Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Giao dịch 1 Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam

MỤC LỤC trang DANH MỤC BẢNG BIỂU-BIỂU ĐỒ trang BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Cơ cấu nguồn vốn huy động của SGDI 39 Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng thành phần. 40 BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của SGDI 37 Biểu đồ 2.2: Tốc dộ tăng trưởng vốn thành phần 38 Biểu đồ 2.3: Quy mô tăng trưởng tín dụng 2006 – 2008 40 Biểu đồ 2.4: Thu dịch vụ rong giai đoạn 2006-2008 42 Biểu đồ 2.5: Doanh số cho vay trung và dài hạn DNVVN 48 Biểu đồ 2.6: Lợi nhuận trước thuế từ hoạt

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Giao dịch 1 Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động tín dụng 51 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DNNN: Doanh nghiệp nhà nước DNVVN: Doanh nghiệp vừa và nhỏ NHTM: Ngân hàng thương mại NHĐT&PTVN: Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam SGDI: Sở giao dịch 1 PHẦN MỞ ĐẦU Trong quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế, cùng sự bùng nổ của khoa học và công nghệ, nhu cầu về vốn đầu tư ngày càng tăng cao. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì nhu cầu này càng rõ nét. Cùng với quá trình đổi mới kinh tế đất nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những đổi mới không chỉ về mặt cơ cấu tổ mà còn cả về phương thức hoạt động. Phù hợp với xu hướng đa dạng hoá hoạt động ngân hàng nhằm phục vụ bổ xung cả về vốn ngắn hạn, trung và dài hạn cho doanh nghiệp Trong mấy năm gần đây, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng tuy đạt được những kết quả đáng kể nhưng vẫn còn hạn chế và gặp không ít các khó khăn trở ngại. Những gì làm được hôm nay còn quá ít so với những đòi hỏi bức thiết ngày càng tăng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời kỳ đất nước hội nhập kinh tế thế giới. Với những lý do trên, trong quá trình thực tập khảo sát thực tế tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam, em rất quan tâm đến hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Là một sinh viên sắp tốt nghiệp trong giai đoạn này của đất nước, với những kiến thức đã được học tập tại trường và mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào viêc giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay trong hoạt động này của ngành ngân hàng. Hiện nay, em đang là sinh viên thực tập tại SGDI NHĐT&PTVN vì vậy em đã quyết định chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam.” làm chuyên đề tốt nghiệp. Kết cấu chuyên đề gồm: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề được chia làm 3 chương: Chương 1: Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2008. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam. Tuy nhiên thời gian thực tập có hạn và sự hiểu biết về thực tế chưa nhiều nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của PGS.TS Phan Thu Hà và cán bộ Phòng quan hệ khách hàng 2 SGDI NHĐT&PTVN để bài viết này được hoàn chỉnh hơn. Nghiên cứu về vấn đề này em mong muốn sẽ hiểu biết sâu hơn về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại kết hợp với thực tế tại dơn vị thực tập từ đó thấy dược sự gắn kết cũng như điểm khác biệt giữa lý luận và thực tiễn, điều này sẽ tạo thuận lợi cho em trong công việc sau này. Chương 1: Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.1 Khái quát doanh nghiệp vừa và nhỏ và vai trò của nó trong nền kinh tế 1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ Có rất nhiều các định nghĩa về DNVVN khác nhau của các nhà kinh tế tuỳ vào quan điểm hay điều kiện của từng quốc gia. Ở nước ta hiện nay có thể hiểu DNVVN là các doanh nghiệp đạt một trong hai tiêu chí sau: + Các DNNN, Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty hợp danh, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp tư nhân, HTX, hộ kinh doanh cá thể có đăng kí kinh doanh có số lao động trung bình hàng năm không quá 300 lao động (không giới hạn vốn đăng kí). + Các DNNN, Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty hợp danh, doanh ngiệp cố vốn đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp tư nhân, HTX, hộ kinh doanh cá thể có đăng kí kinh doanh có vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng. Tiêu chí về lao động chỉ xem xét đối với những doanh nghiệp có vốn đăng kí trên 10 tỷ đồng. Cơ sở xác định vốn và lao động: + Lao động trung bình hàng năm là số lao động bình quân mà doanh nghiệp đăng kí với cơ quan quản lí lao động và có tham gia đóng Bảo hiểm xã hội (không bao gồm số lao động doanh nghiệp kí hợp đồng thời vụ, hợp đồng công việc). + Vốn đăng kí: Đối với DNNN là vốn điều lệ được nhà nước cấp, đối với các doanh nghiệp còn lại là vốn ghi trên đăng kí kinh doanh, giấy phép đầu tư 1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ Sự phát triển của các DNVVN trong thời gian qua cho thấy DNVVN chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong nền kinh tế với những ưu thế cơ bản như: - DNVVN linh hoạt trước sự thay đổi của thị trường, có khả năng dễ dàng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh doanh - Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, tiết kiệm chi phí quản lý, nâng cao hiệu quả lao động của doanh nghiệp. - Lĩnh vực hoạt động của các DNVVN rất đa dạng và phong phú - Khu vực DNVVN thu hút số lượng người lao động lớn trong đó có cả những lao động có tay nghề cao và cả lao động phổ thông tạo ra nhiều việc làm. - Vốn đầu tư ban đầu cho DNVVN không nhiều nhưng hiệu quả kinh tế cao, thu hồi vốn nhanh, hấp dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào. Tuy nhiên DNVVN có nhiều hạn chế: - Về vốn tín dụng: Các DNVVN luôn trong tình trạng thiếu vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh, các DNVVN vay vốn chủ yếu từ các tổ chức phi tài chính với mức lãi suất không chính thức gấp 3 đến 5 lần lãi suất ngân hàng. Một trong những nguyên nhân mà DNVVN khó có thể vay vốn từ nhân hàng và các tổ chức tín dụng khác là do những khó khăn về tài sản thế chấp. Hơn nữa, thủ tục tín dụng của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức thường khá phức tạp dẫn đến chi phí giao dịch cao và mất nhiều thời gian của doanh nghiệp. - Công nghệ: Phần lớn công nghệ mà DNVVN sử dụng là lạc hậu do vốn đầu tư cho các DNVVN rất thấp so với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Ngoài ra, DNVVN được xác định với tiêu chí về vốn tương đối thấp. Các DNVVN khó có thể vay được một khoản tín dụng trung và dài hạn để nâng cấp công nghệ. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu máy móc, thiết bị bị đánh thuế cao trong khai các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại được miễn trừ. So với các doanh nghiệp nhà nước, các DNVVN khó tiếp cận với thị trường công nghệ máy móc thiết bị quốc tế. - Do DNVVN là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé, vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn làm cho chất lượng sản xuất không cao, sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ yếu do đó cũng không mở rộng được thị trường, hàng hoá khó tiêu thụ, lợi nhuận thấp, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, dễ dân tới gian lận thương mại... Sản phẩm, dịch vụ của các DNVVN luôn phải cạnh tranh với hàng giả, hàng nhái. - Môi trường kinh doanh bên ngoài: Những tác động từ bên ngoài cũng gây ra không ít khó khăn cho DNVVN, trước hết là sự tác động về quản lý của Nhà nước về hoàn thiện Luật doanh nghiệp, thực thi Luật doanh nghiệp, trong các cơ chế như cơ chế đất đai, chính sách thuế, tín dụng, chính sách thương mại, chính sách khoa học công nghệ, lao động và việc làm... còn nhiều bất cập. - Đất đai phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN còn thiếu. Các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong việc cấp quyền sử dụng đất hoặc khi thuê đất làm trụ sở hoặc nhà máy. - Khả năng tiếp cận thị trường thế giới của các DNVVN còn rất hạn chế, sản phẩm của DNVVN phải cạnh tranh với một lượng hàng ngoại nhập có giá rẻ hơn. Ngoài ra sản phẩm của các DNVVN có chất lượng thấp vì trình độ kỹ thuật, kỹ năng quản lý kém do không được đào tạo và thiếu kinh nghiệm quản lý hiện đại. Trong những khó khăn nêu trên, thiếu vốn là nguyên nhân căn bản vì DNVVN hạn hẹp về vốn đưa tới năng lực kinh doanh bị hạn chế và khi tực lực kinh tế yếu thì khả năng vay vốn lại càng khó khăn. Bên cạnh đó môi trường thể chế, chính sách kinh tế còn chưa tạo điều kiện bảo vệ và bảo đảm cho sự phát triển của khu vực này. Trong đó cơ chế chính sách về tín dụng nhân hàng còn gây nhiều khó khăn cho việc vay vốn tín dụng của các DNVVN. Do vậy các DNVVN phát triển hoàn toàn chưa có định hướng và chưa được hỗ trợ nhiều từ phí Nhà nước cũng như các doanh nghiệp lớn khác. 1.1.3 Vai trò DNVVN trong nền kinh tế DNVVN đóng góp một vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đặc biệt là ở Việt Nam, khi số lượng các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ ngày càng đông đảo thì vai trò đối với nền kinh tế càng bộc lộ rõ nét, thể hiện ở các khía cạnh sau: 1.1.3.1 Các DNVVN góp phần to lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Công ăn việc làm cho người lao động là vấn đề cấp bách hiện nay ở Việt Nam với tốc độ tăng dân số hàng năm từ 1.8% - 2 %, tạo ra một triệu người đến tuổi lao động cộng với số thất nghiệp là 6%/năm và bán thất nghiệp do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước... Theo dự báo năm 2010 mặc dù dân số có thể tăng chậm lại nhưng nguồn lao động nước ta vẫn tăng nhanh, đòi hỏi phải giải quyết việc làm hết sức khẩn trương. Thực tế cho thấy toàn bộ các DNNN trong thời gian qua, năm cao nhất cũng chỉ thu hút được 1.6 triệu lao động, trong khi đó hàng năm DNVVN cũng tạo ra 50% - 80% lao động trong các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ, khi các DNNN cơ cấu lại nhân sự thì khu vực DNVVN lại là nơi tái tạo lại công việc cho họ... 1.1.3.2 DNVVN đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã hội ngày càng phong phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được. Hiện nay, ở nhiều nước, hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN đã phát triển hầu khắp các lĩnh vực, rất đa dạng và phong phú. Trong cơ cấu các DNVVN thì doanh nghiệp siêu nhỏ, sản xuất kinh doanh mang tính chất cá thể, gia đình chiếm tỷ lệ khá lớn. ở Pháp, doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm tới 80% tổng số doanh nghiệp và có gần 50% trong số này chỉ sử dụng lao động trong gia đình, không cần thuê ngoài một nhân viên nào. Ngày nay trong thực tế tiêu dùng xã hội, có những mặt hàng mà người tiêu dùng chỉ có nhu cầu ít và cá biệt song chất lượng, chủng loại mẫu mã, kiểu cách không ngừng thay đổi. Trong trường hợp này các doanh nghiệp lớn không thể đáp ứng được, trái lại các DNVVN do qui mô sản xuất nhỏ, có khả năng điều chỉnh hoạt động nên có thể đáp ứng những nhu cầu nói trên của người tiêu dùng một cách nhanh chóng, thuận tiện. Đặc biệt có những hàng hoá người tiêu dùng có nhu cầu không thể sản xuất ở các doanh nghiệp có qui mô lớn, kỹ thuật hiện đại mà chỉ có thể sản xuất bằng lao động thủ công, phân tán đến từng cơ sở sản xuất nhỏ và hộ gia đình. 1.1.3.3 DNVVN có vai trò quan trọng trong lĩnh vực phân phối lưu thông và trong sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu. Trong quá trình tái sản xuất xã hội, hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng phải qua khâu trung gian. Đó là khâu lưu thông do mạng lưới các cửa hàng dịch vụ bán buôn và bán lẻ đảm nhận. Do lợi thế của mình các DNVVN rất thích hợp với lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bán lẻ. Vì các DNVVN chỉ cần một số vốn ban đầu nhỏ cũng có thể hoạt động được, còn nơi làm cửa hàng và kho hàng có thể sử dụng ngay nhà mình, nhân viên bán hàng thường cũng là người của gia đình. Do đó chi phí lưu thông hàng hoá thấp. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhảy vọt, vượt ra khỏi biên giới quốc gia và đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá kinh tế thế giới. Vì vậy bất kỳ nước nào, dù ở trình độ phát triển kinh tế cao hay thấp cũng đều phải thực hiện chiến lược kinh tế mở, với nội dung cơ bản là: Tận dụng lợi thế so sánh tích cực tham gia vào việc phân công lao động quốc tế, chuyên môn hoá và hợp tác hoá quốc tế, tranh thủ vốn, công nghệ và kinh nghiệm tốt của nước ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Đặc trưng cơ bản của chiến lược kinh tế mở là mức bảo hộ thấp, khuyến khích xuất khẩu. Việt Nam đang là một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật và công nghệ đang ở trình độ thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nên việc tích cực tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để khai thác có hiệu quả các lợi thế bên trong là vấn đề đặc biệt quan trọng. Chính vì vậy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng tâm, đồng thời ra sức sản xuất những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả để thay thế nhập khẩu. Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở nước ta, các mặt hàng truyền thống do các DNVVN kể cả kinh tế hộ gia đình sản xuất chế biến chiếm tỷ trọng đáng kể. Đó là những mặt hàng nông sản, thực phẩm, hải sản, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: gốm sứ, mây tre, sơn mài, hàng thêu dệt, hàng may mặc... 1.1.3.4 DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng. Do quy mô vừa và nhỏ nên các DNVVN có thể đặt văn phòng làm việc, nhà xưởng, kho tàng ở khắp mọi nơi, ở cả những nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển như ở vùng núi cao, hải đảo, ở vùng nông thôn rộng lớn nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh của từng vùng. Nhất là các loại tài nguyên trên mặt đất thuộc các ngành nông, lâm, hải sản. Để khai thác có hiệu quả lao động, tài nguyên và ngành nghề đang còn rất lớn ở từng địa phương, từng vùng lãnh thổ, cần tập trung đẩy nhanh sự phát triển một số ngành mà nước ta có nhiều tiềm năng như: nông nghiệp, lâm nghiệp, hải sản và công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản v.v... Trong những năm trước mắt, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về vốn và kỹ thuật nên việc đầu tư khai thác các nguồn lực của đất nước, Đảng ta chủ trương: “Chú trọng quy mô nhỏ và vừa, vốn đầu tư ít, thu hồi nhanh theo phương châm “lấy ngắn nuôi dài” . DNVVN do vốn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém nên tỷ lệ lao động sử dụng trong các DNVVN thường lớn rất thích hợp với những ngành cần nhiều lao động thủ công như chế biến thuỷ sản đông lạnh, may mặc, da giầy, công nghiệp chế biến. Hiện nay, DNVVN ở Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Theo thống kê, đội ngũ này chiếm tới gần 95% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, đóng góp 25% GDP và thu hút một lực lượng lao động đáng kể, tạo công ăn việc làm, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần khai thác những tiềm năng trong dân chúng. 1.2 Tín dụng trung và dài hạn của NHTM. 1.2.1 Khái niệm về NHTM. Trong xã hội, Ngân hàng có một vị trí quan trọng và tham gia vào hoạt động của nhiều thành phần kinh tế và dân cư. Lịch sử hình thành Ngân hàng bắt đầu từ rất lâu. Ban đầu nó được hình thành từ những thương nhân làm dịch vụ giữ tiền hộ. Dựa trên tính vô danh của đồng tiền cho phép những thương nhân này chuyển từ việc giữ tiền hộ sang việc giữ hộ tiền và thu lệ phí và huy động vốn có trả lãi để khuyến khích người có tiền nhàn rỗi trong xã hội, rồi sử dụng số tiền đó để kinh doanh trực tiếp cho vay lấy lãi. Ngày nay Ngân hàng thương mại được định nghĩa như sau: NHTM là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay đầu tư, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán và các nghiệp vụ trung gian khác nhằm thu lợi nhuận tối đa trên cơ sở đảm bảo khả năng thanh khoản. NHTM giống các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động nhằm mục đích thu lợi nhuận nhưng là tổ chức kinh doanh đặc biệt vì đối tượng kinh doanh là tiền tệ trong đó hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu được thực hiện bằng cách thu hút vốn trong xã hội để cho vay nhằm mục tiêu lợi nhuận cao nhất và rủi ro thấp nhất. 1.2.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM. 1.2.2.1 Huy động vốn . Huy động vốn được coi là hoạt động cơ bản, tính chất sống còn đối với bất kỳ một NHTM nào, vì hoạt động này tạo ra nguồn vốn chủ yếu của các NHTM. Theo luật pháp cho phép, các NHTM được phép huy động vốn bằng nhiều hình thức sau đây: * Nhận tiền gửi: - Nhận tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức, - Nhận tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân, - Nhận tiền gửi có kỳ hạn của các cá nhân, tổ chức đoàn thể xã hội, - Nhận tiền gửi các tổ chức tín dụng khác, * Phát hành giấy tờ có giá: NHTM được quyền phát hành giấy tờ có giá ( kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng...) để huy động vón có kỳ hạn và có mục đích sử dụng. * Các hình thức huy động vốn khác: - Vay vốn ở các NHTM khác. - Vay vốn tại NHNN. 1.2.2.2 Hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ vản, có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế xã hội, vì thông qua hoạt động này mà hệ thống NHTM cung cấp một lượng vốn tín dụng rất lớn cho nền kinh tế, nhờ khối lượng vốn này mà nền kinh tế sẽ phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. Hoạt động tín dụng NHTM gồm có : - Cho vay ( ngắn hạn, trung hạn, dài hạn...) - Chiết khấu chứng từ có giá - Cho thuê tài chính - Bão lãnh ngân hàng - Các hình thức khác 1.2.2.