Lời mở đầu
Hiện nay, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là xu hướng tất yếu phát triển của nền kinh tế thế giới. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Ngay trong lúc này ta đang nỗ lực hết mình trong các phiên đàm phán song phương cũng như đa phương để đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO. Hội nhập mang lại cho đất nước, nền kinh tế và mỗi cá thể trong nó là các doanh nghiệp rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những cam go thách thức. Thách thức lớn nhất mà chúng ta gặp phải có lẽ sẽ là sự
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả cung ứng hàng hoá tại siêu thị Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xâm nhập ồ ạt của các công, tập đoàn nước ngoài và kéo theo nó là cạnh tranh gay gắt hơn bao giờ hết. Khó khăn nhiều hay thuận lợi lớn còn chưa thể biết trước nhưng có thể khẳng định ta không thể đứng ngoài xu thể chung đó và để có thể đứng vững và phát triển trong bối cảnh này không còn cách nào khác là tự làm mới mình cho phù hợp với xu thế trung đó. Nâng cao hiệu quả các hoạt động của mình là một vấn đề thường thấy nhắc đến trong nhiều bài báo lời phát ngôn tuy nhiên việc thực hiện nó thế nào để có kết quả tốt quả thực không hề đơn giản.
Cung ứng là một hoạt động vô cùng quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhưng vai trò của nó có vẻ như chưa được nhìn nhận một cách đúng đắn. Các doanh nghiệp thường chỉ chú trọng nhiều đến khâu tiêu thụ mà quên đi rằng không thể tiêu thụ tốt nêu như không được cung ứng tốt. Quan tâm đến vấn đề này và nhận thấy nó phù hợp với tình hình tại siêu thị Hà Nội nơi em thực hiện thực tập tốt nghiệp nên em đã quyết định chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả cung ứng hàng hoá tại siêu thị Hà Nội “để thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Trên cở sở kiến thức đã được các thầy cô giảng dạy trong bốn năm học, và một số tài liệu khác cùng với những điều tìm hiểu, quan sát được trong thời gian thực tập em đã phân tích, đưa ra một số nhận định về những thành công và hạn chế trong quá trình cung ứng ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động nay và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiẹu quả hoạt động cung ứng.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày theo kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về hiệu quả cung ứng hàng hoá của doanh nghiệp thương mại
Chương II: Thực trạng hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá tại siêu thị Hà Nội
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá ở siêu thị Hà Nội
Do hạn chế về sự hiểu biết, trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tế... nên trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn tốt nghiệp này không tránh khỏi những sai sót, em kính mong được sự giúp đỡ, góp ý của thầy cô và các cô chú anh chị cán bộ công nhân viên trong siêu thị Hà Nội
Qua đây em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phạm Công Đoàn và cán bộ công nhân viên trong Siêu thị Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập tốt nghiệp và hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I : Một số vấn đề lý luận về hiệu quả cung ứng hàng hoá của doanh nghiệp thương mại
1-Doanh nghiệp thương mại và tầm quan trọng của công tác cung ứng trong doanh nghiệp thương mại
Khi nghiên cứu bất cứ vấn đề gì, trong mọi lĩnh vực ta đều nên và phải đi từ nhưng vấn đề cơ bản nhất, những khái niệm cơ bản nhất. Chính vì vậy khi nghiên cứu về việc nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng tại siêu thị Hà Nội, ta sẽ bắt đầu từ những khái niệm ban đầu: doanh nghiệp, doanh nghiệp thương mại, cung ứng, hiệu quả…
1.1-Khái niệm doanh nghiệp
Cho đến nay doanh nghiệp được biết đến với rất nhiều khái niệm khác nhau với nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau.
Với cái nhìn đơn giản, trực giác nhất đối với mọi người, doanh nghiệp được biết đến là một tập hợp, một nhóm các toà nhà, những máy móc, một tấm biển, nhãn hiệu sản phẩm…tóm lại là tập hợp những yếu tố rời rạc.
Thuật ngữ doanh nghiệp có nội hàm rất rộng và phong phú: Các nhà máy xí nghiệp, công ty, tập đoàn...nếu thoả mãn các điều kiện sau đều là hình thái biểu hiện cụ thể của doanh nghiệp:
1)Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động kinh doanh
2)Đã làm đầy đủ các thủ tục theo quy định để triển khai hoạt động
3)Triển khai hoạt động trên thực tế
…
Trên góc độ kinh tế, doanh nghiệp là đơn vị cơ sở, tạo thành nền tảng kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia, và trên cơ sở đó, tạo thành nền tảng của nền kinh tế thế giới. Tại đó, các nguồn lực của doanh nghiệp sẽ được sử dụng, khai thác nhằm cung cấp cho xã hội các sản phẩm hàng hoá dịch vụ hữu ích và thông qua đó doanh nghiệp thực hiện được các mục tiêu chính của mình, trong đó có mục đích lợi nhuận.
Trên góc độ luật pháp, doanh nghiệp được hiểu là ” một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh ”. ở đây kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Trên góc độ xã hội học, doanh nghiệp là một cộng đồng người có sự ràng buộc bởi những mục tiêu chung và các lợi ích cá nhân và cộng đồng, họ thực hiện các công việc khác nhau theo sự phân công và quản lý thống nhất của các nhà quản trị, nhằm thực hiện được mục tiêu của mình thông qua việc góp phần thực hiện được mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Tóm lại một cách cụ thể, dễ hiểu, chính xác nhất theo giáo trình kinh tế doanh nghiệp thương mại của trường đại học Thương Mại do PGS.TS. Phạm Công Đoàn - TS. Nguyễn Cảnh Lịch đồng chủ biên, doanh nghiệp được hiểu như sau:
“Doanh nghiệp là một cộng đồng người liên kết với nhau để sản xuất ra của cải hoặc dịch vụ và cùng nhau thừa hưởng thành quả do việc sản xuất đó đem lại”.
Cộng đồng người trong doanh nghiệp liên kết với nhau chủ yếu trên cơ sở lợi ích kinh tế. Con người trong doanh nghiệp được xem như là“con người kinh tế”. Trong đó chủ thể doanh nghiệp muốn tối đa hoá lợi nhuận của mình, người lao động vì tiền công mà hợp tác với chủ doanh nghiệp.
1.2-Khái niệm doanh nghiệp thương mại
Ta đề cập đến một khái niệm hẹp hơn đó là doanh nghiệp thương mại.
Trước hết ta khẳng định doanh nghiệp thương mại cũng là một doanh nghiệp mang đầy đủ các yếu tố, tính chất …của một doanh nghiệp. Điều làm cho doanh nghiệp thương mại trở nên khác biệt với các doanh nghiệp khác đó là do nó chủ yếu thực hiện các hoạt động thương mại.
Hoạt động thương mại hiện nay được chia làm 3 nhóm: mua bán hàng hoá, dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại. Trong đó dịch vụ thương mại gắn liền với việc mua bán hàng hoá, xúc tiến thương mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy việc mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại.
Doanh nghiệp thương mại không chỉ thực hiện các hoạt động thương mại, nó cũng có thể thực hiện các hoạt động khác như sản xuất, cung ứng dịch vụ, đầu tư tài chính ,…nhưng hoạt động thương mại vẫn là chủ yếu.
1.3-Khái niệm cung ứng
1.3.1-Một số khái niệm
Theo giáo trình kinh tế doanh nghiệp thương mại của trường đại học Thương Mại do PGS.TS.Phạm Công Đoàn-TS.Nguyễn Cảnh Lịch đồng chủ biên, cung ứng hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại được hiểu như sau:
“Cung ứng hàng hoá là việc tổ chức nguồn hàng nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại”
Trong bất doanh nghiệp thương mại nào hoạt động kinh doanh cũng bắt đầu từ việc tổ chức mua hàng và kết thúc bằng việc bán hàng. Nhưng muốn có hàng để bán cho khách hàng thì trước hết doanh nghiệp luôn phải được cung ứng hàng hoá .
Để hiểu rõ hơn về cung ứng hàng hoá ta sẽ xem xét đến 3 khái niệm mua hàng, thu mua và cung ứng .
*Mua hàng
Mua hàng là một trong những chức năng cơ bản của mọi tổ chức. Mua hàng gồm những hoạt động có liên quan đến việc mua nguyên vật liệu, máy móc, hàng hoá, trang thiết bị, các dịch vụ…để phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp.
Các hoạt động đó bao gồm:
1)Phối hợp cácphòng ban, bộ phận để xác định nhu cầu hàng hoá, nguyên vật liệu, máy móc cần cung cấp
2)Tổng hợp nhu cầu của toàn bộ doanh nghiệp, xác định lượng hàng hoá thực sự cần mua
3)Xác định các nhà cung cấp tiềm năng
4)Thực hiện nghiên cứu thị trường cho những hàng hoá nguyên vật liệu quan trọng
5)Đàm phán với nhà cung cấp tiềm năng
6)Phân tích các đề nghị
7)Lựa chọn nhà cung cấp
8)Soạn thảo đơn đặt hàng, hợp đồng
9)Thực hiện các hợp đồng và giải quyết vướng mắc gặp phải
10)Thống kê theo dõi các số liệu mua hàng
*Thu mua
Thu mua là hoạt động thiết yếu của tổ doanh nghiệp, là sự phát triển, mở rộng chức năng mua hàng. So với mua hàng thì trong thu mua người ta chú trọng nhiều hơn đến các vấn đề mang tính chiến lược. Cụ thể thu mua bao gồm các hoạt động:
1)Tham gia vào việc phát triển các nhu cầu nguyên vật liệu, dịch vụ, các chi tiết kỹ thuật
2)Thực hiện các nghiên cứu về nguyên vật liệu và quản lý các hoạt động phân tích có giá trị
3)Thực hiện nghiên cứu chuyên sâu về thị trường hàng hoá nguyên vật liệu
4)Thực hiện các hoạt động của chức năng mua hàng
5)Quản trị chất lượng của các nhà cung cấp
6)Quản trị quá trình vận chuyển
7)Quản trị các hoạt động mang tính đầu tư như : tận dụng sử dụng lại các nguyên vật liệu
*Cung ứng
Đây là sự phát triển ở một bước cao hơn của thu mua. Nếu mua hàng và thu mua chủ yếu là các hoạt động mang tính chiến thuật thì cung ứng tập trung chủ yếu vào các chiến lược. Những hoạt động cụ thể của cung ứng là:
1)Đặt quan hệ trước để mua hàng và đặt quan hệ trước với các nhà cung cấp ngay trong quá trình thiết kế sản phẩm và phát triển các chi tiết kỹ thuật kèm theo của các sản phẩm quan trọng
2)Thực hiện chức năng mua hàng và các hoạt động của quá trình thu mua
3)Sử dụng nhóm chức năng chéo trong việc xác định và lựa chon nhà cung ứng
4)Sử dụng sự thoả thuận 2 bên khi mua hàng và các liên minh chiến lược với các nhà cung cấp để phát triển mối quan hệ thân thiện và các mối quan hệ có lợi cho cả đôi bên với những nhà cung cấp chủ yếu cũng như để quản lý chất lượng và chi phí
5)Tiếp tục xác định những nguy cơ và cơ hội trong môi trường cung ứng của công ty
6)Phát triển các chiến lược
7)Tiếp tục quản lý việc cải thiện dây chuyền cung ứng
8)Tham gia năng động vào quá trình hoạch định chiến lược phối hợp
Sau khi xem xét 3 khái niệm trên, ta nhận thấy giữa mua hàng, thu mua và cung ứng có mối quan hệ mật thiết, là các bước tiến hoá của cung ứng. Hình thức sau bao gồm hình thức trước và có phạm vi hoạt động rộng hơn, mang tính chiến lược nhiều hơn.
1.3.2-Nội dung của cung ứng hàng hoá
Hoạt động cung ứng hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại bao gồm có hoạt động mua hàng và dự trữ hàng hoá để đảm bảo công biệc kinh doanh của doanh nghiệp. Sau đây ta sẽ đi vào tìm hiểu từng hoạt động cụ thể : mua hàng và dự trữ hàng hoá. Trong phần 1.3.1 ta cũng đã nhắc đến khái niệm mua hàng nhưng đó là mua hàng với vai trò là một trong những bước tiến hoá phát triển của hoạt động cung ứng. Còn mua hàng trong phần 1.3.2 này mua hàng là một nội dung của hoạt động cung ứng hàng hoá
a)Mua hàng
Theo dõi và thực hiện giao hàng
Thương lượng và đặt hàng
Xác định nhu cầu
Lựa chọn nhà cung cấp
Thoả mãn
Không thoả mãn
Đánh giá kết quả mua hàng
SƠ ĐỒ QUY TRÌNH MUA HÀNG
Quá trình mua hàng tiến hành theo quy trình đầu tiên là xác dịnh nhu cầu, sau đó lựa chọn nhà cung cấp có thể thoả mãn nhu cầu đó, tiếp theo là tiến hành thương lượng nhằm đạt được những điều khoản có lợi nhất và tiến hành đặt hàng, kế tiếp là theo dõi và thực hiện giao hàng, cuối cùng là đánh giá kết quả mua hàng. Nếu thoả mãn ta sẽ lại bắt đầu lại từ bước xác định nhu cầu, ngược lại nếu chưa thoả mãn ta sẽ quay lại bước lựa chọn nhà cung cấp, hay thương lượng đặt hàng, hoặc theo dõi và thực hiện giao hàng tuỳ vào nguyên nhân dẫn đến việc chưa thoả mãn.
+Xác định nhu cầu :
Xác định nhu cầu là bước đầu tiên trong chuỗi các hoạt động trong quá trình mua hàng. Việc có đảm bảo hàng hoá kịp thời, đầy đủ, đúng yêu cầu về số lượng, chất lượng, chủng loại … hay không, một phần lớn do việc tính toán xác định nhu cầu quyết định.
Nhu cầu mua hàng được xác định trước hết là căn cứ vào nhu cầu bán ra của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh.
