Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Nội

MỞ ĐẦU Sự hội nhập mạnh mẽ của đất nước vào nền kinh tế thế giới đã tạo ra nhiều cơ hội tìm kiếm lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp nhưng cũng đặt họ trước một thách thức lớn là sự cạnh tranh gay gắt từ phía các đối thủ nước ngoài mới xâm nhập vào Việt Nam. Ngoài việc có một chiến lược cạnh tranh đúng hướng, yếu tố quyết định tới sự thành bại của doanh nghiệp chính là sự cải tiến về máy móc thiết bị sản xuất, đổi mới dây chuyền công nghệ. Tuy nhiên do khả năng vốn tự có của các doanh nghiệp Vi

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt nam còn hạn chế nên nếu không có sự hỗ trợ vốn từ bên ngoài thì họ khó thể thực hiện được. Việc huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán còn hạn chế do quy mô còn nhỏ bé của thị trường này, hơn nữa không phải doanh nghiệp nào cũng đủ điều kiện để huy động được vốn bằng cách này. Do đó, vốn tín dụng ngân hàng, đặc biệt là tín dụng trung dài hạn vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp phát nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng hoạt động của mình. Để hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thực sự mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp, ngân hàng và nền kinh tế, yêu cầu phải nâng cao chất lượng của hoạt động này không lúc nào là không cần thiết. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển là một đơn vị cung cấp tín dụng trung và dài hạn có thâm niên lâu năm, đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong thời gian thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, được quan sát thực tiễn cấp phát tín dụng trung dài hạn, em nhận thấy vẫn còn có một số hạn chế nhất định khiến cho tín dụng trung dài hạn chưa phát huy hết được vai trò quan trọng với ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Vì vậy, em đã quyết định chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội" để thực hiện chuyên đề thực tập. Kết cấu của chuyên đề này bao gồm: Chương 1. Tổng quan về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại. Chương 2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và Phát triển Hà Nội. Chương 3. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và Phát triển Hà Nội. Để hoàn thành được chuyên đề thực tập này, em đã nhận được sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình của các cán bộ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, các cô chú, anh chị ở phòng Tín dụng 2, và đặc biệt là sự chỉ bảo của Thày giáo, Tiến sĩ Đàm Văn Huệ. Em xin chân thành cảm ơn. Sinh viên Nguyễn Thị Hồng Nhung CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về ngân hàng thương mại (NHTM): Ở Hoa Kỳ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hoặc tài trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kỳ: NHTM là Hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn hay tín dụng khác. Ở Việt Nam: Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 1997: "Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan". Trong đó: " Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán". Từ các quan điểm trên có thể đưa ra một khái niệm chung tương đối đầy đủ về NHTM là: Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhiều nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. NHTM có các chức năng cơ bản sau: - Trung gian tài chính: Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ các hộ gia đình, thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác. - Tạo phương tiện thanh toán: Quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng trung ương của mỗi nước. Đó là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua nhiều ngân hàng. - Trung gian thanh toán: Thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ (như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quĩ và phân phối tiền giấy và tiền đúc). 1.1.2. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Huy động vốn Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn cho vốn vay. Vì vậy có thể coi huy động vốn là điều kiện cần để ngân hàng bắt đầu hoạt động. Ngân hàng tiến hành thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng các nghiệp vụ: - Nhận tiền gửi: Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Đây là nghiệp vụ đầu tiên khi ngân hàng bắt đầu hoạt động. Bằng cách mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, ngân hàng đã huy động được tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. - Đi vay: Mặc dù tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM nhưng khi khả năng huy động bị hạn chế, ngân hàng vẫn phải đi vay để đáp ứng nhu cầu chi trả cấp bách. NHTM có thể vay Ngân hàng Nhà nước thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu hay tái cấp vốn, vay trên thị trường liên hàng hoặc vay trên thị trường chứng khoán bằng cách phát hành các giấy nợ. 1.1.2.2. Sử dụng vốn Cùng giống như bất kỳ doanh nghiệp nào, NHTM cũng hoạt động vì mục tiêu sinh lời. Do đó, với số vốn đã huy động được, ngân hàng phải tiến hành các hoạt động đầu tư để trang trải các chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động và đặc biệt là để tìm kiếm lợi nhuận. - Hoạt động tín dụng: Là hoạt động đặc trưng của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động chứa đựng rủi ro cao, ảnh hưởng tới sự an toàn của ngân hàng. - Các hoạt động đầu tư khác: Ngoài hoạt động tín dụng, NHTM cũng tham gia vào các hoạt động đầu tư khác như: mua bán chứng khoán, góp vốn liên doanh liên kết,… nhằm mục tiêu đa dạng hoá danh mục đầu tư và tối thiểu hoá rủi ro. 1.1.2.3. Các hoạt động khác Bên cạnh các hoạt động mang tính truyền thống và đặc trưng, NHTM cũng tiến hành các hoạt động khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận như: cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý,… 1.2. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái niệm tín dụng và phân loại 1.2.1.1. Khái niệm tín dụng Tín dụng xuất phát từ chữ Latin Creditium có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng Anh gọi là Credit. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn dựa trên sự tin tưởng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau đây: - Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thâm hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay. - Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. - Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. Như vậy có thể hiểu: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hay hàng hoá) giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho vay khi đến hạn thanh toán. Như vậy, khái niệm tín dụng gồm ba mặt cơ bản: - Có sự chuyển giao quyền sử dụng một tài sản từ người này sang người khác. - Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời. - Khi hoàn lại tài sản đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm thêm một lượng giá trị dôi thêm - gọi là lãi hay lợi tức. Một quan hệ được gọi là tín dụng khi có đầy đủ cả ba mặt trên. Tín dụng có các hình thức chủ yếu là: tín dụng thương mại, tín dụng Nhà nước và tín dụng ngân hàng. Tín dụng thương mại là việc mua bán chịu (hay mua bán trả chậm) hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng với một bên là tất các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Trong nền kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại vững chắc trên thương trường mà không vay vốn của ngân hàng. Việc vay vốn từ ngân hàng đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, đặc biệt là các dự án mở rộng sản xuất hay đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. 1.2.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng Có nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng ngân hàng: Căn cứ vào thời hạn cho vay: Tín dụng được chia là ba loại sau: - Tín dụng ngắn hạn: là các khoản cho vay có thời hạn dưới 12 tháng. Đối với NHTM, tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất. - Tín dụng trung hạn: là các khoản cho vay có thời hạn có thời hạn từ 1 đến 5 năm. - Tín dụng dài hạn: là các cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên. Căn cứ vào hình thức bảo đảm: Tín dụng được chia làm hai loại: - Cho vay không có đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của bản thân khách hàng. - Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Căn cứ vào mục đích sử dụng: - Cho vay bất động sản: là khoản cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. - Cho vay công nghiệp và thương mại: là khoản cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. - Cho vay nông nghiệp: là khoản cho vay giúp nông dân trang trải các chi phí sản xuất và bảo quản sản phẩm. - Cho vay cá nhân: là khoản cho vay nhằm đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đất tiền, sửa chữa và xây dựng nhà cửa. - Tài trợ thuê mua: ngân hàng mua thiết bị máy móc hay phương tiện để cho khách hàng thuê. - Cho vay khác: gồm các khoản cho vay không bao gồm các khoản cho vay ở trên và cho vay kinh doanh chứng khoán. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng - Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng. - Cho vay bằng tài sản: hình thức cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến tại các NHTM là tài trợ thuê mua. Căn cứ vào phương thức hoàn trả: - Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. - Cho vay phi trả góp: là loại cho vay mà vốn gốc và lãi được thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận. - Cho vay hoàn trả theo yêu cầu. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng: - Cho vay trực tiếp: ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay cũng hoàn trả vốn gốc và lãi trực tiếp cho ngân hàng. - Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. 1.2.2. Khái niệm và phân loại tín dụng trung và dài hạn 1.2.2.1. Khái niệm Tín dụng trung và dài hạn là một bộ phận của tín dụng ngân hàng khi phân chia theo tiêu thức thời hạn, là hoạt động tài chính trong đó ngân hàng cho khách hàng vay vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án phát triển sản xuất - kinh doanh, phục vụ đời sống. Tín dụng trung và dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ 1 năm trở lên. Tuỳ theo từng nước mà thời hạn cho vay đối với tín dụng trung và dài hạn là khác nhau. Ở Việt Nam, tín dụng trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ 12 tháng đến 60 tháng. Tín dụng dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ 60 tháng trở lên. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất - kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn về xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. 