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ. Đây là hoạt động quan trọng và có tính chất đặc thù của NHTM, nhờ hoạt động này mà các giao dịch thanh toán của toàn bộ nền kinh tế được thực hiện thông suất và thuận lợi, đồng thời qua hoạt động này mà góp phần làm giảm lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ NHTM gồm: - Mở tài khoản giao dịch cho khách hàng là pháp nhân, hoặc thể nhân trong và ngoài nước. - Cung ứng các phương tiện thanh toán cho khách hàng - Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế. - Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ - Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác - Thực hiện dịch vụ ngân quỹ - Tham gia hệ thống thanh toán bù trừ trong nước và hệ thống thanh toán quốc tế khi được phép 1.2.2.4 Huy động khác. Ngoài ba hoạt động nói trên, các NHTM còn được thực hiện các hoạt động khác, phù hợp với chức năng nghiệp vụ của mình đồng thời không bị luật pháp nghiêm cấm. Các hoạt động khác bao gồm: * Góp vốn mua cổ phần: - Góp vốn, mua cổ phần vào các doanh nghiệp - Góp vốn, mua cổ phàn vào các tổ chức tín dụng khác * Thực hiện mu bán chứng từ có giá trên thị trường tiền tệ * Kinh doanh ngoại hối và vàng * Kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm * Thực hiện các nghiệp vụ uỷ thác và đại lý * Cung ứng dịch vụ bảo quản, cầm đồ, cho thuê tủ két sắt * Cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính tiền tệ và các dịch vụ khác có liên quan 1.2.3 Tín dụng trung và dài hạn của NHTM. 1.2.3.1 Khái quát tín dụng trung và dài hạn. Tín dụng trung và dài hạn là các khoản vay có kỳ hạn trên một năm (từ 1 năm đến 3 năm được coi là tín dụng trung hạn và từ 3 năm trở lên được coi là tín dụng dài hạn). Tín dụng trung và dài hạn nhằm thoã mãn các nhu cầu về mua sắm máy móc, thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất của một doanh nghiệp và một phần vốn lưu động tối thiểu của một doanh nghiệp. Trong một nền kinh tế nhu cầu tín dụng trung và dài hạn thường xuyên phát sinh do các doanh nghiệp luôn luôn tìn cách phát triển mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, đổi mới các phương tiện vận chuyển, kỹ thuật tin học... Đặc biệt đối với nền kinh tế của Việt Nam hiện nay nhu cầu vốn xây dựng cơ bản rất lớn, trong lúc các nhà kinh doanh chưa tích luỹ được nhiều, chưa có thời gian để tích lỹ vốn, tâm lý đầu tư trực tiếp của công chúng vào các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Do vậy đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp mới chủ yếu là dựa vào vốn tự có của các nhà kinh doanh và bộ phận chủ yếu càn lại phải nhờ vào sự tài trợ của hệ thống ngân hàng. Ở các nước công nghiệp phát triển cho vay trung và dài hạn cũng được các nhà kinh doanh vay vốn kiểm soát toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời họ có thể điều chỉnh kỳ hạn nợ, nghĩa là họ có thể trả nợ sớm hơn khi họ không cần đến việc sử dụng vốn đó nữa. So với việc phát hành trái phiếu dài hạn, hay cổ phiếu các doanh nghiệp luôn phải chịu sự kiểm soát của cổ đông và họ phải đối phó với việc trả lãi trái phiếu, lãi cổ phần ưu đãi khi việc sử dụng vốn có khó khăn, hoặc không cần thiết nữa. Tín dụng trung và dài hạn ngày càng được các doanh nghiệp yêu thích hơn vì phù hợp với điều kiện thực tế của các doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp cổ phần lớn cũng thích vay trung và dài hạn để tránh phát hành cổ phiếu, trái phiếu là những hình thức huy động vốn có thể dẫn đến sự phân chia quyền lợi sự kiểm soát doanh nghiệp. Tín dụng trung và dài hạn sử dụng cho việc mua sắm nhà xưởng, máy móc, thiết bị của các doanh nghiệp để cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hoặc để mở rộng sản xuất chiếm lĩnh thị trường mới. Có thể nói rằng tín dụng trung và dàu hạn là người trợ thủ đắc lực của các doanh nghiệp trong việc thoả mãn các cơ hội kinh doanh. Khi có cơ hội kinh doanh các doanh nghiệp cần phải mở rộng sản xuất, gia tăng lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường, khi cơ hội sản xuất không còn vốn được hoàn trả ngân hàng cho vay. Đó là một ưu thế của vốn trung và dài hạn. Nó linh hoạt hơn các hình thức huy động vốn dài hạn khác như trái phiếu cổ phiếu. Hơn nữa việc vay vốn trung và dài hạn tránh được các chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, đăng ký chứng khoán... Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay nhu cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư xây dựng các công trình sản xuất kinh doanh mới, hiện đại hoá các công nghệ sản xuất, mở rộng các nghành sản xuất đang có... đòi hỏi có một nhu cầu rất lớn. Nhu cầu vốn này được thoả mãn một phần bằng vốn ngân sách cấp phát, vay nước ngoài và một phần như huy động từ dân cư. Nhưng cho dù là nguồn vốn xuất phát từ đâu việc cung cấp tín dụng thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại dưới hình thức cho vay trung và dài hạn là rất quan trọng. Hệ thống NHTM là một hệ thống kinh doanh tiền tệ có kinh nghiệm trong nắm bắt thị trường, có kinh nghiệm thẩm định dự án, các chương trình đầu tư do vậy việc các NHTM tài trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp vừa đảm bảo tính chất hiệu quả của quản lý vĩ mô về mặt tốc độ và cơ cấu sản xuất, vừa đảm bảo lợi ích của các doanh nghiệp, vì ngân hàng cho vay có thể soạn thảo giúp các doanh nghiệp các dự án đầu tư có thể tư vấn cho các nhà doanh nghiệp về đầu tư và giúp đỡ các doanh nghiệp trong quan hệ thanh toán với khách hàng, thông tin các thông tin cần thiết cho khách hàng... 1.2.3.2 Các hình thức tín dụng trung và dài hạn. a) Cho vay theo dự án đầu tư. Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định... nhằm thực hiện dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án. Thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Dự án được xây dựng gồm nhiều mục như phân tích thị trường nguồn nhân lực, địa điểm, công nghệ, quy trình sản xuất, phân tích tài chính...trong đó phân tích tài chính là mục tiêu quan tâm hàng đầu của ngân hàng. Nhu cầu vay vốn đầu tư được tính dựa trên tổng hợp các chi phí về xây dựng, giải phóng mặt bằng, mua và lắp đặt các thiết bị...và các tài sản lưu động dự trữ cần thiết để bắt đầu quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. b) Tín dụng tuần hoàn. Tín dụng tuần hoàn là hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn của NHTM trong đó vốn vay sẽ được sử dụng cho nghiều chu kỳ kinh doanh khác nhau trên cơ sở thoã thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Đặc điểm: - Đối tượng vay vốn: Ngân hàng tài trợ vốn huy động cho doanh nghiệp. Mức cho vay được quy định dựa trên cơ sở nhu cầu vốn huy động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. - Thời hạn của tín dụng tuần hoàn có thể bao gồm một hoặc nhiều chu kỳ kinh doanh vì vậy tổng thời gian cho vay có thể là trung và dài hạn. - Trong hợp đồng tín dụng, Ngân hàng và khách hàng thống nhất các tiêu chuẩn gia hạn vốn vay cho từng chu kỳ. Khi kết thúc một chu kỳ nếu khách hàng tiếp tục thoã mãn các tiêu chuẩn thì hợp đồng tín dụng tiếp tục có hiệu lực ngay sau đó. Trong trường hợp các tiêu chuẩn không được thoã mãn thì hợp đồng tín dụng sẽ bị chấm dứt. Vậy, về bản chất tín dụng tuần hoàn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi sử dụng vốn vay của ngân hàng. Hình thức tín dụng tuần hoàn phù hợp với những khách hàng có uy tín và có nhu cầu vốn thường xuyên. c) Tín dụng hợp vốn. Tín dụng hợp vốn là hình thức tài trợ trong đó các tổ chức tín dụng cùng tài trợ cho một dự án. Việc đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng là quá trình cho vay, bão lãnh của một nhóm tổ chức tín dụng cho một dự án. Việc đồng tài trợ do một tổ chức tín dụng làm đầu mối phối hợp với các bên tài trợ khác để thực hiện nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng. Hình thức tín dụng hợp vốn thường áp dụng trong các trường hộp sau: - Nhu cầu vay vốn hoặc bảo lãnh của chủ đầu tư để thực hiện dự án vượt qua giới hạn tối đa cho phép cho vay của một tổ chức tín dụng. - Nhu cầu phân tán rủi ro của các tổ chức tín dụng - Khả năng nguồn vốn của tổ chức tín dụng không đáp ứng được nhu cầu vốn của dự án. Các bên trong quan hệ tài trợ: - Bên đồng tài trợ bao gồm từ hai thành viên trở lên, mỗi thành viên là một tổ chức tín dụng. Các thành viên này tham gia góp vốn cho vay, bão lãnh trực tiêp đối với một dự án với các mức tiền nhát định do các tổ chúc tín dụng tự thoã thuận thông qua việc ký kết hợp đông tài trợ. Một tổ chức tín dụng đứng ra điều phối các quan dệ giữa các bên đông tài trợ và bên nhận tài trợ. - Bên nhận tài trợ thường là nhà đầu tư, một pháp nhân, cá nhân có nhu cầu vay vốn, được các bên đồng tài trợ chấp nhận cho vay. d) Tín dụng tiêu dùng. Tín dụng tiêu dùng là loại cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân và hộ gia đìng Đặc điểm: - Nhu cầu tín dụng rất phong phú vì khách hàng vay vốn rất đa dạng và mục đích sử dụng vốn rất linh hoạt. - Tín dụng tiêu dùng thường có rủi ro cao hơn các loại cho vay trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh vì vậy lãi suất tín dụng tiêu dùng cũng thường cao hơn lãi suất cho vay trong các lĩnh vực khác. - Thời hạn khá đa dạng cả ngắn, trung và dài hạn Hình thức cho vay tiêu dùng: Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng để mua hàng trả góp hàng hoá lâu bền như xe máy, nhà cửa...Phương thức cho vay có thể cho vay trực tiếp đối với người mua hoặc thông qua tài trợ cho các doanh nghiệp bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để các doanh nghiệp này bán hàng trả góp. Ngân hàng có thể tài trợ toàn bộ hoặc một phần giá trị hàng hoá. e) Cho thuê tài chính. Đây là một hình thức vay tài sản thông qua một hợp đồng tín dụng thuê mua. Bên cho vay lấy một hợp đồng tín dụng để mua lại tài sản cố định và giữ quyền sở hữu. Bên vay ký một hợp đòng thuê tài sản và trả góp giá trị tài sản cả gốc và lãi cho đến khi hết giá trị tài sản hoặc cho đến khi hết thời hạn hợp đồng và thanh lý tài sản. Điểm thuận lợi là bên vay có tài sản để sử dụng trong sản xuaat kinh doanh và phía ngân hàng cần giữ quyền sử hữu cho đến khi thanh lý hợp đồng. Tài sản thuê mua không nằm trong tài sản của doanh nghiệp mà nằm trong tài sản cuẩ ngân hàng cho vay. Ngân hàng thường thành lập công ty con để thực hiện nghiệp vụ này. Hai bên có thể thực hiện thuê mua trả hết hoặc thuê mua từng phần. Trong hợp đồng thuê mua người thuê được quyền chọn tài sản để thuê mua theo yêu cầu sản xuất kinh doanh của mình và chịu trách nhiệm bảo quản tài sản, bảo hiểm tài sản và nộp thuế. Việc thực hiện hợp đồng tín dụng thuê mua có thể thực hiện dưới hình thức hợp tác. Ở đây một ngân hàng đứng ra chịu trách nhiệm ký kết hợp đồng và hưởng lệ phí khởi xướng tài trợ và lãi thu nhập...về vốn tài trợ ngân hàng cho thuê sẽ vay ở nhiều ngân hàng khác và bản thân ngân hàng chỉ tài trợ một tỷ lệ nhất định ( khoảng 20% ). Người cho thuê được phép khấu trừ sự giảm giá tài sản và lợi tức cho vay dài hạn với tốc độ cao vào những năm đầu của hợp đồng thuê mua và chi trả các khoản nợ vay rrong những năm cuối cùng của hợp đồng. Việc thực hiện thuê mua đòi hỏi có một sự quy định tỉ mỉ về thời hạn, ước lượng giá trị còn lại của tài sản, khả năng trích khấu hao...Nên nó đòi hỏi phải có các chuyên viên nhiều kinh nghiệm ở mỗi loại lĩnh vực tài sản khác nhau. 1.2.3.3 Điều kiện tín dụng trung và dài hạn. Để được vay vốn, đơn vị vay phải gửi đến ngân hàng đơn xin vay, luận chứng kinh tế kỹ thuật và dự toán đã được thẩm định, nếu là doanh nghiệp nhà nước phải được cấp trên phê