Từ công thức cân đối :
M+Ddk=B+Dck
Ta có thể xác định nhu cầu mua hàng trong kỳ như sau:
M=B+Dck-Ddk
Trong đó:
M:Lượng hàng cần mua vào trong kỳ
Ddk:Lượng hàng tồn kho của doanh nghiệp ở đầu kỳ kinh doanh
B:Lượng hàng bán ra theo kế hoạch của doanh nghiệp trong kỳ
Dck:Lượng hàng dự trữ cuối kỳ theo kế hoạch để chuẩn bị cho kỳ kinh doanh tiếp theo
Đó là nhu cầu của từng mặt hàng. Tổng lượng hàng mua vào sẽ là tổng lượng hàng mua vào của các mặt hàng.
Trong các đại lượng trên xác định B – lượng hàng bán ra theo kế hoạch là khó khăn nhất vì bản thân nhu cầu của khách hàng thay đổi liên tục cả về số lượng hàng hoá, chất lượng, chủng loại …trong thị trường các biến động về giá cả, các sản phẩm mới ra đời, yếu tố cạnh tranh… xảy ra thường xuyên liên tục càng làm nhu cầu của khách hàng thay đổi nhanh và mạnh mẽ hơn. Để xác định mức kế hoạch cho gần với mức tiêu thụ thực tế quả thật không hề đơn giản, nhất là các mặt hàng mỗi lần mua với số lượng lớn, tiêu thụ trong thời gian dài.
+Lựa chọn nhà cung cấp
Đó là công việc tìm kiếm các nhà cung cấp có khả năng đáp ứng nhu cầu về hàng hoá của doanh nghiệp và tiến hành phân tích khả năng đáp ứng nhu cầu của các nhà cung cấp, từ đó sàng lọc tìm ra nhà cung cấp phù hợp nhất và quyết định ai là nhà cung cấp chính để liên hệ chuẩn bị cho bước tiếp theo là thương lượng và đặt hàng. Khi phân tích cần chú ý các mặt sau:
Khả năng tài chính
Những ưu đãi mà ta có thể nhận được
Uy tín của nhà cung cấp
Các dịch vụ sau bán…
+Thương lượng và đặt hàng
Đây là bước rất quan trọng trong quá trình mua hàng, nó trực tiếp quyết định doanh nghiệp sẽ nhận được gì và với chi phí ra sao cùng với các điều kiện ưu đãi về các mặt khác.Trong giai đoạn này cần quan tâm đến các vấn đề sau:
Các tiêu chuẩn kỹ thuật của hàng hóa được cung cấp về mẫu mã, chất lượng, các phương tiện và phương pháp kiểm tra.
Giá cả và sự giao động của giá cả khi giá cả thị trường lúc giao hàng có biến động.
Hình thức thanh toán
Hình thức giao hàng
Cố gắng đạt được những điều kiện có lợi nhất cho doanh nghiệp là mục tiêu của giai đoạn này. Sau khi đạt được sự thống nhất giữa các bên sẽ tiến hành ký hợp đồng hay lập đơn đặt hàng theo các điều khoản đã thoả thuận .
+Theo dõi và thực hiện giao hàng
Việc giao nhận hàng hoá được thực hiện theo các điều khoản đã kí kết trong đơn đặt hàng hay hợp đồng cung ứng, tuy nhiên cần đôn đốc thúc giục, theo dõi kiểm tra quá trình thực hiện của nhà cung cấp để tránh các rủi ro có thể xảy ra cho cả hai phía. Cần giám sát toàn bộ quá trình giao hàng xem bên cung cấp có thực hiện đúng các điều kiện đã thoả thuận và ký kết không. Nếu có sai phạm phải lập biên bản về các trục trặc phát sinh để thông báo cho nhà cung cấp để cùng nhau giải quyết xử lý. Nếu có những vi phạm tương đối lớn không thể khắc phục, doanh ngiệp có thể từ chối nhận hàng và yêu cầu bồi thường theo hợp đồng. Sau khi ta đã nhận hàng hoá từ các nhà cung cấp, đã có hàng hoá để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp có thể coi là đã hoàn tất một lần mua hàng tuy nhiên không thể dừng lại ở bước này mà cần tiến hành bước tiếp theo đó là đánh giá kết quả mua hàng.
+Đánh giá kết quả mua hàng
Đây là hoạt động thực hiện sau mỗi lần mua hàng nhằm làm rõ những thành công cũng như những hạn chế còn tồn tại và làm rõ nguyên nhân cũng như biện pháp khắc phục những vấn đề đó để những làn mua hàng sau đạt được những kết quả tốt hơn. Cơ sở của việc đánh giá là những mục tiêu của mua hàng đã được xác định như chất lượng, giá cả, số lượng…Tuỳ từng thời điểm, từng loại hàng hoá mà các mục tiêu có mức độ quan trọng khác nhau. Hoạt động này còn đo lường sự đóng góp cũng như trách nhiệm của từng cá nhân, từng bộ phận có liên quan.
b)Dự trữ
+Nhận hàng, phân loại, nhập kho
Sau khi nhận hàng từ nhà cung cấp, hàng hoá được bàn giao cho bộ phận đảm nhiệm nhiệm vụ dự trữ hàng hoá. ở đó hàng hoá được phân loại để tiện cho việc bảo quản cấp phát.
+Bảo quản
Sau khi nhập kho hàng hoá được bảo quản trong các điều kiện thích hợp để đảm bảo chất lượng không suy giảm cũng như tránh hao hụt về số lượng.
+Theo dõi và cấp phát
Hàng hoá từ kho sẽ được cấp phát cho các bộ phận có nhu cầu. Nhu cầu và mức độ sử dụng, tiêu thụ hàng hoá của mối bộ phận trong doanh nghiệp luôn được theo dõi để có kế hoạch cấp phát kịp thời đầy đủ tạo điều kiện để mỗi bộ phận hoàn thành nhiêm vụ của mình một cách tốt nhất có thể.
1.4-Tầm quan trọng của cung ứng
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp thì hoạt động cung ứng là hoạt động không thể thiếu. Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của cung ứng ngày càng phát triển thì vai trò của cung ứng càng thêm quan trọng. Hoạt động cung ứng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm, chi phí và năng suất lao động của doanh nghiệp. Giờ đây cung ứng được coi là vũ khí chiến lược. Cung ứng tốt là yếu tố quan trọng để nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của tổ chức trên thương trường. Khi hoạt động cung ứng của một doanh nghiệp thương mại đạt được đúng chất lượng; đúng nhà cung cấp; đúng số lượng; đúng thời điểm; đúng giá; đúng mức dự trữ tối ưu…- đó chính là một sự đảm bảo khá chắc chắn cho sự thành công của doanh nghiệp.
1.4.1-Cung ứng là hoạt động quan trọng không thể thiếu trong mọi doanh nghiệp
Mọi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đều cần có các hoạt động sau:
*Sáng tạo : Đó là những ý tưởng mới và khả năng sáng tạo không ngừng
*Tài chính : Việc thu hút vốn cũng như việc quản lý nguồn vốn
*Nhân sự : Việc quản lý nguồn nhân lực
*Mua hàng : Thu mua hàng hoá, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, dịch vụ…để phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
*Sản xuất, chế biến : Tổ chức sản xuất chế biến nguyên vật liệu thành sản phẩm, hay phân loại chia nhỏ, bao gói…sản phẩm để sẵn sàng đưa vào tiêu dùng
*Phân phối : Tiếp nhận và bán các sản phẩm của doanh nghiệp
Dễ dàng nhận thấy mọi doanh nghiệp đều không thể tồn tại, phát triển nếu không được cung cấp các yếu tố đầu vào như hàng hoá, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, dịch vụ…đó là nhu cầu mà hoạt động cung ứng sẽ thoả mãn. Do đó cung ứng là hoạt động không thể thiếu trong mọi tổ chức.
1.4.2-Cung ứng là một nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Mục tiêu cuối cùng của mọi doanh nghiệp là lợi nhuận, lợi nhuận cao và lợi nhuận cao hơn nữa. Để có thể đạt được mục tiêu đó cần có 5 yếu tố thường được gọi là 5M bao gồm :
M1-Machines-Máy móc
M2-Manpower-Nhân lực
M3-Materials-Nguyên vật liệu
M4-Money-Tiền
M5-Management-Quản lý
Trong 5 yếu tố đó hoạt động cung ứng đã đảm bảo đến 2 yếu tố : máy móc thiết bị và nguyên vật liệu. Nếu hoạt động cung ứng tốt có hiệu quả : cung cấp đầy đủ, kịp thời hàng hoá, máy móc trang thiết bị, nguyên vật liệu với hàng hoá, máy móc chất lượng tốt, công nghệ tiên tiến ,nguyên liệu tốt …giá rẻ thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới có thể diễn ra liên tục, nhịp nhàng với năng xuất cao, tiết kiệm chi phí, các doanh nghiệp sản xuất có thể làm ra các sản phẩm đạt chất lượng tốt, giá thành hạ, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng, các doanh nghiệp thương mại giảm đươc chi phí đầu vào do có nguồn hàng tốt giá rẻ, ít hao hụt trong quá trình dự trữ trên cơ sở đó giảm giá bán hay tăng mức dịch vụ đi kèm gia tăng sức cạnh tranh tăng thị phần, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận…
1.4.3-Cung ứng đóng vai trò người quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh từ bên ngoài
Để có thể đáp ứng nhu cầu của mình về hàng hoá nguyên vật liệu, thiết bị máy móc cho sản xuất doanh nghiệp có 2 lựa chọn :
Lựa chọn 1:Doanh nghiệp tự sản xuất
Lựa chọn 2:Doanh nghiệp thu mua đặt hàng từ bên ngoài
Cùng với sự chuyên môn hoá, phân công lao động xã hội đang phát triển không ngừng thì lựa chọn 2 đang ngày càng trở nên quan trọng hơn. Nếu cung ứng làm tốt chức năng của mình : cung cấp hàng hoá nguyên vật liệu đúng tên gọi và chất lượng, đủ số lượng, kịp thời gian và với chi phi thấp thì kinh doanh sẽ tiến hành liên tục nhịp nhàng, mang lại hiệu quả cao. Còn ngược lại, tất nhiên kinh doanh sẽ bị gián đoạn và hiệu quả thấp. Do vậy cung ứng chính là người điều phối sản xuất từ bên ngoài.
Tóm lại cung ứng đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi doang nghiệp nó giúp đảm bảo cho sản xuất tiến hành nhịp nhàng, liên tục, tạo điều kiện nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh, kích thích hoạt động sáng tạo, áp dụng các kỹ thuật mới, tạo ra năng lực sản xuất kinh doanh mới, tạo điều kiện, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như chất lượng dịch vụ đi kèm, hạ giá sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2- Hiệu quả cung ứng hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại
2.1-Khái niệm về hiệu quả, hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại
2.1.1-Hiệu quả
Khi nói đến hiệu quả ta có thể hiểu đó là một sự so sánh giữa kết quả đạt được theo mục tiêu đã xác định với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Sự so sánh đó có thể là hiệu số giữa kết quả và chi phí. Đó là hiệu quả tuyệt đối. Sự so sánh này cho ta thấy mức chênh lệch giữa kết quả và chi phí. Ta có công thức :
HK=KQ-CP
Trong đó :
HK là hiệu quả tuyệt đối đạt được trong một thời kỳ nhất định
KQ là kết quả đạt được trong thời kỳ đó
CP là chi phí đã bỏ ra để có kết quả đó
Mức chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả đạt được càng cao.
Hiệu quả tuyệt đối có ưu điểm nổi bật đó là dễ tính, đơn giản nhưng nó cũng còn nhiều hạn chế lớn như :
-Không thể đánh giá chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
-Không có khả năng so sánh hiệu quả giữa các kỳ, các doanh nghiệp với nhau
-Không phản ánh được những năng lực tiềm năng để nâng cao hiệu quả
-Dễ đồng nhất hai phạm trù hiệu quả và kết quả
Sự so sánh này còn có thể tỷ số giữa kết quả và chi phí-đó là hiệu quả tương đối.
Ta có công thức :
KQ
HK=---------
CP
Hiệu quả tính theo cách này tuy khá phức tạp, đòi hỏi phải có quan điểm thống nhất khi lựa chọn hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả nhưng nó không chỉ khắc phục được những khuyết điểm của hiệu quả tuyệt đối mà cón cho phép phản ánh hiệu quả ở nhiều góc độc khác nhau cho phép tính tổng hợp toàn bộ chi phí hoặc tính riêng cho từng yếu tố. Nó phản ánh sức sản xuất hay sức sinh lời của các yếu tố đầu vào. Các mối quan hệ này có thể dùng để so sánh các thời kỳ, các đơn vị với nhau và phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh. Với cách này ta dễ dàng phân biệt được hiệu quả và kết quả.
Tóm lại dù tính theo cách nào kết quả mà doanh nghiệp đạt được theo hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí bỏ ra bao nhiêu thì hiệu quả càng cao bấy nhiêu.
Trên đây ta đang đề cập đến hiệu quả kinh tế, ngoài ra cũng không thể không nhắc đến hiệu quả xã hội. Đó là đại lượng phản ánh mức độ thực hiện các mục tiêu xã hội của doanh nghiệp hoặc mức độ ảnh hưởng của các kết quả đạt được của doanh nghiệp đến xã hội và môi trường. Hiệu quả xã hội thường được biểu hiện qua mức độ thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của dân cư, giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện lao động, cải thiện và bảo vệ môi trường sinh thái …
2.1.2-Hiệu quả hoạt động cung ứng
Bám sát khái niệm hiệu quả ta có thể nói hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại là sự so sánh giữa kết quả của hoạt động cung ứng hàng hoá với chi phí trong quá trình thực hiện cung ứng hàng hoá. Hiệu quả kinh tế trong cung ứng hàng hoá là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân tài, nhân lực được thể hiện thông qua mối quan hệ so sánh kết giữa kết quả đạt được (đầu ra) với chi phí bỏ ra (đầu vào) trong quá trình cung ứng hàng hoá. Các khoản chi phí ở đây bao gồm các yếu tố của quá trình cung ứng hàng hoá. Cung ứng hàng hoá là việc tổ chức nguồn hàng nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
Kết quả của nó được thể hiện qua một số đại lượng như doanh thu theo giá vốn, lợi nhuận …
+Doanh thu theo giá vốn
Tổng doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp thương mại là số tiền thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay nói cách khác nó là số tiền thu được từ hoạt động bán hàng nhưng được tính theo giá vốn.
