền vay. Sau khi doanh nghiệp vay vốn đầu tư, tổ chức cho vay sẽ kiểm tra tình hình đầu tư và ký kết hợp đồng phụ về đảm bảo tiền vay.
1.2.2.3.5. Giải ngân
Việc giải ngân đối với các khoản cho vay đầu tư phát triển là giải ngân có điều kiện. Tổ chức cho vay tuỳ thuộc vào tiến độ thực hiện dự án để quyết định việc giải ngân. Căn cứ phổ biến nhất là chứng từ, hoá đơn về việc mua sắm, những hợp đồng kinh tế chứng tỏ việc đầu tư của doanh nghiệp.
Nếu trong quá trình giải ngân, tổ chức cho vay phát hiện ra dự án có vấn đề hoặc doanh nghiệp sử dụng vốn không đúng mục đích, không tuân thủ hợp đồng tín dụng đã ký, có quyền tạm dừng hoặc chấm dứt việc giải ngân.
1.2.2.3.6. Thu nợ gốc và lãi- Giải quyết nợ quá hạn nếu có.
Tổ chức cho vay tiến hành thu hồi nợ gốc và lãi. ở việt Nam trước đây, việc cho vay đầu tư phát triển thường không thu lại gốc hoặc thu gốc mà không thu lãi. Đó chính là biểu hiện của việc bao cấp qua con đường tín dụng. Ngày nay, do yêu cầu lành mạnh hoá hệ thống tài chính, xoá bỏ bao cấp qua con đường tín dụng, việc thu hồi nợ gốc và lãi đã được tiến hành đối với các khoản cho vay vốn đầu tư phát triển trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Cán bộ tín dụng phải thường xuyên đôn đốc chủ đầu tư trả gốc và lãi đầy đủ và đúng hạn.
Nếu nợ gốc không trả đúng hạn sẽ bị chuyển nợ quá hạn và tính theo lãi suất phạt nợ quá hạn đã được quy định. Tuỳ theo các nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn khác nhau mà tổ chức cho vay sẽ tiến hành xử lý hoặc trình Chính phủ xử lý bên cạnh việc đôn đốc thu đủ. Có thể xử lý bằng cách giãn nợ, gia hạn nợ, khoanh nợ hoặc phát mại tài sản đảm bảo tiền vay.
1.2.2.3.7. Thanh lý hợp đồng tín dụng.
Sau khi giải quyết hoàn tất việc thu hồi gốc và lãi, giải quyết tất cả các tranh chấp nảy sinh trong quá trình cho vay, tổ chức cho vay tiến hành khâu thanh lý hợp đồng, kết thúc việc cho vay đầu tư phát triển đối với dự án đó.
1.2.2.4. Những nhân tố ảnh hưởng tới cho vay đầu tư phát triển
Hoạt động cho vay trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố, có thể chia làm ba nhóm: các nhân tố thuộc về môi trường kinh tế xã hội và môi trường pháp lý; các nhân tố thuộc về phía chủ dự án; các nhân tố về phía tổ chức thực hiện cấp tín dụng.
1.2.2.4.1. Các nhân tố thuộc về môi trường kinh tế, chính trị, xã hội.
Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội là tổng hoà các mối quan hệ về kinh tế, chính trị xã hội tác động lên hoạt động của doanh nghiệp.
Môi trường kinh tế chính trị an toàn, ổn định sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh, mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, lưu thông hàng hoá dễ dàng, thúc đẩy sản xuất phát triển, do đó hoạt động tín dụng cũng sẽ thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, mức thu nhập bình quân của người dân, tính ổn định của thu nhập và sự chênh lệch giữa thu nhập và chi phí cần thiết cho đời sống sinh hoạt sẽ tác động và ảnh hưởng tới lượng tiền tiết kiệm, nhàn rỗi trong dân cư, cùng với lòng tin vào sự ổn định của đồng tiền trong nước, sức thu hút của lợi ích từ việc gửi tiền sẽ dẫn đến lượng vốn có thể huy động được từ các tầng lớp dân cư dành cho hoạt động đầu tư phát triển tăng lên. Mặt khác, nền kinh tế ổn định, tăng trưởng cao thì hoạt động kinh doanh nói chung sẽ có hiệu quả cao và khả năng hoàn trả vốn vay vì thế mà sẽ được đảm bảo hơn.
Môi trường kinh tế xã hội chính là các cơ chế chính sách của Nhà nước đề ra trong từng thời kỳ để phát triển kinh tế xã hội của đất nước, trong đó có cả các chỉ tiêu và có cả các đòn bẩy để thúc đẩy sự phát triển. Gắn bó mật thiết với sự phát triển đó, cho vay đầu tư phát triển cũng chịu ảnh hưởng của những chỉ tiêu và đòn bẩy này.
Ngoài ra, một môi trường kinh tế, chính trị, xã hội còn hàm chứa trong nó môi trường pháp lý. Một môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ, thống nhất và ổn định sẽ cho phép hoạt động đầu tư phát triển diễn ra thuận lợi, đúng pháp luật, phát huy hiệu quả cũng có nghĩa là cho vay đầu tư phát triển đã đạt kết quả tốt. Hơn nữa, một môi trường pháp luật nghiêm minh cũng cho phép giảm thiểu những rủi ro do sự thiếu ý thức của các cán bộ tín dụng cũng như của các doanh nghiệp cũng có nghĩa là góp phần nâng cao chất lượng cho vay đầu tư phát triển.
1.2.2.4.2. Các nhân tố về phía chủ dự án.
Khi xem xét các nhân tố về phía chủ dự án, người ta thường quan tâm đến năng lực của chủ đầu tư trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn của tín dụng đầu tư phát triển thể hiện ở năng lực thị trường, năng lực sản xuất, năng lực quản lý, đặc biệt là năng lực tài chính và chất lượng của dự án. Tất cả những điều này có ảnh hưởng rất lớn đến tính khả thi, tính an toàn cũng như tính hiệu quả của đầu tư phát triển, cũng chính là tác động đến chất lượng và kế hoạch cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước.
