Lời mở đầu
Hoạt động xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế song chịu tác đọng của nhiều nhân tố và có yếu tố nước ngoài nên tính chất phức tạp hơn hoạt động nội thương. Do vậy để hoạt động này thực sự có hiệu quả đòi hỏi các doang nghiệp phải có một tiềm lực tài chính đủ lớn. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay điểm yếu lớn nhất của hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng là nguồn vốn tự có để kinh doanh còn rất nhỏ bé
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay xuất nhập khẩu tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vì vậy, việc đẩy mạnh hỗ trợ tài chính của các Ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp là điều kiện quan trọng trong việc thực hiện thành công chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu thay thế dần các mặt hàng nhập khẩu mà nhà nước đã đề ra. Thực tế các ngân hàng hiện nay đã quan tâm đến hoạt động này không chỉ bởi ngân hàng luôn sẵn sàng đầu tư vào những dự án có hiệu quả mà còn bởi ngân hàng là nơi hội tụ những chuyên gia kinh tế có thể cung cấp nguồn thông tin hữu ích cho các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế. Đặ biệt, tại Việt nam hiện nay hệ thống ngân hàng thương mại vẫn là nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế trong bối cảnh thị trường chứng khoán vẫn đang trong quá trình hoàn thiện và phát triển.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã rất quan tâm tới cho vay xuất nhập khẩu. Tuy vậy, ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay của các donah nghiệp xuất nhập khẩu và cũng chính vì sự phát triển của ngân hàng mở rộng cho vay xuất nhập khẩu là rất cần thiết trong thời gian tới.
Sau một thời gian thực tạp tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội, được tham gia các nghiệp vụ cho vay và thông qua tìm hiểu nhu cầu vay vốn của các khách hàng lớn tại chi nhánh trong thời gian tới, em đãlựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay xuất nhập khẩu tại Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội ”.
Chuyên đề ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cho vay xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng cho vay xuất nhập khẩu tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay xuất nhập khẩu tại ngân hàng
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận thình của Th.s Hoàng Lan Hương. Em cũng xin chân thành sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các cán bộ nhân viên phòng tài chính tín dụng Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Nội dung
Chương I: Những vấn đề cơ bản về cho vay xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại
Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trung gian tài chính quan trọng trong nền kinh tế, đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội đồng thời là nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho các cá nhân, doanh nghiệp và một phần đối với nhà nước.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Xuất phát từ lịch sử hình thành hệ thống Ngân hàng trên thế giới với nghiệp vụ đầu tiên là mua bán ngoại tệ đến nay số lượng các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp đã trở nên đa dạng, phong phú, góp phần phần quan trọng vào quá trình lưu thông nguồn vốn trong nền kinh tế. Các dịch vụ Ngân hàng đang có hiện nay bao gồm:
Mua bán ngoại tệ: Đây được xem là một trong những dịch vụ đầu tiên được thực hiện tại các Ngân hàng, ở đây ngân hàng đóng vai trò là trung gian mua, bán các loại ngoại tệ và được hưởng phần chênh lệch giữa giá mua vào với giá bán ra cùng một khoản phí dịch vụ. Tuy nhiên, nghiệp vụ này thường mang tính rủi ro cao, chịu tác động của nhiều nhân tố nên chỉ những ngân hàng lớn nhất mới được phép cung cấp.
Nhận tiền gửi: Với chức năng là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, các Ngân hàng không ngừng tăng lượng tiền cho vay và để thoả mãn nhu cầu đó các Ngân hàng đồng thời cũng phải tìm kiếm các nguồn tiền nhàn rỗi để thu hút, kêu gọi họ gửi vào Ngân hàng. Nguồn tiền nhàn rỗi mà các Ngân hàng nhận được chủ yếu là các khoản tiền gửi tiết kiệm từ dân cư hoặc khoản tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế.
Bảo quản vật có giá: Các Ngân hàng thực hiện việc lưu trữ vàng và các vật có giá trị khác cho khách hàng trong kho bảo quản và nhận được các khoản phí dịch vụ đóng góp vào nguồn thu nhập của Ngân hàng.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Khi các doanh nhân gửi tiền vào Ngân hàng, họ nhận thấy Ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua Ngân hàng đã mở đường cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến Ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng (còn gọi là séc), khách hàng mang giấy đến Ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt là an toàn, chính xác, nhanh chóng, tiết kiệm đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích các doanh nhân gửi tiền vào Ngân hàng để nhờ Ngân hàng thanh toán hộ. Như vậy một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch, cho phép người tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ.
Quản lý ngân quỹ: Các Ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá nhân. Nhờ đó, Ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều Ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó Ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi của công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của Ngân hàng. Các Ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các Ngân hàng mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà Ngân hàng huy động được, hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
Bảo lãnh: Các Ngân hàng với uy tín và khả năng thanh toán của mình đã giành được lòng tin của công chúng, vì vậy khi khách hàng có nhu cầu và thoả mãn được các điều kiện Ngân hàng yêu cầu thì sẽ được Ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho giao dịch như bảo lãnh phát hành chứng khoán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh vay vốn nước ngoài...
Cho thuê thiết bị trung, dài hạn: Trong dịch vụ này các Ngân hàng chỉ là trung gian trong việc thoả mãn một nhu cầu sử dụng máy móc, thiết bị của các doanh nghiệp với các nhà sản xuất các loại thiết bị đó. Ngân hàng sẽ dùng vốn của mình mua các thiết bị và cho thuê lại các doanh nghiệp thông qua hợp đồng thuê trung và dài hạn. Để thực hiện hợp đồng này người thuê phải đảm bảo yêu cầu phải trả tới hơn 2/3 giá trị tài sản cho thuê.
Cung cấp dịch vụ uỷ thác đầu tư và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính nên các Ngân hàng thường có nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và các doanh nghiệp đã nhờ Ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư... Nhiều Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Nhiều Ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến cho các Ngân hàng bắt đầu đưa ra các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. trong điều kiện cho phép các Ngân hàng sẽ thành lập ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán có thể hoạt động độc lập với hoạt động Ngân hàng.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: Cùng với sự phát triển của ngành bảo hiểm, các ngân hàng đã nắm bắt cơ gội kinh doanh thông qua việc chấp nhận làm đại lý bán bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm lớn, nhờ đó làm tăng thu nhập cho Ngân hàng bằng các khoản hoa hồng đại lý và phí cung cấp dịch vụ.
Cung cấp các dịch vụ đại lý: Nhiều Ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Trong khi đó, các Ngân hàng lớn sẵn sàng cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng có nhu cầu như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi làm ngân hàng đầu mối trong hoạt động tài trợ.
Tất cả các dịch vụ trên đều mang lại cho ngân hàng các khoản thu nhập nhưng cho đến nay nguồn thu nhập chủ yếu của các Ngân hàng vẫn là từ các khoản cho vay. Vì vậy, cho vay được xem là một trong những nghiệp vụ chủ yếu và quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại, nó vừa giúp cho ngân hàng mở rộng kinh doanh tín dụng tăng thêm lợi nhuận, vừa giúp cho các đơn vị vay có đủ vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh doanh.
Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng thương mại không chỉ là quy luật tất yếu mà còn là yêu cầu khách quan của nền kinh tế bởi nó góp phần quan trọng trong tiến trình đi lên của quốc gia. Ngành công nghiệp Ngân hàng cũng đang ra sức tận dụng sự phát triển của ngành công nghệ thông tin để cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tiện ích, chính xác, an toàn và nhanh chóng hơn nữa. Cho đén nay các Ngân hàng thương mại vaanx là nơi cung cấp nguồn vốn đầu tư chủ yếu cho nền kinh tế, vì vậy việc phát triển hoạt đọng cho vay của Ngân hàng là một nhân tố quan trọng không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn mang lại nhiều lợi ích cho bản thân Ngân hàng.
1.1.2 Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm:
Với tư cách là người cung cấp vốn cho các khách hàng, Ngân hàng quan niệm cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tièn vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả tthuận với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi. Đối tượng của hoạt động cho vay là tiền tệ nên nó phải đảm bảo một số nguyên tắc nhất định được thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng khi ký hợp đồng tín dụng, thực hiện điều này sẽ góp phần làm cho hoạt động của Ngân hàng an toàn và nguồn vốn được sử dụng hiệu quả.
1.1.2.2 Nguyên tắc cho vay
Cho vay là một trong những nghiệp vụ chủ yếu và quan trọng của các Ngân hàng thương mại, nó vừa giúp cho Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh tín dụng, tăng thêm thu nhập, vừa giúp cho khách hàng vay có đủ vốn để duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, để đảm bảo vốn vay phát huy được tác dụng, mang lại lợi ích cho cả Ngân hàng và người đi vay thì quá trình cho vay và sử dụng vốn vay đều phải tuân theo những nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Tiền vay phai được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Theo nguyên tắc này thì tất cả các khoản tiền cho vay của Ngân hàng đều phải sử dụng đúng mục đích theo đún chức năng, nhiệm vụ ghi trong quyết định thành lập và trong giấy phép kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền cấp. Đồng thời phải mang lại hiệu quả kinh tế cao sau khi sử dụng.
Căn cứ vào mục đích cho vay của Ngân hàng là phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát sản xuất. Vì vậy, việc cho vay phải dựa trên những mục đích nhất định phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị vay.
Dựa vào đặc điểm của cho vay là cho vay có hoàn trả cả gốc và lãi, do đó đòi hỏi đơn vị vay phải sử dụng vốn vay có hiệu quả.
Việc Ngân hàng cho vay đúng mục đích buộc đơn vị vay phải sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, tạo cơ sở cho việc thu nợ của Ngân hàng, tạo điều kiện để phát huy tác dụng của nguồn vốn tín dụng Ngân hàng.
Nguyên tắc 2: Tiền vay phải được hoàn trả đủ và đúng hạn
Các khoản tiền cho vay của Ngân hàng sau khi được sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh theo đúng phương án kinh doanh đã định, phải hoàn trả cho Ngân hàng đúng thời hạn đã quy định với số lượng lớn hơn (gốc + lãi)
Căn cứ vào tính chất của nguồn vốn cho vay thường mang tính tạm thời và ngắn hạn. Vì vậy, Ngân hàng chỉ cho vảytong một thời hạn nhất định phù hợp với thời gian huy động vốn của Ngân hàng.
Căn cứ vào yêu cầu của chế độ hạch toán kinh tế: mọi hoạt động kinh doanh đều phải có lãi, nên cho vay Ngân hàng phải thu lãi.
Thực hiện nguyên tắc này sẽ đảm bảo được khả năng thanh toán của Ngân hàng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng đồng thời thúc đẩy đơn vị vay sử dụng vốn có hiệu quả, tăng tốc độ luân chuyển vốn.
Việc thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc này đảm bảo khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng, tạo mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau giữa Ngân hàng và khách hàng, là cơ sở cho việc duy trì quan hệ vay mượn lâu dài, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển.
1.1.2.3 Phân loại cho vay
Dựa vào các tiêu thức khác nhau, ta có thể phân loại hoạt động cho vay thành các hình thức khác nhau, tuy nhiên việc phân loại chỉ mang tính tương đối bởi cùng một khoản vay nhưng có thể mang nhiều đặc điểm khác nhau.
• Căn cứ vào thời hạn của khoản vay thì cho vay bao gồm:
Cho vay ngắn hạn: là loại hình cho vay có thời hạn cho vay từ một năm trở xuống nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu vốn lưu động cho sản xuất kinh doanh , phục vụ nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt của người đi vay.
Cho vay trung hạn: tuỳ theo quy định của từng Ngân hàng thì cho vay trung hạn có thể là một khoản vay từ 1 đến 5 năm hoặc 7 năm, những khoản vay này chủ yếu cho các nhu cầu vốn đầu tư vào các dự án trung hạn của doanh nghiệp hoặc các mục đích sử dụng sửa chữa nhà cửa, mua sắm tài sản giá trị lớn của dân cư.
Cho vay dài hạn: là những khoản vay có thời hạn từ 5 năm hoặc 7 năm trở lênnhwng khong vượt quá thời hạn hoạt động còn lại của dơn vị kinh doanh theo quyết định thành lập và không vượt quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống.
• Căn cứ heo ngành, cho vay bao gồm:
Cho vay nông nghiệp: là hình thức cho vay đáp ứng các nhu cầu phục vụ cho lĩnh vực Nông nghiệp như cho vay để chăn nuôi, trồng trọt,...
Cho vay Công nghiệp – Thương mại: là hình thức cho vay để đáp ứng nhu cầu phục vụ cho lĩnh vực Công nghiệp, Thương mại.
Cho vay xây dựng cơ bản: là hình thức cho vay để đáp ứng các nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng những công trình thiết yếu phục vụ cho lợi ích kinh tế xã hội.