Ta có công thức :
Mv=
Trong đó:
Mv : Doanh thu theo giá vốn
Pi : Giá mua vào của loại sản phẩm i
Qi : Lượng bán ra của loại sản phẩm i
Đại lượng này là tổng các tích của Pi : giá mua vào của mặt hàng i và Qi : lượng bán ra của mặt hàng i . Đại lượng này nằm trên tử số của chỉ tiêu thuận. Nó càng tăng cao càng làm cho hiệu quả càng cao. Nhưng ta cần phải xem xét xem nó tăng là do đâu. Nếu Mv tăng chủ yếu do Qi tăng ta có thể khẳng định đó là dấu hiệu tốt cho thấy hiệu quả sẽ tăng nếu chi phí giảm hoặc không đổi hay tăng với tốc độ chậm hơn. Tuy nhiên nếu nó tăng chủ yếu lại do Pi tăng ta chưa thể nói đây là dấu hiệu tốt thậm chí còn là điều đáng lo ngại ở hoạt động mua hàng.
+Lợi nhuận:
Lợi nhuận của doanh nghiệp chính là phần chênh lệch giữa tổng thu nhập của doanh nghiệp và tổng chi phí trong một thời kỳ nhất định
Lợi nhuận =Tổng thu nhập-Tổng chi phí
Đây là đại lượng cho thấy rõ nhất kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đại lượng này tăng lên không chỉ làm cho hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá tăng lên mà còn làm tăng hiệu quả của tất cả các hoạt động khác của doanh nghiệp tăng. Thậm chí nếu để đại lượng này tăng lên mà các chỉ tiêu hiệu quả giảm xuống(do tốc độ tăng chi phí tăng nhanh hơn …) thì cũng nên làm. Vì đại lượng này là mục đích cuối cùng của mọi hoạt động trong doanh nghiệp
Trên đây là một số kết quả của hoạt động cung ứng mang lại hay góp phần mang lại. Tiếp theo sẽ là vấn đề chi phí.
+Chi phí
Chi phí của hoạt động cung ứng là toàn bộ các chi phí phát sinh trong quá trình cung ứng. Nó bao gồm chi phí mua hàng (không tính đến giá mua) và chi phí dự trữ
+Chi phí mua hàng bao gồm có chi phí đặt hàng, chi phí vận chuyển, xếp dỡ…chi phí tiền lương và bảo hiểm của nhân viên mua hàng, kế toán, chi phí khấu hao tài sản, thuê văn phòng, chi phí đi công tác…
+Chi phí dự trữ bao gồm chi phí vốn đầu tư, chi phí kho, chi phí do giảm giá, hao hụt trong quá trình dự trữ hàng hoá (hư hỏng, giảm chất lượng, lỗi thời …), chi phí do gián đoạn dự trữ hàng hoá
Chi phí là đại lượng làm giảm các chỉ tiêu hiệu quả của hoạt động cung ứng cũng như các hoạt động khác trong doanh nghiệp. Nhưng hiệu quả tăng không phải là ta cố gắng giảm chi phí xuống vì không có chi phí sẽ không có bất kì kết quả nào, mà là giảm các chi phí không cần thiết, làm cho chi phí giảm xuống tương đối so với các đại lượng như Mv hay P.
Còn hiệu quả chỉ là biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả với chi phí, đây là mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện để đạt được mục đích. Đối với hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá ta thường dùng chỉ tiêu tương đối để đánh giá với hệ thống chỉ tiêu sẽ được thể hiện sau đây trong phần 2.3 của chương I
2.2 -Tiêu chuẩn đánh giá
Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp được đánh giá qua một hệ thống các chỉ tiêu nhất định. Những chỉ tiêu này bị lệ thuộc bởi các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ một. Bởi vậy khi phân tích và đánh giá hiệu quả phải căn cứ vào mục tiêu của doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động của mình, các nhà quản trị doanh nghiệp thường đặt ra nhiều mục tiêu hoạt động cho doanh nghiệp, đó là các tiêu đích hoặc là các kết quả cụ thể mà doanh nghiệp phải phấn đấu đạt được. Các mục tiêu thường được ấn định theo các lĩnh vực cụ thể sau :
+Mức lợi nhuận
+Năng suất, chi phí
+Vị thế cạnh tranh, tăng thị phần
+Nâng cao chất lượng phục vụ
+Duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp
+Đạt được sự ổn định nội bộ…
Các lĩnh vực này có mối liên hệ trực tiếp, chặt chẽ với nhau, hiệu quả ở lĩnh vực này tạo điều kiện cho hiệu quả ở các lĩnh vực khác. Tại mỗi thời điểm mỗi giai đoạn nhất định doanh nghiệp lại có những mục tiêu khác nhau,với mức độ quan trọng khác nhau giữa các mục tiêu. Từ đó cách nhìn nhạn và quan điểm đánh giá hiệu quả cũng sẽ khác nhau. Nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn luôn là lợi nhuận, có thể trong từng thời điểm nhất định, có lúc lợi nhuận không được đưa lên hàng đầu thậm chí còn không được nhắc đến, nhưng tất cả những mục tiêu khác cũng là để mang lại lợi nhuận không phải trong hiện tại thì là trong tương lai. Mục tiêu tăng thị phần chiếm lĩnh thị trường cũng là để tăng doanh thu tăng lợi nhuận. Tìm mọi cách tiết kiệm, giảm chi phí, nâng cao năng suất xét cho cùng cũng là để tăng lợi nhuận. Chính vì vậy, lợi nhuận luôn được coi là tiêu chuẩn để thiết lập các chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả.
2.3-Hệ thống chỉ tiêu
2.3.1-Yêu cầu của hệ thống chỉ tiêu
Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp cần đảm bảo các yêu cầu sau :
Trước hết, hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo tính chính xác và khoa học, lượng hoá được kết quả, đảm bảo kết hợp được giữa phân tích định lượng và phân tích định tính.
Để đánh giá hiệu quả hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo tính chính xác và tính thực tiễn, chỉ tiêu và phương pháp tính toán của nó phải dựa trên cơ sở số liệu thông tin thực tế, dơn giản và dễ hiểh, không nên sử dụng những phương pháp quá phức tạp khi chưa có đầy đủ điều kiện để sử dụng nó.
Nó cũng phải đảm bảo tính toàn diện và hệ thống, phải phản ánh hiệu quả tiêu thụ hàng hoá một cách tổng quát cũng như riêng biệt từng yếu tố tham qua vào hoạt động sản xuất kinh doanh tiêu thụ hàng hoá. Do đó trong hệ thống chỉ tiêu phải có các chỉ tiêu chung (hay chỉ tiêu tổng hợp) và các chỉ tiêu riêng (chỉ tiêu bộ phận), phải thể hiện các mối quan hệ giữa các kết quả kinh tế và việc thực hiện các chức năng của đơn vị, các chỉ tiêu phải nêu được các yếu tố, các khâu, các bộ phận trong quá trình tiêu thụ hàng hoá.
Các chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả phải có sự liên hệ so sánh với nhau, có phương pháp tính toán cụ thể thống nhất, có phạm vi sử dụng nhất định trong công tác đánh giá.
Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả phải đảm bảo so sánh và kế hoạch hoá. Để dễ dàng đánh giá và theo dõi kiểm tra.
2.3.2-Các chỉ tiêu
Chỉ tiêu thứ nhất : Doanh thu tính theo giá vốn đạt được trên mỗi đơn vị chi phí bỏ ra trong hoạt động cung ứng
Ta có công thức :
Mv
HQ= -----------------
CPcư
Trong đó :
HQ : doanh thu tính theo giá vốn đạt được trên mỗi đơn vị chi phí bỏ ra trong hoạt động cung ứng
Mv : Doanh thu theo giá vốn
CPcư : Chi phí của hoạt động cung ứng
Chỉ tiêu này cho thấy lượng hàng hoá được cung ứng cho doanh nghiệp so với chi phí bỏ ra trong hoạt động cung ứng. Hiệu quả càng cao cho thấy việc sử dụng chi phí trong hoạt đông cung ứng là hiệu quả và hợp lý.
Chỉ tiêu thứ hai : Tốc đ._.ộ chu chuyển hàng hoá dự trữ
Tốc độ chu chuyển hàng hoá được thông qua 2 chỉ tiêu bộ phận: số vòng chu chuyển và số ngày chu chuyển.
+ Số vòng chu chuyển hàng hoá: là số lần quay vòng của khối lượng hàng hoá dự trữ trong một thời kỳ nhất định. Nó phản ánh trong một thời kỳ nhất định, khối lượng hàng hoá dự trữ được chu chuyển bao nhiêu lần.
Số vòng chu chuyển đươc tính theo công thức:
Mv
L = ------------------
D
Trong đó:
Mv : Doanh thu theo giá vốn
L: là số vòng chu chuyển hàng hoá trong kỳ.
D: là mức vốn dự trữ bình quân trong kỳ được xác định theo công thức:
d1/2+d2+d3+…+dn/2
D = --------------------------------
n-1
Ý nghĩa của số vòng chu chuyển: số vòng chu chuyển hàng hoá càng lớn nghĩa là tốc độ chu chuyển hàng hoá càng tăng. Trong một thời kỳ nhất định hàng hoá dự trữ quay được nhiều vòng, từ đó làm cho tốc độ quay vòng của vốn nhanh tiết kiệm được chi phí, tiết kiệm được vốn kinh doanh mang lại lợi nhuận nhiều hơn cho doanh nghiệp và ngược lại.
+ Số ngày chu chuyển hàng hoá (T): số ngày chu chuyển hàng hoá phản ánh thời gian của một lần dự trữ được đổi mới hay còn gọi là thời gian của một vòng quay hàng hoá dự trữ.
Số ngày chu chuyển hàng hoá (T) được tính theo công thức:
D
T = -----------
mv
Trong đó:
T: là số ngày chu chuyển hàng hoá.
mv: là mức lưu chuyển hàng hoá bình quân 1 ngày được tính theo công thức.
Mv
mv = --------
t
Trong đó t là số ngày trong kỳ
Ý nghĩa của số ngày chu chuyển hàng hoá : số ngày chu chuyển hàng hoá phản ánh thời gian lưu thông của hàng hoá. Vì vậy số ngày chu chuyển hàng hoá càng ngắn càng tốt và ngược lại, nếu số ngày chu chuyển hàng hoá dài thì thời gian quay vòng của hàng hoá dự trữ sẽ dài và điểm này là không tốt cho doanh nghiệp.
Hai chỉ tiêu số vòng chu chuyển và số ngày chu chuyển là hai chỉ tiêu có thể thay thế nhau khi phân tích đánh giá. Từ chỉ tiêu này có thể suy ra chỉ tiêu kia.
Chỉ tiêu thứ ba :Lợi nhuận thuần đạt được trên mỗi đơn vị đơn vị chi phí bỏ ra trong hoạt động cung ứng
Ta có công thức :
P
HQ = --------------------
CPcư
Trong đó :
P : mức lợi nhuận thuần đạt được
HQ: mức lợi nhuận đạt được trên mỗi đơn vị chi phí bỏ ra trong hoạt động cung ứng
Chỉ tiêu thứ tư: Mức độ đáp ứng nhu cầu của kế hoạch bán hàng
Ta có công thức:
Mv
HQ= ------------------- * 100
Mvkh
Trong đó
Mvkh : doanh thu giá vốn hàng bán theo kế hoạch.
HQ: Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch cung cấp hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu thụ
Chỉ tiêu này so sánh tương quan giữa lượng hàng hoá mua vào thực tế và lượng hàng hoá dự kiến mua để phục vụ nhu cầu tiêu thụ theo kế hoạch đề ra. Lượng hàng hoá mua vào thực tế càng lớn so với mức kế hoạch cho thấy khả năng chủ động về nguồn hàng của doanh nghiệp cao, có thể đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của doanh nghiệp
2.4-Sự cần thiết phải nghiên cứu vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh và chấp nhận cạnh tranh là điều tất yếu trong hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Cạnh tranh là quy luật tất yếu, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh như là một sự lựa chọn duy nhất. Hơn thế nữa môi trường kinh doanh lại ngày càng biến động phức tạp hơn. Tuy có không ít cơ hội mở ra cho doanh nghiệp nhưng cũng ẩn chứa rất nhiều nhưng nguy cơ, rủi ro có thể gặp phải. Để có thể tồn tại và phát triển với nguồn lực hữu hạn của mình, vấn đề nâng cao hiệu quả, không chỉ trong hoạt động cung ứng mà trong tất cả các hoạt động khác trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Nói riêng đến hoạt động cung ứng hàng hoá, việc nâng cao hiệu quả của nó không chỉ có ích đối với doanh nghiệp mà còn có ích cho cả nền kinh tế, cho xã hội…
2.4.1-Đối với doanh nghiệp
Trước hết nâng cao hiệu quả cung ứng hàng hoá giúp cho doanh nghiệp đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra thường xuyên liên tục, giảm thiểu nguy cơ gián đoạn, không bỏ lỡ thời cơ cũng như tránh được thiệt hại từ những biến động bất lợi của môi trường.
Nâng cao hiệu quả cung ứng hàng hoá trong doanh nghiệp có thể là nâng cao kết quả đạt được hoặc giảm chi phí phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động cung ứng hay cả hai điều trên hoặc có thể cả kết quả đạt được và chi phí đều tăng nhưng kết quả tăng với tốc độ nhanh hơn ( trường hợp cả hai đều giảm nhưng chi phí giảm nhiều hơn khó xảy ra hoặc có chăng nữa cũng không mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, chỉ là biện pháp đối phó với các khó khăn gặp phải ).