1.2.2.4.3. Các nhân tố về phía tổ chức thực hiện cho vay đầu tư phát triển.
Đặc điểm của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là vốn đưa vào các công trình xây dựng cơ bản, thu hồi dần qua nhiều chu kỳ sản xuất trong thời gian dài. Bởi vậy, đối với tổ chức thực hiện cho vay đầu tư phát triển, năng lực thẩm định dự án đầu tư và năng lực vay vốn của doanh nghiệp trước khi cho vay có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là yếu tố quyết định đảm bảo chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Việc thẩm định năng lực vay vốn của doanh nghiệp chính là đánh giá tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh và bộ máy điều hành của doanh nghiệp. Còn thẩm định dự án đầu tư, ngoài mục tiêu đánh giá hiệu quả về mặt tài chính, đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của dự án, còn phải đánh giá được khả năng đảm bảo sự an toàn về vốn tài trợ cho dự án đó. Năng lực thẩm định của tổ chức cho vay đầu tư cao làm loại trừ được sai lệch trong cung cấp thông tin của doanh nghiệp, năng lực vay vốn của doanh nghiệp, việc dự đoán tương lai hoạt động, khả năng sinh lời và rủi ro càng chính xác, chất lượng tín dụng càng lớn.
Cùng với năng lực thẩm định, năng lực giám sát và xử lý tín dụng cũng có ý nghĩa to lớn. Giám sát tín dụng nhằm đảm bảo tiền vay được sử dụng đúng mục đích, đúng quy định, đúng như dự án, việc hoàn vốn và trả tiền vay theo đúng kế hoạch, bám sát mọi sự biến động của tài sản đảm bảo nợ vay để kịp thời xử lý, qua đó, đảm bảo chất lượng tín dụng như ban đầu dự đoán, hạn chế tình trạng xảy ra rủi ro đạo đức trong quan hệ tín dụng.
Nhưng chính năng lực thẩm định, năng lực giám sát và xử lý tín dụng lại chịu sự tác động của những yếu tố khác như năng lực cán bộ và việc sử dụng cán bộ; hệ thống thông tin phục vụ công tác thẩm định và giám sát tín dụng...
Ngoài ra, cho vay đầu tư phát triển, cũng như quan hệ tín dụng khác, chịu ảnh hưởng của những yếu tố khác như lãi suất đặt ra cho khoản tín dụng, nguồn vốn tín dụng, quy trình tín dụng tiêu chuẩn tín dụng...
Tóm lại, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cho vay đầu tư phát triển, trong đó có cả các nhân tố chủ quan và khách quan đối với khoản tín dụng, nhưng để phát huy có hiệu quả loại hình cho vay này, cần phải có những nhận thức đầy đủ về những nhân tố đó, đồng thời đánh giá mức độ của các tác động của chúng tới cho vay đầu tư phát triển.
1.2.3. Hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển
1.2.3.1. Quan niệm về hiệu quả của hoạt động cho vay đầu tư phát triển.
Hoạt động cho vay đầu tư phát triển là một hình thức tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, nhằm hỗ trợ cho một số ngành, lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư hoặc các chương trình kinh tế của Nhà nước. Trong công cuộc lành mạnh hoá hệ thống tài chính như hiện nay, việc Nhà nước bao cấp vốn cho các doanh nghiệp là không hiệu quả. Bởi vậy, quan niệm về hiệu quả của hoạt động cho vay đầu tư phát triển có ít nhiều thay đổi. Đó phải là sự tổng hợp lợi ích của món vay đối với kinh tế xã hội, đối với chủ dự án và đối với tổ chức cho vay.
Đối với nền kinh tế xã hội, hoạt động cho vay phải đúng quy hoạch, đúng theo chương trình và chiến lược phát triển kinh tế của Nhà nước, đem lại sự tăng trưởng trong nền kinh tế, tiến bộ trong xã hội, thể hiện ở sự chuyển dịch trong cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế; số lao động tăng thêm, tăng thêm trong thu ngân sách...
Đối với chủ đầu tư, dự án được vay vốn đầu tư phát triển phải đem lại lợi nhuận, lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp, thể hiện ở sự tăng lên về doanh thu, giảm đi về chi phí, lợi nhuận tăng thêm...
Đối với tổ chức cho vay, vốn phải được bảo toàn, thu đủ bù chi, các khoản tín dụng phải an toàn và tăng trưởng tốt. Đây là đối tượng mà đề tài này quan tâm hơn cả, trong mối quan tâm tới những lợi ích của Nhà nước cũng như của doanh nghiệp.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển.
Cũng như việc đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay ở các ngân hàng thương mại, có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển. Sau đây là một vài chỉ tiêu cơ bản được xem xét lồng ghép với các tác động vào nền kinh tế xã hội:
1.2.3.2.1. Các chỉ tiêu có thể định lượng:
Số dự án được thẩm định
Số lượng hợp đồng tín dụng được ký kết
Tiến độ giải ngân.
Tổng dư nợ và cơ cấu dư nợ
Việc thu hồi nợ gốc và lãi- Tình hình nợ quá hạn và lãi treo.
1.2.3.2.2. Các chỉ tiêu không định lượng
Ngoài việc đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển theo các chỉ tiêu trên như hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, để việc xem xét lồng ghép với các tác động trong hiệu quả kinh tế, còn cần phải theo dõi xem việc thực hiện cho vay có đúng quy hoạch không, thủ tục cho vay có đơn giản, thuận tiện không... Những chỉ tiêu này, cùng với những chỉ tiêu định lượng trên, cho phép đánh giá chính xác hơn hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong thực hiện tín dụng đầu tư của Nhà nước.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cũng đã khẳng định vai trò quan trọng của nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Qua tìm hiểu một số nước trong khu vực cho thấy:
- Trung Quốc đã thực hiện chính sách cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước từ rất lâu. Trước đây, việc cho vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được giao cho các ngân hàng thương mại thực hiện. Khi đó, các ngân hàng vừa cho vay tín dụng thương mại, vừa cho vay ưu đãi theo chỉ định của Nhà nước.
Qua quá trình thực hiện, đến tháng 3/1994, Quốc vụ viện Trung Quốc đã thành lập Ngân hàng phát triển Trung Quốc để tập trung thực hiện việc cho vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, cho vay lại vốn ODA. Các ngân hàng bàn giao việc cho vay ưu đãi cho ngân hàng phát triển và chỉ thực hiện kinh doanh.