1.2.2.2. Phân loại tín dụng trung và dài hạn Các tiêu thức để phân loại tín dụng trung và dài hạn cũng giống như tín dụng nói chung Căn cứ vào thời hạn cho vay - Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm, tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn. - Tín dụng dài hạn: có thời hạn cho vay từ 5 năm trở lên, tài trợ cho công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, mấy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu. Căn cứ vào hình thức đảm bảo - Tín dụng trung và dài hạn có đảm bảo. - Tín dụng trung và dài hạn không có đảm bảo. Căn cứ mục đích sử dụng - Tín dụng trung và dài hạn phục vụ cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. - Tín dụng trung và dài hạn phục vụ cho tiêu dùng: là các khoản tín dụng được cung cấp chủ yếu cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân như xây dựng nhà ở, mua sắm phương tiện đi lại,… Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng - Tín dụng trung và dài hạn cấp bằng tiền. - Tín dụng trung và dài hạn cấp bằng hiện vật: thông qua hình thức tài trợ thuê mua. Căn cứ vào phương thức hoàn trả - Tín dụng trung và dài hạn trả góp: là các khoản tín dụng trung và dài hạn trong đó người đi vay trả vốn gốc và lãi theo các kỳ hạn đều đặn trong thời hạn cho vay. - Tín dụng trung và dài hạn trả một lần: người đi vay trả vốn gốc và lãi một lần vào cuối thời hạn cho vay. - Tín dụng trung và dài hạn có kỳ hạn trả nợ mang tính thời vụ: người đi vay có thể hoàn trả bất cứ khi nào có thu nhập. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng - Tín dụng trung và dài hạn trực tiếp. - Tín dụng trung và dài hạn gián tiếp. Căn cứ vào đồng tiền cho vay: - Tín dụng trung và dài hạn cấp bằng đồng ngoại tệ: chủ yếu cấp cho những khách hàng hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp có dự án liên doanh liên kết với nước ngoài. - Tín dụng trung và dài hạn cấp bằng đồng nội tệ: chiếm tỷ trong chủ yếu trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của NHTM. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của đối tượng xin vay: - Tín dụng trung và dài hạn đầu tư trong nước: là các khoản tín dụng được cấp cho khách hàng để thực hiện các dự án đầu tư trong nước. - Tín dụng trung và dài hạn tài trợ cho xuất nhập khẩu: là các khoản tín dụng được cấp cho khách hàng nhằm hỗ trợ hoạt động xuất nhập khẩu, gồm có tín dụng người cung cấp (cấp cho các nhà xuất khẩu) và tín dụng người mua (cấp cho các nhà nhập khẩu). 1.2.3. Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn 1.2.3.1. Vốn đầu tư lớn, thời hạn dài và thu hồi vốn chậm Như đã nêu trên, đối tượng tài trợ của tín dụng trung và dài hạn là tài sản cố định và các công trình xây dựng. Đặc điểm của đối tượng này là có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu. Do đó, khoản cho vay để tài trợ cho các đối tượng này đòi hỏi một số vốn đầu tư lớn. Mặt khác, nguồn để trả nợ là quỹ khấu hao cơ bản và lợi nhuận thu được từ dự án. Vì vậy, thời hạn trả nợ thường kéo dài đến khi dự án kết thúc, dẫn đến thu hồi vốn chậm. 1.2.3.2. Độ rủi ro cao Do lượng vốn đầu tư lớn và thời gian thu hồi vốn chậm nên độ rủi ro của các khoản tín dụng trung và dài hạn là cao. Một dự án có thời gian đầu tư kéo dài có thể chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như: thiên tai, chiến tranh, sự thay đổi của môi trường chính sách, môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh,… Điều này khiến cho việc dự đoán các rủi ro có thể xảy ra với các khoản tín dụng trung và dài hạn là không thể lường trước hết được. Mặt khác, do có số vốn đầu tư lớn nên khi rủi ro xảy ra với các khoản tín dụng này sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đến NHTM so với các khoản tín dụng ngắn hạn. 1.2.3.3. Lợi nhuận từ các khoản tín dụng trung và dài hạn lớn Do mối tương quan tỉ lệ thuận giữa lợi nhuận và rủi ro, nên các khoản tín dụng trung và dài hạn - vốn chứa đựng rủi ro cao - luôn có mức lãi suất rất cao. Thêm vào đó, do khoản cho vay thường có số vốn lớn nên thu nhập mà khoản tín dụng này đem lại cho ngân hàng là lớn. 1.2.4. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn 1.2.4.1. Đối với doanh nghiệp Là một chủ thể trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh từ phía các đối thủ khác. Để có thể tồn tại và phát triển, tất yếu doanh nghiệp phải thắng thế trong cạnh tranh. Muốn vậy, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược sản xuất - kinh doanh hợp lý, phù hợp với năng lực, điều kiện của bản thân và điều kiện thị trường. Do đó, về lâu dài doanh nghiệp phải chú trọng đến việc mở rộng sản xuất, mua sắm máy móc trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm và giảm thiểu chi phí đến mức thấp nhất có thể. Muốn thực hiện được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Để huy động vốn cho các kế hoạch sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp có thể tìm kiếm từ các nguồn sau: Tự tích luỹ bằng lợi nhuận không chia: là một phương thức tạo nguồn tài chính khá quan trọng đối với doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp tránh được sự phân chia kiểm soát với bên ngoài. Tuy nhiên, phương thức tài trợ này đòi hỏi một thời gian dài mới mang lại một lượng vốn đáng kể cho doanh nghiệp, do đó có thể khiến doanh nghiệp bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, tự tích luỹ chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có lợi nhuận. Điều này là khó khăn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động. Phát hành cổ phiếu, trái phiếu: nguồn này có ưu điểm là có thể tập trung được lượng vốn cần thiết trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, nếu phát hành cổ phiếu có thể dẫn đến sự phân chia quyền kiểm soát công ty. Nếu phát hành trái phiếu, doanh nghiệp sẽ phải chịu nhiều chi phí tốn kém như: chi phí giao dịch, chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, lệ phí đăng ký chứng khoán,… Hơn nữa, không phải trái phiếu của doanh nghiệp nào cũng được công chúng đầu tư tín nhiệm, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ điều kiện để được phép phát hành trái phiếu ra công chúng. Thêm vào đó, trái phiếu không tạo ra sự linh hoạt về kỳ hạn của khoản nợ. Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng: có ưu thế hơn so với các nguồn trên, thể hiện ở chỗ: 1, Nó giúp cho doanh nghiệp chớp lấy thời cơ kinh doanh nhờ rút ngắn thời gian tìm kiếm vốn. Thủ tục vay ngân hàng tuy chặt chẽ nhưng nếu tuân thủ đúng thì thời gian để doanh nghiệp nhận được khoản tín dụng là ngắn hơn rất nhiều so với tự tích luỹ hay phát hành trái phiếu, cổ phiếu. 2, Không dẫn đến sự phân chia quyền kiểm soát công ty với bên ngoài so với việc phát hành cổ phiếu. 3, Mọi doanh nghiệp chỉ cần có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư khả thi đều có thể được ngân hàng cấp tín dụng. 4, Tín dụng trung và dài hạn tạo ra sự linh hoạt về kỳ hạn: doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng theo kỳ hạn phù hợp với yêu cầu kinh doanh và chu kỳ thu nhập. Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ của các khoản tín dụng trung và dài hạn là dễ dàng: khi doanh nghiệp làm ăn thuận lợi, nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi, có thể trả nợ ngân hàng trước hạn. Ngược lại, khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất - kinh doanh, có thể xin ngân hàng gia hạn nợ. Mặt khác, việc trả nợ trung và dài hạn được phân chia thành các kỳ hạn hợp lý và ổn định, giúp cho doanh nghiệp chủ động trong việc tìm kiếm nguồn trả nợ. Những ưu điểm đó khiến cho tín dụng trung và dài hạn là một nguồn được các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động ưa thích. Mặc dù có nhiều ưu thế hơn so với các hình thức huy động vốn khác nhưng lãi suất tín dụng vẫn là một chi phí khá cao đối với doanh nghiệp. Cùng với sự ràng buộc về thời hạn cho vay, mục đích sử dụng, nó buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn có hiệu quả: phải tính đến tính khả thi khi đầu tư, đòi hỏi doanh thu thu được từ phương án sản xuất - kinh doanh, dự án đầu tư phải đủ lớn để trả gốc và lãi cho ngân hàng mà doanh nghiệp vẫn có lãi. Thêm vào đó, sự kiểm tra, giám sát của ngân hàng đối với khoản cho vay sau khi giải ngân có tác dụng giúp doanh nghiệp phát hiện được những nhược điểm, sai sót trong quá trình đầu tư, từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm hạn chế rủi ro cho cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng. 1.2.4.2. Đối với ngân hàng Hai hoạt động cơ bản của một NHTM là huy động vốn và cho vay. Nói cách khác, NHTM - trung gian tài chính lớn nhất trong nền kinh tế - đóng vai trò là người "đi vay để cho vay". Huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng tạo ra nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện nghiệp vụ cho vay. Khi huy động vốn từ nền kinh tế, ngân hàng phải bỏ ra chi phí. Để trang trải được các chi phí này, bắt buộc ngân hàng phải sử dụng vốn huy động vào lĩnh vực đem lại lợi nhuận. Thu nhập từ lãi vay là khoản thu nhập chủ yếu giúp trang trải được các chi phí huy động, chi phí hoạt động và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó, có thể nói tín dụng là nghiệp vụ quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của một NHTM. Không có hoạt động tín dụng thì không có NHTM. Tín dụng trung và dài hạn với đặc điểm là rủi ro cao, vốn đầu tư lớn, thời gian cho vay dài nên có lãi suất cao, là nguồn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Thông qua hoạt động tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng không ngừng mở rộng quy mô khách hàng: bằng việc thu hút thêm các khách hàng mới, tạo ra mối liên hệ chặt chẽ và lâu bền với các khách hàng truyền thống. Nhờ đó, ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, ngày càng khẳng định vị thế và vai trò của mình trong nền kinh tế. Một ngân hàng sẽ không thể tồn tại và phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường, có sự cạnh tranh gay gắt từ phía các ngân hàng và các trung gian tài chính khác nếu không đa dạng hoá hoạt động cho vay, khách hàng vay và thời hạn vay. Sau khi huy động được vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng không thể để vốn đó trong két mà phải sử dụng nó để tìm kiếm lợi nhuận. Mặt khác, ngân hàng không thể "ngừng" nhận tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế. Nếu không có phương án sử dụng vốn huy động một cách khả thi thì vốn huy động sẽ trở thành gánh nặnh cho ngân hàng (vì ngân hàng vẫn phải trả lãi tiền gửi). Tín dụng trung và dài hạn góp phần vào việc làm cho vốn huy động không bị nhàn rỗi, mà được sử dụng hiệu quả để đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Tín dụng trung và dài hạn là một trong các cơ sở để ngân hàng mở rộng huy động vốn, sử dụng vốn một cách khả thi, tăng sức cạnh tranh của bản thân ngân hàng. 1.2.4.3. Đối với nền kinh tế Ở mọi quốc gia, nhu cầu vốn trung và dài hạn để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, hiện đại hoá và mở rộng sản xuất đều rất lớn. Nhu cầu này có thể được đáp ứng bởi nhiều nguồn như: Ngân sách Nhà nước, viện trợ phát triển, vay nợ nước ngoài nhưng nguồn quan trọng nhất vẫn là tín dụng trung và dài hạn của các NHTM. Trong nền kinh tế, do đặc điểm về chu kì kinh doanh, chu kỳ thu nhập của các chủ thể là khác nhau, nên tồn tại hiện tượng: có những chủ thể tạm thời thặng dư vốn nhưng chưa có dự án để đầu tư; ngược lại, có những chủ thể có phương án sản xuất - kinh doanh khả thi nhưng lại thiếu hụt vốn. Tín dụng trung và dài hạn đã khắc phục tình trạng này bằng cách chuyển các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư sang tay những người cần vốn để đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh. Nhờ đó đã làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi trong lưu thông, tăng nhanh tốc độ quay vòng của vốn trong nền kinh tế. Tín dụng trung và dài hạn bằng cách tài trợ cho việc sửa chữa, thay thế, cải tiến máy móc, đổi mới công nghệ, các dự án xây dựng phát triển đã góp phần quan trọng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, tạo điều kiện cần cho sự phát triển của đất nước trong tương lai. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với những nước mà cơ sở hạ tầng kinh tế - kĩ thuật còn lạc hậu như nước ta. Thông qua việc cho vay đối với ngành nghề này mà không cho vay đối với ngành nghề khác, tín dụng trung và dài hạn đã có ảnh hưởng tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Việc ưu tiên tập trung vốn cho các ngành kinh tế then chốt, mũi nhọn có tác dụng tạo ra bước nhảy quan trọng cho nền kinh tế. Từ đó thúc đẩy, hỗ trợ, lôi cuốn các ngành kinh tế khác cùng đi lên, tạo ra sự phát triển đồng bộ và toàn diện của nền kinh tế. Tín dụng trung và dài hạn thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu. Nguồn vốn trung dài hạn mà các doanh nghiệp nhận được từ các NHTM giúp họ có thể nhập khẩu các máy móc, trang thiết bị hiện đại, công nghệ mới từ nước ngoài - vốn có giá rất cao. Các máy móc, công nghệ này là tiền đề để doanh nghiệp gia tăng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất. Điều này khiến cho hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước được nâng cao tính cạnh tranh so với hàng hoá của các nước trong khu vự và quốc tế, tạo cơ sở để tăng cường xuất khẩu. Tín dụng trung và dài hạn được mở rộng sẽ kéo theo sự phát triển của thị trường sử dụng vốn ngắn hạn. Nguồn vốn trung và dài hạn được đầu tư để trang bị máy móc, công nghệ hiện đại cho doanh nghiệp sẽ kích thích sản xuất phát triển. Khi sản xuất phát triển, tất yếu nhu cầu sử dụng vốn lưu động sẽ tăng lên, tạo ra thị trường sử dụng vốn ngắn hạn. Thị trường này càng được mở rộng khi tốc độ phát triển sản xuất càng cao. Tín dụng trung và dài hạn tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Nó mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, giúp doanh nghiệp làm ăn có lãi. NHTM và doanh nghiệp càng thu được nhiều lợi nhuận thì lượng thuế đóng cho ngân sách Nhà nước càng nhiều. Thêm vào đó, bằng việc kích thích nền kinh tế phát triển, kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng, lượng thuế gián thu thu được từ các hoạt động kinh tế cũng tăng lên. Ta biết rằng thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước nên thông qua việc làm tăng lượng thuế phải nộp, tín dụng trung và dài hạn góp phần làm cho ngân sách Nhà nước tăng trưởng ổn định và lâu dài. Tín dụng trung và dài hạn còn góp phần ổn định cuộc sống, tạo công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống của các tầng lớp dân cư. 1.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn 1.3.1. Khái niệm Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường đều phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đưa ra mức giá cả phù hợp,… NHTM - một doanh nghiệp đặc biệt - cùng không nằm ngoài quy luật đó. Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng là điều kiện hàng đầu để ngân hàng không ngừng phát triển. Hoạt động tín dụng có chất lượng cao sẽ góp phần nâng cao uy tín, tăng quy mô khách hàng cho ngân hàng. Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn trong việc thu hồi vốn thông qua sự phát huy hiệu quả của phương án được hình thành bằng đồng tiền vay hay hạn chế thấp nhất rủi ro về đồng vốn, tăng lợi nhuận của ngân hàng, phù hợp và phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội. Từ khái niệm trên, có thể thấy chất lượng tín dụng được đánh giá trên cả ba giác độ: khách hàng, ngân hàng và nền kinh tế. Chất lượng tín dụng xét trên giác độ khách hàng Đối với khách hàng, chất lượng tín dụng được hiểu là sự thoả mãn tối đa các nhu cầu về tiền gửi, vay vốn với mức lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản đảm bảo tiết kiệm thời gian và chi phí cho khách hàng nhưng vẫn tuân thủ đúng các nguyên tắc và quy định của pháp luật về tín dụng. Trong quan hệ tín dụng, khách hàng là đối tác của ngân hàng nên việc duy trì mối quan hệ thường xuyên và lâu dài với khách hàng sẽ giúp cho ngân hàng có sự am hiểu về khách hàng. Từ đó, ngân hàng hiểu rõ được nhu cầu tín dụng của khách hàng, đảm bảo thoả mãn hợp lý nhu cầu về vốn của họ. Chất lượng tín dụng xét từ giác độ ngân hàng Trên quan điểm của ngân hàng, chất lượng tín dụng trước hết phải mang tính an toàn, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Tuy nhiên trong hoạt động tín dụng, rủi ro là điều không thể tránh khỏi, nhưng nếu xét trên tổng thể các khoản tín dụng của ngân hàng , nếu tuân thủ đầy đủ và nghiêm chỉnh các quy định và nguyên tắc tín dụng thì nguồn vốn của ngân hàng sẽ được đảm bảo an toàn. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngày nay, chất lượng tín dụng cũng bao gồm khả năng cạnh tranh của ngân hàng, thể hiện ở khả năng thu hút và mở rộng khách hàng phù hợp với năng lực theo hướng tích cực của ngân hàng. Thêm vào đó, chất lượng tín dụng còn thể hiện ở: chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng mức quy định và ngày càng giảm, sự phù hợp về cơ cấu giữa nguồn ngắn, trung và dài hạn của ngân hàng. Chất lượng tín dụng xét trên giác độ nền kinh tế Thông qua các khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp để đầu tư vào mở rộng sản xuất, phát triển theo chiều sâu, sẽ góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Như vậy, xét trên giác độ nền kinh tế, chất lượng tín dụng thể hiện ở sự đóng góp vào việc tạo việclàm cho người lao động, hạn chế thất nghiệp, khai thác được các tiềm năng của nền kinh tế, tận dụng được tối đa được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vay vốn nước ngoài có lợi cho sự phát triển kinh tế. Như vậy, thông qua việc xem xét chất lượng tín dụng trên ba giác độ: khách hàng, ngân hàng, nền kinh tế, có thể khái quát một số điểm đặc trưng về chất lượng tín dụng như sau: Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính trừu tượng. Nó được thể hiện cụ thể thông qua các chỉ tiêu cụ thể như: dư nợ, thu nhập từ lãi vay, tỉ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi, … Mặt khác, nó cũng được thể hiện qua các chỉ tiêu như: khả năng thu hút khách hàng, uy tín của ngân hàng, … Chất lượng tín dụng cho thấy năng lực của ngân hàng trong quá tr._.ình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Nó thể hiện ở các mặt: đầu tư có hiệu quả, thủ tục cho vay đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng … Tín dụng trung và dài hạn được đánh giá là có chất lượng khi: - Mục tiêu đầu tư phù hợp với sự chiến lược phát triển của nền kinh tế, của xã hội, phù hợp với xu hướng của thị trường. - Thủ tục cho vay tuân thủ đúng các quy định và nguyên tắc tín dụng. - Quản lý các khoản tín dụng chặt chẽ, hạn chế phát sinh nợ quá hạn. Có biện pháp xử lý rủi ro phù hợp và linh hoạt. - Khách hàng được cấp tín dụng có kinh nghiệm trong sản xuất - kinh doanh, có khả năng cạnh tranh trên thị truờng, khai thác tốt vốn đầu tư, trả nợ ngân hàng đúng hạn cả gốc và lãi. 1.3.2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn Vì chất lượng tín dụng nói chung, chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng là một chi tiêu vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính trừu tượng. Do đó, để đánh giá được chất lượng tín dụng trung và dài hạn cần thiết lập hai nhóm chỉ tiêu: chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng. 1.3.2.1. Chỉ tiêu định tính Nhóm chỉ tiêu này thể hiện ở một số khía cạnh sau: - Khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng: thủ tục đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, kỳ hạn và phương thức thanh toán phù hợp với chu kỳ kinh doanh và chu kỳ thu nhập của khách hàng. - Ngân hàng có lịch sử hoạt động lâu đời, cơ sở vật chất được trang bị tốt và đầy đủ. Hình thức huy động vốn, hình thức cho vay và đầu tư đa dạng. Ngân hàng không ngừng cung ứng các dịch vụ mới. - Đối tượng khách hàng đa dạng, lượng khách hàng vay đông đảo, không ngừng được mở rộng. 1.3.2.2. Chỉ tiêu định lượng Dư nợ tín dụng trung và dài hạn Tổng dư nợ của ngân hàng bao gồm: dư nợ vốn ngắn hạn, dư nợ vốn trung dài hạn, vốn góp đồng tài trợ. Chỉ tiêu dư nợ phản ánh số còn cho vay của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định - thường là một năm. Chỉ tiêu này phản ánh một phần uy tín, khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng. Tổng dư nợ cao chứng tỏ ngân hàng có khả năng cho vay được nhiều, có khả năng thu hút khách hàng, uy tín của ngân hàng tương đối tốt. Ngược lại, tổng dư nợ thấp cho thấy ngân hàng chưa có khả năng thu hút khách hàng, việc tiếp thị, quảng bá hình ảnh của ngân hàng ra công chúng chưa được chú ý dúng mức, uy tín của ngân hàng chưa cao, khả năng mở rộng khách hàng còn hạn chế, việc cho vay chưa phát triển. Tuy nhiên không thể chỉ dựa vào một chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng mà cần căn cứ vào từng hoàn cảnh và kết hợp với nhiều chỉ tiêu khác. Dư nợ tín dụng TDH Tỷ lệ dư nợ tín dụng TDH = Tổng dư nợ tín dụng Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng của tín dụng trung và dài hạn trong tổng dư nợ. Thông qua chỉ tiêu này có thể so sánh quy mô của tín dụng trung và dài hạn so với tín dụng ngắn hạn. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ ngân hàng có quy mô tín dụng trung và dài hạn càng lớn, đồng thời đem lại cho ngân hàng thu nhập cao nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Hệ số sử dụng vốn trung và dài hạn Dư nợ tín dụng TDH Hệ số sử dụng vốn TDH = Tổng nguồn vốn TDH Tỷ lệ này cho biết mức độ sử dụng vốn trung và dài hạn để đầu tư cho tín dụng trung và dài hạn. Nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 1, chứng tỏ nguồn vốn trung và dài hạn đủ để tài trợ cho tín dụng trung và dài hạn, tín dụng trung và dài hạn có sự phù hợp về kỳ hạn nên độ an toàn được đảm bảo. Ngược lại, nếu tỷ lệ này lớn hơn 1, chứng tỏ nguồn vốn huy động trung và dài hạn không đủ để tài trợ cho tín dụng trung và dài hạn nên ngân hàng đã phải sử dụng một phần vốn huy động ngắn hạn để tài trợ cho tín dụng trung và dài hạn. Khi xảy ra tình trạng này, tín dụng trung và dài hạn không còn an toàn nữa. Vòng quay vốn tín dụng trung và dài hạn Doanh số thu nợ TDH trong kỳ Vòng quay vốn tín dụng TDH = Dư nợ tín dụng TDH trong kỳ Ngân hàng thu nợ theo kế hoạch theo hợp đòng tín dụng và tiếp tục cho vay món mới. Vòng quay vốn tín dụng cho biết hiệu quả trong việc sử dụng vốn của ngân hàng. Vòng quay này càng lớn chứng tỏ ngân hàng sử dụng vốn càng hiệu quả. Vòng quay vốn tín dụng trung dài hạn nhỏ hơn hoặc bằng với chu kỳ kinh doanh của khách hàng cho thấy khách hàng trả nợ đúng hạn, chất lượng tín dụng của ngân hàng tốt. Ngược lại, khách hàng không thể hoàn trả nợ đúng hạn, làm phát sinh nợ quá hạn hoặc ngân hàng phải tiến hành gia hạn nợ cho khách hàng - điều này phản ánh chất lượng yếu. Nợ quá hạn và nợ khó đòi Nợ quá hạn trung và dài hạn Tỷ lệ nợ quá hạn TDH = Dư nợ tín dụng trung và dài hạn Khi đến kỳ hạn trả nợ, nếu khách hàng không thể hoàn trả đầy đủ và đúng hạn, không được ngân hàng gia hạn nợ thì khoản nợ đó sẽ được chuyển thành nợ quá hạn. Chỉ tiêu trên cho biết giá trị của các khoản nợ quá hạn trung và dài hạn trong tổng dư nợ trung và dài hạn. Nợ khó đòi trung và dài hạn Tỷ lệ nợ khó đòi TDH 1 = Nợ quá hạn trung và dài hạn Nợ quá hạn trung và dài hạn Tỷ lệ nợ khó đòi TDH 2 = Dư nợ tín dụng trung dài hạn Các chỉ tiêu về nợ quá hạn cho biết giá trị của các khoản nợ khó đòi trung và dài hạn trong nợ quá hạn trung và dài hạn hay trong dư nợ tín dụng trung và dài hạn. Các chỉ tiêu về nợ quá hạn và nợ khó đòi phản ánh rõ nét chất lượng tín dụng của ngân hàng. Chất lượng tín dụng của ngân hàng tỉ lệ nghịch với độ lớn của các chỉ tiêu này. Các chỉ tiêu này càng lớn, càng chứng tỏ hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng có độ rủi ro cao, công tác thu hồi nợ của ngân hàng chưa hiệu quả, do đó sẽ ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng. Chỉ tiêu này cũng cho thấy không phải lúc nào dư nợ tín dụng cao cũng tốt vì nếu ngân hàng không có chiến lựoc quản lý nợ tốt thì sẽ dẫn tới phát sinh nhiều nợ quá hạn, nợ khó đòi. Chỉ tiêu lợi nhuận Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn Chỉ tiêu lợi nhuận 1 = Dư nợ tín dụng trung và dài hạn Chỉ tiêu này phả ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung và dài hạn, cho biết một đồng dư nợ tín dụng trung và dài hạn đem lại cho ngân hàng bao nhhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao càng chứng tỏ tín dụng trung và dài hạn là một nghiệp vụ sinh lời cao. Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn Chỉ tiêu lợi nhuận 2 = Tổng thu nhập của ngân hàng Chỉ tiêu này cho biết lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng thu nhập của ngân hàng. Nó phản ánh tầm quan trọng của tín dụng trung và dài hạn trong hoạt động ngân hàng. Nếu các chỉ tiêu về lợi nhuận cao chứng tỏ hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng có chất lượng cao, đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn Việc xác định các nhân tố có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn là rất quan trọng trong việc đề ra giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động này. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn, nhưng có thể chia thành 3 nhóm nhân tố sau đây: 1.3.3.1. Nhân tố thuộc về phía khách hàng Khách hàng là đối tác của ngân hàng trong quan hệ tín dụng nên chất lượng tín dụng trung và dài hạn được quyết định một phần bởi chính khách hàng. Các nhân tố thuộc về phía khách hàng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn là: Mong muốn đầu tư trung và dài hạn của doanh nghiệp. Nhân tố này quyết định nhu cầu tín dụng trung và dài hạn của khách hàng. Ngân hàng chỉ có thể mở rộng tín dụng trung và dài hạn khi mong muốn này của doanh ngiệp là lớn. Khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng của ngân hàng. Mặc dù, doanh nghiệp có nhu cầu lớn về tín dụng trung và dài hạn nhưng nếu không đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn của ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng thì ngân hàng cũng không thể đáp ứng được nhu cầu đó. Các điều kiện, tiêu chuẩn ngân hàng sẽ xem xét trong quá trình quyết định cấp tín dụng trung và dài hạn cho khách hàng là: - Năng lực thị trường của doanh nghiệp: được biểu hiện thông qua các mặt như: số lượng sản phẩm tiêu thụ, chất lượng sản phẩm, sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng, mạng lưới tiêu thụ của doanh nghiệp, vị thế của doanh nghiệp trong ngành và trong nền kinh tế, tiềm năng phát triển trong tương lai của doanh nghiệp, … Năng lực thị trường càng cao, nhu cầu đầu tư trung và dài hạn càng lớn, rủi ro của khoản tín dụng cấp cho doanh nghiệp càng được giam thiểu, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. - Năng lực sản xuất của doanh nghiệp: biểu hiện qua quy trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất, việc làm chủ giá thành sản phẩm, … Năng lực sản xuất và năng lực thị trường tốt có nghĩa là doanh nghiệp phải sản xuất ổn định và có lãi. Khi đó, doanh nghiệp có thể đáp ứng tốt các điều kiện để được ngân hàng cấp tín dụng. - Năng lực tài chính của doanh nghiệp: thể hiện ở lượng vốn tự có, tỷ trọng vốn tự có trên tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, khả năng thanh toán của doanh nghiệp, … Năng lực tài chính của doanh nghiệp cho biết mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. năng lực tài chính cao sẽ là một điều kiện đảm bảo an toàn cho các khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho doanh nghiệp, đồng thời tạo cơ sở cho ngân hàng mở rộng tín dụng trung và dài hạn. - Khả năng quản lý của doanh nghiệp: một doanh nghiệp muốn làm ăn hiệu quả cần có sự tổ chức quản lý chặt chẽ và khoa học. Do đó, doanh nghiệp có trình độ quản lý cao thì khả năng thu hồi vốn của ngân hàng sẽ cao hơn so với một doanh nghiệp có đội ngũ quản lý thường xuyên xáo trộn, năng lực quản lý yếu kém. - Quyền sở hữu tài sản, khả năng đáp ứng các biện pháp đảm bảo: thông thường để được nhận một khoản tín dụng, doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo để cầm cố hoặc thế chấp. Vì vậy, quyền sở hữu tài sản được xác định rõ ràng sẽ tạo ra sự an toàn cho ngân hàng khi cho vay dựa trên giá trị tài sản bảo đảm. 1.3.3.2. Nhân tố thuộc về phía ngân hàng Vốn tự có của ngân hàng Để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, Luật các tổ chức tín dụng có quy định giới hạn cho vay đối với một khách hàng và một nhóm khách hàng có liên quan dựa trên vốn tự có của ngân hàng. Như vậy, vốn tự có có ảnh hưởng đến khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng, do đó quyết định nhu cầu vốn cần huy động cũng như thu nhập từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, việc tăng cường vốn tự có của ngân hàng sẽ tạo điều kiện để ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Chính sách tín dụng Đây là những quy định thành văn của mỗi ngân hàng khi cho khách hàng vay nhằm nhiều mục đích khác nhau, đem lại cho cán bộ tín dụng sự hướng dẫn cần thiết để tạo ra sự thống nhất trong hoạt động cho vay. Chính sách tín dụng gồm có các nội dung cơ bản sau: qui mô và giới hạn cho vay, lãi suất, kì hạn trả nợ, thời hạn cho vay, các biện pháp đảm bảo tiền vay, đối tượng khách hàng mà ngân hàng hướng tới, thẩm quyền quyết định cho vay, hạn mức cho vay, các biện pháp xử lý các khoản tín dụng có vấn đề. Chính sách tín dụng có ý nghĩa to lớn đối với sự thành công hay thất bại của ngân hàng bởi vì một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Quy trình tín dụng Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng. Đây là một quá trình bao gồm nhiều bước: hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ xin vay vốn; thẩm định khả năng hiệu quả và khả năng trả nợ; quyết định cho vay; giải ngân; kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và quá trình trả nợ của khách hàng; thu nợ, thu lãi, phí và xử lý các vấn đề phát sinh; cuối cùng là chấm dứt hợp đồng tín dụng. Các bước này mang tính chất liên hoàn, theo một trình tự nhất định, không thể bỏ qua một bước nào. Một quy trình tín dụng chặt chẽ, khoa học sẽ giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả cho vay thông qua việc tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả hai bên, giảm thiểu rủi ro, nâng cao thu nhập cho ngân hàng. Đây chính là điều kiện để ngân hàng mở rộng tín dụng mà vẫn hạn chế và kiểm soát được rủi ro. Thông tin tín dụng Thông tin tín dụng có vai trò rất quan trọng trong quyết định cho vay, trong việc hạn chế và kiểm soát rủi ro của ngân hàng. Vì vậy, thông tin tín dụng đầy đủ, có chất lượng (trung thực và mang tính dự đoán trong tương lai) sẽ giúp ngân hàng nhận định đúng về khách hàng, về sự biến động của thị trường. Từ đó ngân hàng có thể đưa ra các quyết định cho vay đúng đắn, chớp lấy cơ hội kinh doanh, giảm thiểu rủi ro, không ngừng mở rộng khách hàng, tăng cường uy tín. Công tác huy động vốn Ngân hàng cho vay dựa chủ yếu trên nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức trong nền kinh tế. Ngân hàng chỉ có thể mở rộng cho vay trung và dài hạn khi nguồn vốn huy động vốn trung và dài hạn là dồi dào, tạo ra sự phù hợp về kỳ hạn giữa nguồn cho vay và thời hạn cho vay, hạn chế dược các rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản. Trình độ cán bộ tín dụng, công tác tổ chức quản lý tín dụng Một khoản tín dụng chỉ có thể có chất lượng cao khi cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có nhiều hiểu biết về lĩnh vực hoạt động của khách hàng xin vay, có đạo đức nghề nghiệp. Bên cạnh đó, công tác tổ chức quản lý, phân công công việc rõ ràng, chuyên môn hoá sẽ tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, giúp tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả cho vay của ngân hàng. Trang thiết bị hiện đại: giúp ngân hàng thực hiện nghiệp vụ, nắm bắt thông tin một cách nhanh chóng, quản lý các khoản tín dụng một cách dễ dàng. 1.3.3.3. Nhân tố khách quan Môi trường kinh tế xã hội Môi trường kinh tế xã hội là tổng hoà các mối quan hệ tác động lên các hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Một môi trường kinh tế xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư sản xuất, lưu thông hàng hoá, do đó tạo ra nhu cầu về vốn trung và dài hạn cũng như tạo ra khả năng thanh toán cho doanh nghiệp. Đây là tiền đề để mở rộng hoạt động tín dụng và nâng cao chất lượng của các khoản tín dụng trung và dài hạn. Chu kỳ kinh tế cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Khi nền kinh tế phát triển ổn định, nhu cầu tín dụng cao, các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, ngân hàng có thể dễ dàng đạt được chất lượng tín dụng cao. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất nên nhu cầu tín dụng bị thu hẹp, các khoản tín dụng đã cấp khó thu hồi đầy đủ và đúng hạn. Do đó, chính sách tín dụng của ngân hàng phải căn cứ vào tính chu kỳ của nền kinh tế. Môi trường pháp lý Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp. Các văn bản pháp lý có vai trò hướng dẫn hoạt động tín dụng của ngân hàng, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng, giúp ngân hàng xử lý các tranh chấp trong hoạt động tín dụng. Mặt khác, môi trường pháp lý có ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, nên nó tác động gián tiếp tới nhu cầu vốn và hiệu quả sản xuất - kinh doanh, hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp.Vì vậy, một môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ và ổn định là cơ sở nền tảng để ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng. Môi trường chính trị Khi môi trường chính trị không ổn định, các doanh nghiệp và ngân hàng không thể yên tâm để hoạt động, công chúng đầu tư mất lòng tin khiến cho doanh nghiệp và ngân hàng khó huy động vốn. Trong điều kiện đó, ngân hàng buộc phải thu hẹp tín dụng. Vì vậy, môi trường chính trị ổn định là một nhân tố có tác động lớn đến việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Như vậy, chất lượng tín dụng trung và dài hạn chịu tác động của nhiều nhân tố. Việc hiểu biết rõ và vận dụng sáng tạo các nhân tố này sẽ giúp cho ngân hàng phát triển hoạt động tín dụng, tăng khả năng cạnh tranh cũng như uy tín của mình. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NHĐT&PT HÀ NỘI 2.1. Khái quát về chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Ngày 27/05/1957, Chi nhánh Kiến thiết thành phố Hà Nội - tiền thân của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (NHĐT&PT) Hà Nội ngày nay - đã ra đời chỉ sau 1 tháng kể từ ngày Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam được thành lập. Trải qua hơn 48 năm hoạt động, ngân hàng được ghi dấu sự tồn tại và phát triển theo yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng với các tên gọi sau: - Chi nhánh Kiến thiết thành phố Hà Nội (1957 - 1981) với nhiệm vụ là nhận vốn từ ngân sách ngân sách Nhà nước để tiến hành cấp phát và cho vay vốn trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. - Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Hà Nội (1982 - 1989) nằm trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam. - Chi nhánh NHĐT&PT Hà Nội (từ năm 1990 đến nay). Từ khi thành lập cho đến nay, Chi nhánh NHĐT&PT Hà Nội trải qua 4 giai đoạn phát triển: - Giai đoạn 1957 - 1963: phục vụ công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh chống Pháp và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. - Giai đoạn 1965 - 1975: phục vụ chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. - Giai đoạn 1975 - 1995: Bộ phận cấp phát vốn ngân sách tách khỏi NHĐT&PT Việt Nam trở thành Tổng cục. - Từ năm 1995 đến nay: hoạt động của NHĐT&PT Việt Nam nói chung, chi nhánh thành phố Hà Nội nói riêng chuyển sang giai đoạn mới: kinh doanh đa năng tổng hợp, thực sự trở thành một ngân hàng thương mại nhà nước, phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư phát triển trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi mới thành lập, Chi nhánh chỉ có 2 phòng là phòng Cấp phát và phòng Kế toán, đã thực hiện cung ứng 350 triệu đồng cho 912 công trình, các khu công nghiệp quan trọng, phục hồi giao thông và hạ tầng kỹ thuật đô thị, đầu tư xây dựng mới vành đai công nghiệp phía Nam Hà Nội. Đến tháng 9/1963, Ngân hàng Kiến thiết Hà Nội đã thành lập thêm 3 chi điếm là Gia Lâm, Thanh Trì và Từ Liêm. Đến năm 1966, tiếp tục thành lập chi điếm thứ 4 là chi điếm Đông Anh. Với việc các chi nhánh Gia Lâm (2001), Thanh Trì (2004), Từ Liêm và Đông Anh (2005) được nâng cấp thành chi nhánh cấp 1, hiện nay chi nhánh NHĐT&PT Hà Nội chỉ gồm các đơn vị trực thuộc là các phòng giao dịch. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức chung Giám đốc: là người đứng đầu và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc NHĐT&PT Việt Nam về điều hành chi nhánh NHĐT&PT Hà Nội Các Phó giám đốc: Hiện nay chi nhầnh NHĐT&PT Hà Nội có 4 Phó giám đốc được Giám đốc phân công phụ trách 1 số công viêc và trực tiếp chỉ đạo một số phòng thuộc bộ máy của chi nhánh NHĐT&PT Hà Nội (gọi tắt là phụ trách khối). Trưởng các phòng, ban, bộ thuộc NHĐT&PT Hà Nội chịu trách nhiệm điều hành, giải quyết các mặt công tác thuộc chức năng nhiệm vụ của phòng ban mình và phải chịu trách nhiệm về các vấn đề đó. Sơ đồ cơ cấu tổ chức các phòng ban của NHĐT&PT Hà Nội Ban giám đốc Phòng Điện toán Phòng Tiền tệ KQ Phòng TD 4 Phòng DVKHDN Phòng DVKH CN Các ĐV trực thuộc Khối hỗ trợ khách hàng Khối dịch vụ khách hàng Phòng TD 3 Phòng TD 2 Phòng TD 1 Khối tín dụng Phòng TTQT Phòng Kế hoạch NV Phòng TĐ-QLTD Khối KTKTNB Phòng tổ chức CB Văn phòng Khối QL nội bộ Các phòng GD 1, 2, 6, 10, 11, 12, 17, 18 Phòng tài chính kế toán 2.1.2.2. Chức năng nhiệm vụ cụ thể của một số phòng ban Phòng tín dụng Hiện nay, chi nhánh ĐT&PT Hà Nội gồm có 4 phòng tín dụng: - Phòng tín dụng 1: chuyên về các khách hàng xây lắp giao thông. - Phòng tín dụng 2: chuyên về các khách hàng là doanh nghiệp của thành phố và dự án của thành phố. - Phòng tín dụng 3: chuyên về các khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Phòng tín dụng 4: chuyên về các khách hàng thuộc khối kinh tế địa phương. Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của khối tín dụng là: Thực hiện cho vay ngắn hạn, cho vay đầu tư (trung và dài hạn) đối với các dự án đầu tư, bảo lãnh, tín dụng tài trợ cho các doanh nghiệp, đơn vị và cá nhân theo quy trình nghiệp vụ và quy định hiện hành. Phòng kế hoạch nguồn vốn - Không ngừng tăng trưởng vững chắc nguồn vốn với chi phí thấp để phục vụ tăng trưởng trong hoạt động phục vụ đầu tư và phát triển kinh doanh của chi nhánh. - Tổ chức sử dụng có hiệu quả và an toàn nguồn vốn của chi nhánh. - Đảm bảo cân đối nguồn vốn, sử dụng vững chắc, tổ chức chu chuyển vốn hợp lý. Phòng thanh toán quốc tế - Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thanh toán xuất, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ của khách hàng. - Thực hiện tư vấn về nghiệp vụ ngoại thương, thanh toán quốc tế, hỗ trợ trong đàm phán với đối tác nước ngoài cho khách hàng. - Lập báo cáo về hoạt động thanh toán quốc tế theo quy định. Phòng tài chính kế toán Thực hiện công tác kế toán tài chính cho toàn bộ hoạt động của chi nhánh (không làm nhiệm vụ kế toán khách hàng và tiết kiệm), bao gồm: - Tổ chức, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra công tác hạch toán kế toán và chế độ báo cáo kế toán của các phòng/ ban trực thuộc. - Hậu kiểm (đối chiếu, kiểm soát) các chứng từ thanh toán của các phòng tại chi nhánh. - Lập và phân tích các báo cáo tài chính của chi nhánh. - Phân tích và đánh giá tài chính, hiệu quả kinh doanh của các phòng/ban trực thuộc chi nhánh. 2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHĐT&PT Hà Nội 3 năm gần đây (2003 -2005). 2.1.3.1. Tình hình huy động vốn Bảng 1. Tình hình huy động vốn của NHĐT&PT Hà Nội Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Tổng nguồn vốn huy động 8.068 9.484 12.934 a,Tiền gửi của dân cư 4.610 5.331 6.781 Trong đó: - không kỳ hạn 470,22 693,03 793,38 - có kỳ hạn < 1 năm 2.950,4 3.310,55 4.360,18 - có kỳ hạn > 1 năm 1.189,38 1.327,42 1.627,44 b,Tiền gửi của tổ chức kinh tế 508 741 847 Trong đó: - không kỳ hạn 67,56 105,96 152,98 - có kỳ hạn < 1 năm 314,96 496,47 550,38 - có kỳ hạn > 1 năm 125,48 138,57 143,64 c, Phát hành giấy tờ có giá 2.950 3.412 5.306 Trong đó: - ngắn hạn 1.888 2.231 3.448 - trung dài hạn 1.062 1.181 1.858 Nguồn:Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHĐT&PT Hà Nội Qua bảng tình hình huy động vốn của chi nhánh NHĐT&PT Hà Nội, có thể thấy lượng vốn huy động của chi nhánh tăng liên tục: năm 2004 tăng 17,55% so với cùng kỳ năm 2003; năm 2005 tăng 36,38% so với năm 2004. Theo tiêu thức đối tượng huy động: tỷ trọng tiền gửi của dân cư và tiền gửi của các tổ chức kinh tế (TCKT) tương đối ổn định qua các năm. Về mặt tuyệt đối, lượng tiền gửi của dân cư và của các TCKT luôn tăng lên so với năm trước. Tuy nhiên về mặt tương đối, tỷ trọng tiền gửi của dân cư có xu hướng giảm dần, dù không rõ rệt. Tỷ trọng tiền gửi của các TCKT tăng nhưng rất chậm. Theo tiêu thức thời hạn: nguồn vốn trung và dài hạn của NHĐT&PT Hà Nội không chỉ được mở rộng qua các năm. Điều này chứng tỏ công tác huy động vốn trung dài hạn của chi nhánh đang có hiệu quả. 2.1.3.2. Tình hình cho vay Bảng 2. Tình hình cho vay của NHĐT&PT Hà Nội Đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Tổng dư nợ 5.218 5.828 6.642 a, Theo tiêu thức thời hạn TD ngắn hạn 4.279 4.516 5.019 TD trung dài hạn 939 1.312 1.623 b, Theo đối tượng khách hàng Doanh nghiệp Nhà nước 4.187 4.557 5.114 Doanh nghiệp phi Nhà nước 1.031 1.271 1.528 c, Theo tài sản đảm bảo Có TSBĐ 2.348 3.672 5.314 Không có TSBĐ 2.870 2.156 1.328 Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHĐT&PT Hà Nội Hoạt động tín dụng của chi nhánh NHĐT&PT Hà Nội trong ba năm gần đây đã cơ bản bám sát mục tiêu chủ động tăng trưởng, gắn tăng trưởng với kiểm soát chất lượng, đảm bảo an toàn và phát triển các dịch vụ, chấp hành nghiêm túc giới hạn tín dụng cũng như quy định, kỷ luật điều hành. Tổng dư nợ (không kể ODA, nợ khoanh, chờ xử lý) không ngừng tăng: năm 2004 tăng 11,69% so với năm 2003; năm 2005 tăng 13,97% so với năm 2004. Trong đó: Dư nợ tín dụng ngắn hạn không ngừng mở rộng về mặt lượng nhưng tỷ trọng trong tổng dư nợ lại giảm dần. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn tăng qua các năm cả về mặt tuyệt đối và tương đối. Dư nợ đối với các doanh nghiệp phi Nhà nước tăng dần so với dư nợ của các doanh nghiệp Nhà nước. Dư nợ có tài sản đảm bảo tăng dần (cùng với việc thực hiện Đề án xử lý nợ tồn đọng của NHĐT&PT Việt Nam và việc ban hành Quyết định 493/NHNN về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro). Điều này chứng tỏ hoạt động tín dụng của chi nhánh ngày càng hướng tới sự an toàn. 2.1.3.3. Tình hình thu nhập Bảng 3. Một số chỉ tiêu về thu nhập, chi phí của NHĐT&PT Hà Nội Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Thu nhập 2.137 2.398 2.631 Chi phí 1.017 1.209 1.408 Lợi nhuận trước thuế 1.120 1.189 1.223 Thuế thu nhập doanh nghiệp 313,6 332,92 342,44 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHĐT&PT Hà Nội Chi nhánh NHĐT&PT Hà Nội trong 3 năm gần đây luôn làm ăn có lãi. Lợi nhuận gia tăng qua từng năm: năm 2004 tăng 6,16%% so với năm 2003, năm 2005 tăng 2,86%% so với năm 2004. Sở dĩ, lợi nhuận của chi nhánh giảm sút về số tương đối là do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ phía các ngân hàng khác cùng địa bàn. 2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh NHĐT&PT Hà Nội 2.2.1. Quy chế tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh NHĐT&PT Hà Nội 2.2.1.1. Các quy định của tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh NHĐT&PT Hà Nội Mục đích cho vay trung và dài hạn: giúp doanh nghiệp có điều kiện khôi phục, đổi mới trang thiết bị, ứng dụng khoa học công nghệ mới, mở rộng sản xuất, đầu tư cho các dự án xây dựng nhằm tạo ra lợi nhuận phù hợp quy định của pháp luật và sự phát triển của nền kinh tế. Đối tượng của tín dụng trung và dài hạn: là các chi phí cấu thành tổng mức vốn đầu tư của dự án như: chi phí thuê, mua đất, chi phí xây dựng nhà xưởng, chi phí mua sắm máy móc thiết bị, mua công nghệ sản xuất, mua các phương tiện vận chuyển, chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, nước, đường sá,…), … Thời hạn tín dụng trung và dài hạn: được tính từ khi đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn cuối cùng và lãi cuối cùng phải thu về. Thời hạn tín dụng có thể được chia thành thời gian đầu tư, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ. Thời hạn tín dụng do ngân hàng và khách hàng thoả thuận căn cứ vào chu kỳ sản xuất - kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng, khả năng nguồn vốn cho vay của ngân hàng. Lãi suất tín dụng trung và dài hạn: lãi suất tín dụng cụ thể do Ngân hàng và khách hàng thoả thuận. Ngân hàng và khách hàng có thể thoả thuận áp dụng lãi suất cho vay cố định trong suốt thời gian vay vốn hoặc lãi suất cho vay có điều chỉnh (theo định kỳ hoặc theo thông báo lãi suất suất trên thị trường quốc tế hay thông báo lãi suất của ngân hàng). Dù lãi suất được xác định thế nào thì nó luôn bao gồm: lãi suất huy động, chi phí hoạt động của ngân hàng, thuế, lợi nhuận dự tính và mức bù rủi ro. Mức và giới hạn tín dụng trung và dài hạn: mức tín dụng trung và dài hạn được xác định căn cứ vào nhu cầu vay vốn, khả năng hoàn trả nợ và khả năng bảo đảm tiền vay của khách hàng và khả năng nguồn vốn của ngân hàng, nhưng tối đa không vượt quá giới hạn tín dụng. Giới hạn tín dụng: tổng dư nợ cho vay của ngân hàng đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Nguồn vốn cho vay: nguồn vốn hình thành nên các khoản tín dụng trung và dài hạn gồm có: - Vốn tự có của ngân