Tất cả đều làm cho giá thành sản phẩm giảm xuống, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng giảm giá bán, nâng cao chất lượng sản phẩm, giá tăng mức dịch vị đi kèm cả về số lượng và chất lượng, gia tăng sức cạnh tranh, nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, tăng thị phần, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận…
2.4.2-Đối với nền kinh tế và xã hội
Mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế. Mỗi tế bào khoẻ mạnh làm cơ thể thêm khoẻ mạnh. Mỗi doanh nghiệp phát triển góp phần làm cho nền kinh tế thêm vững mạnh, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá giúp cho doanh nghiệp vững mạnh cũng là làm cho nền kinh tế đi lên. Nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá làm giảm mức hao hụt, hư hỏng hàng hoá trong quá trình dự trữ, vận chuyền, giảm giá thành, giảm giá bán, nâng cao chất lượng sản phẩm, giá tăng mức dịch vụ đi kèm cả về số lượng và chất lượng…làm cho xã hội có thêm nhiều của cải vật chất để tiêu dùng, nâng cao chất lượng cuộc sống…
Nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá còn có rất nhiều lợi ích nữa đối với doanh nghiệp cũng như đối với nền kinh tế và xã hội. Nhưng chỉ qua một vài lợi ích như trên ta cũng đã phần nào cảm nhận được sự cần thiết của việc nghiên cứu vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng.
3-Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá
Để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá ta cần phải tìm hiểu xem nó chịu tác dộng ảnh hưởng của các nhân tố nào và chịu ảnh hưởng tác động như thế nào. Từ đó đề ra các biện pháp xử lý hợp lý chính xác, tác động kịp thời nhằm nâng đến mức cao nhất có thể hiệu quả của hoạt động cung ứng hàng hóa.
Ngoài các nhân tố ảnh hưởng chung đến hoạt động của doanh nghiệp nói chung cũng như hoạt động cung ứng hàng hoá nói riêng như điều kiện tự nhiên, môi trường, khí hậu… môi trường kinh tế, pháp luật…hay các nhân tố như trình độ nhân viên tham gia vào quá trình cung ứng, các mục tiêu, chính sách, chiến lược của doanh nghiệp…hoạt động cung ứng còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác
3.1-Các nhân tố nội tại bên trong
-Khả năng đàm phán của nhân viên mua hàng
Đây là một nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động cung ứng. Khả năng đàm phán của nhân viên mua hàng sẽ mang về cho doanh nghiệp nhiều lợi ích từ phía nhà cung cấp. Khi có kiến thức, năng động tỉnh táo, có đầy đủ thông tin về thị trường, nhu cầu , giá cả…và về chính nhà cung cấp, hiểu được tầm quan trọng của doanh nghiệp mình đối với nhà cung cấp và ngược lại nhân viên có thể đưa ra những điều khoản có lợi nhất cho doanh nghiệp mà vẫn phù hợp với khả năng đáp ứng của nhà cung cấp.
-Khả năng tiêu thụ, dự trữ hàng hoá của doanh nghiệp
Tiêu thụ là hoạt động mang lại doanh thu cho doanh nghiệp, có doanh thu mới có thể bù đắp các chi phí và tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Doanh thu là đại lượng kết quả để đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động trong đó có hoạt động cung ứng. Khả năng tiêu thụ thay đổi kéo theo sự thay đổi của giá vốn hàng bán-làm thay đổi chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động cung ứng hàng hoá. Khả năng tiêu thụ càng lớn, doanh thu theo giá vốn càng cao, làm tăng hiệu quả cung ứng và ngược lại. Khả năng tiêu thụ còn ảnh hưởng đến lượng hàng hoá dự trữ bình quân làm thay đổi tốc độ chu chuyển hàng hoá dự trữ-một chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả cung ứng.
Khả năng dự trữ của doanh nghiệp cũng có ảnh hưởng, khả năng dự trữ lớn cho phép ta mua những lô hàng lớn mà đi kèm với nó là nhiều ưu đãi từ nhà cung cấp hơn hẳn các lô hàng nhỏ.
-Quy mô kinh doanh, mức hàng hoá cần thiết trong một đơn vị thời gian
Quy mô kinh doanh càng lớn lượng hàng hoá đi ra, đi vào doanh nghiệp càng lớn doanh thu, lợi nhuận thông thường sẽ tăng. Nhưng các chi phí cũng sẽ gia tăng theo. Tuy nhiên tốc độ tăng của các yếu tố trên là khác nhau từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả cung ứng.
Mức tiêu thụ hàng hoá trong một đơn vị thời gian thường quyết định quy mô nhập hàng. Nếu quy mô nhập hàng mỗi lần lớn doanh nghiệp sẽ có nhiều ưu đãi từ phía nhà cung cấp về giá cả, điều kiện giao nhận và thanh toán. Giảm chi phí liên hệ giao dịch. Tuy nhiên nó lại đòi hỏi lượng vốn dự trữ lớn. Tăng chi phí bảo quản. Các vấn đề này đều có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả cung ứng.
-Đặc điểm thương phẩm của hàng hoá doanh nghiệp kinh doanh
Các hàng hoá khác nhau với các đặc điểm khác nhau cũng ảnh hưởng đến hiệu quả cung ứng. Các loại hàng hoá có thời hạn sử dụng khác nhau đòi hỏi lượng dự trữ khác nhau, chế độ bảo quản khác nhau. Mức độ hao hụt của mỗi loại hàng hoá cũng làm thay đổi chi phí hao hụt sản phẩm…v.v…---Hệ thống kho hàng, trang thiết bị dùng trong dự trữ…
Nếu hệ thống kho hàng cũng như trang thiết bị dự trữ có chất lượng cao trong quá trình dự trữ hàng hoá không chỉ làm giảm hao hụt hàng hoá về số lượng, chất lượng giảm sút các chi phí phát sinh thêm cũng không nhiều nhưng nó lại đòi hỏi lượng vốn đầu tư khá lớn nên không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đảm bảo.
3.2-Các nhân tố bên ngoài
-Các nhà cung cấp và mức độ cạnh tranh giữa các nhà cung cấp
Khi doanh nghiệp hoạt động thường không chỉ có một nhà cung cấp mà thường có nhiều nhà cung cấp cho mỗi loại hàng hoá. Khi có nhiều nhà cung cấp cùng bán một loại hàng hoá sẽ có sự cạnh tranh giữa họ. Nhờ đó mà doanh nghiệp có cơ hội nhận được nhiều ưu đãi. Mức độ cạnh tranh giữa các nhà cung cấp càng lớn, doanh nghiệp càng có nhiều ưu đãi về giá cả, chất lượng hàng hoá, các điều kiện thanh toán, giao nhận từ đó giảm chi phí cung mua hàng, chi phí cung ứng, hàng hoá dễ tiêu thụ… nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá của mình.
-Sự biến động giá cả
Giá cả biến động cũng làm thay đổi khả năng tiêu thụ. Mặt khác cùng với khả năng tiêu thụ, giá cả biến động cũng làm thay đổi doanh thu theo giá vốn. Giá cả thay đổi cũng làm cho các chi phí phát sinh trong quá trình cung ứng thay đổi từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả cung ứng.
…
-Khoảng thời gian trễ giữa đặt hàng và nhận hàng
Khoảng thời gian này càng dài thì doanh nghiệp càng khó phát hiện sớm các trục trặc phát sinh từ phía nhà cung cấp từ đó phải gia tăng lượng hàng dự trữ bảo hiểm để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được liên tục không bị gián đoạn. Làm gia tăng lượng hàng hoá dự trữ bình quân, giảm tốc độ chu chuyển hàng hoá dự trữ.
-Tính chu kỳ, thời vụ trong sản xuất cũng như tiêu dùng
Điều này ảnh hưởng cả đến lượng dự trữ cũng như quy mô mỗi lần nhập hàng từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả cung ứng. Với các sản phẩm sản xuất theo thời vụ ta phải nhập với số lượng lớn trong vụ sản xuất để đáp ứng nhu cầu khi trái vụ. Còn khi tiêu dùng theo thời vụ ta chỉ cần đảm bảo số lượng hàng hoá lớn trong khi nhu cầu cao, còn trong các thời điểm khác không cần dự trữ nhiều.
Trên đây là các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cung ứng hàng hoá cũng như các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động cung ứng trong doanh nghiệp thương mại. Ngoài ra trên thực tế còn nhiều nhân tố khác với các mối quan hệ tác động qua lại vô cùng phức tạp, nhưng do hạn chế về trình độ cũng như kinh nghiệm và thời gian nên em chỉ xin nêu một số nhân tố và sự ảnh hưởng của nó một cách cơ bản và sơ lược nhất
Chương II:Thực trạng hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá tại siêu thị Hà Nội
1-Vài nét sơ lược về siêu thị Hà Nội
1.1-Quá trình hình thành và phát triển của siêu thị Hà Nội
Siêu thị Hà Nội là một đơn vị kinh doanh trực thuộc công ty thực phẩm Hà Nội, được thành lập và đưa vào hoạt động từ năm 2003. Địa chỉ tại 51 Lê Đại Hành - Hai Bà Trưng - Hà Nội. Từ đó đến nay siêu thị đã hoạt động được hơn 3 năm. Tuy là một đơn vị còn rất trẻ, nhưng siêu thị Hà Nội đã đạt được những thành quả đáng khích lệ.
Năm 2003 là năm đầu tiên siêu thị Hà Nội bước vào kinh doanh nên các hoạt động tổ chức chưa được hoàn thiện, kinh nghiệm còn hạn chế, cán bộ nhân viên mới bắt đầu làm việc còn nhiều khó khăn, bỡ ngỡ. Là một đơn vị trẻ mới thành lập còn ít được các bạn hàng cũng như khách hàng biết đến…Với nhiều khó khăn như vậy trong nhưng ngày đầu hoạt động nhưng doanh thu cả năm của siêu thị vẫn đạt 10,8 tỷ đồng - một con số khá tốt đối với một đơn vị còn non trẻ, mới hoạt động.
Năm 2004 - khi hoạt động của siêu thị đã dần ổn định và hoàn thiện với cơ cấu tổ chức được hợp lý hơn, các cán bộ nhân viên đã tích luỹ được thêm nhiều kinh nghiệm, quy trình công nghệ bán lẻ ngày càng được hoàn thiện siêu thị - phòng kinh doanh luôn tìm kiếm khai thác nhiều nguồn hàng mới, nghiên cứu lựa chọn những nguồn hàng tốt nhất hiệu quả nhất. Tuy nhiên bên canh đó sự cạnh tranh lại gia tăng một cách mạnh mẽ với nhiều siêu thị mới được thành lập như Siêu thị BigC - Láng Hoà Lạc; Siêu thị Metro - Nam Thăng Long…Đây là những siêu thị có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó họ có được kinh nghiệm cũng như lượng vốn lớn, sức cạnh tranh của họ rất mạnh ... Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt gay gắt như vậy nhưng với sự nỗ lực của ban lãnh đạo cũng như đội ngũ nhân viên siêu thị, doanh số cả năm của siêu thị đã gia tăng đáng kể - đạt gần 15 tỷ đồng.
Năm 2005 - năm mà thị trường có nhiều biến động bất lợi lại gặp phải sự cạnh tranh vô cùng gay gắt bởi sự ra đời và phát triển của các siêu thị khác mà đặc biệt là sự có mặt của VINCOM CITY TOWERS - một trung tâm thương mại với quy mô lớn hơn gấp nhiều lần, được trang bị nhiều trang thiết bị hiện đại, với hàng hoá đa dạng hơn, từ những vật dụng thường ngày giá rẻ chỉ vài nghìn đồng đến những đồ trang sức nhiều triệu đồng thậm trí cả những chiếc ô tô giá trị hàng trăm triệu đồng … kèm theo nó là cả một hệ thống các dịch vụ: ăn uống, vui chơi giải trí, làm đẹp …v.v…lại rất gần siêu thị Hà Nội, cách đó chỉ khoảng trên dưới 100 m - đây là một thách thức rất lớn mà ban lãnh đạo và tập thể nhân viên của siêu thị gặp phải. Bên cạnh đó, hàng loạt các siêu thị của hệ thống Citimart, Fivimart ra đời cũng làm cho thị phần của siêu thị giảm xuống. Nhiều khó khăn thách thức như vậy nhưng với nhiều cố gắng siêu thị đã có thêm một cơ sở mới tại 36 Tôn Đức Thắng và tổng doanh thu vẫn đạt số gần 16 tỷ đồng.
1.2-Chức năng, nhiệm vụ của siêu thị Hà Nội
1.2.1-Chức năng
Siêu thị Hà Nội có chức năng là trung gian kết nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng để cung cấp cho khách hàng những sản phẩm cần thiết phù hợp với nhu cầu và sở thích của người tiêu dùng qua đó thực hiện giá trị và giá trị sử dụng
Là cầu nối thông tin giữa sản xuất và tiêu dùng giúp nhà sản xuất làm ra nhưng sản phẩm phù hợp nhất với nhu cầu của người tiêu dùng, tổ chức cho người tiêu dùng mua hàng theo cách thuận lợi nhất cho nhà sản xuất và cho chính họ.
Ngoài ra nó còn có chức năng hình thành hàng hoá dự trữ để góp phần ổn định thị trường, cân bằng cung cầu giá cả, kết nối nhà sản xuất với người tiêu dùng cả về không gian, thời gian, giải quyết mâu thuẫn của việc sản xuất tập trung - tiêu dùng phân tán và quản lý chất lượng hàng hoá, bảo quản hàng hoá, đảm bảo chất lượng hàng hoá cho người tiêu dùng, đảm bảo uy tín cho nhà sản xuất.
1.2.2-Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của siêu thị Hà Nội là tiêu thụ hàng hoá, siêu thị bán hàng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân quận Hai Bà Trưng và các khu lân cận. Nó còn cung cấp một số mặt hàng cho các siêu thị và cửa hàng khác và thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu tiêu dùng của mọi tầng lớp nhân dân trên địa bàn và các khu lân cận.
Trong nền kinh tế đa dạng nhiều thành phần như hiện nay, nhiệm vụ của siêu thị là đảm bảo thực hiện tốt các quy định các chỉ tiêu của cơ quan quản lý kinh tế về giá cả, chất lượng hàng hoá, dịch vụ góp phần bình ổn giá trên thị trường đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng.
Là một doanh nghiệp thương mại siêu thị có nhiệm vụ tổ chức hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận đồng thời tạo công ăn việc làm, đảm bảo thu nhập cho người lao động nhằm góp phần ổn định tình hình xã hội.