Ngân hàng phát triển Trung Quốc thuộc Quốc vụ viện (cơ quan thuộc Chính phủ). Đây là một ngân hàng chính sách thực hiện cho vay các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, các dự án Nhà nước khuyến khích đầu tư và có thời gian thu hồi vốn dài. Đến 1/1/2000, tổng dư nợ cho vay bằng nội tệ đạt 261,1 tỷ CNY; dư nợ cho vay bằng ngoại tệ đạt 3,3 tỷ USD. Nguồn vốn cho vay của ngân hàng phát triển Trung Quốc ngoài vốn điều lệ và vốn ODA thì chủ yếu là phát hành trái phiếu trong nước, tín dụng xuất nhập khẩu và trái phiếu quốc tế.
- Thái Lan, Singapore cũng có chính sách tương tự Trung Quốc.
- Nhật Bản cũng có chính sách cho vay tín dụng đầu tư và cơ quan thực hiện là ngân hàng phát triển Nhật Bản. Đây cũng là một ngân hàng chính sách do Bộ Tài chính quản lý nhằm cho vay các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và những dự án Nhà nước khuyến khích đầu tư và có thời gian thu hồi vốn dài. Thời gian đầu khi đang trong quá trình khôi phục lại cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, nguồn vốn tín dụng đầu tư tăng trưởng rất cao. Đến giai đoạn phát triển cao như hiện nay, Nhật Bản tập trung nguồn vốn cho vay của Nhà nước dưới hình thức hỗ trợ tín dụng xuất khẩu để tiêu thụ hàng hoá sản xuất trong nước ra thị trường nước ngoài.
Qua đó, ta thấy các nước thực hiện tín dụng đầu tư phát triển thành công đều phải tách biệt giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng chính sách. Điều đó cho phép cả ngân hàng thương mại và ngân hàng chính sách hoạt động hiệu quả hơn. Việc xem xét kinh nghiệm của một số nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc, một nước có mô hình kinh tế, chính trị xã hội gần giống với Việt Nam sẽ cho phép chúng ta tham khảo, rút kinh nghiệm, từ đó vận dụng có sáng tạo để phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay.
Chương II:
Thực trạng hoạt động cho vay đầu tư phát triển
tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà nội.
2.1 Quá trình hình thành hoạt động cho vay đầu tư phát triển ở Việt Nam.
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, chúng ta bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với mục tiêu đó, hàng loạt các dự án công trình cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội đã được đầu tư xâu dựng trên cả nước và trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế bằng nguồn ngân vốn Ngân sách Nhà nước. Các công trình này đã phát huy tác dụng và có những đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Để quản lý việc đầu tư xây dựng theo đúng kế hoạch và có hiệu quả, Chính phủ đã ra Quyết định số 177/TTg ngày 26/4/1957 thành lập Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ Tài chính để thực hiện nhiệm vụ quản lý và cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước.
Trong cả giai đoạn từ 1957 đến 1989, tất cả các công trình được Nhà nước đầu tư, cho dù là công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi xã hộ._.ng Chi nhánh Quỹ có thể bằng một số biện pháp như sau:
- Nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ nhằm tạo nên hình ảnh của Chi nhánh đối với khách hàng.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng mà rõ thấy là nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn dự án, hoàn thiện hồ sơ thủ tục... Điều này sẽ giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, nâng cao hiệu quả của dự án và cũng xoá đi tâm lý e ngại của doanh nghiệp do các thủ tục khi tiếp cận với vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Đó là cơ sở để Chi nhánh mở rộng cho vay và nâng cao hiệu quả hoạt động.
- Thực hiện các biện pháp tuyên truyền, giới thiệu hoạt động của Chi nhánh như qua báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng hay tổ chức các cuộc hội thảo, trao đổi với doanh nghiệp nhằm nắm bắt nhanh chóng, kịp thời khó khăn cũng như nguyện vọng của doanh nghiệp...
3.2.3. Chủ động bám sát, tích cực phát huy việc tư vấn cho các chủ dự án hoàn thiện hồ sơ.
Các cán bộ tín dụng là những người hoạt động trong chuyên môn, thường xuyên tiếp xúc và phải nắm rõ hơn ai hết về các quy định, trình tự thủ tục vay vốn cũng như kỹ thuật lập dự án đầu tư. Trong khi đó, năng lực lập dự án của chủ đầu tư nhìn chung lại chưa cao, nếu lại thêm không nắm rõ thủ tục thì sẽ gây ra tình trạng thời gian thẩm định của dự án kéo dài, thậm chí còn đánh mất cơ hội kinh doanh, ảnh hưởng đến hiệu quả dự án. Hơn nữa, khi khách hàng không nắm rõ thủ tục lại không được tư vấn kịp thời và chu đáo, họ sẽ ngại tìm đến Chi nhánh mà tìm đến những nơi dù kém ưu đãi một chút nhưng có tư vấn giúp họ thực hiện vay vốn dễ dàng. Còn về phía Chi nhánh, khi chủ động, tích cực bám sát và tư vấn cho chủ dự án, Chi nhánh đã tạo cho mình một hình ảnh đẹp đối với khách hàng và cũng làm cho công việc thẩm định của chính mình thuận lợi hơn.
Bởi vậy, mặc dù, tư vấn không phải là nhiệm vụ mà Chi nhánh bắt buộc phải làm nhưng nếu thực hiện tốt công tác này, Chi nhánh đã góp phần làm tăng hiệu quả của dự án, cũng là nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư phát triển.
3.2.4. Nâng cao năng lực thẩm định.
Với tư cách là người đi vay, các chủ đầu tư thường tìm mọi cách để “làm đẹp” hồ sơ xin vay của mình. Trách nhiệm của thẩm định là phải đánh giá đúng năng lực của chủ đầu tư và hiệu quả của dự án, phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn từ môi trường kinh tế xã hội, từ thị trường, từ bản thân dự án và chủ đầu tư của dự án để có thể đưa ra quyết định cho vay hay không một cách chính xác nhất. Đây là một bước vô cùng quan trọng với việc cho vay nói chung và cho vay đầu tư phát triển ở Chi nhánh Quỹ nói riêng. Nó có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh, đến hiệu quả đầu tư của toàn thành phố mà xa hơn là của Nhà nước và sự phát triển của toàn xã hội.