Cho vay tiêu dùng: là hình thức cho vay để đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng trong cuộc sống như mua hàng hoá, xây dựng nhà ở, mua sắm các phương tiện cho cuộc sống.
• Căn cứ theo mức độ tín nhiệm với Ngân hàng:
Cho vay có đảm bảo: là việc cho vay mà người vay phải có tài sản để thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của một tổ chức có năng lực hoàn trả.
Cho vay không có đảm bảo: là việc khách hàng vay dực trên mức độ tín nhiệm, quen biết mà Ngân hàng không cần đảm bảo, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
Bên cạnh đó, đối với những hoạt động kinh tế cụ thể như hoạt động ngoại thương thì hoạt động cho vay của Ngân hàng được phân thành cho vay nhập khẩu và cho vay xuất khẩu bởi đặc trưng của mỗi hoạt động này là khác nhau. Hiện nay, do hoạt động thương mại quốc tế ngày càng mở rộng nên nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu cũng không ngừng tăng lên. Điều này đòi hỏi các Ngân hàng cần phải có chính sách cho vay phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu của người vay trong điieù kiện mới hiện nay.
Cho vay xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm
Quan hệ kinh tế quốc tế đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử, có quá trình phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ quy mô hẹp đến quy mô rộng cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người. Từ đầu những năm 40-50 của thế kỷ XX, đặc biệt từ những năm 70, sự phát triển hư vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã gây nên sự thay đổi về chất trong cấu trúc của lực lượng sản xuất, trong cơ cấu kinh tế và trong tăng cường phát triển kinh tế thế giới. Loài người đang chuyển từ nền văn minh máy móc, hoá chất và dầu lửa sang nền văn minh sinh học và thông tin. Nền kinh tế thế giới đang bước vào một nền kinh tế tri thức, loài người đang dứng trước sự kụa chon là phải đổi mới bằng hệ thống công nghệ hiện đại hoặc bị tiêu diệt, để tránh nguy cơ bị tụt hậu ngày càng xa trong cộng đồng kinh tế thế giới, đặc biệt đối với những nước đang phát triển. Đặc trưng này vừa tạo ra những thách thức, nguy cơ mới. vừ tạo ra khả năng để vượt lên những thách thức nguy cơ đó. Vì vậy, kinh tế đang trở thành mặt trận hàng đầu của mỗi quốc gia, chạy đua kinh tế để phát triển và tăng trưởng là vấn đề sống còn với bất cứ dân tộc nào.
Xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp và tiếp tục phát triển ngay cả khi doanh nghiệp thực hiện đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình. Kinh doanh xuát nhập khẩu thường diễn ra các hình thức sau: Xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình; xuất khẩu trực tiếp do chính các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất nhập khẩu đảm nhận; xuất khẩu gián tiếp do các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tổ chức kinh doanh trung gian đảm nhận; nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên nhiên, vật liệu...
Xuất khẩu là hoạt động trong đó một cá nhân hay doanh nghiệp nhờ có những lợi thế về tài nguyên, giá thành sản xuất, tiến hành sản xuất các mặt hàng theo đơn đặt hàng của bên nước ngoài để thực hiện việc trao đổi hàng hoá với người mua và thu ngoại tệ về nước mình. Ngược lại, nhập khẩu là hoạt động đi mua hàng hoá, dịch vụ của một nước từ nước khác có lợi thế trong việc sản xuất mặt hàng đó thông qua tro đổi một lượng tiền nhất định láy một lượng hàng hoá, dịch vụ như cam kết. Kinh doanh xuất nhập khẩu là hoạt động kinh tế cơ bản, là chaiếc chìa khoá mở ra những giao dịch kinh tế quốc tế cho một quốc gia, tạo ra nguồn thu chi ngoại tệ chủ yếu, góp phần đáng kể vào mục tiêu tăng trưởng, phát triển nền kinh tế đát nước, củng cố mối quan hệ đối ngoại và khẳng định vj thế quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu thể hiện ở các điểm:
Xuất khẩu khai thác hiệu quả lợi thế tuyệt đối, lợi thế tương đối của đất nước và kính thích các ngành kinh tế phát triển góp phần tăng tích luỹ vốn, mở rộng sản xuất, tăng thu nhập cho nền kinh tế, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Xuất khẩu góp phần không nhỏ giải quyết công ăn việc làm cho người lao động đồng thời tác động tích cực đến trình độ tay nghề của công nhân làm nghề xuất khẩu.
Xuất khẩu cho phép tập trung năng lực sản xuất cho những mặt hàn truyền thống được thế giới ưa chuộng hay những mặt hàng tận dụng được nguyên liệu sẵn có trong nước hay nước khác không làm được hoặc lam được nhưng giá thành cao.
Thông qua hoạt động xuất khẩu đã thúc đẩy phát triển quan hệ đối ngoại với tất cả các nước nhất là với các nước trong khu vực, nâng cao uy tín đất nước trên trường quốc tế.
Hoạt động nhập khẩu góp phần thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế đảm bảo một sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế.
Đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động, góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu, góp phần nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, hoạt động ngoại thương giữ vai trò quan trọng nhất và hỗ trợ cho nó là hoạt động hợp tác tín dụng quốc tế. Các nghiệp vụ tín dụng quốc tế thực chất là các hoạt động cụ thể về cung ứng, tài trợ vốn lẫn nhau giữa các chủ thể ở các nước nhằm thực hiện các hoạt động thương mại cũng như các hoạt động trao đổi quốc tế khác. Các hoạt động tín dụng quốc tế rất đa dạng nhưng chủ yếu có hai loại là nghiệp vụ tín dụng thương mại xuất nhập khẩu và nghiệp vụ tín dụng ngân hàng.
Tín dụng thương mại xuất nhập khẩu là loại hình tín dụng do các công ty xuất nhập khẩu ở các nước tài trợ cho nhau nhằm duy trì và mở rộng các hoạt động thương mại quốc tế giữa các nước. Nghiệp vụ tín dụng này tồn tại dưới các hình thức sau:
• Mua hàng chịu bằng chấp nhận hối phiếu
Hối phiếu là một phương tiện thanh toán phổ biến trong thương mại quốc tế. Nó là một loại giấy đòi tiền do một người chủ nợ nước ngoài yêu cầu người mắc nợ có tên trên hối phiếu phải trả một số tiền nhất định cho người phát hành hoặc trả theo lệnh cho một người thứ ba khi hối phiếu đến hạn.
Với hình thức mua bán chịu hàng hoá bằng chấp nhận hối phiếu thì trong hợp đồng mua bán ngoại thương người xuất khẩu và người nhập khẩu cam kết cùng thực hiện những điều về vay nợ, chấp nhận hối phiếu, thời hạn trả nợ...
Nội dung của hình thức vay này được thực hiện như sau:
Người xuất khẩu sau khi tiến hành giao hàng cho người nhập khẩu thì phát hành một tờ hối phiếu có kỳ hạn đòi tiền người nhập khẩu và gửi kèm với các chứng từ hàng hoá về ngân hàng nước mình, để rồi được chuyển đến ngân hàng nước người nhập khẩu và ngân hàng này sẽ thông báo cho người nhập khẩu biết. Chỉ khi người nhập khẩu ký chấp nhận trả tiền trên hối phiếu thì ngân hàng mới ký chuyển nhượng những chứng từ hàng hoá cho người nhập khẩu.
Khi người nhập khẩu ký chấp nhận hối phiếu, tức người nhập khẩu có cam kết trả tiền vô điều kiện đối với tờ hối phiếu đó khi nó đến hạn, từ đó người nhập khẩu trở thành người chịu nợ. Khi hối phiếu được chấp nhận thì nó được chuyển về ngân hàng nước xuất khẩu hoặc được chuyển thẳng cho người xuất khẩu.
Hối phiếu có kỳ hạn do người xuất khẩu ký phát có số tiền tính bằng giá bán trả ngay cộng với khoản thu nhập lãi mà người nhập khẩu phải chịu đối với người xuất khẩu. Đó là giá bán chịu.
Khi hối phiếu đã được người nhập khẩu ký chấp nhận trả tiền thì người xuất khẩu có thể gửi hối phiếu chờ ngày đến hạn thanh toán, hoặc nếu có nhu cầu về vốn có thể sử dụng hối phiếu đó để đảm bảo trong các quan hệ tín dụng khác hoặc thực hiện chiết khấu tại ngân hàng để nhận tiền sớm hơn trước hạn.
• ứng trước tiền hàng
ứng trước tiền hàng được coi là hình thức tài trợ của người nhập khẩu đối với người xuất khẩu để nhập khẩu hàng hoá được thuận lợi.
ứng trước tiền hàng được thực hiện trước khi giao hàng một thời gian nhất định ( thời gian này do 2 bên xuất nhập khẩu thoả thuận ). Tỷ lệ ứng trước so với tổng giá trị do 2 bên thoả thuận.
ứng trước tiền hàng còn được coi là hình thức tín dụng nhập khẩu ( do người nhập khẩu cung cấp cho người xuất khẩu )
Việc ứng trước tiền hàng của người nhập khẩu được đáp ứng bằng sự ưu tiên giảm giá hàng của người xuất khẩu với người nhập khẩu.
Hình thức ứng trước tiền hàng trong thương mại quốc tế đôi khi được áp dụng khi người xuất khẩu chưa tin vào khả năng thanh toán của người nhập khẩu nên yêu cầu người đó phải ứng trước một số tiền nhất định. Trong trường hợp này tiền ứng trước nặng về tiền dặt cọc hơn là tín dụng tài trợ, cho nên không có lãi hoặc có nhưng lãi thấp.
Để hoàn trả tiền ứng trước có thể áp dụng một số cách sau:
Khấu trừ dần vào số tiền hàng hóa khi giao hàng với một tỷ lệ nào đó
Khấu trừ dần vào số tiền hàng hoá khi giao hàng theo một tỷ lệ luỹ tiến tăng dần.
Hoặc khấu trừ 1 lần vào chuyến giao hàng cuối cùng
• Tín dụng mở tài khoản
Đây là hình thức tài trợ của người xuất khẩu với người nhập khẩu. Nghiệp vụ này diễn ra theo một trình tự như sau: Người xuất khẩu được quyền mở một tài khoản để ghi nợ tài khoản cho người nhập khẩu sau từng lần giao hàng ( theo những điều kiện mà hai bên đã thoả thuận bằng hợp đồng ).
Đến thời hạn thoả thuận thì người xuất khẩu đình việc giao hàng và người xuất khẩu thông báo đòi thanh toán nợ (gốc+lãi) cho người nhập khẩu.
Hình thức này chỉ áp dụng khi hai bên xuất nhập khẩu rất tin tưởng nhau.
Tín dụng thương mại góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá nâng cao hiệu quả kinh tế nhờ giảm chi phí giao dịch do không phải qua khâu trung gian mà qua quan hệ trực tiếp.
Tuy nhiên, tín dụng thương mại cũng bộc lộ những hạn chế nhất định, thể hiện trên các phương diện:
Về quy mô: Tín dụng thương mại do các doanh nghiệp ( người sản xuất kinh doanh hàng hoá ) cung cấp và họ chỉ có thể cung ứng khối lượng tín dụng trong giới hạn khả năng vốn hàng hoá của mình
Về thời hạn cho vay: Tín dụng thương mại thường là tín dụng ngắn hạn nên không thể đáp ứng nhu cầu vay daì hạn.
Về phạm vi: Tín dụng thương mại chỉ được thực hiện dưới hình thức hàng hoá, vì vậy pạhm vi hoạt động của nó chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp có cung và cầu hàng hoá phù hợp nhau.
Khắc phục những hạn chế của tín dụng thương mại một hình thức tín dụng ưu việt hơn đã hình thành là tín dụng ngân hàng, ở đây tín dụng ngân hàng có thể hiểu là một hoạt động phản ánh quan hệ vay mượn vốn tiền tệ giữa các ngân hàng đối với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng có ưu điểm trên các mặt sau:
Về khối lượng tín dụng: Tín dụng ngân hàng có khả năng cung ứng những khoản vốn lớn đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay của khách hàng.
Do đối tượng của tín dụng ngân hàng là tiền tệ, và các hình thức huy động phong phú nên có thể huy động tiền tệ tạm thời nhàn rỗi từ mọi chủ thể trong nền kinh tế, kể cả nguồn vốn giữa các ngân hàng với nhau. Điều đó đã tạo cho ngân hàng có khả năng tài chính lớn để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng.
Về thời hạn tín dụng: Thông thường người có vốn muốn cho vay ngắn hạn hơn là cho vay dài hạn bởi ít rủi ro và ít ổn thất về thanh khoản, nhưng người đi vay lại có nhu cầu vay dài hạn. Còn ngân hàng lại có thể đi vay ngắn hạn để cho vay dài hạn. Chính nhờ khả năng chuyển hoá thời hạn này mà ngân hàng có thể tạo điều kiện cho nhu cầu của người tích luỹ và người đầu tư dược đáp ứng phù hợp.