Siêu thị có nhiệm vụ thực hiện đúng yêu cầu của cơ quan quản lý, thực hiện đầy đủ các mục tiêu, chính sách của nhà nước, giúp nhà nước có thể tham gia can thiệp vào thị trường, điều tiết quản lý nền kinh tế theo định hướng XHCN.
Với vai trò là doanh nghiệp nhà nước, trong quá trình hoạt động kinh doanh, siêu thị có nhiệm vụ bảo toàn và phát triển số vốn được giao, thực hiện nghiêm chỉnh các quy định, nội quy, chế độ do nhà nước ban hành. như các quy định về quản lý tài chính, kế toán đóng góp đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó siêu thị còn có nhiệm vụ tổ chức tốt đời sống và không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên đồng thời bảo vệ môi trường sạch đẹp, giữ gìn trật tự an ninh xã hội, quản lý và sử dụng tốt nhất những tiềm năng đã có như đất đai, lao động và các tài sản cố định khác.
1.3-Tổ chức điều hành
Là một doanh nghiệp mới thành lập với quy mô không lớn siêu thị Hà Nội đã chọn cho mình một mô hình tổ chức điều hành đơn giản, gọn nhẹ và linh hoạt. Ta có sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của siêu thị như sau:
Giám đốc điều hành là cô Vũ Thị Thu Hương, đảm nhiệm tổ chức quản lý, điều hành toàn bộ của siêu thị, thay mặt siêu thị chịu trách nhiệm trước nhà nước về mọi hoạt động trong quá trình kinh doanh.
Bộ phận kinh doanh có nhiệm vụ lập kế hoạch chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả cao, nghiên cứu đánh giá xem xét nhu cầu thị trường, nghiên cứu đánh giá các đối thủ cạnh tranh cũng như các yếu tố khác để giúp giám đốc đưa ra những quyết định đúng đắn. Ngoài ra bộ phận kinh doanh còn kết hợp với bộ phận kế toán để quản lý công nợ với các nhà cung cấp, các đại lý, các khách hàng, quản lý hệ thống mã vạch, mã hàng…kết hợp với bộ phận kho để thực hiện các công việc về quản lý kho, xuất nhập kho…và với các bộ phận khác trong các công việc cụ thể như định giá bán , bố trí hàng hoá trên quầy …
Bộ phận kế toán có nhiệm vụ hạch toán toàn bộ quá trình kinh doanh của siêu thị theo tháng quý năm lập báo cáo tài chính của năm để từ đó tổng hợp phân tích các hoạt động kinh tế của siêu thị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của đồng vốn, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả.
Giám đốc điều hành
Bộ phận kế toán
Bộ phận kinh doanh
Bộ phận kho
Bộ phận bán hàng
Bộ phận hành chính
Bộ phận bảo vệ
CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY TỔ CHỨC ĐIỀU HÀNH
Bộ phận hành chính có nhiệm vụ tuyển chọn đào tạo nhân viên, nâng cao trình độ chuyên môn cho từng cán bộ, sắp xếp họ vào những vị trí thích hợp nhất đối với nhu cầu của siêu thị cũng như khả năng, sở trường, sở thích của họ…
Bộ phận bán hàng có nhiệm vụ hướng dẫn khách mua, chọn hàng, tính tiền, bao gói, đóng gói hàng hoá cho khách hàng …cung cấp cho khách hàng những điều kiện tốt nhất có thể để họ có cảm giác thoải mái, hài lòng nhất khi mua hàng ở siêu thị, để lại ấn tượng tốt cho khách hàng, tạo ra sức hút để khách hàng tiếp tục đến mua hàng những lần tiếp theo. Nhân viên bán hàng còn có nhiệm vụ tiếp cận các thông tin phản hồi từ khách hàng để từ đó giúp cho siêu thị có những thay đổi kịp thời, chính xác đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của khách hàng. Quản lý hàng hoá trên quầy theo dõi tình hình hàng hoá trong phạm vi mình phụ trách về chất lượng , số lượng, thời hạn sử dụng v.v…đảm bảo vệ sinh quầy hàng, bố trí sắp xếp hàng hoá cho phù hợp, thuận tiện…
Bộ phận kho có nhiệm vụ tiếp nhận hàng hoá nhập kho, bảo quản, giữ gìn hàng hoá trong điều kiện tốt nhất có thể để cung cấp cho khách hàng. Cùng với bộ phận bán hàng theo dõi mức tiêu thụ của từng loại hàng, mức tồn kho và mức tốn kho cần thiết để làm cơ sở cho những đơn đặt hàng tiếp theo tránh tình trạng dư thừa hay thiếu hụt hàng hoá.
Bộ phận bảo vệ có nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự trong và ngoài siêu thị đồng thời bảo vệ tài sản của siêu thị. Ngoài ra bộ phận bảo vệ còn có nhiệm vụ trông giữ xe cho khách hàng.
Cấu trúc này gọn nhẹ, nhanh và linh hoạt, chi phí quản lý thấp và có thể đem lại hiệu quả cao, việc kiểm soát và điều chỉnh các bộ phận, các hoạt động bên trong doanh nghiệp dễ dàng, có thể hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng quan liêu giấy tờ, phù hợp với một doanh nghiệp có quy mô nhỏ như siêu thị Hà Nội. Mô hình này giúp cho giám đồc có thể quản lý nhân viên một cách dễ dàng. Việc chỉ đạo và nhận phản hồi từ phía nhân viên diễn ra nhanh chóng. Tuy nhiên mô hình này chỉ phù hợp với quy mô nhỏ như hiện nay, trong tương lai khi quy mô được mở rộng có nguy cơ làm cho bộ máy quản lý bị quá tải, cần có những dự tính trước để tránh những khó khăn có thể gặp phải. Tuy nhiên đây cũng chỉ là những dự định phòng xa, nói đến lúc này có thể là quá sớm vì còn phải mất rất nhiều thời gian công sức mới có thể mở rộng quy mô của siêu thị Hà Nội tới mức có thể làm cho bộ máy quản lý này trở nên quá tải.
1.4-Đặc điểm kinh doanh của siêu thị Hà Nội.
1.4.1-Hình thức bán hàng và địa bàn kinh doanh
Trong năm đầu kinh doanh, siêu thị sử dụng hình thức bán hàng chủ yếu là bán lẻ. Trong các năm tiếp theo đã bắt đầu mở rộng sang cả hình thức bán buôn, không chỉ cho các siêu thị, cửa hàng khác trên địa bàn thành phố Hà Nội mà còn cung cấp cho cả các tỉnh lân cận (siêu thị MARKO – Hải Dương…)
1.4.2-Sản phẩm
Siêu thị kinh doanh chủ yếu là hàng thực phẩm và thực phẩm đông lạnh ngoài ra còn có hàng phi thực phẩm như hoá mỹ phẩm, các chất tẩy rửa, dụng cụ nhà bếp, đồ điện gia dụng và các sản phẩm khác...Trong đó nhóm hàng thực phẩm và đông lạnh là nhóm hàng chủ lực của siêu thị chiếm đa số doanh thu cũng như lợi nhuận.
Cụ thể trong đó là:
Nhóm hàng thực phẩm đông lạnh :
-Các sản phẩm đông lạnh sơ chế cần chế biến lại:
Cá
*Cá thu làm sạch nguyên con-cắt khúc
*Cá ba sa làm sạch nguyên con-cắt khúc
*Cá chim làm sạch nguyên con
*Cá hồi cắt lát –cắt thỏi
*Cá ngừ đại dương
và các loại cá khác …
Tôm
*Tôm sú lột vỏ-nguyên con-các loại 500g-1kg-2kg
*Tôm càng xanh…
Mực
*Mực ống
*Mực nang…
Thịt
*Lợn
*Bò-trong nước và hàng nhập khẩu
*Gà-trong nước và hàng nhập khẩu…
Các sản phẩm khác
*Trứng gà sạch
*Bạch tuộc nguyên con làm sạch
*Tù và ếch –cá basa…
-Các sản phẩm đông lạnh đã chế biến kỹ không cần chế biến lại:
Cá
*Cá thu làm sạch nguyên con-cắt khúc –tẩm satế
*Cá ba sa làm sạch nguyên con-cắt khúc- tẩm sat*Cá chim làm sạch nguyên con-tẩm gia vị
*Cá hồi cắt lát –cắt thỏi-tẩm gia vị
*Cá ngừ đại dương-tẩm gia vị
và các loại cá khác …
Tôm
*Tôm PTO luộc…
Các sản phẩm khác
*Các loại chả nem-chả giò dế
*Chả cá thát lát-thìa là
*Mọc viên thịt lợn thịt bò
…
Nhóm hàng thực phẩm
Đồ hộp
*Các loại cá đóng hộp
*Các loại thịt đóng hộp
*Các loại rau, dưa, củ quả đóng hộp
Bánh mứt kẹo
Đồ ăn nấu sẵn
Rau củ quả tươi
Đồ uống
*Bia,rượu các loại trong nước và nhập khẩu
*Nước ngọt có gas, không gas, nước tăng lực
*Các loại trà, cà phê, sôcôla…
…
Các loại gia vị, nước chấm
*Bột canh, hạt nêm các loại
*Hạt tiêu, hạt điều…
*Nước mắm,nước tương…
…
Các mặt hàng khác
Nhóm hàng phi thực phẩm
Đồ điện gia dụng
Hoá mỹ phẩm
Đồ sứ, thuỷ tinh
Các chất giặt, tẩy, rửa
Quần áo giầy dép
Dụng cụ làm bếp
Các sản phẩm khác…
Số loại hàng hoá có trong siêu thị rất lớn trên đây chỉ là một bảng liệt kê hết sức sơ lược.
1.4.3-Khách hàng
Khách hàng của siêu thị chủ yếu là trong địa bàn thành phố Hà Nội - Thủ đô và là một thành phố có tốc độ phát triển cao, đời sống nhân dân khá cao và liên tục được cải thiện, nhu cầu cũng ngày một gia tăng cả về số lượng cũng như chất lượng, mua hàng ở siêu thị đã đang dần thay thế cho việc mua ở các chợ truyền thống. Thói quen mua sắm ở siêu thị đang hình thành ở một bộ phận không nhỏ dân cư khi họ đã cảm thấy bức bối bởi sự bận rộn công việc, quỹ thời gian thiếu hụt muốn mua một lần nhiều loại hàng hoá, dùng cho nhiều ngày, lại đảm bảo chất lượng hàng hoá nhất là vệ sinh an toàn thực phẩm- một vấn đề luôn nóng và càng nóng hơn trong thời gian gần đây…dung lượng thị trường cho các siêu thị đang tăng lên từng ngày. Đó là một lợi thế cơ hội lớn cho các doanh nghiệp thương mại sử dụng hình thức bán hàng hiện đại này, trong đó có siêu thị Hà Nội.
Khách hàng ở lứa tuổi 20-50 chiếm tỷ trọng cao vì đây là những người có thu nhập ổn định.
*Trong đó chia theo địa bàn ta có 2 nhóm khách hàng:
Nhóm khách hàng đến từ khu vực quận Hai Bà Trưng chiếm 85%
Nhóm khách hàng từ các khu vực khác chiếm tỷ trọng 15% còn lại
*Chia theo mức thu nhập ta có 3 nhóm khách hàng:
Nhóm có mức thu nhập khá và cao chiếm 20%
Nhóm có mức thu nhập trung bình chiếm 75%
Nhóm có mức thu nhập thấp chiếm mức 5% còn lại.
Trên đây là vài nét cơ bản về cơ cấu khách hàng của siêu thị.
1.4.4-Cạnh tranh
Thuận lợi nhiều nhưng thách thức cũng lớn. Đó là sự cạnh tranh gay gắt với một số lượng lớn siêu thị, trung tâm thương mại lớn trên địa bàn thành phố Hà Nội. Các hệ thống siêu thị như FIVIMART, CITIMART hay Tràng Tiền PLAZZA hoặc siêu thị METRO - Nam Thăng Long, siêu thị BIG - C - Láng Hoà Lạc - hai siêu thị có quy mô lớn của các tập đoàn kinh tế nước ngoài. Bên cạnh đó còn có các siêu thị MARKO, UNIMART, siêu thị SAO Hà Nội…Đối với siêu thị Hà Nội đối thủ cạnh tranh lớn nhất là VINCOM CITY TOWERS một trung tâm thương mại có quy mô lớn với trang thiết bị hiện đại tiên tiến, hàng hoá đa dạng phong phú hơn, đó là chưa nói đến cả một hệ thống các dịch vụ được bố trí trong đó với vị trí rất gần siêu thị Hà Nội tạo lên sức ép rất lớn đối với siêu thị. Vì gần như mọi mặt VINCOM CITY TOWERS đều chiếm ưu thế hơn hẳn. Siêu thị Hà Nội chỉ có thể cạnh tranh ở một điểm một số mặt hàng có giá bán rẻ hơn một chút và đặc biệt là thái độ hoà nhã niềm nở đối với khách hàng, sự giúp đỡ tận tình của nhân viên tư vấn hướng dẫn khách hàng lựa chọn mua hàng sao cho phù hợp nhất, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Chỉ một hành động nhỏ như lấy giúp khách hàng một sản phẩm ở trên cao, đưa cho khách hàng một chiếc giỏ khi họ đang cầm trên tay nhiều hàng hoá hay cầm giúp khách vài túi hàng hoá ra xe khi nhiều đồ cồng kềnh sẽ để lại nhiều ấn tượng tốt cho khách tạo cho họ cảm giác thân thiện, gần gũi và chắc chắn lần sau khách sẽ lại đến với siêu thị Hà Nội khi có nhu cầu phát sinh. Đây là một biện pháp nâng cao sức cạnh tranh mang lại hiệu quả lớn mà không tốn chi phí như các biện pháp cạnh tranh về giá cả hay tặng quà, quảng cáo …v.v…
Không chỉ có vậy, đối thủ cạnh tranh của siêu thị Hà Nội còn là các cửa hàng thương mại bán lẻ, các chợ truyền thống trong địa bàn quận Hai Bà Trưng cũng như trên địa bàn thành phố Hà Nội vì phần lớn dân cư vẫn còn giữ thói quen mua hàng ở đó. Các chợ, cửa hàng này cũng đang dần thay đổi mình để ngày càng đáp ứng nhu cầu của khách hàng tốt hơn. Và thực tế chúng vẫn đang chiếm thị phần rất lớn.