Để nâng cao năng lực thẩm định, Chi nhánh cần chú ý các vấn đề sau:
3.2.4.1. Nghiên cứu, tổng hợp, xây dựng và thường xuyên cập nhật hệ thống thông tin kinh tế kỹ thuật phục vụ cho công tác thẩm định.
Trong thời đại ngày nay, khi nền kinh tế biến động từng ngày, việc nắm bắt và phân tích thông tin trở nên vô cùng cần thiết, đặc biệt là những vấn đề có tính rủi ro và nhạy cảm lớn như các khoản vốn vay. Các thông tin phục vụ cho công tác thẩm định là nguyên liệu cho khâu đầu tiên quyết định đến hiệu quả của khoản tín dụng, là cơ sở cho Chi nhánh qua phân tích, tổng hợp để đưa ra quyết định cho vay.
Đảm bảo cho các quyết định chuẩn xác, các thông tin phải được thu thập chính xác, kịp thời, đầy đủ và nhất là phải được xử lý bằng các kỹ thuật phân tích, tổng hợp.
Các thông tin cần được thu thập về cơ bản bao gồm:
+ Thông tin về định hướng phát triển kinh tế xã hội, đánh giá khả năng thị trường trong đó bao gồm cả thị trường đầu ra và thị trường đầu vào của sản phẩm của dự án cũng như tình hình các sản phẩm thay thế, cạnh tranh... để đánh giá sự cần thiết và hợp lý của chủ trương đầu tư, chiến lược và khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường nếu dự án được đầu tư.
+ Thông tin về tính năng tác dụng và đặc điểm hoạt động của máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất... để đánh giá tính khả thi trong lựa chọn công nghệ, công suất, quy mô của dự án, sản lượng đảm bảo doanh thu, chi phí sản xuất và khả năng lợi nhuận của dự án.
+ Thông tin về tình hình tài chính, năng lực thực hiện dự án của chủ đầu tư, tình hình hoạt động kinh doanh trong quá khứ, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp góp phần đánh giá được mức độ an toàn của vốn sau khi được vay vốn. Các thông tin này có thể được sử dụng kết hợp từ việc kiểm tra tại đơn vị, xem xét và phân tích báo cáo tài chính và các thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước(CIC). Đặc biệt, đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Chi nhánh nên tham khảo thông tin về khách hàng từ CIC. Trung tâm này sẽ cung cấp những thông tin về lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng, tình hình thực hiện nghĩa vụ trả lãi và trả nợ, các khoản nợ quá hạn trước đây của đơn vị. Qua đó sẽ giúp chi nhánh đánh giá chính xác hơn khả năng cũng như ý thức trả nợ của khách hàng. Ngoài ra, CIC còn cung cấp những thông tin về tài sản thế chấp, giúp Chi nhánh đánh giá chính xác hơn về tài sản đó cũng như ngăn ngừa tình trạng đơn vị đem tài sản thế chấp để vay vốn ở nhiều nơi.
3.2.4.2. Nghiên cứu các phương pháp thẩm định dự án đầu tư và xây dựng hoàn chỉnh hệ thống các chỉ tiêu đánh giá tài chính.
Hiện nay, Chi nhánh thường sử dụng 4 phương pháp để đánh giá hiệu quả tài chính dự án là phương pháp tính giá trị hiện tại ròng (NPV), phương pháp tính tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), phương pháp tính thời gian hoàn vốn (PP) và phương pháp tính hệ số sinh lời của dự án (BCR). Chi nhánh nên nghiên cứu để đưa vào thêm những phương pháp mới nhằm nâng cao tính chính xác của những con số này.
Bên cạnh đó, việc đưa ra các đánh giá trong phân tích báo cáo tài chính vẫn phần nhiều phụ thuộc vào cảm tính mà chưa có một tiêu chuẩn cụ thể. Nên chăng, Chi nhánh cần nghiên cứu để có thể tự mình xác định những chuẩn này ở trong trạng thái lỏng, đảm bảo phát huy hiệu quả nhưng vẫn linh hoạt và thích ứng với sự biến đổi trong môi trường kinh tế xã hội, sự biến đổi về công nghệ, về thị trường...
3.2.4.3. Nâng cao hơn nữa năng lực của cán bộ thẩm định:
Trong bất cứ một công việc nào, chủ thể thực hiện công việc là con người. Thẩm định phương án tài chính và phương án trả nợ là những công việc rất khó khăn nên việc nâng cao hơn nữa năng lực cán bộ là điều cần thiết.
Nâng cao năng lực cán bộ thẩm định là sự kết hợp chặt chẽ cả việc nâng cao tinh thần trách nhiệm và khả năng thực hiện công việc. Chi nhánh cần có các biện pháp xác định trách nhiệm cụ thể đối với từng cán bộ, cơ chế thưởng phạt kịp thời, nghiêm minh và có tính khích lệ. Chi nhánh cũng thường xuyên tiến hành đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ bằng các buổi trao đổi, bồi dưỡng nghiệp vụ hoặc gửi cán bộ đi học.
3.2.4.4. Thành lập một hội đồng chuyên trách tổng hợp, xem xét, đánh giá việc thẩm định:
Hiện nay ở Chi nhánh Quỹ, việc thẩm định dự án đầu tư do cả bộ phận thẩm định kinh tế kỹ thuật và bộ phận tín dụng thực hiện. Điều này cho phép các cán bộ tín dụng nắm vững hơn về khoản cho vay của mình song cũng đặt ra một số khó khăn khi chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận này. Nên chăng thành lập một bộ phận chuyên trách việc tổng hợp , xem xét và xử lý các kết quả thẩm định này, tạo điều kiện để có sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác thẩm định và công tác tín dụng.
3.2.5. Chủ động tăng cường quan hệ phối hợp với các cơ quan hữu quan.
Các công tác của quỹ hỗ trợ phát triển liên quan chặt chẽ với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư như bố trí nguồn vốn, cơ cấu đầu tư, quy hoạch phát triển, phân bổ kế hoạch... Do đó, Quỹ Hỗ trợ phát triển phải có sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ này để đảm bảo thực hiện tốt công việc được giao. Là một Chi nhánh, ngoài việc thường xuyên liên hệ chặt chẽ với Quỹ Hỗ trợ phát triển, Chi nhánh Quỹ còn phải chủ động phối hợp với các cơ quan này, ở cấp Sở để có thể đảm bảo thực hiện tốt công việc trên địa bàn thành phố Hà nội.