Về phạm vi tín dụng: Tín dụng ngân hàng có phạm vi huy động vốn cũng như cho vay rất lớn, liên quan đến các chủ thể và các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Bởi thế, nó thích hợp với rất nhiều đối tượng xin vay cũng như cho vay.
Hạn chế cơ bản của tín dụng ngân hàng là có độ rủi ro cao. Hạn chế này gắn liền với chính những ưu điểm của tín dụng ngân hàng, do việc ngân hàng có thể cho vay số tiền lớn hơn nhiều so với vốn tự có hoặc có sự chuyển hoá thời hạn và phạm vi tín dụng rất rộng. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng với những lợi thế về nhân lực, mạng lưới hoạt động, cơ sở vật chất kỹ thuật cao, luôn có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ từ các cơ quan cấp trên nên khả năng xử lý, hạn chế rủi ro có thể diễn ra kịp thời và an toàn.
Xuất nhập khẩu có vai trò to lớn đối với sự phát triển của các quốc gia vì vậy hoạt động tài trợ cho xuất nhập khẩu cũng có một ý nghĩa rất quan trọng. Bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng đều tiến hành tài trợ cho xuất nhập khẩu dưới nhiều hình thức khác nhau do các hoạt động xuất nhập khẩu luôn chịu sự cạnh tranh gay gắt, nếu không có tài trợ thì các doanh nghiệp xuất khẩu có thể gặp rất nhiều khó khăn để chiếm lĩnh được thị trường nước ngòi, còn câc doanh nghiệp nhập khẩu thì có thể mua phải hàng chất lượng kém, giá cao, làm mất đi nhiều ngoại tệ của đất nước. Tiến hành tài trợ cho xuất nhập khẩu không chỉ giúp đỡ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà còn làm cho hạot động ngân hàng, hoạt động tài cính trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn. Tài trọ cho xuất nhập khẩu không chỉ có ý nghĩa lớn trong lĩnh vực kinh tế mà còn có ý nghĩa cả trong chính trị vì qua các hoạt động này có thể đánh giá được vai trò, uy tín của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức tài chính trên trường quốc tế. Tiến hành xuất nhập khẩu nếu chỉ có các doanh nghiệp thực hiện thì không thể đạt được hiệu quả cao vì tất cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đều luôn luôn cần vốn, thông tin định hướng thị trường, những đòi hỏi này nhiều khi vượt quá khả năng của doanh nghiệp, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ nhiều phía. Thực tiễn thương mại đã chứng minh, hoạt động xuất nhập khẩu sẽ trơ nên hiệu quả hơn khi nó nhận được sự tài trợ mà chủ yếu từ phía Nhà nước và ngân hàng. Tóm lại, trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá hiện nay, hoạt động tài trợ cho xuất nhập khẩu là không thể thiếu được đặc biệt là hoạt động cho vay xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại. Như vạy, có thể nói cho vay xuất nhập khẩu là việc các ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền trong một thời hạn nhất định để thực hiện các hợp đồng xuất nhập khẩu theo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi.
Đối với các chủ thể trực tiếp tham gia các hoạt động trao đổi ngoại thương, kể cả các trung gian tài chính cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng đối với các hoạt đọng nói trên thì việc vận dụng tốt các điều kiện thanh toán quốc tế là rất cần thiết. Điều trước hết sẽ đảm bảo lợ ích cho các chủ thể trực tiếp tham gia các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, kế đến là thực hiện được những yêu cầu cụ thể trong chính sách thương mại và chiến lược thị trường quốc tế của nhà nước. Cụ thể là:
• Đối với xuất khẩu:
Đảm bảo chắc chắn thu đủ, kịp thời các khoản thu về hàng xuất khẩu và dịch vụ cung ứng, thu được càng nhanh càng tốt.
Để giữ được giá trị thực tế của các khoản thu nói trên, tránh được những rủi ro về hối đoái, rủi ro về lãi suất.
Tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu, thúc đẩy các dịch vụ đối ngoại, giữ vững và mở rộng các thị trường buôn bán.
• Đối với nhập khẩu:
Phải đảm bảo chắc chắn được hàng hoá đủ về số lượng, thoả mãn về chất lượng, đáp ứng các nhu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nhập hàng đúng thời hạn...
Trong các điều kiện không đổi, bằng cách nào đó mà giành được quyền trả tiền tại trong nước, hoặc trả tiền chậm càng tốt.
Đảm bảo việc nhập khẩu được thực hiện theo đúng yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân và nhu cầu của xã hội.
Việc đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp trực tiếp tham gia xuất nhập khẩu cũng đồng thời giúp ngân hàng hoạt động an toàn và hiệu quả. Đối với thương mại quốc tế việc áp dụng chính xác các quy tắc, chuẩn mực quốc tế là điều kiện đảm bảo an toàn cho bản thân doanh nghiệp và ngân hàng phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu. Vì vậy, việc lựa chọn các hình thức tài trợ mà cụ thể là cho vay xuất nhập khẩu của các ngân hàng thương mại là rất quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu._. thu được lợi nhuận nhưng phải an toàn của ngân hàng. Hiện nay, có rất nhiều hình thức cho vay xuất nhập khẩu mà các ngân hàng có thể lựa chọn sao cho phù hợp với năng lực tài chính, chiến lược phát triển của ngân hàng đồng thời tăng khả năng thích ứng của hoạt động ngân hàng với xu thế phát triển chung của toàn hệ thống kinh tế nói chung và hoạt động thương mại quốc tế nói riêng.
1.2.2 Hình thức cho vay nhập khẩu của Ngân hàng thương mại
1.2.2.1 Cho vay ký quỹ mở L/C
Ký quỹ là một quy định của ngân hàng phát sinh trong trường hợp khách hàng xin được bảo lãnh. Khách hàng sẽ phải nộp một khoản tiền nhất định vào tài khoản của họ tại Ngân hàng mà họ xin được bảo lãnh và khoản tiền đó sẽ được phong toả cho đến khi nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng chấm dứt, thường khoản tiền này được tính tỷ lệ với giá trị mà khách hàng xin bảo lãnh. Trong trưòng hợp thiếu sự tin cậy hoặc hiệu quả thương vụ tiềm ẩn rủi ro cao, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng ký quỹ 100% giá trị mà khách hàng xin bảo lãnh.
Việc ký quỹ có ý nghĩa sau đây:
Ký quỹ nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng trong quá trình thực hiện bảo lãnh cho khách hàng. Trường hợp ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ trả thay cho người được bảo lãnh, tiền ký quỹ sẽ được sử dụng trước để thanh toán cho người thụ hưởng bảo lãnh, phần còn lại ngân hàng mới dùng vốn của mình thanh toán sau.
Ký quỹ nhằm khẳng định khách hàng có năng lực nhất định về vốn và ràng bộc khách hàng làm tròn nghĩa vụ của người được bảo lãnh. Trong trường hợp bảo lãnh, thường có quy định tiền ký quỹ của khách hàng sẽ bị mất khi khách hàng vi phạm hợp đồng đã ký với ngân hàng.
Trong thanh toán quốc tế, khách hàng phải thực hiện ký quỹ khi đề nghị ngân hàng phát hành thư tín dụng, xác nhận tín dụng thư hoặc bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn nước ngoài. Trên cơ sở phân tích năng lực tài chính, hiệu quả của phương án kinh doanh và uy tín của khách hàng đối với ngân hàng, các ngân hàng có thể xem xét một khoản vay cho các doanh nghiệp để ký quỹ. Cho vay ký quỹ là hình thức tài trợ nhập khẩu bởi tính rủi ro của thương vụ quá cao ngân hàng yêu cầu khách hàng ký quỹ với giá trị lớn mà khả năng doanh nghiệp không đáp ứng được hoặc chỉ đáp ứng một phần. Cho vay ký quỹ vừa giải quyết được khó khăn về vốn lưu động cho khách hàng, tăng tính an toàn và mang lại hiệu quả cho ngân hàng, vừa đảm bảo tuân thủ những quy định pháp lý của ngân hàng về ký quỹ bảo lãnh. Tuy nhiên, chỉ nên cho vay ký quỹ đối với khách hàng thực hiện việc bảo lãnh và thanh toán qua chính ngân hàng cho vay.
1.2.2.2 Cho vay dành cho người đặt hàng và hiệp định khung tài trợ nhập khẩu
Cho vay đối với người đặt hàng là cho vay đối với người nước ngoài đặt mua hàng hoá, hoặc các dịch vụ trong nước nhằm thanh toán cho hàng hoá và các dịch vụ này. Đây là hình thức tài trợ của những nước muốn khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu của nước mình, hình thức này phổ biến ở các nước phát triển. Một trong những hình thức cho vay đối với khách hàng nhập khẩu là các ngân hàng ký hiệp định khung tài trợ ký hiệp định khung với các ngân hàng và chính phủ nước ngoài đồng ý cung ứng cho các ngân hàng và chính phủ nước này những khoản vay riêng, nhằm tài trợ cho việc nhập khẩu máy móc, thết bị, hàng hoá, dây chuyền công nghệ từ nước tài trợ.
• Đối với nhà xuất khẩu, hình thức cho vay này có ý nghĩa:
Hạn chế rủi ro do bên nhập khẩu ngừng trệ thanh toán.
Tránh được khó khăn đối với cán cân thanh toán
Cạnh tranh với đối thủ ở nước ngoài.
• Đối với nhà nhập khẩu, hình thức cho vay này có ý nghĩa:
Có thể thanh toán từng phần cho cả công trình, thiết bị đã nhập khẩu.
Có thể tận dụng được lãi suất thấp ở nước xuất khẩu.
1.2.2.3 Cho vay thanh toán hàng nhập khẩu
Theo hình thức này, khách hàng phải lập phương án sản xuất kinh doanh mang tính khả thi cho lô hàng nhập về phục vụ sản xuất kinh doanh. Đồng thời, khách hàng phải lên kế hoạch tài chính nhằm xác định khả năng thanh toán thì đến thời điểm thanh toán dự kiến, xác định khoản thiếu hụt cần ngân hàng tài trợ. Trên cơ sở xem xét, phân tích kế hoạch và phương án của khách hàng ngân hàng sẽ ra quyết định tài trợ và xác định mức ngân hàng chấp nhận tài trợ. Tất cả các công đoạn này phải được thực hiện trước khi bộ chứng từ giao hàng của người xuất khẩu về đến ngân hàng dứng ra tài trợ. Trường hợp bộ chứng từ giao hang đã về rồi khách hàng mới xin tài trợ thanh toán, thì khả năng bị ngân hàng từ chối là rất lớn vì ngân hàng có rất ít thời gian xem xét bộ chứng từ cũng như đánh giá khả năng hoàn vốn của khách hàng cho khoản tiền mà ngân hàng tài trợ. Khi hàng hoá, bộ chứng từ về đến nơi, nhà nhập khẩu có thể nhận được sự tài trợ của ngân hàng thông qua hình thức cho vay thanh toán L/C trong trường hợp L/C trả ngay, hoặc ngân hàng thay mặt nhà nhập khẩu ký chấp nhận thanh toán trên hối phiếu trong trường hợp L/C trả chậm.
1.2.3 Hình thức cho vay xuất khẩu của Ngân hàng thương mại
1.2.3.1 Cho vay dưới hình thức chuyển sở hữu L/C
Thư tín dụng không những là công cụ đảm bảo thanh toán mà còn là một công cụ tín dụng. Nó có thể phục vụ trong nhiều mối liên quan như là một phương tiện trong hoạt động cho vay xuất khẩu.
Về cơ bản một thư tín dụng trả chậm được sử dụng như là một phương tiện để đi vay. Số tiền trên thư tín dụng này không phải trả ngay lập tức mà theo thời hạn quy định trên đó.
Doanh nghiệp xuất khẩu là người được hưởng L/C. Họ có thể nhận được tiền dưới hình thức chuyển nhượng toàn bộ quyền thụ hưởng L/C cho ngân hàng cho vay trước khi L/C được thanh toán. Thông thường các ngân hàng mua với giá khỏng 70%-80% giá trị L/C. Khi L/C được thanh toán là lúc ngân hàng thu nợ. Để hạn chế rủi ro nảy sinh, ngân hàng đồng ý cho vay chỉ cho vay loại L/C không huỷ ngang và L/C trả chậm có xác nhận.