duyệt. Ngoài ra phải gửi đến ngân hàng bản tính toán hiệu quả của dự án, có tính toán đầy đủ các số xin vay, các nguồn trả nợ vay và lệnh trả nợ. Đơn vị vay phải xuất trình các báo cáo về tình hình tài chính của mình ở các năm trước. Ngân hàng cho vay phải xem xét kỹ càng các tài liệu nhận được nhằm đánh giá đầy đủ các khả năng của đơn vị vay vốn trước khi quyết định cho vay. Ngân hàng phải đánh giá tình hình tài chính hiện tại và tương lai của doanh nghiệp va vốn. Đặc biệt là phải thẩm định chu đáo về thi trường sản phẩm mà dự án sẽ cung cấp. Bao gồm đánh giá về thị trường sản phẩm mà dự án sẽ cung cấp. Bao gồm đánh giá về hị trường hiện tại trong nước và nước ngoài, thị trường tương lai, dự báo về số lượng và giá cả hàng hóa bán ra, khả năng cạnh tranh của dự án... Tính ổn định trong hoạt động của snả xuất kinh doanh của đơn vị vay vốn cũng là một yếu tố cần xem xét. Các doanh nghiệp có một quá trình hoạt động ổn định và phát triển dài là các đối tượng có khả năng phát triển lâu dài và bền vững, do vậy họ nhận được ưu tiên vốn. Các doanh nghiệp mới thành lập song có công nghệ hiện đại và khả năng sản xuất các sản phẩm mà thị trường đang có nhu cầu cao cũng là các doanh nghiệp được xét cho vay vốn trung và dài hạn. Khi một ngân hàng thương mại quyết định cho vay vốn trung và dài hạn cho một doanh nghiệp là ngân hàng đó đã quyết định gắn bó hoạt động của ngân hàng với doanh nghiệp đó, và hy vọng phát triển sự gắn bó đó vào tương lai. Vì vậy, việc thẩm định khả năng của bộ máy quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá được những người quản lý này có khả năng xoay trở trong mọi tình huống hay không là một điều rất cần thiết để quyết định cho vay. Điểm quan trọng khác cần phải lưu ý đến là vị thế của doanh nghiệp vay vốn, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đó đối với các đối thủ khác. Quan tâm đến các vấn đề chính trị, luật pháp, văn hoá xã hội của dự án, chương trình sản xuất cũng là một điều đáng làm. Vì một dự án, chương trình có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã._. hội cao thường được sự hỗ trợ cao của nhà nước và ngược lại. 1.2.3.4 Thời hạn, tài sản đảm bảo và phương pháp hoàn trả tín dụng trung và dài hạn. * Thời hạn cho vay. Là thời gian kể từ ngày phát sinh khoản vay đâu tiên để thực hiện việc thi công công trình. Dự án đầu tư trải qua giai đoạn thi công, công trình hoàn thành đưa vào sử dụng cho đến khi bên vay trả hết nợ gốc và lãi cho ngân hàng.Thời hạn cho vay vốn lệ thuộc vào tính chất đặc điểm của dự án, chương trình sản xuất kinh doanh. Việt Nam cho vay trung hạn tối đa 5 năm, thời hạn cho vay dài hạn không giới hạn nhưng sẽ không vượt quá thời gian khai thác sử dụng công trình. Thời gian cho vay vốn có thể được rút ngắn trong trường hợp hiệu quả của dự án, chương trình sản xuất là rất cao. Bên cạnh việc sử dụng phần khấu hao cơ bản để trả nợ, các doanh nghiệp còn có thể sử dụng nguồn lợi nhuận thu được từ dự án, chương trình vay và ở cả các dự án, chương trình khác dùng quyền sở hữu để trả nợ. Do vậy mà kỳ hạn nợ có thể rút ngắn thời gian đối với các doanh nghiệp có một thực trạng tài chính vững mạnh. Việc trả nợ sớm đối với các ngân hàng sẽ giúp các ngân hàng thu được nợ chắc chắn, nhưng nó có thể làm lỡ kế hoạch sử dụng vốn của các ngân hàng. Vì có thể khi ngân hàng thu hồi được vốn nhưng chưa thể có điều kiện để sử dụng vốn đó có hiệu quả ngay. * Tài sản đảm bảo. Cho vay trung và dài hạn có rủi ro cao hơn cho vay ngắn hạn. Do vậy các ngân hàng thường muốn có sự bảo đảm chắc chắn hơn. Tài sản dùng để bảo đảm cho nợ vay phải có giá trị lâu dài không bị mất giá theo thời gian. Do vậy mà các doanh nghiệp nhỏ vay vốn trung và dài hạn phải có tài sản bảo đảm chắc chắn để nếu có rủi ro xảy ra các ngân hàng có thể thu được nợ. Đối với các doanh nghiệp có uy tín trên thị trường có tài sản kinh doanh lớn ở nhiều ngành nghề, việc bảo đảm vốn vay được nới lỏng hơn vì các doanh nghiệp này có khả năng trả nợ tiềm tàng. Khả năng trả nợ của một doanh nghiệp tuỳ thuộc, một là hiệu quả của dự án, chương trình vay vốn. Thứ hai là quy mô tài sản riêng của doanh nghiệp trên vốn vay. Nếu một doanh nghiệp có quy mô kinh doanh lớn, mà hầu hết vốn được cung cấp bởi các nhà cho vay, thì khả năng trả nợ cho dự án, chương trình vay vốn không thể dựa vào các dự án, chương trình khác của doanh nghiệp được. Do vậy đòi hỏi phải có sự bảo đảm chắc chắn khoản vay mà ngân hàng đang dự định cung cấp. Giá trị các tài sản đảm bảo nợ phải được đánh giá một cách chính xác và mức đảm bảo nợ chỉ nên chọn ở một mức hợp lý và phải nhỏ hơn giá trị tài sản. * Phưong pháp hoàn trả nợ trung và dài hạn. Nợ trung và dài hạn được hoàn trả dưới hình thức phân kỳ, mỗi kỳ trả nợ người vay chỉ trả một phần nhất định. Việc trả nợ theo sự phân kỳ như vậy tương tự như trả góp. Mỗi định kỳ trả nợ dài hay ngắn tuỳ thuộc sự thoả thuận giữa người vay vốn với bên ngân hàng cho vay và được ghi vào hợp đồng tín dụng. Khì bên vay đã cam kết trả nợ theo định kỳ vào thì phải chấp hành theo đúng cam kết. Nếu đến định kỳ trả nợ mà người va không trả nợ thì coi như vi phạm cam kết. Khi đến kỳ hạn nợ, người ta thường xem xét đến toàn bộ nguồn thu mà người vay có thể trong từng thời điểm để định biểu trả nợ và rút ngắn thời hạn trả nợ. Theo quy định của NHĐT&PTVN hiện nay, việc thu nợ được tiến hành theo định kỳ đã được ghi trên khế ước. Khách hàng có thể trả nợ trước hạn. Đến kỳ hạn nợ, khách hàng chủ động tính tài khoản tiền gửi hoặc gửi giấy báo nhờ thu nợ. Nếu không trả được nợ đúng hạn thì chi nhánh chuyển sang nợ quá hạn và thu ngay trên tài khoản tiền gửi của khách hàng có tiền. Sau sáu mười ngày kể từ khi chuyển nợ quá hạn, nếu khách hàng không trả được nợ, lãi thì chi nhánh lập hội đồng phát mãi tài sản để thu gốc, lãi vay hoặc xử lý theo chế tài tín dụng. Vì