Ngoài ra, Chi nhánh còn phải tăng cường quan hệ phối hợp với các cơ quan hữu quan khác như ủy ban nhân dân thành phố, các Bộ ngành có các dự án đang được thẩm định cho vay hay đang được cho vay và cả những dự án đã hoàn thành đầu tư đưa vào sử dụng, để có những đánh giá chính xác và kịp thời xử lý.
Chi nhánh cũng cần tăng cường liên hệ với các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng mà tại đó, doanh nghiệp có tài khoản tiền gửi vì qua tài khoản này, mọi thông tin về hoạt động và tình hình tài chính của doanh nghiệp được kiểm soát chặt chẽ, qua đó, tổ chức cho vay có thể kịp thời xử lý đối với khoản tín dụng cũng như có thể đưa ra các quyết định chính xác hơn khi thẩm định và cho vay. Ngoài ra, việc phối hợp này còn rất có ý nghĩa nhất là trong hoàn cảnh vốn tự có của các doanh nghiệp thì rất hạn chế, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thì cũng không đủ đáp ứng, thì vay của ngân hàng thương mại là một giải pháp tốt. Sự phối hợp giữa ngân hàng thương mại và Chi nhánh Quỹ sẽ cho phép cả hai phía mở rộng tín dụng trung và dài hạn mà vẫn đảm bảo chất lượng cho vay.
3.2.6. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ phải được thực hiện thường xuyên và trở thành một trong những hoạt động cơ bản của Chi nhánh quỹ. Công tác này cho phép phát hiện và kịp thời uốn nắn những sai lạc trong công tác nói chung và hoạt động cho vay đầu tư phát triển nói riêng, đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ theo đúng quy định, có hiệu quả, tránh thất thoát, lãng phí và giữ gìn được cán bộ.
Cần phải thực hiện nhiều hình thức kiểm tra, kiểm soát để có thể đánh giá trung thực và không làm ảnh hưởng đến công tác chuyên môn như thực hiện kiểm tra trước, trong và sau khi thực hiện quá trình công tác, kiểm tra từ xa, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất , thông tin báo cáo định kỳ...
3.2.7. Thường xuyên theo dõi, rà soát, phân loại nợ vay để có biện pháp xử lý kịp thời.
Việc theo dõi nợ vay của Chi nhánh hiện nay do các cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Cán bộ phụ trách cho vay dự án nào sẽ tiến hành theo dõi và phân loại nợ vay đối với dự án đó. Điều này cho phép Chi nhánh nắm được thông tin một cách đầy đủ và toàn diện hơn do cán bộ cho vay quản lý dự án từ đầu đến cuối nên nắm vững tình hình của chủ đầu tư và việc thực hiện dự án. Định kỳ, Chi nhánh, sẽ tiến hành rà soát, phân loại nợ vay trên cơ sở thu lãi, thu gốc và báo cáo của cán bộ tín dụng phụ trách dự án. Để nâng cao hiệu quả hoạt động, Chi nhánh cần phải có bộ phận chuyên trách thường xuyên tập hợp thông tin từ các cán bộ tín dụng, xem xét tình hình thực tế để có những biện pháp xử lý thích hợp. Việc đó cũng sẽ buộc cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi dự án đó thay vì chỉ để ý tới nó khi đến kỳ thu nợ, từ đó, cán bộ tín dụng cũng như Chi nhánh có thể thường xuyên nắm được tình hình của doanh nghiệp.
Trên thực tế, một khoản dư nợ có vấn đề thường có thể có các dấu hiệu như:
Doanh nghiệp chậm trễ trong việc báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của mình với Chi nhánh.
Doanh nghiệp có biểu hiện trốn tránh khi cán bộ tín dụng xuống kiểm tra đơn vị.
Hoàn trả lãi vay và nợ gốc chậm hoặc không đầy đủ theo hợp đồng tín dụng đã ký.
Thông thường, khi có những biểu hiện trên là rủi ro đã có thể nhìn thấy tương đối rõ. Lúc đó, Chi nhánh cần phải nhanh chóng có biện pháp giải quyết. Chính vì thế, cán bộ tín dụng phải theo sát dự án ngay cả khi chưa đến kỳ thu nợ, phát hiện ra mầm mống của rủi ro ngay từ khi nó mới manh nha xuất hiện để có thể tư vấn và cùng với chủ dự án giải quyết cũng như chủ động trong công tác xử lý.
Việc xử lý các khoản nợ có vấn đề này phải cương quyết nhằm tránh tình trạng chủ đầu tư ỷ lại, thiếu ý thức trả nợ, dẫn đến tình trạng bao cấp qua con đường tín dụng nhưng cũng không nên cứng nhắc mà phải tuỳ thuộc vào nguyên nhân cụ thể để có cách giải quyết phù hợp, nhằm bảo đảm sự an toàn của vốn nhưng phải trong nỗ lực vực dậy dự án của cả hai phía. Chẳng hạn như đối với những dự án gặp khó khăn tạm thời do những biến động của thị trường ngoài khả năng tính toán của chủ đầu tư, có thể xem xét miễm giảm lãi vay, đồng thời cùng với chủ đầu tư tìm cách giải quyết, thậm chí còn đẩy nhanh giải ngân giúp doanh nghiệp qua thời điểm khó khăn.
3.2.8. Thực hiện theo dõi, tổng hợp và đánh giá hiệu quả dự án sau đầu tư.
Xét về bản chất hoạt động, thì hiệu quả cho vay ưu đãi không phải chỉ là thu hồi được cả gốc và lãi mà điều quan trọng hơn là vốn tín dụng đầu tư phát triển đem lại kết quả gì cho sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và thành phố nói chung và rộng hơn nữa là cho toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, Chi nhánh nên tiến hành theo dõi và đánh giá hiệu quả sau đầu tư của dự án. Việc thu thập những thông tin này hoàn toàn không mất nhiều thời gian và công sức, các cán bộ tín dụng hoàn toàn có thể đảm nhận được nhưng nó đem lại hiệu quả đáng kể cho hoạt động của Chi nhánh. Thông qua tổng hợp và đánh giá hiệu quả dự án sau đầu tư, Chi nhánh có thể rút ra những kinh nghiệm quí báu trong việc thực hiện nhiệm vụ. Không những thế nó còn là cơ sở để Chi nhánh xây dựng định hướng và kế hoạch hoạt động cả ngắn và dài hạn một cách cụ thể, chính xác và phù hợp với tình hình phát triển của thành phố. Kết quả đầu tư tổng hợp của các dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển còn là những dữ liệu quan trọng để báo cáo Quỹ Hỗ trợ phát triển và Chính phủ làm cơ sở cho việc giao vốn cũng như kế hoạch thực hiện cho Chi nhánh.