1.2.3.2 Cho vay thu mua hàng xuất khẩu
Hình thức này được tiến hành trước khi giao hàng, thông thường được áp dụng trong trường hợp ngân hàng tài trợ vừa là ngân hàng thanh toán cho L/C xuát, nhà xuất khẩu trình bộ chứng từ và được thanh toán tại Ngân hàng. Để giám sát chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay đúng mục đích, thông thường ngân hàng thực hiện tài trợ như sau:
Khi vay ngân hàng yêu cầu nhà xuất khẩu phải có một số vốn nhất định cộng thêm với số tiền vay ngân hàng để thu mua hàng hoá chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu, hàng hoá sẽ làm tài sản đảm bảo để tiếp tục vay và được nhập kho tại ngân hàng, hoặc nhập kho mà trước đó ngân hàng và nhà xuất khẩu thoả thuận và đồng ý, dưới sự giám sát của ngân hàng, nhà xuất khẩu muốn xuất hàng ra khỏi kho phải có sự đồng ý của ngân hàng. Ngân hàng tiếp tục cho vay, khách hàng sẽ dùng số tiền ngân hàng tài trợ để đi mua hàng, chế biến sản xuất hàng hoá tiếp tục cứ như vậy cho đến khi bằng 100% trị giá hàng xuất. Thông thường ngân hàng chỉ cho vay khoảng 70% giá trị lô hàng xuất khẩu.
Sau khi giao hàng xong nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ phù hợp với những điều kiện quy định trong L/C nộp vào ngân hàng để xin thanh toán tiền. Trên hối phiếu đòi nợ ngân hàng sẽ là người hưởng lợi trực tiếp trên hối phiếu. Ngân hàng kiểm tra bộ chứng từ hợp lý chuyển ra nước ngoài đòi nnợ từ phía ngân hàng mở L/C. Khi nhận được tiền từ phía ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo L/C ghi Có trên tài khoản cho vay để thu nợ. Trường hợp giữa ngân hàng mở và ngân hàng thông báo L/C là đại lý có mở tài khoản tiền gửi cho nhau, việc thực hiện thanh toán bộ chứng từ để thu nợ được tiến hành nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng nên ngân hàng có thể tài trợ mức lãi xuất ưu đãi thấp hơn mức lãi xuất bình thường.
Khi ngân hàng tài trợ không phải là ngân hàng thông báo cũng không phải là ngân hàng thanh toán, rủi ro có thể xảy ra nếu như doanh nghiệp được tài trợ không xuất được hàng hoặc xuất được hàng nhưng gặp rủi ro trong giao nhận hàng hay thanh toán, hoặc khách hàng không dùng số tiền trên vào mục đích xuất hàng như đã cam kết với ngân hàng.
1.2.3.3 Tạm ứng cho nhà xuất khẩu
Các doanh nghiệp xuất khẩu sau khi xuất hàng cho nhà nhập khẩu thường phải mất một thời gian khá dài mới được thanh toán, trong khi đó do nhu cầu sản xuất kinh doanh đòi hỏi nhà xuất khẩu phải tìm kiếm ngồn vốn khác bổ sung, trong tình huống đó các ngân hàng có thể hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu thông qua cá khoản tạm ứng. Đây là hình thức cho vay đối với doanh nghiệp xuất khẩu trước khi bộ chứng từ được thanh toán.
Đối vối cho vay ứng trước loại này, những giấy tờ như vận đơn, hoá đơn thương mại, hợp đồng bảo hiểm... đều có thể là những vật cầm cố cho ngân hàng. Do đó, tất cả những giấy tờ có giá theo lệnh đều phải có lệnh để không chuyển nhượng cho ngân hàng cấp cho vay ứng trước. Một khi những giấy từ có giá trên không cho phếp chuyển nhượng thì người vay vốn phải sử dụng những hìn thức khác.
Tỷ lệ ứng trước phụ thuộc vào các yếu tố sau:
• Khả năng thanh toán của doanh nghiệp xuất khẩu.
• Khả năng cạnh tranh của hàng hoá và giá trị của hàng hoá xuất khẩu.
• Chính sách kinh tế và chính trị của nước nhập khẩu đối với ngân hàng xuất khẩu
• Những rủi ro tỷ giá hối đoái ( đối với ngân hàng nhập khẩu ).
Các yếu tố ảnh hưởng đén việc nâng cao hiệu quả cho vay xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại
Hoật động cho vay xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại được xem là mở rộng thể hiện ở mọt số chỉ tiêu:
Doanh số cho vay xuất nhập khẩu tăng lên qua các năm.
Số lượng khách hàng hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương có quan hệ giao dịc tăng lên.
Chủng loại mặt hàng được phép xuất nhập khẩu được ngân hàng chấp thuận cho vay ngày càng đa dạng và không ngừng tăng.
Dư nợ cho vay qua các năm có sự tăn trưởng.
Mở rộng cho vay đối với nhứng khách hàng có quan hệ uy tín nhừm đáp ứng tối đa nhu cầu vốn của họ từng bước thu hút khách hàng quan hệ với riêng ngân hàng mình đồng thời sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng và củng cố sự tin tưởng giữa đôi bên làm cơ sở giảm tính cạnh tranh với ngân hàng khác.
Các yếu tố chủ quan
1.3.1.1 Chiến lược phát triển của ngân hàng
Chiến lược phát triển của ngân hàng là yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển của nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng. Trên cơ sở đánh giá, dự báo biến động thực tiễn, ban lãnh đạo ngân hàng sẽ phải đưa ra các chiến lược phát triển khác nhau điều chỉnh các hoạt động nghiệp vụ của mình, các chính sách ưu đãi với từng nhóm khách hàng mục tiêu, từng khu vực ngành nghề, từng loại hình dịch vụ nhất định một cách thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ tạo đà cho sự phát triển, ngược lại,nó sẽ trở thành rào cản cho việc thích ứng với những biến động thị trường từ đó gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung của ngân hàng. Vi vậy, để hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay xuất nhập khẩu nói riêng đảm bảo luôn ổn định, an toàn và tăng trưởng đòi hỏi ban lãnh đạo ngân hàng phải đề ra được một chiến lược kinh doanh hiệu quả, vận hàn một cách trôi chảy và luôn điều chỉnh để phù hợp với những biến đọng bất thường.
Hoạt động kinh doang trong nền kinh tế thị trường với xu hướng phát triển mạnh mẽ các quan hệ kinh tế quốc tế trong đó hoạt động xuất nhập khẩu giữ vai trò trung tâm, các ngân hàng thương mại không thể không quan tâm đến mảng thị trường các doanh nghiệp thương mại kinh doanh xuất nhập khẩu. Từ khi Đảng thực hiện chính sách đổi mới nền kinh tế với chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu và nhập khẩu những mặt hàng trong nước chưa có khả năng tự sản xuất nó đã trở thành động lực để các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động ngoại thương. Trước thực tế, tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp còn nhỏ bé như hiện nay thì việc nhận được các khoản vay từ ngân hàng là sự hỗ trợ rất quan trọng để bổ sung phần vốn còn thiếu hụt. Ngược lại, hệ thống ngân hàng không phải không nhận thấy những lợi ích mà học có thể thu được từ hoạt động này. Tuy nhiên, hoạt động cho vay xuất nhập khẩu có thực sự được mở rộng hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào định hướng phát triển của ngân hàng. Nếu một ngân hàng coi trọng cho vay xuất nhập khẩu, có định hướng, chính sách cho vay cụ thể nhằm tạo điều kiện đối với lĩnh vực này tất yếu nó sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc mở rộng quy mô cho vay. Ngược lại, khi ngân hàng chỉ quan tâm đến các ngành kinh tế khác, còn tâm lý e ngại rủi ro khi cho vay xuất nhập khẩu thì chắc chắn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn khi có nhu cầu vay vốn. Hoạt động ngoại thương có sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, bất cứ doanh nghiệp nào có đủ khả năng và được cấp giấy phép hoạt động xuất nhập khẩu của Bộ thương mại cũng có quyền tham gia hoạt động này, vì vậy việc mở rộng cho vay của ngân hàng đối với lĩnh vực này cũng bao hàm một chính sách mở rộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là bộ phận các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoạt động xuất nhập khẩu chịu tác động của nhiều yếu tố nên những doanh nào có khả năng đánh giá thị trường, nhanh nhạy với những biến động xảy ra thì mới có cơ hội tồn tại và phát triển, mà điều này đôi khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm tốt hơn doanh ngiệp nhà nước. Như vậy, việc mở rộng cho vay xuất nhập khẩu của ngân hàng chỉ có kết quả tốt khi có sự kết hợp với nhiều chính sách khác vừa có lợi cho ngân hàng vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh ổn định và có hiệu quả.
Cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ của đội ngũ cán bộ ngân hàng
Đặc trưng quan trọng nhất của hoạt động cho vay xuất nhập khẩu là phải tuân thủ các chuẩn mực mang tính quốc tế cho nên một ngân hàng thương mại dù quy mô lớn đến đâu, phát triển ở mức nào cũng phải thường xuyên quan tâm hiện đại hoá cơ sở vật chất, nâng cao trình độ của cán bộ nhân viên mình.
Thực tế cho thấy các ngân hàng hàng năm phải chi một khoản vốn rất lớn cho trang thiết bị hệ thống máy tính, đổi mới, nâng cấp các thiết bị viễn thông, cập nhật các chương trình xử lý dữ liệu cũng như các công nghệ ngân hàng hiện đại khác nhờ đó mới đảm bảo sự thông suốt của các hoạt động nghiệp vụ.
Do môi trường làm việc là các hoạt động thương mại quốc tế có biến động nhanh chóng, quy trình nghiệp vụ phức tạp, các phương tiện tài chính quy định chặt chẽ đến từng chi tiết dưới ngôn ngữ nước ngoài ( chủ yếu là tiếng Anh và Pháp ), cho nên yêu cầu bắt buộc với cán bộ tín dụng khi thẩm định một món vay liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu là phải am hiểu về luật lệ quốc tế và thông thạo ngôn ngữ để xem xét tính hợp lệ của các bản hợp đồng ngoại viết bằng tiếng nước ngoài. Bên cạnh đó, khả năng làm chủ được máy móc hiện đại, giỏi về chuyên môn, cập nhật các thông tin về những biến động thị trường của đội ngũ cán bộ giúp họ đánh gía tính khả thi của dự án từ đó ra quyết định có cho vay hay không. Chỉ có như vậy thì ngân hàng mới đáp ứng được yêu cầu của khách hàng với mục đích tìm đén ngân hàng không chỉ muốn được cho vay mà còn muốn nhận được những lời tư vấn giúp đỡ của cán bộ ngân hàng để tránh rủi rôch cả ngân hàng và doanh nghiệp. Một đội ngũ cán bộ không chỉ giỏi chuyên môn mà còn có khả năng phân tích thị trường, thường xuyên cập nhật thông tin để có thể tư vấn cho khách hàng là yếu tố quan trọng để ngân hàng thực hiện mục tiêu đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Đối với nghiệp vụ cho vay xuất nhập khẩu đòi hỏi người cán bộ tín dụng ngoài khả năng thẩm định phương án kinh doanh chính xác, kiểm tra tính hợp lệ của các điều khoản trong hợp đồng ngoại kết hơp với phân tích hợp đồng tiêu thụ trong nước còn phải nắm bắt sự biến động các mặt hàng trên thị trường từ đó đi đến quyết định có cho vay hay không. Bên cạnh đó, phải có sự kết hợp giữa cán bộ phòng tín dụng với cán bộ phòng thanh toán quốc tế để kịp thời giải quyết những phát sinh xảy ra, nhanh chóng giúp khách hàng giải quyết vấn đề khó khăn hạn chế tổn thất tối đa cho khách hàng đông fthời tạo thêm uy tín của ngân hàng với khách hàng.
Yếu tố con người bao giờ cũng giữ vị trí trọng yếu với mọi hoạt động kinh tế và hoạt động ngân hàng hiện nay đòi hỏi người cán bộ phải hội đủ các tố chất về đạo đức, chuyên môn mới phục vụ khách hàng một cách chu đáo, có hiệu quả. Chiến lược mở rộng cho vay xuất nhập khẩu chỉ được đề ra và đạt được kết quả như mong muốn phải xuất phát từ năng lực thực tế của đội ngũ cán bộ nếu không nó sẽ trở nên quá tải, gây áp lực cho người cán bộ tín dụng khi đó mục tiêu đề ra chẳng những không thực hiên được mà có thể mang lại rủi ro cho ngân hàng.
Các yếu tố khách quan
Hoạt động xuất nhập khẩu cũng như các hoạt động kinh tế khác bao giờ cũng chịu tác động của yếu tố thị trường như: hệ thống luật pháp, chính sách vĩ mô của nhà nước, cơ chế điều hành của các bộ ngành trực tiếp quản lý.... Vì vậy, trong từng giai đoạn khác nhau sự thay đổi yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động ngoại thương và tất yếu tác động đến chính sách cho vay của ngân hàng với hoạt động này. Trong đó, hai yếu tố có tác động mạnh nhất là chính sách thương mại của Nhà nước và các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước.