1.4.5-Tình hình tài chính của siêu thị
a)Tình hình nguồn vốn Bảng
Năm 2004 so với năm 2003: Hai năm đầu hoạt động trong tổng nguồn vốn của siêu thị, nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối đến hơn 99,9% và thay đổi không nhiều trong hai năm , giữ mức tự chủ độc lập cao về mặt tài chính. Đó là do khi đó các công việc còn chưa thực sự ổn định nhuần nhuyễn cho nên siêu thị chưa có nhu cầu và chưa thể mở rộng quy mô kinh doanh, chưa cần huy động vốn từ bên ngoài. Trong năm 2004 tổng nguồn vốn đã tăng 287.888.000 đồng chủ tương ứng với 3,38% chủ yếu là do nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên với giá trị là 285.768.000 đồng từ lợi nhuận sau thuế của năm 2003.
Sang đến năm hoạt động thứ ba khi mọi công việc đã hoàn thiện, lại vấp phải sự cạnh tranh gia tăng đột biến, siêu thị quyết định mở thêm một cơ sở mới để mở rộng quy mô kinh doanh cũng là giảm sức ép cho cơ sở chính đang chịu sự cạnh tranh gay gắt từ VINCOM CITY TOWERS. Để có kinh phí thực hiện công việc này siêu thị đã huy động từ bên ngoài một lượng vốn đáng kể hơn 1 tỷ đồng, nâng tỷ trọng nợ phải trả lên 12,76%. Tỷ suất tài trợ vẫn chiếm tỷ lệ cao là 87,24% đảm bảo mức độ độc lập về mặt tài chính của siêu thị. Tổng nguồn vốn tăng 22,01% tương ứng với 1.715.604.000 đồng trong đó chủ yếu là tăng do nợ phải trả tăng. Nói chung nguồn huy động vốn của siêu thị còn hạn chế chủ yếu là vốn vay chịu nên chi phí trả lãi lớn. Chưa sử dụng nhiều các hình thức tín dụng thương mại đê chiếm dụng vốn của các nhà cung cấp.
b)Tình hình tài sản Bảng
Về tình hình tài sản của siêu thị ta có những nhận xét
Năm 2004 so với năm 2003: Tổng tài sản năm 2004 tăng so với năm 2003 là 287.888.000 đồng tương ứng tỷ lệ 3,72%. Trong đó tài sản lưu động tăng 5,87% tương ứng là 264.488.000 đồng, tỷ trọng của tài sản lưu động trong tổng tài sản cũng tăng thêm 1,18%. Tài sản cố định tăng với tốc độ ít hơn chỉ là 0,78% tương ứng với 23.400.000 đồng do tài sản cố định đầu tư thêm lớn hơn các khoản khấu hao không nhiều do đó tỷ trọng của lượng tài sản cố định trong tổng tài sản giảm đi so với năm trước là 1,18%.
Khi so sánh tốc độ tăng doanh thu cũng như lợi nhuận với tốc độ tăng của tài sản ( tài sản lưu động; tài sản cố định ) ta thấy rõ tốc độ tăng của tài sản nhỏ hơn nhiều, cho thấy hiệu quả của việc sử dụng tài sản của siêu thị trong năm 2004 được nâng cao hơn rất nhiều.
Năm 2005 so với năm 2004: Tổng tài sản năm 2005 tăng so với năm 2004 với tỷ lệ 22,01% tương ứng là 1.715.604.000 đồng. Trong đó tài sản lưu động tăng 12,65% với giá trị 603.204.000 đồng, tỷ trọng của tài sản lưu động trong tổng tài sản giảm đi so với năm trước là 4,70%. Tài sản cố định tăng lên với tỷ lệ 36, 79% tương ứng tăng 1.112.400.000 đồng, tỷ trọng của tài sản cố định trong tổng tài sản cũng tăng lên 4,70%. Do trong năm 2005 siêu thị huy động thêm vốn từ bên ngoài đầu tư mở thêm cơ sở mới làm cho tốc độ gia tăng của tài sản tăng cao, lại đầu tư chủ yếu vào cơ sở vật chất hạ tầng làm tăng tỷ trọng tài sản cố định trong cơ cấu tài sản.
Tuy tài sản gia tăng mạnh trong năm 2005 nhưng hiệu quả sử dụng vốn lại giảm đi thấy rõ. Doanh thu tuy có tăng cũng chỉ với tốc độ rất khiêm tốn 6,70% chỉ bằng 30,44% tốc độ tăng của tổng tài sản là 2._. dùng.
Để đạt được mục tiêu đó Siêu thị cần đề ra một chiến lược kinh doanh hoàn thiển trong 4 năm tới:
+ Xây dựng một lực lượng lao động sống trung thành và năng động. Hiện nay số nhân viên trong Siêu thị có trình độ cao đẳng và đại học mới chỉ chiếm 31,2%, trình độ trung cấp chiếm 50%, số lượng còn lại có trình độ còn hạn chế chỉ tốt nghiệp phổ thông trung học. Yếu tố trình độ có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động của Siêu thị. Chính vì vậy Siêu thị đề ra chiến lược phát triển nhân sự như sau:
- Đào tạo, huấn luyện, tuyển dụng nhân viên là những người có trình độ từ trung cấp trở lên. Khuyến khích nhân viên tham gia các khoá học nhằm năng cao khả năng chuyên môn cũng như hiểu biết về kinh tế, chính trị, luật pháp… góp phần nâng cao hiệu quả mọi hoạt động của Siêu thị.
- Có những biện pháp khuyến khích người lao động hăng say, nhiệt tình trong công việc, phát huy tính sáng tạo trong kinh doanh, đồng thời khen thưởng, kỷ luật công bằng, nghiêm minh, kịp thời , tạo thành một tập thể đoàn kết, có trách nhiệm cao trong công việc.
+ Giữ gìn và phát triển tập khách hàng là điều kiện sống còn của mọi doanh nghiệp doanh nghiệp nói chung và của Siêu thị Hà Nội nói riêng, vì vậy Siêu thị luôn cố gắng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Trong thời gian tới Siêu thị sẽ tiến hành nghiên cứu sâu hơn về tập khách hàng trên các lĩnh vực như thị hiếu, cách thức mua, lứa tuổi, sở thích… Đồng thời nhân viên bán hàng phải tìm hiểu, lắng nghe những phàn nàn, những ý kiến đóng góp của khách hàng về hàng hoá, trưng bày hàng hoá, chất lượng, giá cả, dịch vụ hậu mãi của quá trình bán hàng…
+ Bên cạnh việc bán lẻ hàng hoá, Siêu thị đã tiến hành bán buôn cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu, không ngừng mở rộng lĩnh vụ kinh doanh, mặt hàng kinh doanh.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật của Siêu thị không ngừng được cải tiến và nâng cao để phù hợp với hoạt động kinh doanh và phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
+ Về nguồn hàng: Siêu thị sẽ khai thác thêm những nguồn hàng mới, không chỉ dừng lại ở các nguồn hàng đã có mà Siêu thị đã và đang triển khai khai thác hàng hoá ở các nguồn hàng khác trong nước cũng như nước ngoài để mở rộng mặt hàng kinh doanh và điều cốt lõi là hàng hoá phải đảm bảo chất lượng, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Siêu thị cố gắng khai thác các nguồn hàng để có thể mua tận gốc, hạ thấp giá cả hàng bán, đưa hàng hoá đến với người tiêu dùng theo con đường ngắn nhất giảm các đơn vị trung gian nhằm hạ giá thành sản phẩm, phục vụ tốt cho nhu cầu tiêu dùng của khách hàng khiến mọi người đều tin tưởng vào Siêu thị và việc đi siêu thị mua sắm sẽ trở thành một thói quen. Khi hàng hoá hạ giá, khách hàng sẽ đến với siêu thị nhiều hơn, tăng khả năng cạnh tranh của siêu thị trên thị trường.
+ Về trưng bày hàng hoá: Siêu thị sẽ thiết kế dòng vận động vật lý hàng hoá tối ưu nhất. Hàng hoá được phân nhóm, phân loại chi tiết hơn để đảm bảo sắp xếp, trưng bày sao cho khoa học, mỹ quan và thu được hiệu quả cao. Nhân viên bán hàng có vai trò quan trọng trong việc kích đẩy sự tiêu thụ hàng hoá, là cầu nối giữa khách hàng và Siêu thị, thu thập những thông tin phản hồi từ phía khách hàng và báo cáo lại cho trưởng bộ phận để cho trưởng bộ phận bán hàng báo cáo lại cho ban lãnh đạo Siêu thị từ đó có những biện pháp khắc phục.
+ Về xúc tiến thương mại: Mục đích của Siêu thị là giới thiệu với người tiêu dùng về phương thức bán hàng hiện đại. Để làm được điều đó, Siêu thị sẽ đầu tư thêm ngân sách cho việc thực hiện các chương trình khuyến mại, giảm giá, tặng quà, quảng cáo, quan hệ công chúng…
+ Về cách thức huy động vốn: Vốn có một vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của mỗi công ty. Nó giúp Siêu thị thực hiện được các chính sách, kế hoạch đề ra. Để mở rộng kinh doanh thì Siêu thị có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau: quỹ đầu tư phát triển của siêu thị, hợp tác liên doanh với chủ hàng, huy động góp vốn kinh doanh của các cán bộ công nhân viên trong Siêu thị, để giảm bớt chi phí trả tiền lãi vay cho siêu thị…
+ Tăng cường tiết kiệm chi tiêu, chống lãng phí, giảm các khoản chi không cần thiết, tìm cách giảm chi phí quản lý doanh nghiệp để giảm tổng chi phí làm điều kiện giảm giá bán hay tăng mức dịch vụ đi kèm, tăng cường khả năng cạnh tranh của siêu thị.
1.4-Mục tiêu phương hướng của phòng kinh doanh về hoạt động cung ứng
Về hoạt động cung ứng phòng kinh doanh có đề ra các mục tiêu cơ bản sau:
-Đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của siêu thị cũng như của cơ sở III
-Hoàn thiện các khâu trong hoạt động cung ứng để nâng cao hiệu quả.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa các hoạt động mua hàng, dự trữ và tiêu thụ hàng hoá.
-Tăng cường vị thế của siêu thị đối với các nhà cung cấp
-Tích cực tham gia vào kênh phân phối của nhà cung cấp như một mắt xích quan trọng. Thiết lập quá trình lưu thông hợp lý nhất từ nhà cung cấp đến siêu thị
…
2-Các giải pháp nâng cao hiệu quả cung ứng tại siêu thị Hà Nội
2.1-Một số giải pháp trong hoạt động quản trị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá ở siêu thị Hà Nội.
Xác định mục tiêu, định mức cho hoạt động cung ứng trong mối kỳ kinh doanh một cách cụ thể, hợp lý, phù hợp hơn với tình hình khả năng của siêu thị và có kế hoạch thực hiện mục tiêu đó phổ biến cho tất cả các bộ phận cá nhân tham gia vào quá trình cung ứng. Cùng với chế độ thưởng phạt công minh lấy đó làm động lực thúc đẩy sự nỗ lực của cả tập thể.
Phân công lại nhiệm vụ quyền hạn trách nhiệm của mỗi cá nhân một cách rõ ràng, phù hợp nhất với nhu cầu của công việc cũng như năng lực, sở trường, sở thích của mỗi người để nâng cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tối đa khả năng của mỗi nhân viên.
Theo dõi thường xuyên tình hình, tiến độ thực hiện để có các biện pháp, cách thức tác động nhằm thúc đẩy công việc đạt hiệu quả cao nhất có thể…
2.2-Giải pháp nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực
Có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, nâng cấp trình độ nhân viên. Tuyển chọn nhân viên có trình độ nghề nghiệp được đào tạo phù hợp với công việc Người lao động không chỉ được quan tâm ở năng lực chuyên môn mà còn được chú trọng ở các năng lực sáng tạo, làm việc theo êkíp, thích ứng nhanh với sự thay đổi … Khuyến khích nhân viên theo học các khoá học tự nâng cao năng lực nghề nghiệp của bản thân…Có thể có một số thay đổi về nhân sự cho phù hợp hơn với yêu cầu công việc. Cần có chế độ khuyến khích nhân viên tham gia các khoá học tự nâng cao trình độ cũng như tổ chức các khoá huấn luyện nội bộ truyền đạt kinh nghiệm trong công việc. Có các thay đổi bổ xung để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công việc cũng như tận dụng tốt khả năng trình độ của nhân viên.
2.3-Giải pháp tác nghiệp trong cung ứng
2.3.1-Tổ chức quá trình mua hàng
a-Xác định nhu cầu
Trong khi xác định nhu cầu, siêu thị còn nhiều bất cập. Như nhiều loại hàng hoá còn chưa xác định sát với nhu cầu dẫn đến hàng hoá nhập về khó tiêu thụ hay không đáp ứng đủ khi nhu cầu tăng cao.
Cần tích cực phát triển hoạt động nghiên cứu thị trường sớm phát hiện các nhu cầu mới phát sinh hay sự thay đổi tăng giảm nhu cầu các loại hàng hoá về số lượng, chất lượng hay cơ cấu. Từ đó có cơ sở đưa ra những điều chỉnh thích hợp để tối thiểu hoá lượng vốn dự trữ, nhưng vẫn đảm bảo hàng hoá luôn đầy đủ để đáp ứng cho hoạt động tiêu thụ, tuyệt đối không để tình trạng không có hàng hoá phục vụ nhu cầu của khách hàng.
b-Lựa chọn nhà cung cấp
Củng cố và hoàn thiện hệ thống các nhà cung cấp
Bên cạnh việc tích cực tìm kiếm các nguồn cung cấp các sản phẩm mới để đa dạng hóa sản phẩm phục vụ nhu cầu khách hàng đang ngày một gia tăng cả về số lượng và chất lượng, thay đổi nhanh về cơ cấu. Đối với các sản phẩm quen thuộc không chỉ cần tìm kiếm các nhà cung cấp tiềm năng khác mở rộng sự lựa chọn cho siêu thị, chia nhỏ, giảm nhẹ những rủi ro từ phía nhà cung cấp, tạo sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp với nhau mà còn cần củng cố mối quan hệ với các nhà cung cấp truyền thống để đơn giản hoá các công đoạn không cần thiết, để giảm phiền hà, giảm chi phí phát sinh cho cả hai bên đó cũng là tạo điều kiện cho nhà cung cấp có thể hoàn thành tốt công việc của họ đó cũng là tạo điều kiện cho họ dành cho ta nhiều ưư đãi hơn nữa. Nhận định đúng tầm quan trọng của mình đối với nhà cung cấp cũng như vai trò của họ đối với ta để có cách thức ứng xử hợp lý đem lại cho siêu thị nhiều lợi ích nhất có thể từ phía nhà cung cấp.