3.2.9. Nâng cao chất lượng và phát huy toàn diện nguồn nhân lực.
Con người luôn luôn đóng vai trò trung tâm trong mọi hoạt động xã hội, là mục tiêu và là động lực phát triển của xã hội. Con nguời là nhân tố quyết định hiệu quả của hoạt động. Với tư cách này, con người cần phải được tạo điều kiện để phát huy mọi năng lực , năng khiếu, sáng kiến để có thể góp phần vào phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội theo phương châm “phát triển vì con người và do con người”.
Nhận thức được điều này, trong thời gian vừa qua, Chi nhánh Quỹ đã luôn chú ý quan tâm phát huy nhân tố con người. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, phổ biến các quy định của Chính phủ và Hội đồng quản lý Quĩ được thực hiện thường xuyên. Bên cạnh đó, Chi nhánh còn chú trọng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ nhân viện tạo điều kiện nâng cao hiệu suất lao động. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa nhân tố con người, không chỉ trong đội ngũ cán bộ thẩm định mà trong tất cả các bộ phận, đem lại hiệu quả hoạt động cao hơn và tương xứng với tiềm năng của Chi nhánh, trong thời gian tới Chi nhánh có một số vấn đề sau cần chú ý:
- Bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ. Chi nhánh nên thường xuyên tổ chức tập huấn cho cán bộ về các nghiệp vụ có liên quan như thẩm định dự án, qui trình cho vay, quy trình thanh toán... Để các bài giảng này phát huy hiệu quả hơn nữa có thể mời các chuyên gia hoặc cán bộ của Quỹ Hỗ trợ phát triển về trực tiếp thực hiện. Sau đó, đề nghị cán bộ tham gia tập huấn viết báo cáo thu hoạch để xem kiến thức được tiếp thu đến đâu. Qua những đợt học nghiệp vụ như vậy, cán bộ tín dụng có khả năng kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tế, giữa kinh nghiệm và kiến thức để nâng cao chất lượng công việc. Chi nhánh có thể áp dụng các biện pháp đào tạo khác nhau như trao đổi kinh nghiệm, gửi cán bộ đi học...
Mặt khác, nghiệp vụ cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước chịu điều tiết của rất nhiều những văn bản pháp luật khác nhau. Trong khi đó, với điều kiện Việt Nam hệ thống những văn bản này thường xuyên thay đổi. Vì vậy, mỗi khi có những qui định và hướng dẫn thực hiện mới Chi nhánh nên tổ chức một buổi tập huấn cho cán bộ. Qua đó cũng thu thập các ý kiến đóng góp của cán bộ về vấn đề trong thực tế để trình Quỹ Hỗ trợ và Chính phủ xem xét sửa đổi cho phù hợp.
- Nâng cao đạo đức nghề nghiệp và thái độ giao dịch với khách hàng của cán bộ nhận viên, đặc biệt là cán bộ tín dụng là những người tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với khách hàng. Điều này có ảnh rất lớn đến hiệu quả công việc, hình ảnh của Chi nhánh đối với khách hàng.
- Phát huy vai trò chủ động của cán bộ tín dụng trong việc tìm kiếm dự án đầu tư, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự án và chủ động phối hợp với chủ đầu tư trong việc hoàn tất hồ sơ thủ tục. Với chức năng của mình cán bộ tín dụng nên chủ động tìm kiếm các dự án đúng đối tượng và hướng dẫn chủ đầu tư hoàn tất thủ tục vay vốn. Mặt khác, trong quá trình thẩm định cũng nên cùng với chủ đầu tư xây dựng dự án, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự án. Tuy nhiên, trên góc độ của mình, cán bộ tín dụng chỉ nên đề xuất các định hướng chứ không nên đưa ra các con số cụ thể để tránh việc vừa lập vừa thẩm định dự án.
- Qui định rõ trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ. Đối với nghiệp vụ cho vay, công việc qui định càng cụ thể bao nhiêu thì hiệu quả đạt được càng cao bấy nhiêu. Vì vậy, Chi nhánh nên qui định rõ trách nhiệm của từng bộ phận và phân định quyền hạn và chức năng cụ thể của từng bộ phận giữa thẩm định và tín dụng để trong trường hợp có rủi ro xảy ra thì xác định được trách nhiệm thuộc về ai, có sai phạm trong quá trình thực hiện hay không và sai phạm đến đâu, từ đó có sự rút kinh nghiệm kịp thời. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng nên xây dựng một qui chế khen thưởng kịp thời và phù hợp đối với những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có thể gắn quyền lợi vật chất của cán bộ với chất lượng công việc được đánh giá tổng hợp qua những chỉ tiêu nhất định như dư nợ cho vay, tiến độ giải ngân vốn vay, thời gian thực hiện, số nợ quá hạn và lãi treo...
3.2.10. Chủ động tổng hợp ý kiến để đề xuất với ban lãnh đạo Chi nhánh và Quỹ Hỗ trợ phát triển.
Các cán bộ của Chi nhánh là những người thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, với thực tế của công việc nên cần chủ động nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của khách hàng cũng như cần phải chủ động có ý kiến đề xuất để cải tiến công việc với các cấp lãnh đạo, góp phần giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ, Quỹ Hỗ trợ phát triển và các Bộ ngành liên quan.
3.3.1.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách về đầu tư phát triển và tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, thống nhất các văn bản pháp luật. Cụ thể là:
- Tiến hành rà soát, điều chỉnh lại đối tượng được hưởng ưu đãi cho phù hợp, đảm bảo tập trung, có trọng điểm và phù hợp với khả năng về nguồn vốn cũng như khả năng hiệu quả của dự án, xây dựng cơ chế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, nhất là trong khu vực quốc doanh và khu vực dân doanh.