vậy: Thời hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ, mức trả nợ từng kỳ hạn được xác định theo tính chất khoản vay, chu chuyển vốn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh, nguồn vốn trả nợ của khách hàng và được ghi rõ ràng vào hợp đồng tín dụng và khế ước. 1.2.3.5 Lãi xuất và thu lãi trong cho vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay tín dụng = lãi suất huy động vốn + phí ngân hàng + lợi nhuận ngân hàng Về cơ bản, khoản đầu tư có kỳ hạn càng dài thì rủi ro càng lớn. Vì thế lãi suất cho vay trung và dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Lãi suất cho vay được xác định tuỳ vào dự án, nghành nghề, lĩnh vực đầu tư, chính sách của ngân hàng cũng như sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Lãi suất cho vay có thể được tính theo lãi suất cố định hoặc lãi suất biến động. Trong cho vay trung và dài hạn, phần lớn các ngân hàng sử dụng lãi suất biến đổi để tránh rủi roc ho ngân hàng và người vay khi lãi suất trên thị trường biến động. Thông thường, đối với các khoản vay trung và dài hạn tại các NHTM thì lãi suất được diều chỉnh 6 tháng một lần và được tính theo công thức sau: Lãi suất điều chỉnh = lãi suâts huy động tiết kiệm 12 tháng + 0.1 %/tháng Việc thu lãi trong cho vay trung và dài hạn cũng được phân thành kỳ hạn theo tháng, quý, năm, dựa trên kết số dư ở mỗi kỳ hạn nợ và lãi suất ở mỗi kỳ hạn nợ. Cũng có trường hợp người ta thu lãi một lần với nợ gốc ở mỗi kỳ hạn nợ, hoặc nhập lãi vào nợ gốc ở từng kỳ hạn và thu một lần với nợ gốc nếu thời gian cho vay ngắn. 1.2.3.6 Hạn mức tín dụng. Lượng vốn mà NHTM có thể cấp cho khách hàng của mình còn phụ thuộc vào hạn mức tín dụng mà NHNN qui định. Theo qui chế cho vay hiện nay ở nước ta thì tổng dư nợ đối với cho vay đối với một khách hàng không được vựơt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng trừ nguồn vốn uỷ thác hoặc trường hợp đặc biệt được Chính phủ cho phép. 1.2.3.7 Quy trình tín dụng. Quy trình tín dụng là tập trung các nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, trình tự các bước phải tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một vòng quay của vốn tín dụng. Quy trình tín dụng là yếu tố quan trọng để đảm bảo hiệu quả tín dụng. Quy trình tín dụng gồm có 10 bước: Khai thác khách hàng, tìm kiếm dự án Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn Điều tra, thu thập, tổng hợp thong tin về khách hàng Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn Quy định cho vay Kiểm tra hoàn chỉnh hồ sơ cho vay va hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bão lãnh Phát tiền vay Kiểm tra sau khi cho vay, thu hồi nợ, gia hạn nợ Xử lý rủi ro Thanh lý hợp đồng và đánh giá kết quả cho vay 1.3 Chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các ngân hàng thương mại. 1.3.1 Khái niệm chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHTM. Đối với các NHTM, cái được biểu hiện ra bên ngoài vừa cụ thể, vừa trừu tượng của hoạt động tín dụng chính là chất lượng tín dụng. Chỉ khi chất lượng tín dụng tốt tức là ngân hàng có nhiều khách hàng, uy tín ngân hàng được nâng cao tạo điều kiện thúc đẩy cho ngân hàng phát triển. Chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng. Như vậy khi xem xét chất lượng tín dụng của ngân hàng nói chung và đối với DNVVN nói riêng, cần tính đến ba nhân tố là NHTM, khách hàng, và nền kinh tế. * Chất lượng hoạt động tín dụng xét từ giác độ NHTM Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn,trung và dài hạn trong nền kinh tế. * Chất lượng hoạt động xét từ giác độ khách hàng. Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu khách hàng sẽ làm cho ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của ngân hàng, đảm bảo thoả mãn nhu cầu hợp lý về vốn cho họ. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, chất lượng tín dụng là yêu cầu hàng đầu, vì vậy chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng, lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản không phiền hà, thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng phù hợp với tốc độ phát triển của xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, góp phần làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp. * Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế. Hoạt động tín dụng trong những năm gần đây phản ánh rõ nét sự năng động của nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế mới. Nhiều khái niệm mới với những nội dung mới để đạt được sự thống nhất, về nhận thức và tạo điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác khả năng tiềm ẩn trong nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vay vốn nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển. Từ những điều trên, ta có thể rút ra: - Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của NHTM và sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. - Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí tổng thể về sản xuất, chi phí nghiệp vụ… - Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung, do đó để đạt được chất lượng tín dụng cần có sự quản lý. Quản lý chất lượng về cơ bản là những hoạt động và kỹ thuật được sử dụng nhằm đạt được chất lượng tốt. Để có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động. Nói cách khác, chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động. Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích đánh giá đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn tại về chất lượng, sẽ giúp ngân hàng tìm được biện pháp thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế hoạt động sôi nổi và có sự cạnh tranh gay gắt. 1.3.