Có thể lập bảng theo dõi các nhà cung cấp theo các tiêu chí như độ tin cậy, giá cả, khả năng đáp ứng nhu cầu về cả số lượng và chất lượng hàng hoá, các điều kiện ưu đãi họ dành cho siêu thị…Để có thể so sánh giữa các nhà cung cấp với nhau để có thể thay đổi mức độ ưu tiên đối với mỗi nhà cung cấp theo kết quả thu được nhằm tạo nguồn cung cấp tốt nhất có thể cho siêu thị. . Nên phân loại, lựa chọn một số nhà cung cấp chủ yếu để tập trung khái thác. Khi ta đã trở thành khách hàng lớn của họ trong một thời gian dài, họ sẽ luôn dành cho ta nhiều đièu kiện ưu đãi thậm chí sẽ giúp đỡ được ta rất nhiều trong lúc khó khăn như hưởng tín dụng thương mại…
c-Thương lượng, lập đơn đặt hàng, ký hợp đồng cung ứng
Đối với các nhà cung cấp truyền thống có mối quan hệ tốt với siêu thị công đoạn này đã trở nên quen thuộc chỉ có những thay đổi nhỏ trong mỗi đơn đặt hàng hay hợp đồng cung ứng. Nếu có sai sót có thể dễ dàng thương lượng khắc phục trên cơ sở hợp tác, tích cực để đôi bên cùng có lợi mà không để lại những hậu quả thiệt hại đáng kể nào. Tuy nhiên đối với các nhà cung cấp mới cần hết sức chú ý. Phải thương lượng rõ ràng dứt khoát các vấn đề về giá cả, chất lượng, cách thức kiểm tra đánh giá chất lượng, phương thức giao nhận, thanh toán…đảm bảo quyền lợi cho siêu thị. Cần đảm bảo chắc chắn rằng các hợp đồng, đơn đặt hàng đă đầy đủ, chính xác các thoả thuận đã đạt được trong quá trình thương lượng và nhất là phải đảm bảo tính hợp pháp để tránh mọi bất lợi cho siêu thị vì không ít doanh nghiệp còn có thói quen làm ăn chộp giật không tính đến chuyện hợp tác lâu dài, không có thái độ hợp tác để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình giao dịch thực hiện hợp đồng.
Nâng cao chất lượng và kết quả thương lượng và đặt hàng bằng cách luôn giữ thế chủ động trước các nhà cung cấp. Để có thể làm được điều này cần có một đội ngũ nhân viên cung ứng có trình độ hiểu biết sâu rộng về nhóm hàng mình phụ trách và có các thông tin cập nhật về chính các nhà cung cấp đó cũng như cập nhật nhanh chóng các biến động đang diễn ra trên thị trường cũng như có một đội ngũ đông đảo các nhà cung cấp tiềm năng để có thể lựa chọn. Trước khi tiến hàng thương lượng cần xác định rõ hệ thống các điều khoản sẽ đề cập đến, phân loại đâu là điều kiện không thể nhượng bộ, đâu là điều kiện có thể nhân nhượng để luôn làm chủ tình hình…
d-Theo dõi thực hiện đơn đặt hàng, hợp đồng cung ứng
Trong hoạt động này còn nhiều vấn đề cần giải quyết đề nâng cao hiệu quả cung ứng. Nhiều đơn đặt hàng đã đưa đi nhưng hàng hoá cung cấp đến chậm trễ làm thiếu hụt hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu thụ. Các nhân viên phụ trách quầy cùng bộ phận kho phải tích cực theo dõi tình hình hàng hoá trong phạm vi mình quản lý để có ý kiến cho phòng kinh doanh có biện pháp đôn đốc các nhà cung cấp thực hiện công việc. Có thể đưa ra các điều khoản bồi thường khi có sai phạm để nâng cao ý thức của các nhà cung cấp, giảm các sai phạm chậm trễ từ phía nhà cung cấp tránh ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của siêu thị. Phân công cán bộ có trình độ kinh nghiệm về mặt hàng cần nhập để giám sát quá trình nhập hàng. Các sản phẩm hàng hóa rất phong phú và đa dạng bởi vậy nhân viên phải có kiến tức về mặt hàng đó thì việc giao nhận hàng hoá sẽ nhanh hơn, giảm bớt được thời gian không cần thiết hay tránh được những sai phạm trong khâu nhập hàng gây tổn thất cho siêu thị.
Có thể xây dựng các tiêu chuẩn mẫu về các sản phẩm hàng hoá. Việc xây dựng các tiêu chuẩn này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như sự phát triển của khoa học, kĩ thuật, nhu cầu tiêu dùng… giúp cho việc giao nhận hàng hoá nhanh hơn, chính xác hơn đảm bảo hàng hoá có chất lượng hơn
e-Đánh giá kết quả
Đây là công việc còn bị coi nhẹ ít được chú ý đến trong khi vai trò của nó rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả cung ứng. Cần thấy rõ tầm quan trọng của nó để có ý thức thực hiện nghiêm túc công việc này. Đánh giá để nhận thấy ta đã làm được gì để cố gắng phát huy cũng như nhận ra những thiếu sót của mình để khắc phục rút kinh nghiệm hay phát hiện các vấn đề về phía nhà cung cấp để có thể góp ý đề nghị họ thay đổi trong những lần mua hàng sau nhằm đạt kết quả tốt hơn. Đây là công việc không thể thiếu nếu muốn nâng cao hiệu quả cung ứng nhưng có vẻ như chưa nhận được sự quan tâm đúng mức.
2.3.2-Tổ chức quá trình dự trữ
a-Nhận hàng, nhập kho
Nhận hàng và nhập kho phải có thống kê chi tiết về số lượng chủng loại nhà cung cấp có điều kiện quản lý theo dõi hàng hóa trong quá trình dự trữ cũng như đánh giá kết quả mua hàng sau này. Tiến hàng phân loại để có chế độ bảo quản thích hợp cho từng loại hàng hoá theo đặc điểm thương phẩm của chúng.
b-Bảo quản
Cần nâng cấp các thiết bị bảo quản. Trong khi bảo quản hàng hoá, để góp phần nâng cao hiệu quả cung ứng cần có chú ý đến vấn đề trang thiết bị. đặc biệt là đối với các sản phẩm thuộc nhóm hàng đông lạnh. Các tủ bảo quản hàng hoá trên quầy đã có dấu hiệu xuống cấp không đảm bảo chất lượng hàng hoá. Cần thường xuyên vệ sinh các khu vực quầy hàng thực phẩm và hàng đông lạnh, đó là nơi cần đảm bảo vệ sinh nhất thì lại không được giữ sạch sẽ. Nó không chỉ làm tăng chi phí do hư hỏng, hao hụt hàng hoá mà còn làm giảm uy tính của siêu thị đối với khách hàng làm giảm kết quả hiệu quả cung ứng thông qua giảm khả năng tiêu thụ hàng hoá.
Xác lập chế độ bảo quản cho mọi hàng hoá kể cả các loại hàng hoá khó hư hỏng cũng cần có phương pháp bảo quản để hạn chế tốt nhất các thất thoát có thể xảy ra.
c-Cấp phát
Siêu thị có kho dự trữ và bảo quản ở ngay cơ sở chính nên việc cấp phát cho cơ sơ này không có vấn đề gì nhiều nhưng còn có cơ sở II tại 36 Tôn Đức Thắng cách cơ sở chính khoảng trên dưới 4 km là một khoảng cách không nhỏ. Tuy có xe ô tô nhưng mỗi lần chuyển hàng thường với số lượng nhỏ nên việc chuyển hàng qua lại giữa hai cơ sở thường vận chuyển bằng xe máy rất không an toàn cho cả người cũng như hàng hoá. Việc chuyển hàng từ kho đến cơ sở II là điều không thể tránh khỏi và phải chấp nhận vận chuyển bằng xe máy khi mức độ tiêu thụ còn nhỏ. Điều cần nói ở đây là vẫn còn có hàng hoá vận chuyển ngược lại từ cơ sở II về cơ sở chính do tiêu thụ quá chậm. Lý do là công đoạn cấp phát chưa sát với nhu cầu tiêu thụ của cơ sở làm phát sinh nhiều chi phí không đáng có. Cần có công tác dự báo nhu cầu tiêu thụ để làm giảm thiểu sự sai lệch giữa kế hoạch cấp phát với nhu cầu thực tế giảm thiểu các chi phí phát sinh ngoài ý muốn.
2.4-Đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá
Như đã có đề cập đến trong các phần trước, hiệu nói chung và hiệu quả cung ứng nói riêng là sự so sánh giữa các kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để có kết quả đó. Nhưng các kết quả của hoạt động cung ứng không chỉ phụ thuộc vào bản thân nó mà còn chịu tác động không nhỏ thậm chí rất lớn của các hoạt động khác. Do đó để nâng cao hiệu quả cung ứng không thể không nhắc đến các giải pháp trong các hoạt động có mức độ ảnh hưởng lớn mà quan trọng hàng đầu là giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá.
Cần đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa vì đây là chìa khoá cho mội vấn đề. Tăng mức tiêu thụ là tăng doanh thu theo giá vốn, tăng tốc độ chu chuyển hàng hoá, khiến hàng hoá luôn giữ được chất lượng, ít hao hụt về số lượng trong quá trình dự trữ, tạo điều kiện cho vốn lưu chuyển nhanh. Nó còn tạo điều kiện cho siêu thị có thể nhập hàng với số lượng lớn hơn trong mỗi lần và tăng lượng hàng hoá nhập vào trong một khoảng thời gian từ đó tăng vai trò vị thế của siêu thị đối với nhà cung cấp và nhận được nhiều quyền lợi hơn từ phía họ, giảm đáng kể các chi phí. Và quan trọng nhất tăng doanh thu là điều kiện để siêu thị đạt được mục tiêu lợi nhuận.
Tóm lại đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá không những làm tăng các kết quả của cung ứng mà còn tạo điều kiện cho các chi phí cung ứng giảm đi tương đối, từ đó làm tăng đáng kể hiệu quả cung ứng đối với mọi chỉ tiêu.
Sau đây là một số biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá:
*Đa dạng hoá sản phẩm: thực chất là sự mở rộng danh mục sản phẩm của siêu thị. Qua đó làm thay đổi cơ cấu sản theo hướng có lợi hơn, thích ứng với sự biến động của thị trường. Nghiên cứu tìm tòi, tăng thêm các chủng loại sản phẩm nhằm tạo ra sự phù hợp hơn đối với các nhóm đối tượng tiêu dùng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng và phát triển thị trường đồng thời tạo ra nguồn sản phẩm để thay thế những sản phẩm cũ không còn phù hợp nữa.
*Tích cực thực hiện các biện pháp xúc tiến bán như quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại…để thu hút khách hàng đến với siêu thị. Đây là hoạt động rất khiêm tốn của siêu thị.
*Tích cực phát triển bán buôn:đây cũng là biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh tiêu thụ cũng như nâng cao hiệu quả cung ứng.
Bán buôn làm tăng mạnh doanh thu giá vốn hàng bán, lại nâng cao vị thế của siêu thị trên thị trường. Không chỉ có vậy từ tình hình bán buôn cho ta dự báo khá chính xác về tình hình nhu cầu thị trường để có các bước đi chính xác hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh khác.
*Nâng cao chất lượng dịch vụ đi kèm. Nền kinh tế càng phát triển, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày càng cao, nhu cầu của con người cần được thoả mãn cũng cao theo. các công ty thương mại không những cạnh tranh về giá cả, chất lượng mà còn cạnh tranh với nhau về dịch vụ khách hàng. Điều đó đặc biệt cần thiết với Siêu thị Hà Nội và để hoàn thiện hơn quá trình dịch vụ khách hàng, cần lưu ý những điểm sau:
+ Dịch vụ trước bán:
- Có điểm trông giữ xe miễn phí cho khách
- Tổ chức dịch vụ giới thiệu những mặt hàng mới cho khách
+ Dịch vụ trong bán:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình mua hàng của khách
- Sẵn sàng tư vấn giúp đỡ khách hàng
- Lấy giỏ hàng cho khách
+ Dịch vụ sau bán:
- Có dịch vụ vận chuyển tận nơi cho khách có nhu cầu với giá trị tương đối lớn
- Bảo hành chất lượng hàng hoá
Hoàn thiện công nghệ dịch vụ cho khách hàng là hoàn thiện một công cụ cạnh tranh hiệu quả giúp Siêu thị đẩy mạnh tiêu thụ nâng cao vị thế trên thị trường.
2.5- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường
Đây là vấn đề cần được quan tâm hơn tại siêu thị Hà Nội. Thông tin là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động, cạnh tranh gay gắt như hiện nay không thể ngồi chờ thông tin đến mà phải tích cực tìm kiếm thông tin. Nhiều sản phẩm mới trên thị trường chưa thấy có trong danh mục hàng hoá của siêu thị. Giá cả hàng hoá trong siêu thị, thay đổi còn khá chậm so với thị trường …cho thấy công tác này còn chưa được đặt đúng vị trí của nó. Tích cực nghiên cứu thị trường để nhận biết được quá trình biến thiên của hàm nhu cầu theo thời gian của các sản phẩm vào những thời điểm nào thì người tiêu dùng có nhu cầu tiêu dùng lớn đối với mặt hàng nào và ngược lại để từ đó giúp siêu thị có kế hoạch chuẩn bị hàng hoá phục vụ thị trường một cách tốt nhất. Đây cũng là một công việc cần phải làm để thực hiện tốt các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả cung ứng hàng hoá. Có thể thành lập thêm nhóm nghiên cứu thị trường nằm trong phòng kinh doanh để đảm nhiệm nhiệm vụ này cho siêu thị.