hàng. - Nguồn vốn huy động của dân cư dưới hình thức phát hành trái phiếu dài hạn, huy động tiền gửi định kỳ dài hạn. Ngoài ra, theo quy định của pháp luật hiện hành, ngân hàng được sử dụng tối đa 40% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. - Vốn vay từ Ngân hàng Nhà nước. - Vay nợ nước ngoài để cho vay trung và dài hạn. Biện pháp đảm bảo tiền vay: NHĐT&PT Hà Nội áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay sau: - Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản: cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay; bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. - Biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với những khách hàng đủ điều kiện. Các biện pháp bảo đảm tiền vay nhằm hạn chế thiệt hại cho ngân hàng khi khách hàng không thể trả được nợ, giảm thiểu rủi ro mất vốn. Phương thức cho vay: ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về việc áp dụng các phương thức cho vay sau: - Cho vay từng lần (cho vay theo món): áp dụng với khách hàng có quan hệ không thường xuyên với ngân hàng, có nguồn thu thường không ổn định. - Cho vay theo hạn mức tín dụng: áp dụng với khách hàng có quan hệ thường xuyên với ngân hàng, có sản xuất - kinh doanh ổn định và có hiệu quả. - Cho vay theo dự án đầu tư: ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ cuộc sống. - Cho vay hợp vốn: ngân hàng cùng một số tổ chức tín dụng khác cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hang, trong đó ngân hàng hoặc một tổ chức tín dụng khác làm đầu mối thu xếp. - Cho vay trả góp: khi cho vay, ngân hàng cùng kháchhàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. - Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: ngân hàng cam kết sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định để giúp khách hàng chủ động thu xếp các nguồn vốn cần thiết nhằm thực hiện dự án đầu tư phát triển hoặc phương án sản xuất kinh doanh trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng dự phòng. - Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước và NHĐT&PT Việt Nam. Phương thức hoàn trả nợ gốc và lãi: căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh, luân chuyển vốn, khả năng tài chính, thu nhập và nguồn trả nợ của khách hàng, việc xác định kỳ hạn trả nợ gốc và lãi tiền vay được quy định thoả thuận như sau: - Các kỳ hạn trả nợ gốc và số tiền trả nợ của mối kỳ hạn. - Thu lãi tiền vay theo định kỳ hàng tháng, hoặc quý, vụ, chu kỳ sản xuất, hoặc thu lãi vay cùng với nợ gốc theo kỳ hạn trả nợ. 2.2.1.2. Quy trình tín dụng trung và dài hạn Quy trình tín._.ửi một nơi rút tiền nhiều nơi,… Bên cạnh đó, cần mở rộng huy động các ngoại tệ mạnh khác ngoài USD như EUR, GBP, JPY… Để hạn chế việc người dân rút tiền, ngân hàng cần phổ biến và hướng dẫn người dân (đặc biệt là những người có thu nhập cao và ổn định) những dịch vụ ngân hàng hiện đại như: mở tài khoản sử dụng thẻ ATM, trả lương qua tài khoản, … Các dịch vụ này sẽ nhằm khuyến khích họ sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, qua đó giảm được luợng tiền mặt trong lưu thông, ngân hàng có thể tận dụng nguồn tiền gửi của dân cư một cách lâu dài. Để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi gửi tiền, ngân hàng cần đơn giản hoá các thủ tục nhận tiền gửi, mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch tại các khu dân cư đông đúc, các trung tâm thương mại (tức là ngân hàng cần thực hiện phương châm đến với khách hàng chứ không chờ khách hàng đến với mình). Tăng cường huy động vốn từ các tổ chức kinh tế Nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế thường là các nguồn lớn và ổn định nên tiết kiệm được thời gian và chi phí huy động cho ngân hàng. Để mở rộng nguồn này, ngân hàng cần: - Thiết lập mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ với các tổ chức có lượng tiền gửi lớn như: Kho bạc, các công ty bảo hiểm, Quỹ hỗ trợ phát triển, …, đưa ra các hình thức lãi suất hấp dẫn, linh hoạt và cung cấp thêm các dịch vụ tiện ích đi kém khác. Đồng thời, mục đích gửi tiền của cá tổ chức này thường là để thanh toán nên việc phát triển mạng lưới thanh toán (rộng khắp và nhanh chóng) sẽ thu hút được nguồn tiền gửi của đối tượng này. - Ngân hàng cũng phải mở rộng quan hệ với các tổ chức kinh tế khác bằng cách nghiên cứu, tìm hiểu chu kỳ sản xuất, chu kỳ thu nhập, đặc điểm luân chuyển vốn của các tổ chức kinh tế - xã hội, các tổ chức kinh tế - tài chính, … để biết được đơn vị nào thường xuyên có lượng tiền nhàn rỗi lớn và đặt quan hệ giao dịch. - Ngoài nguồn vốn huy động trong nước là chủ yếu, ngân hàng cũng cần quan tâm đến nguồn đi vay từ các tổ chức kinh tế - tài chính quốc tế như: Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Châu á, quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quỹ phát triển kinh tế - xã hội Châu á … Tuy nhiên nếu không quản lý chặt chẽ và hiệu quả nguồn này thì sẽ dẫn đến nguy cơ nợ nước ngoài cao, hậu quả khó luờng. Việc mở rộng nguồn vốn trung và dài hạn sẽ giúp cho ngân hàng có nhiều cơ hội lựa chọn những dự án có hiệu quả cao nhưng thời gian thu hồi vốn lâu, tránh tình trạng do thiếu nguồn cho vay tung và dài hạn mà phải xác định thời hạn cho vay không thích hợp với thời gian thu hồi vốn của dự án hay chu kỳ thu nhập của khách hàng, dẫn đến phát sinh các khoản nợ quá hạn hay phải gia hạn nợ. 3.2.2. Hoàn thiện chính sách tín dụng Chính sách tín dụng là phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng và là hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng. Do đó, hoàn thiện chính sách tín dụng là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Chính sách lãi suất tín dụng Lãi suất cho vay phải dựa trên: mức độ rủi ro của khách hàng vay vốn, lãi suất cho vay cùng loại của các tổ chức tín dụng khác (lãi suất cạnh tranh), quan hệ của khách hàng với ngân hàng (khách hàng mới, khách hàng vãng lai hay khách hàng có quan hệ thường xuyên). Do đó, đối với những khách hàng đã quan hệ lâu dài với ngân hàng , luôn trả nợ sòng phẳng và đúng hạn có thể áp dụng mức lãi suất ưu đãi hơn, nhằm củng cố mối quan hệ với khách hàng, khuyến khích khách hàng làm ăn có hiệu quả, trả nợ ngân hàng đầy đủ và đúng hạn. Ngân hàng cần đưa ra chính sách lãi suất linh hoạt và đa dạng: lãi suất cho vay được điều chỉnh tương ứng cho phù hợp với thời hạn vay vốn, mức vay vốn, khả năng đảm bảo tiền vay, … để tạo ra sự phù hợp với chu kỳ sản xuất và thu nhập của từng đối tượng khách hàng. Sự đa dạng về lãi suất sẽ giúp cho khách hàng có thể lựa chọn được loại hình lãi suất phù hợp nhất với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Đa dạng hoá các hình thức đầu tư trung và dài hạn Do sự biến động của thị trường, của môi trường chính sách nên để giảm thiểu rủi ro cho hoạt động tín dụng, việc đa dạng hoá các hình thức đầu tư trung và dài hạn là cần thiết. Ngân hànhg cần nghiên cứu kỹ sự biến đổi về nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của khách hàng để cải tiến, hoàn thiện và đổi mới các hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phải thường xuyên theo dõi sự biến đổi của nền kinh tế để phát hiện kịp thời nhu cầu vốn đầu tư mới, tập trung vào tài trợ cho những ngành có tiềm năng phát triển trong tương lai gần như dịch vụ, thương nghiệp. Bên cạnh nghiệp vụ cho vay trung và dài hạn truyền thống, ngân hàng cần mở rộng các hình thức tín dụng trung dài hạn khác như: thuê mua tài chính, bảo lãnh, cho vay vốn đồng tài trợ, … nhằm khai thác được tối đa nhu cầu vốn trung dài hạn hợp lý của khách hàng và phân tán rủi ro. 3.2.3. Đa dạng hoá các loại khách hàng, thực hiện chiến lược khách hàng hợp lý Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội có rất nhiều ngân hàng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ tín dụng khác nhau, đã tạo ra áp lực cạnh tranh lớn đối với NHĐT&PT Hà Nội. Để có thể duy trì và phát triển hoạt dộng nói chung, hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói riêng, một chiến lược khách hàng hợp lý là vô cùng quan trọng vì khách hàng chính là yếu tố đảm bảo cho sự thành công và tăng trưởng không ngừng của ngân hàng. Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là mối quan hệ hai chiều, không chỉ có khách hàng cần đến ngân hàng mà ngân hàng cũng cần có khách hàng. Do đó, để củng cố và phát huy mối quan hệ này, ngân hàng phải luôn đặt mục tiêu gắn lợi ích của ngân hàng với lợi ích của khách hàng. Còn trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn, phải gắn hiệu quả tín dụng với hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng. Muốn vậy, ngân hàng cần phải: - Không ngừng mở rộng mạng lưới phục vụ để thu hút khách hàng đến với mình, tạo ra sự thuận tiện, nhanh chóng và thoải mái trong giao dịch cho khách hàng thông qua thái độ làm việc cởi mở, nơi làm việc sạch đẹp, khang trang. - Thực hiện quảng bá hình ảnh của ngân hàng thông qua việc tổ chức hội nghị khách hàng, tuyên truyền về ngân hàng và lợi ích của khách hàng khi vay vốn tại ngân hàng nhằm thu hút các khách hàng mới đến với mình. - Ngân hàng phải chủ động tìm kiếm dự án đầu tư khả thi, đặt mối quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp làm ăn có lãi và uy tín, chứ không chỉ ngồi chờ khách hàng tìm đến với mình. - Thực hiện việc đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng nhanh chóng, giúp khách hàng tận dụng được cơ hội kinh doanh. Không nên để cho khách hàng vị chờ vốn ngân hàng quá lâu mà bỏ lỡ mất thời cơ kiếm lợi nhuận cao. - Tiếp tục củng cố mối quan hệ thường xuyên với các khách hàng cũ. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu khách hàng theo hướng giảm tỷ trọng cho vay doanh nghiệp Nhà nước, tăng cho vay đối với khách hàng phi Nhà nước, kết hợp chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề với cơ cấu khách hàng. Tăng cường cho vay đối với các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu (kết hợp với việc khuyến khích họ tham gia các giao dịch ngoại tệ khi vay vốn như: giao dịch quyền chọn, giao dịch kỳ hạn, giao dịch trên thị trường tương lai). Quyết định cho vay cần dựa vào hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp chứ không nên căn cứ vào đó là thành phần kinh tế nào. Chỉ cần là doanh nghiệp làm ăn có lãi, dự án khả thi thì ngân hàng sẽ quyết định cấp tín dụng. - Đối với khách hàng là các tổ chức kinh tế lớn cần xây dựng mối quan hệ lâu dài, ổn định và cùng phát triển. Đối với khách hàng cá nhân: mở rộng dịch vụ tín dụng để đáp ứng yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ đa dạng, hợp lý của khách hàng. Đặc biệt, cần chú ý cung cấp các dịch vụ tài chính - ngân hàng trọn gói cho khách hàng - Thực hiện phân loại khách hàng để có chính sách thích hợp. Việc đánh giá, xếp loại khách hàng phải được căn cứ vào các tiêu chí tài chính (như: khả năng thanh toán, khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, sự tuân thủ chế độ lập và gửi báo cáo tài chính cho ngân hàng) và các tiêu chí phi tài chính (như: uy tín trong quan hệ tín dụng, mức độ bảo đảm bằng tài sản, mức độ quan hệ với ngân hàng). 3.2.4. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư Thẩm định dự án đầu tư nhằm xac định tính hiệu quả của dự án, là một cơ sở quan trọng để ngân hàng đưa ra quyết định có cấp tín dụng hay không. Vì vậy, nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư chính là nâng cao chất lượng tín dụng. Thẩm định dự án đầu tư bao gồm: - Thẩm định kỹ thuật bao gồm: thẩm định sự cần thiết, quy mô của dự án, công nghệ và trang thiết bị, nguồn nguyên liệu và các yếu tố đầu vào khác, phương án địa điểm xây dựng, phương án kiến trúc. - Thẩm định kinh tế của dự án: đánh giá hiệu quả của dự án trên giác độ của toàn nền kinh tế. - Thẩm định tài chính dự án: là bước quan trọng nhất, nhằm tính toán khả năng sinh lãi của dự án. Đây là bước mà ngân hàng - với tư cách là người cho vay - quan tâm nhất vì nó có liên quan đến khả năng hoàn trả cũng như lợi ích mà dự án đem lại cho ngân hàng. Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư cần chú ý một số vấn đề sau: - Hoàn thiện công tác tổ chức thẩn định dự án: khi thẩm định dự án đòi hỏi đòi hỏi cán bộ tín dụng phải nắm vũng chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, của ngành và của địa phương. Xác định và kiểm tra toàn diện tất cả các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật trong dự án, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn để có ý kiến đánh giá xác đáng. Tuy nhiên theo cách thức hiện nay, NHĐT&PT Hà Nội chưa có sự chuyên môn hoá, cán bộ tín dụng thường kiêm nhiệm luôn chức năng theo dõi và quản lý khoản vay. Điều này phần nào ảnh hưởng tới chất lượng công tác thẩm định, nhiều trường hợp dẫn đến sai lầm trong cho vay hoặc quyết định dự án hiệu quả. Do đó, cần lập bộ phận thẩm định dự án riêng, tách khỏi bộ phận tín dụng. - Hoàn thiện phương pháp thẩm định: các phương pháp thẩm định mà ngân hàng thường áp dụng là NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, một số dự án có tiến hành đánh giá độ nhạy một chiều (theo từng biến đầu vào). Rất ít dự án được đánh giá độ nhạy nhiều chiều (theo sự biến động của nhiều yếu tố đầu vào cùng một lúc) hay phân tích tình huống nhằn đánh giá toàn diện những rủi ro mà dự án có thể gặp phải. Nhiều dự án phức tạp, hiệu quả tài chính chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố có khả năng biến động lớn nhưng chỉ đánh giá độ nhạy với mức độ biến động thấp hơn nhiều so khả năng có thể xảy ra. Ngân hàng nên linh hoạt trong việc lựa chọn phương pháp thẩm định thích hợp. Đối với những dự án có quy mô lớn, phức tạp cần tiến hành phân tích độ nhạy nhiều chiều. Với những dự án chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố có khả năng biến động bất thường nên tiến hành cả phân tích tình huống và mô phỏng. Trong thẩm định dự án, ngân hàng còn phải tính đến yếu tố thời gian của giá trị đồng tiền, tức là có áp dụng phương pháp tiên tiến trong thẩm định đầu tư, bao gồm: giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ suất nội hoàn (IRR), thời gian hoàn vốn có chiết khấu , chỉ số doanh lợi (PI), điểm hoà vốn qua các năm, phân tích rủi ro … bằng các ứng dụng chương trình phàn mềm máy tính. - Hoàn thiện nội dung thẩm định: khi tiến hành thẩm định một dự án , có hai nộ dung chính cần hết sức quan tâm: Thẩm định khách hàng vay vốn: trước tiên, ngân hàng cần xác minh tính trung thực của các số liệu do khách hàng cung cấp (như: trong khoản phải thu trong báo cáo tài chính của khách hàng thì có bao nhiêu phần trăm là khó đòi, trong hàng tồn kho thì có bao nhiêu phần trăm hàng kém phẩm chất, bị ứ đọng, …). Khi tính toán các chỉ tiêu tài chính nên đánh giá, kết hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của lĩnh vực ngành liên quan. Đồng thời phải phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ để xác định chính xác năng lực quản lý ngân quỹ, khả năng thanh toán hiện tại và trong tương lai của khách hàng. Mặt khác, nên đánh giá định tính khách hàng về các mặt như: năng lực lãnh đạo quản lý của doanh nghiệp, hình ảnh, vị trí, uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Thẩm định dự án vay vốn: một dự án vay vốn đòi hỏi được xem xét đầy đủ các nội dung cần thiết để đảm bảo đánh giá một cách toàn diện và giúp cho việc đưa ra quyết định đầu tư một cách chính xác. Mọi nội dung của dự án đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: kết quả thẩm định phương diện thị trường là cơ sở để đánh giá việc lựa chọn kỹ thuật, quy mô, công suất của dự án; kết quả thẩm định phương diện kỹ thuật lại là cơ sở để tính toán các dòng thu nhập, chi phí, xác định nên hiệu quả tài chính của dự án; trong khi hiệu quả tài chính dự án lại là cơ sở để thẩm dịnh lợi ích kinh tế, xã hội và quyết định phương án cho vay, thu nọ của ngân hàng. - Phát huy vai trò tư vấn của ngân hàng đối với chủ đầu tư dự án: ngân hàng nên giúp chủ đầu tư xây dựng một dự án, lựa chọn việc sản xuất sản phẩm gì, cung cấp thông tin về thị trường sản phẩm đó, các phương án kỹ thuật, nhập thiết bị công nghẹ, tính toán nguồn tài trợ cho dự án với lãi suất như thế nào. Bên cạnh đó, cán bộ thẩm định cũng giúp đỡ chủ đầu tư tính toán hiệu quả kinh tế dựa trên cơ sở dự tính quá trình kinh doanh, thu lợi nhuận, đồng thời cảnh báo cho chủ đầu tư các rủi ro mà dự án có thể gặp phải để chủ đầu tư đề ra nhứng biện pháp hạn chế rủi ro, đảm bảo dự án hoạt động hiệu quả, trả nợ đầy đủ cả gốc và lãi. - Thường xuyên thực hiện kiểm tra, kiểm soát đối với công tác thảm định dự án. Quá trình này bao gồm 3 giai đoạn: Kiểm tra trước: giai đoạn này dựa vào sự thành thạo về quy chế mà tiến hành kiểm tra, mục đích phát hiện ra những điểm bất hợp lý của nghiệp vụ thẩm định trước khi thực hiện, cụ thể: các điều kiện vay vốn ngân hàng theo cơ chế tín dụng hiện hành đã đầy đủ chưa? hồ sơ khách hàng, hồ sơ vay vốn đã đày đủ và hợp lệ chưa? Đã thu thập đủ thông tin cần thiết liên quan đến dự án chưa? Kiểm tra trong: tác dụng của giai đoạn này là nhằm giám sát quá tình thực hiện, hạn chế những thiếu sót, thực hiện không đúng trình tự nghiệp vụ , sai sót về thủ tục, … nhằm ngăn chận kịp thời những thiệt hại sau này. Kiểm tra sau: được thực hiện khi nghiệp vụ thẩm định về cơ bản đã được hoàn thành, kiểm tra hồ sơ, chứng từ, tính hợp pháp, hợp lệ của nghiệp vụ ở giai đoạn trước. Mục đích phát hiện ra những hiện tượng bất thưòng, bảo đảm tính đúng đắn trước khi ra quyết định cho vay. 3.2.5. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ tín dụng Trong bất kỳ trường hợp nào, yếu tố con người cũng đóng một vai trò quan trọng. Do vậy, nâng cao trình độ cán bộ tín dụng là cần thiết để nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn. Một đội cán bộ tín dụng nhanh nhạy, sáng tạo, có kinh nghiệm , có hiểu biết sâu về nhiều lĩnh vực, có tinh thần trách nhiệm, tinh thần tập thể sẽ giúp cho ngân hàng ngày càng phát triển hoạt động tín dụng của mình. Để có được một đội ngũ cán bộ tín dụng như thế, ngân hàng cần: - Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ nghiệp vụ đương nhiệm. Ngân hàng phải đưa khía cạnh con người trong công tác đào tạo ứng xử. Tổ chức các cuộc hội thảo về kỹ năng lắng nghe và phỏng vấn khách hàng để giúp cán bộ tín dụng có được những công cụ quý báu nhằm tăng cường khả năng đánh giá, thẩm định sâu sát với món vay hơn. - Nâng cao trình độ hiểu biết kỹ thuật của cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định về các ngành sản xuất mà ngân hàng đầu tư chủ yếu để có nhận xét, đánh giá đúng những dự án sản xuất kinh doanh. - Nâng cao hiểu biết của cán bộ nghiệp vụ về kiến thức pháp luật, nhất là bộ luật dân sự, luật đất đai, luật phá sản và đặc biệt là luật ngân hàng để thực hiện, xử lý công việc chặt chẽ, không để khách hàng lợi dụng. - Việc tuyển chọn và bố trí cán bộ tín dụng của ngân hàng phải được thực hiện thông qua sát hạch, phải qua đào tại đại học. Số cán bộ hiện có phải đào tạo lại. Trong quá trình đào tạo lại, ngoài việc bổ sung những quy trình nghiệp vụ mới về tín dụng, về hoạt động ngân hàng, thì cần chú ý đến kiến thức về kinh tế kỹ thuật của những ngành mà ngân hàng tài trợ chủ yếu. Cần định kỳ hay đột xuất tahy đổi địa bàn phụ trách cho vay để phòng ngừa trường hợp thông đồng giữa cán bộ ngân hàng với khách hàng, đảo nợ, tự ý gia hạn nợ, thu nợ, thu lãi không nộp vào ngân hàng hoặc nhờ khách hàng vay hộ hay vay ghi vào khế ước của khách hàng. - Tạo điều kiện cho cán bộ tham gia các khoá học trong nước và nước ngoài nhằm nâng cao trình độ. - Cử cán bộ đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng lớn khác trong và ngoài nước về lĩnh vực liên quan tới tín dụng. - Định kỳ tổ chức hội thảo đánh giá tình hình hoạt động tín dụng, phân tích các nguyên nhân xảy ra sai sót, kết quả, …để đúc rút kinh nghiệm cho cán bộ, tránh vấp phải trong tương lai. - Quy định rõ ràng về quyền hạn và nghĩa vụ của cán bộ tín dụng, có cơ chế khen thưởng và quy trách nhiệm cụ thể đối với họ. - Kết hợp với việc sử dụng các chuyên gia thẩm định: Do một cán bộ tín dụng không phải lúc nào cũng có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu để thẩm định chính xác dự án nên việc kết hợp giữa cán bộ tín dụng và thuê chuyên gia sẽ giúp nâng cao hiệu quả thẩm định, ngân hàng có thể đưa ra quyết định chính xác. Do đó, ngân hàng cần: Có chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút các chuyên gia làm cộng tác viên với mình. Tìm kiếm chuyên gia ở những địa chỉ đang tin cậy như: các viện nghiên cứu, các vụ, các Bộ ngành có liên quan. 3.2.6. Ngăn ngừa, hạn chế và xử lý các khoản nợ quá hạn Biện pháp ngăn ngừa: Khi phát hiện khoản vay có dấu hiệu rủi ro, ngân hàng cần: - Quản lý giám sát khoản vay: ngân hàng phải thực hiện việc giám sát và thu thập các báo cái tài chính mới nhất của khách hàng. Khi phát hiện thấy xu thế bất lợi hơn của khách hàng, ngân hàng phải yêu cầu khách hàng cung cấp các báo cáo tài chính thường kỳ hơn. - Rà soát và xem xét lại tài sản bảo đảm nợ vay của khách hàng: khi khoản vay bị đánh giá xuống hạng, ngân hàng phải rà soát và đánh giá lại ngay tài sản bảo đảm của khách hàng. Ngân hàng cần xem xét liệu tài sản bảo đảm này có bán được trong điều kiện kinh doanh bình thường không và như thế nào, bán trong điều kiện kinh doanh không bình thường thì như thế nào. - Rà soát lại ngay hồ sơ pháp lý của khoản vay, và yêu cầu bổ sung khi cần thiết. - Thực hiện việc liên kết đồng bộ với các tổ chức tín dụng khác, giữa ngân hàng với các tổ chức phi ngân hàng và các định chế tài chính khác. Làm được việc này sẽ giúp ngân hàng: có được các thông tin quý báu để nhìn nhận đánh giá khách hàng đúng đắn hơn, ngăn ngừa được sự ham muốn mưu lợi bất chính của khách hàng, nâng cao nghiệp vụ thông tin giữa các bộ phân chuyên môn của các tổ chức tín dụng với nhau, tăng năng lực cạnh tranh với các tổ chức tài chính nước ngoài, thống nhất trong một số nghiệp vụ cho vay hay chính sách tín dụng hoặc chính sách lãi suất nhằm giảm bớt sự biến động không nên có trên thị trường tiền tệ. Biện pháp khắc phục: Khi khoản vay của khách hàng bị xuống hạng, ngân hàng cần: - Yêu cầu bổ sung tài sản bảo đảm nợ vay. - Nếu thấy việc xuống hạng của khoản vay là do việc xác định kỳ hạn trả nợ hay thời hạn cho vay là chưa phù hợp với chu kỳ kinh doanh và thu nhập của khách hàng, ngân hàng có thể cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ khi xét thấy khách hàng có khả năng trả nợ đầy đủ trong tương lai. Biện pháp xử lý: đây là biện pháp cuối cùng nhằm hạn chế tối đa những khoản thiệt hại đã xảy ra. Việc xử lý nợ quá hạn cần có biện pháp cụ thể như: - Phân tích