1.3.2.1 Chính sách thương mại của nhà nước
Trong từng thời kỳ khác nhau mỗi nước sẽ đề ra những chính sách thương mại phù hợp với tình hình thực tế và nó tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia hoạt động này. Đặc biệt đối với lĩnh vực thương mại quốc tế chịu ảnh hưởng lớn không chỉ từ những biến động trong nước mà còn chịu tác động mạnh từ những thay đổi của môi trường kinh tế quốc tế. Các công cụ chính sách thương mại thường được sử dụng là:
Những hạn chế về số lượng nhập khẩu: Những biện pháp như cấp giấy phép nhập khẩu hay cấm nhập khẩu được sử dụng để hạn chế nhập khẩu nhằm bổ sung hay thay thế cho bảo hộ bằng thuế quan, và tạo ra mức độ bảo hộ cao hơn. Những biện pháp như vậy thường nhằm cả hai mục đích: cân bằng cán cân thanh toán và khuyến khích sản xuất công nghiệp trong nước phát triển. Nhưng trong thực tế rất khó thực hiện một cách có hiệu quả, và nhiều lúc lại có hại đối với hiệu quả của ngành công nghiệp.
Việc cấm nhập khẩu hoàn toàn một loại sản phẩm công nghiệp tương tự sản phẩm sản xuất trong nước làm giảm sức cạnh tranh về giá, về chất lượng, về thời hạn cung ứng. Hạn chế số lượng nhập khẩu gây ra nhiều vấn đề phức tạp hơn hạn chế bằng thuế. Trong trường hợp này các doanh nghiệp thực hiện nhập khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn đặc biệt đối với mạt hàng trong danh sách cấm nhập khẩu của nhà nước, khi đó ngân hàng có thể chuyển hướng sang các doanh nghiệp xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu vốn của họ và phải quan tâm đến những cơ chế ưu đãi của nhà nước nhằm khuyến khích doanh nghiệp tăng cường xuất khẩu mang lại nguồn thu cho đất nước. Tuy nhiên, nhu cầu nhập khẩu máy móc, thiết bị kỹ thuật cao có xu hướng tăng lên để đáp ứng việc sản xuất các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu trong nước. Vì vậy, chủng loại mặt hàng nhập khẩu giảm đi nhưng giá trị nhập khẩu vẫn có thể tăng lên và cần sự hỗ trợ tài chình nhiều hơn của ngân hàng, do đó việc xem xét mở rộng cho vay của ngân hàng vẫn có thể thực hiện.
Các chính sách chủ yếu thường được sử dụng để khuyến khích xuất khẩu là: Trợ cấp cho các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu, cung cấp các khoản vay với lãi suất thấp, miễn một phần hay toàn bộ thuế lợi nhuận thu được từ xuất khẩu. Trợ cấp các khoản vay với lãi suất thấp, miễn một phần hay toàn bộ thuế lợi nhuận thu được từ xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu khó quản lý và có thể bị trả đũa của các nước nhập khẩu. Vì vậy, khuyến khích tín dụng và miễn thuế thường thích hợp hơn, khi đó các ngân hàng phải nhanh chóng điều chỉnh chính sách cho vay của mình cho phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của nhà nước. Sự bảo đảm của nhà nước bao giờ cũng có tính an toàn cao nhất cho hạot động ngân hàng, vì vậy lúc này một chính sách mở rộng cho vay xuất khẩu của ngân hàng cần được thực hiện vì nó không chỉ có lợi cho ngân hàng mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt các cơ hội đầu tư có hiệu quả.
Các công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước
Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái có mối quan hệ mật thiết với các hình thức mậu dịch của một nước. Tỷ giá hối đoái quá cao, không phản ánh tình hình cán cân thanh toán dài hạn của đất nước, sẽ khuyến khích nhập khẩu, làm cho hàng hoá nhập khẩu rẻ hơn, vì thế nó luôn luôn đi kèm với mức thuế quan rất cao, hoặc với các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu hoặc cả hai biện pháp đó. Ngược lại, một chính sách tỷ giá hối đoái thấp để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu sẽ tạo đà cho các doanh nghiệp đã có thị trường tieu thụ ổn định có nhu cầu vốn tăng lên và sự hỗ trợ của ngân hàng là rất cần thiết để doanh nghiệp thực hiện chính sách của nhà nước.
Chính sách tiền tệ: ổn định tiền tệ là một điều kiện để tăng mạnh dầu tư vào công nghiệp. Tuy nhiên, không nên hy sinh tăng trưởng để đạt được ổn định tuyệt đối của giá cả. Các nhà doanh nghiệp có vẻ phát đạt hki giá cả tăng lên từ từ, nhưng khi tỷ lệ lạm phát gia tăng thi sự rủi ro trong kinh doanh cũng tăng lên, và toàn bộ cơ cấu kinh doanh có thể bị nguy hại. Khi đó buộc phải tiến hành các biện pháp cho phép như: Đánh giá lại vốn cho phù hợp với sự mát giá của đồng tiền nhằm tránh sự xói mòn nó, tỷ giá hối đoái cần giảm xuống thường xuyên, tiền lương và các khoản thanh toán cố định phải xem xét lại một cách thường xuyên. Nếu không thực hiện các biện pháp đó thì những xí nghiệp công nghiệp được lợi trong giai đoạn đầu của thời kỳ lạm phát do nhận được các khoản vay với lãi suất thấp và có thị trường cung ổn định sẽ đóng cửa.
Công cụ lãi suất và tỷ giá hối đoái cũng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng có tác đọng đến việc thu hút các khoản tiền tiết kiệm còm tạm thời nhàn rỗi, tạo nguồn vốn cho đầu tư. Do đó để tăng vốn đầu tư phát triển sản xuất cần xác định lãi suất thích hợp, đảm bảo lãi suất thực tế dương cho người gửi và đảm bảo lợi nhuận so với chi phí cơ hội cho các nhà đầu tư. Việc xác định tỷ giá lại có tác động điều hoà hoạt động xuất nhập khẩu. Khi giảm giá đồng tiền trong nước sẽ làm cho hàng hoá xuất khẩu sang nước khác rẻ hơn và hàng hoá nhập khẩu vào sẽ đắt hơn, do đó có tác động tích cực đến xuất khẩu hàng hoá. Ngược lại, khi tăng giá đồng tiền trong nứoc thì hàng hoá xuất khẩu sang nước khác đắt hơn, hàng hoá nhập khẩu vào trong nước rẻ hơn sẽ tao thuận lợi cho nhập khẩu và kích thích tiêu dùng trong nước
Chương II: Thực trạng cho vay xuất nhập khẩu tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội
2.1 Giới thiệu về ngân hàng nông và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
a. Lịch sử hình thành
Thành lập ngày 26/3/1988, hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng Việt Nam, đến nay Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam là Ngân hàng thương mại hàng đầu giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trong đầu tư vốn phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng như đối với các lĩnh vực khác của nền kinh tế Việt nam. Là Ngân hàng lớn nhất Việt Nam cả về vốn, tài sản, đội ngũ cán bộ nhân viên, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng. Đến cuối năm 2003, vốn tự có của NHNo & PTNT VN là 5200 tỉ VNĐ. Tổng tài sản có trên 1200 nghìn tỉ VNĐ, 1800 chi nhánh được bố trí rộng khắp trên toàn quốc với 28000 cán bộ công nhân viên. Ngân hàng luôn chú trọng đầu tư đổi mới và ứng dụng công nghệ ngân hàng phục vụ đắc lực cho công tác kinh doanh và phát triển mạng lưới dịch vụ ngân hàng tiên tiến.
Đứng trước tình hình đổi mới của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng tăng, Ngân hàng đã mở rộng mạng lưới hoạt động, đa dạng hoá các dịch vụ Ngân hàng từ đó NHNo &PTNT VN đã thành lập thêm nhiều chi nhánh trên cả nước đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,Huế , Gia Lai…Trên địa bàn Hà Nội ngày 27/6/1988 căn cứ theo quyết định số 51/QĐ-NH của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã qyuết định thành lập chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hà Nội
-Tên viết tắt : NHNo & PTNT Hà Nội
-Tên giao dịch : Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông
thôn Hà Nội
-Tên giao dịch quốc tế : VietNam Bank for Agriculture and Rural
Development HaNoi branch
-Trụ sở chính : Số 77 Lạc Trung – Hai Bà Trưng – Hà Nội
Tổng nguồn vốn khi thành lập là 18tỉ VNĐ, dư nợ 10 tỉ VNĐ và biên chế cho 1182 cán bộ công nhân viên. Nằm trên diện tích đất gần 1000m2 Ngân hàng gồm hai khu nhà bốn tầng chia thành hai khu; khu phía trước chủ yếu dùng để giao dịch với khách hàng và bao gồm một số phòng quan trọng như: phòng Giám đốc, phòng Phó giám đốc, phòng tổ chức cán bộ…,khu phía sau gồm một số phòng còn lại và khu nhà để xe cho cán bộ nhân viên, nhà kho, nhà ăn. Ngay từ khi thành lập chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội đã được phép thực hiện mọi hoạt động kinh doanh, được thanh toán trong và ngoài nước, tham gia các hoạt động mua bán ngoại tệ. Ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng trên địa bàn Hà Nội, đóng vai trò tao lập vốn tập chung cho vay các thành phần kinh tế trong và ngoài quốc doanh cung cấp các loại hình dịch vụ Ngân hàng hiện đại, đáp ứng nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn thủ đô, góp phần thực hiện các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của hệ thống NHTM quốc doanh. Là ngân hàng đầu tiên hoàn thành giai đoạn 1 của Dự án hiện đại hoá hệ thống thanh toán khách hàng ( IPCAS ) do Ngân hàng thế giới tài trợ. Hiện nay Ngân hàng đã kết nối mang vi tính từ trụ sở chính đến hàu hết các chi nhánh trên toàn quốc và một hệ thống các dịch vụ Ngân hàng gồm dịch vụ chuyển tiền điện tử, dịch vụ thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, dịch vụ ATM, dịch vụ thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT. Đến nay NHNo & PTNT VN đã hoàn toàn có đủ năng lực cung ứng các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng hiện đại tiên tiến cho mọi đối tượng khách hàng trong và ngoài nước.
Với tư cách là một chi nhánh trực thuộc NHNo & PTNT VN, chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội là một đại diên được uỷ quyền của NHNo & PTNT VN, có quyền tự chủ kinh doanh và phải chịu sự rầng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi với NHNo & PTNT VN. Về pháp lí chi nhánh có con dấu riêng, có quyền ký kết các hợp đồng kinh tế, dân sự, chủ động kinh doanh, tổ chức nhân sư theo phân cấp uỷ quyền của NHNo & PTNT VN. Sau 15 năm hoạt động NHNo & PTNT Hà Nội đã tự hoàn thiện mình, luôn phát huy những kinh ngiệm, biết tiếp thu, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm để phát triển kinh doanh có lãi.
b. Quá trình phát triển
Khi mới thành lập chi nhánh, cơ cấu tổ chức chỉ gồm có 6 phòng ban là: phòng Tín dụng, phòng Kế hoạch, phòng Tiền tệ kho quỹ, Văn phòng, phòng Tổ chức cán bộ, phòng Tiết kiệm và Nguồn vốn. Mạng lưới khi đó bao gồm 12 chi nhánh Ngân hàng huyện trực thuộc bao gồm các chi nhánh Ngân hàng huyện: Đông Anh, Thanh Trì, Gia Lâm, Từ Liêm, Mê Linh, Sóc Sơn, HoàI Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Sơn Tây, Phúc Thọ, Ba Vì. Đến nay, tại trụ sở chính có 11 phòng gồm: phòng Tổ chức các bộ, phòng Hành chính, phòng Tín dụng, phòng Thẩm định, phòng Kinh doanh ngoại tệ và Thanh toán quốc tế, phòng Vi tính, Tổ kiểm tra kiểm toán nội bộ, Tổ tiếp thị, phòng Kế toán ngân quỹ, Tổ thẻ, phòng Kế hoạch và tổng hợp.
Tháng 9/1991 chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội tách Ngân hàng huyện bàn giao về trực thuộc chi nhánh Ngân hàng Hà Tây bao gồm các chi nhánh: Hoài Đức, Thạch Thất, Ba Vì, Sơn Tây, Đan Phượng, Phúc Thọ và 1 chi nhánh Mê Linh bàn giao về Vĩnh Phúc.
Tháng 10/1995 Sau khi NHNo & PTNT VN đổi mới và hoàn thiện mô hình tổ chức với hoạt động thí điểm quản lí theo mô hinnhf hai cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Các chi nhánh Ngân hàng cấp huyện chịu sự quản lí của NHNo & PTNT VN, NHNo & PTNT Hà Nội chỉ quản lí các chi nhánh ở các quận nội thành. NHNo & PTNT Hà Nội đã tách 5 Ngân hàng huyện ngoại thành ( chi nhánh cấp 3 ) về trực thuộc trung tâm điều hành gồm các chi nhánh: Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm, Sóc Sơn. . Các Ngân hàng cấp III này thực chất là các cơ sở giao dịch được thành lập để thu hút nguồn vốn và làm tăng quy mô hoạt động của Ngân hàng. Hoạt động thí điểm này đã tạo lên một bước ngoặt trong hình thức quản lý của NHNo &PTNT Hà Nội từ chủ yếu tập trung kinh doanh ở ngoại thành chuyển về tập trung kinh doanh ở nội thành với một cơ cấu tổ chức bao gồm các phòng ban và Ngân hàng cấp III.