Phạm vi ưu đãi của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nên tập trung theo hướng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, các ngành công nghệ cao, các ngành sử dụng nhiều lao động và áp dụng nhiều công nghệ tiến bộ... như Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ ra.
- Các điều kiện về đảm bảo tiền vay nên bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo tiêu chí cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước và phải có các biện pháp thiết thực để đưa các quy định về xử lý tài sản đảm bảo tiền vay vào thực hiện.
3.3.1.2. Xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi
Việc xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng cường đầu tư phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ đầu tư nói chung và hoạt động cho vay đầu tư phát triển nói riêng. Nhà nước và các bộ ngành liên quan cần hoàn chỉnh các cơ chế chính sách về quản lý đầu tư và xây dựng theo hướng giảm bớt thủ tục hành chính, hoàn thiện quy chế đấu thầu, sớm ban hành kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm và dự toán Ngân sách để công tác tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có căn cứ triển khai sớm, chuyển bố trí vốn đầu tư theo kế hoạch hàng năm mang tính hành chính sang phương thức bố trí cho vay trực tiếp theo dự án trên cơ sở xem xét hiệu quả của dự án, đảm bảo cho vay đủ vốn và đúng tiến độ.
3.3.1.3. Sớm phối hợp với các Bộ ngành liên quan đưa ra các văn bản thống nhất hướng dẫn thực hiện các nghị định của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Việc chậm trễ và không đồng bộ trong hướng dẫn thi hành các Nghị định, Quyết định của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ của các Bộ ngành không những làm cho chủ trương chính sách của Đảng chậm đi vào cuộc sống mà còn gây lúng túng cho Chi nhánh trong quá trình thực hiện. Bởi vậy, Quỹ Hỗ trợ phát triển cần phối hợp với các bộ ngành liên quan nghiên cứu, nhanh chóng và kịp thời đưa ra các văn bản hướng dẫn, tạo khuôn khổ pháp lý và hướng dẫn cho hoạt động của Chi nhánh.
3.3.1.4. Đề nghị Quỹ Hỗ trợ phát triển xem xét giảm thiểu các mẫu biểu báo cáo.
Việc lập báo cáo là rất cần thiết để các cấp lãnh đạo thường xuyên nắm vững tình hình thực hiện nghiệp vụ và bản thân những cán bộ chuyên môn cũng thường xuyên có trách nhiệm với công việc của mình song hiện nay, việc tồn tại nhiều mẫu biểu báo cáo làm ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian thực hiện nhiệm vụ. Bởi vậy, đề nghị Quỹ Hỗ trợ phát triển xem xét giảm thiểu các mẫu biểu báo cáo.
3.3.1.5. Xem xét lại về thời gian thực hiện kế hoạch năm, tránh kéo dài quá nhiều sang năm sau.
Việc Quỹ Hỗ trợ phát triển tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thời gian thực hiện kế hoạch năm là cần thiết nhưng nếu kéo dài quá nhiều sang năm sau sẽ gây khó khăn cho cán bộ khi phải đồng thời thực hiện kế hoạch năm cũ và kế hoạch năm mới. Hơn nữa, lại gây ra tâm lý ỷ lại, chậm trễ của các chủ dự án.
3.3.2. Kiến nghị với chủ đầu tư.
Tích cực đổi mới toàn diện các mặt hoạt động kinh doanh, tự nâng cao năng lực công nghệ, thiết bị, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân viên, trên cơ sở đó nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường của mỗi doanh nghiệp cũng là một đóng góp lớn vào quá trình thực hiện đầu tư phát triển của Nhà nước. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, xin có một vài kiến nghị đối với chủ đầu tư như sau:
3.3.2.1. Nhận thức về tín dụng đầu tư phát triển, từ đó sử dụng vốn đúng mục đích và thực hiện tốt nghĩa vụ trả nợ.
Chủ đầu tư cần thay đổi nhận thức về tín dụng đầu tư phát triển, thực hiện tốt nghĩa vụ vay trả trong quan hệ tín dụng, triệt để xoá bỏ tư tưởng bao cấp trong đầu tư. Tự giác sử dụng vốn vay đúng mục đích, đúng kế hoạch, đảm bảo trả nợ gốc và lãi vay một cách sòng phẳng, tránh tình trạng chiếm dụng vốn của Nhà nước cũng như tâm lý ỷ lại vào Nhà nước, xin chuyển vốn vay thành vốn cấp phát gây ảnh hưởng đến hiệu quả của đồng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
3.3.2.2. Nâng cao năng lực lập và thực hiện dự án.
Trong quá trình sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước hiện nay, việc thiếu kinh nghiệm của cán bộ đầu tư về các vấn đề thủ tục đầu tư, thủ tục đấu thầu, ký kết các hợp đồng ngoại thương, hợp đồng vay vốn hay năng lực lập, chuẩn bị dự án của chủ đầu tư kém đã gây ra những chậm trễ trong quá trình ký kết hợp động tín dụng, giải ngân vốn vay làm giảm hiệu quả sử dụng vốn rất nhiều. Để giải quyết vấn đề này, chủ đầu tư cần thành lập một bộ phận am hiểu các lĩnh vực trên, có kinh nghiệm trong thực hiện quy chế đấu thầu và xây dựng, có khả năng tổ chức tốt công tác đấu thầu mua sắm thiết bị, ký kết và xử lý các hợp động ngoại thương, đáp ứng được các yêu cầu cho thực hiện các công việc liên quan đến dự án một cách nhanh nhất và ít tốn kém nhất.
Chủ đầu tư cần chủ động, năng động tìm ra các dự án đầu tư có hiệu quả, tích cực nghiên cứu và chuẩn bị tốt các thủ tục đầu tư, có báo cáo quyết toán tài chính kịp thời để thuận lợi trong việc giải trình phân tích báo cáo tì chính với Chi nhánh quỹ. Trong công tác lập dự án đầu tư, chủ đầu tư cần nghiên cứu kỹ thị trường, lựa chọn công nghệ và thiết bị phù hợp, chủ động lập dự án gắn với các biến động của thị trường nhằm nâng cao chất lượng của dự án, không phải ỷ lại vào cơ quan tư vấn lập dự án, dẫn đến phải điều chỉnh danh mục thiết bị hoặc tổng đầu tư làm kéo dài thời gian thực hiện dự án.