2.6-Các giải pháp khác
a) Là một siêu thị chuyên cung cấp thực phẩm, nên tập trung vào thế mạnh của siêu thị là nhóm hàng đông lạnh và thực phẩm. Đây là hai nhóm hàng đạt hiệu quả cao về mọi mặt và còn có nhiều triển vọng phát triển hơn trong thời gian tới. Có thể giảm bớt hàng phi thực phẩm đặc biệt là bộ phận đồ điện gia dụng chúng chiếm tỷ trọng vốn khá cao trong khi tốc độ tiêu thụ, chu chuyển vốn quá chậm mà hao mòn vô hình của chúng là vô cùng lớn do các sản phẩm mới ra đời liên tục với nhiều tính năng tác dụng hơn, giá cả hợp lý hơn.
b) Cần quan tâm hơn đến việc đánh giá hiệu quả cung ứng thông qua các chỉ tiêu và kết hợp chặt chẽ với các hoạt động khác đặc biệt là hoạt động tiêu thụ hàng hoá để cùng nâng cao hiệu quả hoạt động.
c) Trong việc hoạch định và thực hiện các chính sách nhất là chính sách giá cần cân nhắc kỹ lưỡng để đạt kết quả như ý muốn tránh gây phản tác dụng như trong năm 2005 vừa qua. Không những không đạt dược doanh thu như mong muốn mà còn làm lợi nhuận giảm xuống nghiêm trọng gây thiệt hại đáng kể cho siêu thị
d)Thiết kế trưng bày hàng hoá
Việc phân khu, bố trí các gian hàng còn mang nặng tính cảm tính chưa khoa học. Có các tài liệu hướng dẫn cách bố trí hàng hoá để tác động đến khách hàng qua các giác quan bằng màu sắc, cách bố trí , khoảng cách …một cách tích cực nhất kích thích nhu cầu của khách hàng dẫn đến quyết định mua hàng. Có thể tìm tham khảo và áp dụng các biện pháp phù hợp
Hàng hoá trong siêu thị bố trí còn nhiều điểm chưa hợp lý, hàng hoá thay đổi vị trí khá thường xuyên không chỉ làm mất thời gian công sức của nhân viên mà còn gây khó khăn cho khách hàng khi tìm kiếm hàng hoá.
Nhiều hàng hoá bầy quá ít không gây được sự chú ý của khách hàng trong khi một số khác lại có quá nhiều trên quầy chiếm diện tích lớn tạo cho khách hàng ý nghĩ đó là hàng tồn khó tiêu thụ.
Một số vỏ hộp sản phẩm để trên nóc các gian hàng trông rất phản cảm. Có thể dùng các tấm quảng cáo khổ lớn vừa có tác dụng quảng cáo vừa che đi sự lộn xộn mất thẩm mỹ đó.
Không gian giữa các quầy hàng quá hẹp khó khăn khi đi lại cho khách trong giờ cao điểm đông người.
Nhiều sản phẩm khách hàng thường không xác định nhu cầu từ trước mà chỉ nảy sinh khi bắt gặp lại bày ở những vị trí khá khuất không bắt mắt cần có thay đổi để kích thích nhu cầu đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá.
e)Xúc tiến thương mại, quảng cáo, khuếch trương
Siêu thị còn hạn chế trong các vấn đề này cần có các hoạt động tích cực hơn. Đơn giản nhất là không gian phía ngoài siêu thị, là nơi nhiều người qua lại nên tận dụng để treo các băng rôn hay các hình ảnh gây sự chú ý, thu hút mọi người đến với siêu thị. Các phương tiện quảng cáo được sử dụng còn rất hạn chế. Khách hàng mua hàng với giá trị lớn còn chưa được ưu đãi đúng mức…Cần khắc phục ngay các vấn đề này. Sử dụng thêm các công cụ quảng cáo như phát tờ rơi, trên đài báo.v.v…
f)Vấn đề huy động và sử dụng vốn
Trong năm 2005 như ta đã có phân tích trong các phần trên chi phí trả lãi tiền vay lên đến 108.800.000 đồng là một chi phí không nhỏ. Để có thể giảm bớt chi phí này mà vẫn đảm bảo nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh ta có thể sử dụng các biện pháp như xin hưởng tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp chính mà ta có vai trò quan trọng nhất định đối với họ, xin bổ xung thêm vốn kinh doanh, xác định lượng hàng hoá dự trữ hợp lý hơn để giảm vốn dự trữ bình quân…
Tuy nhiên không nên quá quan tâm đến vấn đề chi phí lãi vay lớn mà cần quanh tâm đến vấn đề sử dụng nguồn vốn đó có hiệu quả không. Nếu hiệu quả mang lại lớn thì vấn đề chi phí không phải là yếu tố lớn.
- Một điểm nhỏ cần chú ý đó là cần miễn phí gửi xe cho khách hàng. Đây là một yếu tố nhỏ nhưng góp phần không nhỏ tạo nên sự thoải mái và tiện lợi cho khách hàng. Bởi khách hàng sẽ luôn có sự so sánh giữa siêu thị với các đối thủ cạnh tranh khác nên ta cần sử dụng tối đa các yếu tố mang lại sự tiện lợi cho khách hàng để tạo ấn tượng tốt cho họ về siêu thị.
3-Kiến nghị đối với nhà nước
-Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng hàng hoá nói riêng ngoài việc tạo dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi, nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ khác như đơn giản hoá thủ tục vay vốn kinh doanh, hay gia hạn vốn vay, có các biện pháp hạn chế tiêu cực, móc ngoặc trong việc vay vốn ngân hàng-hiện tượng không phải là không phổ biến hiện nay. Không chỉ làm cho thất thoát ngân sách nhà nước, nguồn lực quốc gia mà còn làm cho nhiều đối tượng thực sự có nhu cầu, có khả năng sử dụng vốn có hiệu quả không thể có vốn.
-Có các biện pháp giúp đỡ doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu thị trường. Nhà nước cần xây dựng một hệ thống hỗ trợ thông tin chính xác và kịp thời. Nhà nước nên có thông tin dự báo về thị trường và khả năng sản xuất trong nước trên cơ sở đó giúp Siêu thị lên kế hoạch kinh doanh phù hợp chính xác hơn tránh tình trạng xác định cung cầu không sát với thực tế gây nhiều khó khăn trong hoạt động cung ứng nói riêng cũng như hoạt động kinh doanh nối chung
-Ngoài ra, nhà nước cũng cần khuyến khích phát triển dịch vụ tư vấn về công nghệ về quản lý, giúp cho các doanh nghiệp có được đầy đủ thông tin và có thể tiếp thu được những kiến thức, kinh nghiệm quản lý và nhận được những cơ hội đầu tư phù hợp với khả năng của mình...
Trên đây là một số ý kiến đóng góp của em trên cơ sở những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động cung ứng tại siêu thị Hà Nội để góp phần nâng cao hiệu quả cung ứng hàng hoá nói riêng cũng như hiệu quả kinh doanh nói chung của siêu thị Hà Nội với mong muốn thấy siêu thị ngày càng phát triển hơn.
KẾT LUẬN
Siêu thị xuất hiện trên thế giới từ năm 1912.Nhưng nó mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam trong những năm gần đây.Tuy đã dần có chỗ đứng với những dấu hiệu khởi sắc, nhưng phía trước còn nhiều khó khăb phỉa vượt qua. Còn phải tốn nhiều thời gian nữa để thay đổi thói quen mua sắm của người tiêu dùng vốn đã qua quen thuộc với các khu chợ truyền thồng. Trên con đường Việt Nam phát triển và hội nhập kinh tế, các hình thức phân phối hiện đại sẽ dần dần thay thế cho các hình thức phân phối truyền thống. Hệ thống siêu thị sẽ trở thành phổ biến tại tất cả mọi nơi, cung ứng hàng hoá cho mọi nhu cầu của người tiêu dùng. Để có thể tồn tại và phát triển mở rộng Siêu thị Hà Nội cần có nhiều nỗ lực. Siêu thị Hà Nội đang đi trên con đường thực hiện mục tiêu đó tuy còn một quãng đường dài trước mắt với không ít chông gai. Để làm được việc đó nâng cao hiệu quả các hoạt động trong đó có hoạt động cung ứng hàng hoá là chìa khoá để giải quyết nhiều vấn đề
Trong luận văn em đã cố gắng đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả cung ứng với mong muốn góp phần nào đó giúp siêu thị hoàn thiện hơn để chuẩn bị đối mặt với các khó khăn thách thức đã đang và sẽ gặp phải trong tiến trình hội nhập mạnh mẽ. Với thời gian thực tập không nhiều cũng như những hạn chế về lý luận và kinh nghiệm thực tế, trong bản luận văn này chắc chắn không thể tránh khỏi các thiếu sót về nhiều mặt. Mong được sự thông cảm, chỉ bảo của các thầy cô.
Một lần nữa em xin được gửi lời cảm ơn tới thầy giáo hướng dẫn luận văn PGS.TS Phạm Công Đoàn và các cô chú anh chị nhân viên siêu thị Hà Nội đã giúp đỡ em rất nhiều trong thời gian vừa qua.
Em xin chân thành cảm!
Tài liệu tham khảo
1. PGS.Đặng Đình Đào
“Những vấn đề cơ bản về hậu cần vật tư doanh nghiệp”:(1995)
NXB Thống Kê
2.PGS.TS Phạm Công Đoàn – TS Nguyễn Cảnh Lịch: (2004)
“ Kinh tế doanh nghiệp thương mại ”
NXB Thống Kê
3. GS.TS. Phạm Vũ Luận: (2004) “ Quản trị doanh nghiệp thương mại ”
NXB Thống Kê
4. .TS.Nguyễn Năng Phúc:(2005)
“Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”
NXB Thống Kê
5.TS.Đồng Thị Thanh Phương:(2004)
“Quản trị sản xuất và dịch vụ”
NXB Thống Kê
6. GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn – PGS.TS Nguyễn Kim Trung: (2005)
“ Marketing ”
NXB Thống Kê
7.PGS.TS.Đoàn Thị Hồng Vân:(2002)
“Quản trị vung ứng”
NXB Thống Kê
Cùng một số tài liệu nội bộ của siêu thị Hà Nội và các tài liệu khác
(Đơn vị: 1000 đồng)
Các chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
So sánh
2004-2003
So sánh 2005-2004
Số tiền
Tỷ
trọng
Số tiền
Tỷ
trọng
Số tiền
Tỷ
trọng
Số tiền
Tỷ lệ
Tỷ
trọng
Số tiền
Tỷ lệ
Tỷ
trọng
1-Nợ phải trả
5.520
0,06
7.640
0,098
1.213.340
12,76
2.120
38,41
0,038
1.205.700
157,81
12,66
2-NV chủ sở hữu
7.500.000
99,94
7.785.768
99,902
8.295.672
87,24
285.768
3,81
- 0.038
509.904
6,55
-12,66
3-Tổng nguồn vốn
7.505.520
100
7.793.408
100
9.509.012
100
287.888
3,83
--------
1.715.604
22,01
-------
TÌNH HÌNH NGUỒN VỐN CỦA SIÊU THỊ NĂM 2003-2005
(Đơn vị: 1000 đồng)
Các chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
So sánh 2004-2003
So sánh năm 2005-2004
Số tiền
Tỷ
Trọng
Số tiền
Tỷ
Trọng
Số tiền
Tỷ
Trọng
Số tiền
Tỷ
trọng
Tỷ lệ
Số tiền
Tỷ
trọng
Tỷ lệ
1-Tổng tài sản
7.505.520
100
9.509.012
100
7.793.408
100
287.888
------
3,72
1.715.604
------
22.01
-Tài sản lưu động
4.505.520
60,03
5.373.212
56,51
4.770.008
61,21
264.488
1,18
5,87
603.204
-4,70
12,65
-Tài sản cố định
3.000.000
39,97
4.135.800
43,49
3.023.400
38,79
23.400
-1,18
0,78
1.112.400
4,70
36,79
2-Tổng doanh thu
10.866.600
------
15.927.400
------
14.927.300
------
4.060.700
------
37,4
1.000.100
------
6,70
3-Lợi nhuận
395.500
------
35.600
------
706.400
------
310.900
------
78,6
-670.800
------
-94,96
TÌNH HÌNH TÀI SẢN CỦA SIÊU THỊ NĂM 2003 – 2005
Các chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
So Sánh
năm 2004-2003
So sánh năm 2005-2004
Giá trị
Tỷ lệ
Giá trị
Tỷ lệ
1-Tổng doanh thu bán hàng
10.866.600
14.927.300
15.927.400
4.060.700
37,36
1.000.100
6,70
2-Các khoản giảm trừ
11.400
10.200
8.700
-1.200
-10,5
-1.500
14,71
3-Doanh thu thuần bán hàng
10.855.200
14.917.100
15.918.700
4.061.900
37,42
1.001.600
6,71
4-Giá vốn hàng bán
7.214.200
10.424.500
12.803.700
3.210.300
44,50
2.379.200
22,82
5-Lợi nhuận gộp
3.641.000
4.492.600
3.115.000
851.600
23,39
-1.377.600
-30,66
6-Chi phí bán hàng và quản lý
3.245.500
3.786.200
3.079.400
540.700
16,66
-706.800
-18,67
7-Lợi nhuận thuần
395.500
706.400
35.600
310.900
78,61
-670.800
-94,96
8-Doanh thu hoạt động tài chính
1.200
1.500
7.300
300
25
5.800
386.67
9-Chi phí hoạt động tài chính
0
0
104.800
0
0
104.800
--------
10-Doanh thu các hoạt động khác
200
300
38.600
100
50
38.300
12766,67
11-Chi phí các hoạt động khác
0
0
500
0
0
500
---------
12-Tổng lợi nhuận trước thuế
396.900
708.200
-23.800
311.300
78,43
-732.000
-103,36
13-Thuế thu nhập doanh nghiệp
111.132
198.296
0
87.164
78,43
-198.296
-100
14-Tổng lợi nhuận sau thuế
285.768
509.904
-23.800
224.136
78,43
-509.904
-100
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29435.doc