Ra đời trong hoàn cảnh đất nước đang trong tiến trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đạ hoá và bước đầu có những chuyển mình mạnh mẽ cùng với sự vươn lên khẳng định vai trò của hệ thống Ngân hàng trong nền kinh tế, trong suốt chặng đường 15 năm của mình NHNo & PTNT Hà Nội đã và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trong những năm qua, sau khi tách chuyển các chi nhánh huyện ngoại thành về trực thuộc Ngân hàng Nông Nghiệp Việt Nam, NHNo & PTNT Hà Nội đã nhanh chóng tiến hành mở rộng mạng lưới các chi nhánh tại các quận nội thành.
- Năm 1994 thành lập chi nhánh Chợ Hôm
- Năm 1995 thành lập chi nhánh Đồng Xuân nay là chi nhánh Hoàn Kiếm và chi nhánh Thanh Xuân.
- Năm 1996 thành lập chi nhánh Tây Hồ, Giảng Võ nay là chi nhánh Ba Đình
- Năm 1997 thành lập chi nhánh Quận Cầu Giấy
- Năm 1999 thành lập chi nhánh quận Đống Đa
- Năm 2002 thành lập chi nhánh Tràng Tiền, Chương Dương
- Năm 2003 thành lập thêm một chi nhánh Chợ Hôm nằm tại 13- 14- 15 Trần Xuân Soạn, chi nhánh Hàng Đào, Nghĩa Đô
- Tháng 12/2004 NHNo & PTNT Hà Nội tách 2 chi nhánh Tây Hồ bàn giao về chi nhánh Quảng An, chi nhánh Chương Dương bàn giao về chi nhánh Long Biên.
- Tháng 5/2005 thành lập chi nhánh Trần Duy Hưng.
Tính đến ngày 31/12/2005 mạng lưới hoạt động của chi nhánh đã phát triển nhanh chóng. Toàn thành phố có một chi nhánh cấp 1, 12 chi nhánh cấp hai trực thuộc và có 44 phòng giao dịch trên toàn thành phố.
Hệ thống trang thiết bị của ngân hàng ngày càng được nâng cao. Mỗi nhân viên được trang bị một máy tính riêng, các máy tính đều được nối mạng.
2.1.1.1 Cơ cấu tổ chức
Chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội căn cứ vào tính chất đặc điểm và chức năng trong chỉ đạo, điều hành thực hiện các ngiệp vụ kinh doanh trên địa bàn hoạt động. Khi mới thành lập cơ cấu tổ chức của Ngân hàng còn rất đơn giản. Nhưng từ đó đến nay, chi nhánh đã không ngừng đổi mới cơ cấu nhằm đạt được một mạng lưới hoạt động phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Mô hình bộ máy của chi nhánh
Giám đốc
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Phòng kinh doanh
Phòng tín dụng
Phòng thẩm định
Phòng KDNT và TTQT
Phòng vi tính
Tổ tiếp thị
Phòng
kế toán ngân quỹ
Phòng tổ chức hành chính
Phòng ki._.t triển kinh doanh của ngành từ đó xác định được chiến lược kinh doanh, tạo hướng đi đúng, phù hợp cho ngân hàng. Định ra kế hoạch phát triển cho từng năm, từng kỳ kế hoạch. Tuân thủ nguyên tắc trưởng dư nợ trên cơ sở an toàn, hiệu quả và vững chắc. Mở rộng đối tượng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng cường tiếp thị, nghiên cứu thẩm định năng lực của mọi đối tượng khách hàng trren địa bàn để thiết lập quan hệ tín dụng. Luôn coi trọng phong cách phục vụ và áp dụng lãi suất linh hoạt. Mở rộng hình thức cho vay như cho vay uỷ thác, cho vay đồng tài trợ một số các dự án lớn nhằm tăng trưởng tín dụng và đảm bảo an toàn tín dụng.
Những năm đầu thế kỷ 21 nền kinh tế Việt Nam cũng như toàn thế giới đã có bước tăng trưởng tương đối ổn định dù chịu ảnh hưởng của nhngx biến động về chính trị xã hội ở một số nơi. Hoạt động thương mại toàn cầu vẫn diễn ra sôi động và các thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn ổn định do đó kim ngạch xuất nhập khẩu của chúng ta vẫn tăng đều qua các năm, cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu đã có sự thay đổi và nhu cầu nhập máy móc thiết bị hàm lượng ký thuật cao đang có xu hướng tăng lên. Điều đó, đòi hỏi các doanh nghiệp khi nhập khẩu phải chuẩn bị một số vốn tương đối lớn từ vốn tự có và vốn đi vay. Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội với địa bàn hoạt động là thành phố Hà Nội nên có số lượng khách hàng tham gia hoạt động ngoại thương khá cao và các doanh nghiệp này thường xuyên có nhu cầu vốn đẻ thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Việc tạo lập những mối quan hệ thân thiện, tin tưởng lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng đã giúo cho quá trình xem xét, đánh giá phương án kinh doanh của cán bộ tín dụng trở nên nhanh chóng, an toàn bởi có thắc mắc gì có thể dễ dàng liên lạc trao đổi cùng giải quyết với khách hàng nhờ đó giảm thời gian chờ đợi của khách hàng đảm bảo thực hiện hợp đồng với khách hàng nước ngoài đúng hạn.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1 Những hạn chế
- Mặc dù đã hình thành quan hệ tín dụng với một số bạn hàng truyền thống có nhu cầu vay vốn để xuất nhập khẩu nhưng khả năng đáp ứng của Ngân hàng còn hạn chế nên số vốn các doanh nghiệp nà vay ở ngân hàng khác cũng rất cao.
- Hoạt động cho vay xuất nhập khẩu của ngân hàng chưa phát sinh nợ quá hạn nhưng vẫn có một khoản xin gia hạn nợ, điều này đòi hỏi đội ngũ cán bộ tín dụng cần quan tâm hơn nữa đến công tác kiểm tra sau đối với khách hàng vay vốn để xác minh việc sử dụng vốn của doanh nghiệp có hợp lệ và có hiệu quả hay không đồng thời phải thường xuyên hối thúc khách hàng trả nợ khi sắp hết hạn của khoản vay.
- Đối với hoạt động cho vay xuất nhập khẩu liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ thanh toán quốc tế và đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có vốn ngoại ngữ tương đối để hiểu chính xác những điều khoản trong hợp đồng ngoại. Tuy nhiên, thực tế hiện nay số lượng cán bộ tín dụng thành thạo ngoại ngữ vẫn chưa nhiều nên khi nhận được hợp đồng ngoại vẫn phải mất thời gian để nhờ bộ phận khách dịch sang tiếng việt.
- Số lượng khách hàng hoạt động xuất nhập khẩu có quan hệ tín dụng với ngân hàng có tưng lên hàng năm nhưng thủ tục cho vay, mức lĩa suất cho vay, mức cho vay vẫn có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Hiện nay, nhu cầu vốn trung, dài hạn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng khá lớn nhưng ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được do nguồn vốn trung và dài hạn còn hạn chế. Thực tế buộc các doanh nghiệp dù có quan hệ truyền thống với ngân hàng vẫn phải quan hệ với ngân hàng khác để tìm kiếm những nguồn vốn phù hợp với chu kỳ sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trên thực tế đó, ngân hàng cần có biện pháp tìm hiểu nhu cầu vốn thực tế của doanh nghiệp từ đó có phương án chuẩn bị nguồn vốn đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp ở mọi kỳ hạn. Thực hiện được điều đó ngân hàng không chỉ làm tăng thu nhập cho mình mà còn giữ được mối quan hệ lâu dài với những khách hàng truyền thống.
- Ngân hàng đã có nhiều cố gắng trong việc tự đào tạo đội ngũ cán bộ trong hệ thống tuy nhiên do trình độ đội ngũ cán bộ nhân viên không đồng đều nên vẫn tồn tại một thực trạng là sự phân bổ không đều số lượng công việc. Thực tế đó đã gây nhiều khó khăn cho những cán bộ phải quản lý một số lượng lớn khách hàng là đôi khi không đảm bảo tính chính xác trong nghiệp vụ gây chậm trễ trong việc giải ngân cho khách hàng.
- Công tác thẩm định của cán bộ tín dụng về năng lực tài chính của khách hàng, thẩm định dự án đầu tư còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo đánh giá được bản chất của toàn bộ hiện trạng để tè đó đưa ra những quyết định đầu tư một cách an toàn hiệu quả.
- Các thông tin về khách hàng có quan hệ tín dụng với Ngân hàng không đầy đủ. Khả năng cập nhật thông ti n chưa được chú trọng gây tình trạng không nắm bắt được diễn biến thị trường để đánh giá hiệu quả của phương án.
- Công tác đánh giá tài sản của ngân hàng còn nhiều bất cập, đặc biệt cới những tài sản có giá cả biến động như đất đai, nhà cửa... thì việc chỉ căn cứ mức giá quy định của chính phủ để định giá thì sẽ gây thiệt thòi cho doanh nghiệp vì thực tế việc mua bán đất đai vẫn diễn ra ngoài tầm kiểm soát của nhà nước.
2.3.2.2 Nguyên nhân
- Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến hạn chế trong cho vay xuất nhập khẩu là chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng còn non trẻ, số lượng cán bộ tín dụng được đào tạo đúng chuyên ngành ngân hàng còn hạn chế, đa số được bổ sung từ các bộ phận khác sang nên phải mất thời gian học viẹc và nâng cao chuyên môn đáp ứng yêu cầu ở vị trí mới.
- Một số doanh nghiệp đang trong quá trình sắp xếp lại : Cổ phần hoá, sát nhập, giải thể... việc bàn giao quyết toán vốn, trách nhiệm đối với những khoản công nợ chưa được phân điịnh rõ rang. Do vậy, việc thẩm định tình hình tài chính chỉ căn cứ váóo liệu do đưon vị cung cấp chưa đảm bảo độ chính xác từ đó ảnh hưởng tới chất lượng công tác thẩm định và xác định mức đầu tư tín dụng.
- Một số doanh nghiệp tự xây dựng dự án đầu tư tràn lan vốn tự có tham gia thấp chủ yếu là nguồn vốn đi vay, dự án không phát huy hiệu quả và không trả được nợ.
- Việc cung cấp thông tin của khách hàng đôi khi không chính xác đã gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc đánh giá năng lực tực sự của khách hàng dẫn đến ra quyết định không chuẩn xác gây thiệt hại cho ngân hàng hoặc khách hàng.
- Mặc dù Ngân hàng luôn chú trọng xác định khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một thị trường đầy tiềm năng mà ngân hàng cần hướng tới nhưng thực tế vẫn còn nhiều khó khăn, điều đó xuất phát từ cả hai phía Ngân hàng và khách hàng.
Phân tích thực trạng cho vay xuất nhập khẩu tại Ngân hàng trong 3 năm qua cho thấy những kết quả và hạn chế trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Qua đó khẳng định được vai trò những đóng góp quan trọng của ngân hàng trog việc thúc đẩy nền kinh tế đát nước phát triển theo hướng công nghiệp hoá hiẹn đại hoá. Để phát huy những kết quả đạt được và tìm biện pháp khắc phục những hạn chế trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động chovay xuất nhập khẩu nói riêng. Ngân hàng cần phối hợp giữ nhiều chính sách với mục tiêu rõ ràng và định hướng cụ thể. Việc tìm ra được hạn chế là quan trọng nhưng để khắc phục đựoc nó phụ thuộc vào nhiêu yếu tố mà yếu tố con người bao giờ cũng phải đặt lên hàng đầu, vì vậy chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cần được xác định ngay từ ban đầu, vì vậy chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phải được xác định ngay từ bây giờ để Ngân hàng có thể tồn tại và phát triển trong tương lai.
Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay xuất nhập khẩu tại ngân hàng
3.1 Định hướng hoạt động năm 2006
Chỉ tiêu: Năm 2006, trên cơ sở chỉ tiêu định hướng của ban giám đốc Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội trong năm 2006:
• Tiếp tục tăng trưởng nguồn vốn ổn định so với năm 2005, đặc biệt là nguồn vốn huy động từ dân cư.
• Nâng cao chất lượng tín dụng; mở rộng tín dụng theo hướng đầu tư có chọn lọc
• Phát triển sẩn phẩm dịch vụ, nâng cao chất lượng đi đôi với mở rộng các dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng.