3.3.2.3. Chủ đầu tư khi đã ký kết hợp đồng tín dụng cần phải nhanh chóng hoàn tất mọi thủ tục để giải ngân vốn vay tránh tình trạng cố tình trì hoãn để không phải nhận nợ sớm.
Hiện nay, còn tồn tại một số chủ đầu tư chỉ quan tâm đến việc được ghi kế hoạch và vay vốn chứ chưa thực sự quan tâm đến dự án đầu tư. Vì vậy, có những hợp đồng ký kết đã lâu nhưng vẫn chưa thực hiện giải ngân do chủ đầu tư có tình trì hoãn việc đưa dự án vào thực hiện để tránh phải nhận nợ sớm. Vì vậy, các chủ đầu tư chỉ đăng ký vay vốn và ký hợp đồng tín dụng khi thực sự có nhu cầu, tránh tình trạng “vay để dành” nhằm đảm bảo hiệu quả của vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, đồng thời nhanh chóng hoàn tất thủ tục hoặc bổ sung kịp thời những giấy tờ, khoản mục được yêu cầu để đẩy nhanh tiến độ giải ngân.
3.3.2.4. Đề xuất kịp thời những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền dể phối hợp tìm nguyên nhân và biện pháp tháo gỡ.
Doanh nghiệp cần thường xuyên liên hệ với các cơ quan chức năng, liên hệ với Chi nhánh để có thể nhận được sự hướng dẫn và trợ giúp nhanh nhất, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Kết luận
Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ra đời trong giai đoạn đổi mới, đầu tư còn gặp nhiều khó khăn nhưng đã sớm khẳng định được vị trí quyết định của mình trong sự phát triển kinh tế xã hội, góp phần chuyển dịch nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Đứng trước nhu cầu ngày càng tăng cao về vốn tín dụng đầu tư phát triển, Quỹ Hỗ trợ phát triển nói chung và Chi nhánh Hà Nội nói riêng đã ra đời đảm nhận nhiệm vụ to lớn này.
Qua hai năm hoạt động, Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội, với nhiều nỗ lực của toàn thể cán bộ, nhân viên, đã đạt được nhiều kết quả khả quan và không thể phủ nhận, trở thành nguồn cung ứng vốn lớn phục vụ cho sự phát triển của thủ đô Hà Nội. Song, để hoạt động cho vay đầu tư phát triển thực sự trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho các dự án đầu tư phát triển, Chi nhánh Quỹ cần chủ động, tích cực tháo gỡ những khó khăn và vướng mắc mà vẫn còn tồn tại không ít trong quá trình thực hiện của Chi nhánh. Tin tưởng rằng, với những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ, hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội sẽ được nâng cao, tương xứng với tiềm năng và vị thế của Chi nhánh cũng như yêu cầu phát triển thành phố.
Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính- Federic Minskin
2. Quản trị Ngân hàng thương mại- Peter. S. Rose
3. Giáo trình Kinh tế đầu tư-Trường đại học Kinh tế quốc dân
4. Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi)
5. Nghị định 43/1999/NĐ-CP, 50/1999/NĐ-CP, Nghị định 52/1999/NĐ-CP và một số văn bản pháp luật của Chính phủ, Quỹ Hỗ trợ phát triển, các Bộ ngành khác có liên quan.
6. Báo cáo tổng quát tình hình thực hiện nhiệm vụ của Quỹ Hỗ trợ phát triển.
7. Báo cáo tổng kết của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội
8. Tạp chí Quỹ Hỗ trợ phát triển.
9. Tạp chí tài chính, thông tin tài chính, tạp chí kinh tế phát triển, báo đầu tư.
Mục lục
Lời nói đầu
1
Chương I: Tổng quan về cho vay đầu tư phát triển
3
1.1. Cho vay trong phạm trù tín dụng
3
1.1.1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của hoạt động cho vay
3
1.1.2. Các loại hình cho vay
4
1.2. Hoạt động cho vay đầu tư phát triển
7
1.2.1. Đầu tư phát triển và các nguồn vốn cho đầu tư phát triển
7
1.2.1.1. Đầu tư phát triển
7
1.2.1.2. Các nguồn vốn cho đầu tư phát triển
10
1.2.2. Hoạt động cho vay đầu tư phát triển trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
15
1.2.2.1. Đặc điểm và tầm quan trọng của hoạt động cho vay đầu tư phát triển
15
1.2.2.2. Nguyên tắc cho vay đầu tư phát triển trong tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
18
1.2.2.3. Quy trình cho vay đầu tư phát triển
19
1.2.2.4. Những nhân tố ảnh hưởng tới cho vay đầu tư phát triển
25
1.2.3. Hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển
27
1.2.3.1. Quan niệm về hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển
27
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển.
28
1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
29
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đầu tư phát triển tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội.
31
2.1. Quá trình hình thành của tín dụng đầu tư phát triển ở Việt Nam.
31
2.2. Những nét chung về hoạt động của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội.
33
2.2.1. Vài nét về sự hình thành, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà nội.
33
2.2.1.1. Sự hình thành, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội.
33
2.2.1.2. Bộ máy tổ chức của Chi nhánh Quỹ
36
2.2.1.3. Các hình thức hỗ trợ đầu tư của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội
38
2.2.2. Tình hình hoạt động của Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà nội.
41
2.2.2.1. Tiếp nhận và huy động vốn
41
2.2.2.2. Hoạt động hỗ trợ đầu tư phát triển.
43
2.3. Hoạt động cho vay đầu tư phát triển tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội
47
2.3.1. Những kết quả đạt được
47
2.3.2. Những hạn chế và vướng mắc trong thực hiện cho vay đầu tư phát triển.
52
2.3.3. Những nguyên nhân chủ yếu
55
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan.
55
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía Chi nhánh Quỹ
57
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội.
59
3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế của thành phỗ Hà nội đến năm 2010 và định hướng hoạt động của Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà nội.
59
3.1.1. Mục tiêu phát triển kinh tế của thành phố Hà nội đến 2010.
59
3.1.2. Định hướng hoạt động của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà nội trong thời gian tới.
61
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà nội.
63
3.3. Một số kiến nghị
73
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ, Quỹ Hỗ trợ phát triển và các Bộ ngành liên quan
73
3.3.2. Kiến nghị với chủ đầu tư.
75
Kết luận
78
Danh mục tài liệu tham khảo
79
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34522.doc