nguyên nhân nợ quá hạn của từng khách hàng, từ đó có biện pháp tháo gỡ. Đối với những khách hàng mà nợ quá hạn có tính chất tạm thời, hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, ngân hàng xem xét khả năng trả nợ và phương án sản xuất kinh doanh trong thời gian tới để quyết định cho vay. Việc cho vay đảm bảo thu hồi vốn, giúp khách hàng vượt qua khó khăn và có biện pháp trả nợ có thể áp dụng biện pháp xác định phương án cơ cấu nợ. Căn cứ vào phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, khách hàng chứng minh được khả năng hoà trả khi đến hạn sau khi co cấu lại nợ thì ngân hàng sẽ cơ cấu lại nợ. Để thực hiện việc cơ cấu lại nợ cho khách hàng thì đòi hỏi ngân hàng phải giám sát chặt chẽ các khoản nợ và hoạt động của khách hàng. - Đối với khách hàng gặp khó khăn tài chính, kinh doanh thua lỗ, khó khắc phục, nợ quá hạn chưa xác định được nguồn trả, ngân hàng cần quản lý chặt chẽ khoản vay và khách hàng như sau: Tìm các khách hàng có khả năng về tài chính nhận nợ của khách hàng khó khăn để tiếp tục khai thác hiệu quả tài sản, đảm bảo khả năng trả nợ. Ngân hàng rà soát tài sản bảo đảm, tình trạng của tài sản, hồ sơ pháp lý để có thể phát mại tài sản bảo đảm cho khoản nợ. Khi phát mại tài sản, ngân hàng nên thuyết phục khách hàng tự nguyện bán tài sản của mình. Nếu thấy khách hàng không có thiện chí, ngân hàng sẽ tiến hành bán tài sản cầm cố, thế chấp theo sự giám sát và phán quyết của cơ quan pháp luật. Yêu cầu bên bảo lãnh trả nợ thay. Khởi kiện: biện pháp này sẽ có tác dụng đối với các khách hàng không có thiện chí trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Thực hiện các biện pháp khuyến khích khách hàng trả nợ như: miễn giảm một phần lãi suất, tính lại lãi, không tính lãi phạt, … áp dụng đối với khách hàng có thiện chí trả nợ. Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro đối với các khoản nợ xấu: các khoản nợ mà ngân hàng đã áp dụng hết các biện pháp khắc phục và xử lý nhưng vẫn không thu hồi được nợ, hoặc những khoản nợ đã phát mại hết tài sản nhưng vẫn còn chênh lệch âm (-) cả gốc và lãi; hoặc các khoản vay bị rủi ro do nguyên nhân khách quan mà không thể khắc phục được. 3.2.7. Tăng cường công tác tư vấn đầu tư cho các doanh nghiệp trong thời gian tới Ngân hàng có điều kiện tiếp xúc với nhiều thành phần kinh tế , các lĩnh vực, ngành nghề, … nên có sự hiểu biết sâu rộng về đầu tư. Bằng việc cung cấp thông tin, tư vấn đầu tư cho các doanh nghiệp, ngân hàng giúp họ phát hiện ra nhu cầu đầu tư, có sự lựa chọn dự án đúng đắn. Nhờ đó, ngân hàng có thể mở rộng doanh số cho vay, giúp doanh nghiệp đầu tư hiệu quả, đem lại lợi nhuận cho cả hai bên. 3.2.8. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ giúp ngân hàng ngăn ngừa được các dấu hiệu bất thường ngay ben trong ngân hàng. Do dó, cần phải hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ. - Tăng cường đội ngũ kiểm tra, kiểm soát cả về số lượng và chất lượng. Cán bộ kiểm tra, kiểm soát cần có cấi nhìn khách quan, có kinh nghiệm và năng lực. - Thực hiện việc kiểm tra định kỳ và đột xuất đối với các khoản nợ. Việc kiểm tra, kiểm soát càn được kiểm tra bởi nhiều người để đảm bảo độ khách quan, tránh hiện tượng móc ngoặc giữa cán bộ tín dụng và người đi vay. 3.2.9. Tăng cường hiện đại hoá công nghệ ngân hàng phục vụ cho hoạt động tín dụng Đổi mới công nghệ, trang bị máy móc, thiết bị hiện đại, tin học hoá công nghệ ngân hàng là chìa khoá nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đưa ngân hàng hội nhập với nền kinh tế nói riêng, nền tài chính ngân hàng quốc tế nói riêng. Hiện đại hoá ngân hàng nhằm tăng nhanh tốc độ liên lạc trong nôi bộ hệ thống, tăng tính kịp thời của thông tin, rút ngắn thời gian giao dịch cho khách hàng cũng như thời gian thẩm định dự án, làm tăng tính cạnh tranh của ngân hàng, việc quản trị điều hành hoạt động tín dụng, việc quản lý món vay, quản lý khách hàng được thực hiện tự động, tốt hơn và có hiệu quả hơn, thể hiện tính minh bạch hơn của hoạt động tín dụng. Vì vây, ngân hàng cần: - Tăng cường ứng dụng công nghệ tin học trong các lĩnh vực: kế toán giao dịch tại quầy, thanh tra giám sát từ xa, cung cấp dịch vụ qua mạng, cập nhật thông tin trên thị trường liên ngân hàng và thị trường tài chính quốc tế, thông tin về khách hàng, thông tin phòng ngừa rủi ro, theo dõi các khoản nợ, … - Nâng cao trình độ tin học cho nhân viên ngân hàng để phát huy tối đa hiệu quả của các chương trình phần mềm, các thiết bị tin học hiện đại. - Tăng cường các máy giao dịch tự động tại các nơi công cộng. 3.2.10. Xây dựng chiến lược marketing ngân hàng Trong điều kiện hiện nay, sự cạnh tranh gay gắt từ phía các ngân hàng khác cung địa bàn đã gây nhỉều khó khăn đối với hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng chung dài hạn nói riêng của ngân hàng. Bằng việc đưa ra một chiến lược marketing hiệu quả, NHĐT&PT Hà Nội có thể kéo khách hàng về với mình, có sự chủ động trong việc tấn công hay né đòn tấn công của các ngân hàng đối thủ. Khách hàng là yếu tố quan trọng nhất giúp cho ngân hàng tồn tại và phát triển, không có khách hàng thì không có ngân hàng. Do đó, mục tiêu của một chiến lược marketing hiệu quả chính là thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Vì vây, hoạt động marketing của ngân hàng cần chủ động nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, cố gắng mang đến cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ tiện ích cao trong thời gian ngắn. Hoạt động marketing cũng giúp ngân hàng chủ động trong cạnh tranh thông qua việc tính toán trước sức mạnh của các ngân hàng đối thủ, có biện pháp tấn công hay phòng thủ kịp thời, tránh bị lúng túng, bị động. Hoạt động marketing giúp ngân hàng tạo ra sự liên kết chặt chẽ với thị trường thông qua việc nghiên cứu thị trường để tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, chiến lược kinh doanh của các ngân hàng khác. Nhờ đó, ngân hàng biết được ưu điểm, nhược điểm của mình để phát huy hay hạn chế. Một ngân àng có sự liên kết với thị trường càng sau rộng thì càng có khả năng thành công cao. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ Chính phủ cần có các biện pháp hành chính và kinh tế buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán, kế toán chính xác, đầy đủ, kịp thời nhằm tạo thuận lợi cho ngân hàng trong việc đánh giá doanh nghiệp cũng như giám sát khoản vay sau khi giải ngân. Dư nợ trung và dài hạn hiện nay chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp Nhà nước. Chính phủ cần chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp này nhằm tăng cường hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng. Bên cạnh đó, chính phủ cần sớm ban hành chính sách hỗ trợ để nâng cao năng lực của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh (chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) để đủ điều kiện tiếp cận chính sách vay vốn của các tổ chức tín dụng cũng như các tổ chức tài chính khác. Từng bước giảm dần sự can thiệp vào quyết định cấp tín dụng của ngân hàng thông qua việc chỉ định cho vay, nên để hoạt động tín dụng của ngân hàng mang đúng tính chất thương mại, chỉ doanh nghiệp làm ăn có lãi, dự án khả thi mới được vay vốn. Hoàn thiện các các văn bản pháp luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản giúp ngân hàng dễ dàng xử lý các tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi vốn. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường liên ngân hàng phát triển. Thị trường liên ngân hàng phát triển tạo ra sự nhanh chóng trong việc đáp ứng các nhu cầu thanh toán và tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cụ thể là Trung tâm thông tin Tín dụng (CIC) cần trở thành đầu mối cung cấp thông tin tín dụng cho các ngân hàng. Bằng việc tổng hợp các thông tin từ nhiều ngân hàng, CIC sẽ có được một lượng thông tin tổng quát và đầy đủ, giúp ngân hàng có nhiều thông tin hơn về khách hàng, về các đối thủ cạnh tranh, … để đưa ra quyết định phù hợp. Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra đối với các khoản cho vay tại ngân hàng để hạn chế tới mức thấp nhất những sai phạm có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Rà soát lại hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan tới hoạt động tín dụng để tránh sự chống chéo, tạo thuận lợi trong thực hiện cho cán bộ tín dụng. 3.3.3. Kiến nghị với NHĐT&PT Việt Nam NHĐT&PT Việt Nam cần tăng cường hỗ trợ về công nghệ kỹ thuật, phát triển cơ sở hạ tầng cho NHĐT&PT Hà Nội, tạo điều kiện nhanh chóng hiện đại hoá hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói riêng. Giúp đỡ chi nhánh Hà Nội trong việc đào tạo cán bộ tín dụng. Xem xét để tăng thêm quyền chủ động cho chi nhánh trong việc quyết định cho vay: nâng cao hạn mức phán quyết tín dụng của chi nhánh. Hoàn thiện cơ chế, chế độ, thể lệ làm việc của cán bộ tín dụng, có sự khen thưởng, động viên kịp thời đối với đội ngũ cán bộ tín dụng, có quy định về việc gắn trách nhiệm cá nhân với quyết định cho vay. KẾT LUẬN Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong những năm vừa qua là không thể phủ nhận được. NHĐT&PT Hà Nội - một ngân hàng đã cung cấp một lượng vốn trung và dài hạn rất lớn cho nền kinh tế - đã góp phần không nhỏ vào công cuộc này. Qua nghiên cứu hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại NHĐT&PT Hà Nội, em nhận thấy ngân hàng đã có nhiều cố gắng để tín dụng trung và dài hạn ngày càng phát huy nhiều tác dụng với bản thân ngân hàng, với doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Mặc dù vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, một số hạn chế vẫn tồn tại khiến chất lượng tín dụng trung dài hạn bị ảnh hưởng. Để vững bước đi lên, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu của nền kinh tế, đòi hỏi ngân hàng phải không ngừng nỗ lực tự hoàn thiện mình. Bên cạnh đó, để sự nỗ lực đó đạt hiệu quả cao nhất cần có sự hỗ trợ đồng bộ của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và NHĐT&PT Việt Nam. Trong thời gian nghiên cứu tìm hiểu không dài, kiến thức còn hạn chế và chưa có kinh nghiệm thực tế, nên chắc chắn còn nhiều vấn đề em chưa có điều kiện tìm hiểu hoặc tìm hiểu chưa thấu đáo, bài viết còn có sai sót, em kính mong thầy cô, các cô chú, anh chị tại đơn vị thực tập thông cảm và góp ý thêm. Em xin chân thành cảm ơn ! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quản trị ngân hàng thương mại - Peter S.Rose 2. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - Frederic S.Minshkin 3. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại - GS.TS Lê Văn Tư 4. Giáo trình Ngân hàng thương mại - Chủ biên TS. Phan Thị Thu Hà 5. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp - Chủ biên PGS.TS. Lưu Thị Hương 6. Giá trình Thẩm định tài chính dự án - Chủ biên PGS.TS. Lưu Thị Hương 7. Lý thuyết tiền tệ - ngân hàng - PTS. Nguyễn Ngọc Hùng 8. Tiền tệ - Ngân hàng - Nguyễn Ninh Kiều MBA 9. Luật Các Tổ chức Tín dụng năm 1997 10. Sổ tay Tín dụng của NHĐT&PT Việt Nam 11. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHĐT&PT Hà Nội các năm 2003, 2004, 2005. 12. Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ, Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Đầu tư các năm 2005, 2006. MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36316.doc
Tài liệu liên quan