Mục tiêu cụ thể
Chỉ tiêu
Đơn vị
TH 2005
KH 2006
So với 2006
+/-
%
1. Số lượng sản phẩm DV triển khai
- Sp DV mới
SP
SP
40
50
05
10
25
2. Số lượng khách hàng
- Số lượng khách hàng tăng thêm
Khách hàng
Khách hàng
80.000
30.000
100.000
20.000
20.000
-10.000
25
-30
3. Phát triển thị phần
- Tín dụng
- Nguồn vốn
- Dịch vụ (thẻ)
3.2
5.5
3.5
6.0
3.2 Giải pháp mở rộng cho vay xuất nhập khẩu tại ngân hàng
3.2.1 Các giải pháp về đào tạo cán bộ, hiện đại hoá ngân hàng
Hoạt động ngân hàng nói chung và cho vay nói riêng luôn đòi hỏi những cán bộ làm ngiệp vụ phải có đầy đủ những tố chất nhất định mới đảm đương được công việc. Vì vậy, vấn đề nhân lực bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh doanh của bất cứ ngân hàng nào hiện nay. Trước thực tế cán bộ làm công tác tín dụng tại Ngân hàng vùa thiếu về số lượng trình độ không đồng đều thì công tác đào toạ chuyên môn không thể không được quan tâm. Các giải pháp cụ thể:
- Duy trì công tác đào tạo tại chỗ, tham gia các khoá huấn luyện nghiệp vụ do ngành tổ chức, khuyến khích cán bộ tự học lớp nâng cao. Thay đổi mạnh mẽ và triệt để phong cách giao dịch với khách hàng, tạo lòng tin và uy tín tuyệt đối đối với hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nói chung và Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội nó riêng.
- Trang bị đầy đủ máy móc thiết bị đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá ngân hàng, hoàn thiện chương trình ngân hàng bán lẻ và giao dịch một cửa, thực hiện đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng. Nối mạng với khách hàng lớn có quan hệ thường xuyên về tiền gửi, tiền vay thanh toán.
- Thực hiện cơ chế khoán đến nhóm và người lao động đảm bảo công bằng về nghĩa vụ và quyền lợi, tạo động lực phát huy tính chủ động sáng tạo của từng cá nhân và tập thể người lao động.
- Làm tốt công tác đoàn thể, phát động phong trào thi đua, tạo sự đoàn kết thống nhất, hỗ trợ công tác, nghiệp vụ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành tôt nhiệm vụ được giao.
3.2.2 Chính sách cho vay
- Chính sách lãi suất của chi nhánh phải linh hoạt theo từng đối tượng vay vốn. Trên thực tế, lãi suất mà Ngân hàng đang áp dụng cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường cao hơn các ngân hàng khác. Do đó, đôi khi tạo ra sự so sánh cho khách hàng khi có nhu cầu vay vốn, đặc biệt các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường quan hệ với nhiều ngân hàng khác nhau vì vậy cơ hội để họ tìm được một khoản vay với lãi suất phù hợp là không khó. Để khắc phục tình trạng này, với các khách hàng truyền thống, có uy tín, vay trả xòng phẳng thì Ngân hàng có thể áp dụng những mức lãi suất thấp hơn.
3.2.3 Tích cực hoàn thiện hoạt động Marketing
Marketing ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và nó đã trở thành một công cụ không thể thiếu trong chiến lược kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Do những đặc trưng của hoạt động ngân hàng mà Marketing Ngân hàng thể hiện nột dung hoạt động của mình thông qua các hoạt động của Ngân hàng thương mại. Các hoạt động của Ngân hàng thương mại rất đa dạng và phong phú, nhưng tựu chung có 5 vấn đề chính: Nghiên cứu thị trường, dịch vụ Ngân hàng, giá của dịch vụ Ngân hàng, hoạt động xúc tiến khuyếch trương và hoạt động phân phối dịch vụ của ngân hàng.
Nhận thức đượcvấn đề này trong những năm qua Ngân hàng đã tích cực áp dụng các biện pháp khác nhau để đẩy mạnh hoạt động Marketing góp phần tạo hình ảnh của ngân hàng trên phạm vi thành phố Hà nội được các Ngân hàng bạn đánh giá cao. Trong thời gian tới , chi nhánh cần duy trì và đổi mới phương thức hoạt động Marketing bằng cách nhanh chóng hiện đại hoá hoạt động Ngân hàng, tăng cường khả năng phân tóch các thông tin, quan tâm thực sự đến việc nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh, tăng cường khả năng lưu trữ thông tin một cách có hệ thống...
Bên cạnh đó, Ngân hàng cần phải tìm kiếm cách thức quảng cáo cho khách hàng hiện có để tranh thủ khách hàng tiềm năng. Tăng cường tổ chức quảng cáo thông qua đội ngũ cán bộ của Ngân hàng, tìm kiếm khách hàng, chủ động đặt quan hệ với khách hàng, dùng các chính sách ưu đãi thu hút khách hàng. Trong quá trình giao tiếp đặt mối quan hệ với khách hàng, cán bộ Ngân hàng phải có nghệ thuật ứng xử, giao tiếp, thái độ làm việc để làm sao giữ được mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Muốn vậy, bản thân người cán bộ tín dụng phải hiểu được nhu cầu và mong muốn của khách hàng là gì và khả năng đáp ứng của ngân hàng ra sao. Trong quá trình cấp vốn, Ngân hàng cần quan tâm việc nâng cao chất lượng dịch vụ của mình, đặc biệt khả năng tư vấn thông tin kinh tế cho khách hàng. Nếu dịch vụ tư vấn được hoàn thiện không những nó là nguồn bổ sung cho dịch vụ chính mà về lâu dài nó có thể phát triển thành một dịch vụ vhính cuat hoạt động Ngân hàng. Có thể nói, việc làm này sẽ kích thích khách hàng sử dụng dịch vụ của Ngân hàng. Ngoài vấn đề cung cấp thông tin kinh tế cho khách hàng ngân hàng cần tiếp tục thực hiện đa dạng hoá các dịch vụ và hình thức tiếp cận khách hàng, đồng thời tìm mọi cách để giản tiện thủ tục giao dịch và phiền hà cho khách hàng để nâng cao chất lượng dịch vụ của Ngân hàng trong thời gian tới. Để làm được điều này đòi hỏi Ngân hàng không chỉ mở các lớp giảng dạy chuyên môn, nghiệp vụ mà phải kết hợp đào tạo kỹ năng tiếp thị, tư vấn khách hàng cho đội ngũ nhân viên thường xuyên tiếp xúc với khách hàng. Bên cạnh đó, cần có chính sách khuyến khích, khen thưởng thích đáng với công tác tìm kiếm khách hàng mới dành cho những cán bộ làm nghiệp vụ tín dụng, giao dịch tại quầy, các thanh toán viên của phòng thanh toán quốc tế...
Trong điều kiện môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng, tính cạnh tranh gay gắt hơn, đòi hỏi bản thân Ngân hàng cần phải biết nắm bắt cơ hội kinh doanh mọtt cách nhanh nhạy. Muốn làm được như vậy cần phải cải thiện công tác thu nhập, phân tích thông tin về khách hàng, thị trường, xu hướng biến động của tất cả các yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Bên cạnh đó, vấn đề chủ động tìm kiếm, tiếp cận, tư vấn, giúp đỡ khách hàng trong quá trình giao dịch cũng phải được quan tâm hơn nữa để giảm thiểu thời gian giao dịch cho khách hàng, đảm bảo hoạt động kinh doanh của khách hàng không bị gián đoạn, toạ được sự tin tưởng, giữ được mối quan hệ thân thiện, lâu dài giữa khách hàng với Ngân hàng.
3.2.4 Đẩy mạnh công tác kiểm tra sau, trong cho vay xuất nhập khẩu
Cho vay là nghiệp vụ mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các Ngân hàng thương mại nên việc mở rộng cho vay là cần thiết để mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đồng thời đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề chất lượng cho vay mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của bất cứ Ngân hàng nào. Nếu Ngân hàng gia tăng quy mô cho vay mà không quan tâm đến chất lượng cho vay, sẵn sàng bỏ qua những nguyên tắc cơ bản khi cho vay thì sự cố gắng đó cũng chỉ là vô nghĩa nếu không đảm bảo được khả năng thu hồi nợ từ khách hàng.
Chất lượng cho vay là kết quả các khoản cho vay được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng cam kết trong hợp đồn tín dụng, Ngân hàng thu hồi được cả gốc và phần lãi cho việc chấp nhận rủi ro đúng hạn quy định. Trên thực tế trong quan hệ vay vốn thì quyền cho vay thực tế là ở Ngân hàng, quyền trả nợ thuộc về trách nhiệm và ý thức hoàn trả của người vay, do đó khi Ngân hàng đã quyết định cho vay và giải ngân cho khách hàng thì việc thu hồi vốn lại phụ thuộc người vay hay nói chính xác là phụ thuộc vào hiệu quả của việc sử dụng khoản tiền đó.
Đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá thường được vận chuyển bằng tàu biển và khi về được lưu tại kho của người nhập trước khi bán lại cho khách hàng trong nước nên dễ phát sinh khách hàng trong nước phá bỏ hợp đồng và hàng hoá bị ứ đọng tại kho, người vay không thu hồi được vốn để hoàn trả cho Ngân hàng. Thực tế đó đòi hỏi cán bộ tín dụng phụ trách cho vay xuất nhập khẩu phải thường xuyên tìm hiểu tình hình tiêu thụ hàng hoá của khách hàng có đúng như cam kết hay không và khi gần đến kỳ trả nợ phải thường xuyên nhắc nhở khách hàng hoàn trả để không dẫn đến phát sinh nợ quá hạn vừa làm mất uy tín cho khách hàng vừa gây thiệt hại cho Ngân hàng.
Như vậy, trong quan hệ vay mượn, việc cho vay là đơn giản vì nó phụ thuộc vào quyết định của Ngân hàng còn việc thu hồi nợ lại rất khó khăn mà đôi khi Ngân hàng không có khả năng đánh giá hết. Nói tóm lại, để có một khoản vay an toàn, hiệu quả thì vấn đề kiểm tra sau đối với việc sử dụng vốn của khách hàng là rất quan trọng ngay cả khi với khách hang quen thuộc. Kết quả kiểm tra sau là căn cứ để Ngân hàng đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng đồng thời xem xét có nên tiếp tục cho vay hay không. Công tác này được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc góp phần nâng cao chất lượng hoạt động cho vay nói chung và cho vay xuất nhập khẩu nói riêng, từ đó Ngân hàng mới xây dựng chiến lược mở rộng cho vay đáp ứng tối đa nhu cầu vốn của khách hàng.
3.2.5 Tăng cường công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ
Kiểm tra, kiểm toán nội bộ là khâu vô cùng quan trọng trong việc mở rộng cho vay và nâng cao chất lượng cho vay xuất nhập khẩu. Nó là một trong những yếu tố đảm bảo tính an toàn, hiệu quả cho hoạt động của Ngân hàng. Một thực tế hiện nay tại chi nhánh là đội ngũ cán bộ làm công tác này còn mỏng, chủ yếu là các cán bộ lâu năm còn chua có đội nguc nhân viên để thay thế vì vậy việc tăng cường nhân lực cho phòng là điều cần làm ngay. Hoạt động kiểm tra kiểm soát không chỉ đơnthuần là kiểm tra tính hợp lệ, chuẩn mực của các bộ hồ sơ mà vai trò quan trọng hơn của nó là tìm ra những vi phạm, sai sót để có biện pháp kịp thời khắc phục, sửa chữa tránh dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Một chính sách kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, linh hoạt là vấn đề đặt ra cho những người xây dựng cơ chế, chính sách tại Ngân hàng để luôn phù hợp với quy định đã đề ra nhưng cũng đảm bảo luôn theo đúng xu hướng phát triển của ngành.
3.2.6 Xây dựng chính sách cho vay xuất nhập khẩu
Như phần thực trạng đã phân tích, hiện nay các hình thức cho vay phục vụ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng còn đơn giản, đối với cho vay nhập khẩu chủ yếu là cho vay mở L/C, cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập, còn cho vay xuát khẩu thì có hình thức cho vay ngắn hạn để doanh nghiệp thu mua hàng xuất. Vấn đề đặt ra ở đây không phải muốn mở rộng cho vay xuất nhập thì nhất thiết phải đa dạng hoá các hình thức cho vay mà điều quan trọng hơn là vẫn duy trì những hình thức như vậy nhưng quy mô của nó ngày càng tăng, hiệu quả tốt hơn.
• Đối với cho vay nhập khẩu
Thứ nhất, đối với các khách hàng truyền thống, chuyên hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu Ngân hàng có thể có những ưu đãi về mức ký quỹ, đơn giản hoá các thủ tục nhất là đối với cho vay từng lần, có thể áp dụng nhiều mức lãi suất theo hiệu quả của từng phương án nhập khẩu.
Thứ hai, tăng cường công tác ngoại giao với các Ngân hàng bạn đẻ cùng tham gia đồng tài trợ cho các phương án nhập khẩu giá trị lớn.
Thứ ba, tìm kiếm các dự án của chính phủ ký kết với các chính phủ hay Ngân hàng nước ngoài trong việc hỗ trợ nhập khẩu theo hình thức chuyển giao công nghệ, trợ giúp về mặt kỹ thuật để đóng vai trò là trung gian thanh toán bổ sung nguồn ngoại tệ phục vụ các món vay nhập khẩu quy mô nhỏ hơn.
• Đối với cho vay xuất khẩu
Thứ nhất, có thể phát triển hình thức cho vay bằng cách tạm ứng cho người xuất khẩu. Với tư cách là Ngân hàng phục vụ cho doanh ngiệp xuất khẩu, trong những tình huống nhà xuất khẩu gặp khó khăn sau khi xuát hàng mà chưa thuđược tiền nhưng lại phát sinh nhu cầu về vốn trong kinh doanh thì Ngân hàng có thể tạm ứng cho nhà xuất khẩu dựa vào sự đanh giá tính hiệu quả của phương án trên cở sở thẩm định, xem xét thực tế thị trường của mặt hàng đó cũng như theo dõi diễn biến giá cả thị trường tiêu thụ, tìm hểu khách hàng nhập khẩu từ những nguồn thông tin đáng tin cậy.
Thứ hai, Ngân hàng trên cơ sở nhiều nguồn thông tin nắm bắt được từ các bộ ngành khác nhau có thể biết rõ được những mặt hàng hiện đang được đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường lớn, ổn định. Từ những tìm hiểu đó, Ngân hàng có thể tham gia các dự án phục vụ xuất khẩu như cho vay các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, thông qua nghiệp vụ này Ngân hàng không chỉ góp phần hhõ trợ các doang nghiệp xuất khhẩu trong địa bàn hiện nay đang có nhu cầu về vốn ngày càng tăng. Bên cạnh đó, Ngân hàng có thể tư vấn cho các doanh ngiệp trong việc lựa chọn mặt hàng, thị trường tiêu thụ, nguồn hàng đảm bảo hiệu quả của các phương án kinh doanh.
3.3 Một số đề xuất
Hoạt động Ngân hàng vừa mang tính kinh tế vừa mang tính chính trị xã hội, nó được xem là mmọt lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm, một biến động nhỏ về kinh tế chính trị xẫ họi cũng lập tức tác động đến đời sống xã hội kinh tế của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy hoạt động Ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều cơ quan ban ngành mà mỗi điều chỉnh, sửa đổi chính sách, quy định của họ cũng đều tác động đến Ngân hàngmà trực tiếp ở đây là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Chính phủ.
3.3.1 Kiến nghị với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam với tư cách là cơ quan quản lý trực tiếp mọi hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội, mọi quy chế chính sách của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đưa ra đều tác động đến hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội. Chính vì vậy, để hỗ trợ hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội luôn ổn định, an toàn thì trong quá trình xây dựng và thực thi các quy chế mới Ngân hàng cần quan tâm hơn nữa công tác phổ biến, hướng dẫn việc thực hiện đảm bảo tính thống nhất, cập nhất trong toàn hệ thống.
Chuẩn mực hoá cơ chế trích lập dự phòng rủi ro để các đơn vị thành viên trong toàn hệ thống chủ động trong công tác điều hành tín dụng, đưa mục tiêu an toàn lên hàng đầu nhưng cũng phải gắn việc mở rộng tín dụng với hiệu quả tài chính trong hoạt động tín dụng.
Việc điều chuyển cán bộ từ các bộ phân khác sang làm việc tại Ngân hàng đã gây khó khăn trong việc sắp xếp công việc cho phù hợp với năng lực của họ, nếu trong điều kiện Trung tâm điều hành trên TW không sắp xếp được chương trình giảng dạy thì có thể hỗ trợ một phần kinh phí để các can bộ tham gia các chương trình đào tạo tại các trường kinh tế. Chính sách đó không chỉ khuyến khích các cán bộ ham học hỏi trong điều kiện thu nhập còn khiêm tốn mà nó còn có ý nghĩa lâu dài trong chiến lược phát triển của ngành và quan trọng hơn là nâng cao trình độ cán bộ để họ nhanh chóng nắm bắt công nghệ mới, đáp ứng đòi hỏi của thời đại hội nhập quốc tế về tài chính Ngân hàng.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước cao nhất của Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội, Ngân hàng nhà nước Việt Nam thay mặt chính phủ chịu trách nhiệm xây dựng các chính sách, chiến lược điều hành mọi hoạt động tài chính ngân hàng. Điểm yếu lớn nhất của hệ thống luật Việt Nam nói chung và hệ thống luật Ngân hàng nói riêng là tính bất ổn định, chồng chéo, đôi khi không thống nhất đã gây nhiều khó khăn trong qua trình triển khai thực hiện và áp dụng vào thực tế. Trong giai đoạn chuẩn bị cho việc tham gia các tổ chức tài chính tiền tệ và sẵn sàng cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài khi chúng ta thực hiện các hiệp định thương mại quốc tế, thì việc hình thành một cơ chế quản lý mang tính vĩ mô, ổn định cần phải được xây dựng để phù hợp với thực tế. Đối với hoạt động cho vay xuất nhập khẩu bao gồm cả cho vay nội tệ và cho vay ngoại tệ chịu tác động trực tiếp bởi cơ chế quản lý ngoại hối theo quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, các ngân hàng thương mại phải đảm bảo một tỷ lệ dự trữ nhất định và các doanh nghịêp có nguồn thu, chi ngoại tệ khi thanh toán qua ngân hàng phải được theo dõi chặt chẽ nên đôi khi tạo ra tâm lý e ngại cho khách hàng khi lựa chọn phương thức thanh toán qua ngân hàng.
Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước Việt Nam nên có những điều chỉnh về cơ chế, chính sách hoạt động của toàn hệ thống Ngân hàng thương mại để nâng cao tính tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Ngân hàng mình. Thường xuyên có những chương trình đào tạo mới và đào tạo lại cho đội ngũ cán bộ bao cấp nhằm giúp các Ngân hàng cấp dưới luôn cập nhật được công nghệ mới cũng như ứng dụng chúng vào thực tế một cách hiệu quả
3.3.3 Kiến nghị với Nhà nước
Hoạt động xuất nhập khẩu giữ vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhưng nó là một hoạt động kinh tế phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong và ngoài nước. Thực hiện thành công mục tiêu đó Nhà nước ta thời gian qua cũng đã có những cải cách về chính sách thương mại, chính sách thuế... nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động này. Trong điều kiện hiện nay, để đảm bảo cho hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra một cách ổn định, tăng trưởng, Nhà nước cần phải thường xuyên có những điều chỉnh về chính sách cho phù hợp với tình hình mới. Tạo điều kiện tốt nhất để các cơ quan, bộ ngành kiên quan đến hoạt động này hoạt động một cách thống nhất, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để cải cách cơ chế làm việc còn nhiều bất cập như hiện nay. Khi có những chính sách mới thì nhanh chóng công bố công khai, kíp thời kèm theo những văn bản hướng dẫn để đảm bảo việc thực hiện đồng bộ, thống nhất giữa các đơn vị có liên quan. Đặc biệt chú trọng đến công tác cập nhật đánh giá và dự báo các biến động thị trường để có những điều chỉnh về cơ cấu, giá cả, số lượng xuất nhập khẩu đảm bảo hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp không rơi vào thế bị động, bị thua lỗ vì không có thông tin.
Việc xác định cơ cấu mặt hàng cho hoạt động xuất nhập khẩu vừa đảm bảo khai thác được lợi thế trong nước vừa đảm bảo mang lại nguồn thu không chỉ cho doanh nghiệp mà còn góp phần bổ sung vào ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ là rất quan trọng. Các Ngân hàng khi cho vay cũng phải trên cơ sở nắm vững chính sách của Nhà nước về các loại mặt hàng, số lượng, thị trường tiêu thụ mới quyết định xem phương án đó có hiệu quả như doanh nghiệp đã dự kiến hay không, từ đó mới quyết định mức cho vay và mức lãi tương ứng.
Nhà nước cũng nhanh chóng hoàn chỉnh và đã vào áp dụng các luật mới về hoạt động thương mại, tài chính ngân hàng, xây dựng các kế hoạch phát triển dài hạn cho từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể dựa trên những kết quả đã đạt được cũng như phải thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp với xu hướng vận động của nền kinh tế.
Để chuẩn bị cho lộ trình tham gia hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế và tựhc hiện các cam kết song phương và đa phương, chúng ta phải có những chiến lược, bước đi cụ thể cho từng giai đoạn nhất định. Muốn vậy, Nhà nước phải đề ra phương hướng, biện pháp thực hiện rõ rang để đảm bảo vừa đúng thời hạn vừa đạt được hiệu quả cao nhất không chỉ nhằm rút ngắn thời gian thực hiện mà quan trọng hơn là đảm bảo một sự chuẩn bị tốt nhất cho toàn bộ nền kinh tế nước ta trước khi bước vào giai đoạn phát triển mới.
Đối với hoạt động Ngân hàng, việc Nhà nước thực hiện thí điểm dự án cổ phần hoá các Ngân hàng thương mại quốc doanh có thể xem là một bước đột phá trong chính sách quản lý vĩ mô đối với hoạt động ngân hàng tài chính. Điều đó thể hiện rõ quyết tâm của chúng ta phải tiến hành đổi mới để chuẩn bị cho việc thực hiện các chiến lược dài hạn đã đề ra cho ngành ngân hàng trong tiến trình thực hiện chính sách mở cửa chuẩn bị cho phép các ngân hàng nước ngoài được phép kinh doanh bình đăngr tại Việt Nam. Có thể nó trong vòng 4 năm tới sự cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là rất lớn, do đó đòi hỏi các ngân hàng phải có sự chuẩn bị từ bây giờ,thì mới có khả năng tồn tại và phát triển trong tương lai. Thực hiện được điều đó ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước thì bản thân các ngân hàng cũng phải tự đổi mới bằng chính năng lực của mình để đủ sức cạnh tranh, giữ vững thị phần trong nước và hướng tới mở rộng ra thị trường quốc tế.
Kết luận
Trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế như hiện nay với sự xuất hiện ngày càng nhiều các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng 100% vốn nước ngoài đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho toàn hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội nói riêng. Vấn đề đặt ra cho ngân hàng hiện nay là làm sao phát huy được những thế mạnh hiện có đồng thời phải có chiến lược cụ thể cho thời gian sắp tới để không bị tụt hậu trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Muốn làm được điều đó không chỉ phụ thuộc vào năng lực của chi nhánh mà còn cần sự hỗ trợ cả về mặt tài chính cũng như về mặt quản lý đào tạo chuyên môn nghiệp vụ của trung tâm điều hành và ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Trên cơ sở những kết quả đạt được trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay xuất nhập khẩu nói riêng ngân hàng cần đặt ra những kế hoạch cụ thể để có thể sử dụng triệt để nguồn vốn huy động được đáp ứng nhu cầu vay vốn ngày càng tăng của khách hàng đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương. Việc mở rộng cho vay xuất nhập khẩu phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, hiệu quả, có sự kết hợp giữa các phòng chuyên môn để đánh giá và thực hiện việc cho vay với thời gian ngắn nhất nhưng hiệu quả nhất.
Thực tế hoạt độngcho vay xuất nhập khẩu đã được phản ánh một cách khá chi tiết trong bài viết này, tuy nhiên do thời gian và kinh nghiện còn hạn chế nên không tránh khỏ những sai xót, người viết mong muốn nhận được sự góp ý chân thành của những ai quan tâm đến lĩnh vực này.
Xin chân thành cảm ơn!
Danh mục tài liệu tham khảo
1/ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2003,2004,2005 của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội.
2/ Quản trị Ngân hàng thương mại – Peter S.Rose
3/ Quản lý và kinh doanh tiền tệ – Nhà xuất bản tài chính
4/ Giáo trình tài chính quốc tế- Học viện tài chính – Nhà xuất bản tài chính
5/ Quyết định 72/QĐ-HĐQT-TD v/v: ban hành quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống ngân hàng nông ngiệp Việt Nam
5/ Lý thuyết tài chính - Học viện tài chính
6/ Giáo trình kinh tế phát triển - Đại học KTQD
7/ Giáo trình ngân hàng thương mại - Đại học KTQD
8/ Luận văn giải pháp nâng cao cho vay XNK tại NHNN & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội – Nguyễn Lan Phương NH44A
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32255.doc