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Chỉ tiêu doanh số cho vay dài hạn Đây là chỉ tiêu phản ánh chính xác, tuyệt đối về hoạt động cho vay trong một thời gian dài, thấy được khả năng hoạt động tín dụng qua các năm, cho thấy khả năng mở rộng cho vay. Do đó, nếu kết hợp được doanh số cho vay của nhiều thời kỳ thì ta sẽ thấy được phần nào về xu hướng hoạt động cho vay. * Chi tiêu tỷ trọng dư nợ Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, cho vay trung, dài hạn… Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động tài sản của ngân hàng chưa cao, trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế…Mặc dù vậy, không có nghĩa là chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao. Dư nợ DNVVN Tỷ trọng dư nợ DNVVN = Tổng dư nợ * Chỉ tiêu doanh số thu nợ Chỉ tiêu doanh số thu nợ cho biết ngân hàng làm ăn có hiệu quả hay không, các khoản vay có an toàn hay không, các doanh nghiệp có sử dụng đúng mục đích khoản vay hay không. Doanh số thu nợ Tỷ trọng doanh số thu nợ = Tổng thu nợ * Chỉ tiêu nợ quá hạn Nợ quá hạn (NQH) là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi DNVVN đi vay không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đúng hạn như cam kết. Chỉ tiêu nợ quá hạn được thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn cho vay DNVVN và tổng dư nợ cho vay DNVVN của ngân hàng tại một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Nợ quá hạn cho vay Tỷ lệ NQH cho vay = Tổng dư nợ Xét về mặt bản chất, tín dụng là sự vay mượn dựa trên cơ sở ngân hàng tin tưởng người đi vay có khả năng và sẵn sàng hoàn trả vào một thời điểm nhất định trong tương lai, do đó tính an toàn là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được trả đúng hạn như đã cam kết mà không có lí do chính đáng thì nó sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất vay trước đó. Trên thực tế, phần lớn các khoản NQH cho vay càng cao thì ngân hàng càng gặp khó khăn trong kinh doanh và sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và lợi nhuận cũng sẽ giảm. Điều này có nghĩa là tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng cho vay ngoài quốc doanh càng cao. Để đánh giá chính xác hơn chỉ tiêu này, người ta chia tỷ lệ NQH cho vay làm hai loại: +) Tỷ lệ NQH cho vay có khả năng thu hồi NQH cho vay có khả năng thu hồi = NQH cho vay +) Tỷ lệ NQH cho vay không có khả năng thu hồi NQH cho vay không có khả năng thu hồi = NQH cho vay * Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng Vòng quay vốn tín dụng là chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Doanh số thu nợ Vòng quay vốn tín dụng = Dư nợ bình quân Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Với một số vốn nhất định, nhưng do vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, mặt khác ngân hàng có vốn để tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác. Như vậy, chỉ tiêu này càng tăng càng phản ánh tình hình tổ chức quản lý tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao. *Lãi cho vay thu từ hoạt động tín dụng Lãi cho vay thu từ hoạt động tín dụng càng cao, chứng tỏ dư nợ tín dụng của Ngân hàng tăng trưởng tốt, ổn định qua các thời kỳ, khách hàng trả nợ gốc, lãi vay và các khoản phí đầy đủ, đúng hạn. Chứng tỏ hoạt động tín dụng của Ngân hàng càng có hiệu quả. * Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng. Ngân hàng hoạt động với mục đích quan trọng nhất là lợi nhuận. Chỉ tiêu này sẽ chỉ ra trong tổng thu nhập của ngân hàng thì phần đóng góp là bao nhiêu. Lợi nhuận thu từ hoạt động tín dụng lớn sẽ khẳng định chất lượng của các khoản vay là tốt. Tất nhiên khi xem xét chất lượng của một hoặc một số hoạt động tín dụng đặc thù thì chúng ta sẽ dựa trên những chỉ tiêu chung này để vận dụng cho phù hợp, đồng thời những chỉ số cũng được xem xét trong cả một thời kỳ dài để thấy khuynh hướng biến động của nó phù hợp với thực tiễn không, nhằm giúp cho các đánh giá được chính xác hơn. Một vài chỉ tiêu khác cũng nói lên chất lượng tín dụng của ngân hàng đó là: - Thu hồi hạch toán ngoại bảng - Tình hình giá trị tài sản đảm bảo và dư nợ có tài sản đảm bảo - Lãi treo - ROA, ROE 1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng thuộc về ngân hàng. 1.3.3.1. Quy mô và cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn NHTM Muốn cho vay được thì điều kiện trước tiên là ngân hàng phải có vốn. Nhưng chỉ có vốn thôi thì chưa đủ, do yêu cầu phải đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên nên các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng phải được tài trợ chủ yếu bằng nguồn vốn trung và dài hạn, bao gồm các nguồn vốn có thời hạn từ một năm trở lên và các nguồn vốn huy động có thời hạn dưới một năm nhưng có tính ổn định cao trong thời gian dài. Nếu một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào nhưng chủ yếu là vốn ngắn hạn, không ổn định thì không nên mở rộng cho vay trung dài hạn. Các nguồn vốn mà một ngân hàng có thể sử dụng để cho vay trung dài hạn bao gồm: nguồn vốn tự có của ngân hàng, vốn vay trung dài hạn trong và ngoài nước, vốn huy động trung và dài hạn, vốn uỷ thác, một bộ phận nhất định vốn huy động ngắn hạn cũng có thể được sử dụng. Quy mô các nguồn vốn này là một trong những nhân tố quyết định quy mô cho vay trung dài hạn và do đó ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng. Ngoài ra, một ngân hàng có nguồn vốn trung dài hạn dồi dào cũng dễ dàng hơn trong việc tạo lập uy tín đối với khách hàng, nhờ đó thu hút được nhiều khách hàng hơn. 1.3.3.2. Năng lực của Ngân hàng. Năng lực của Ngân hàng trong việc thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng là vốn và lãi phải được trả đúng kỳ hạn. Điều này sẽ không thể có được nếu như việc thực hiện dự án không đạt hiệu quả như mong muốn, hoặc doanh nghiệp không có thiện chí, cố tình lừa đảo ngân hàng. Để hạn chế nguy cơ đó ngân hàng cần thực hiện tốt công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Làm được như vậy sẽ giúp ngân hàng lựa chọn được chính xác khách hàng tin cậy, những dự án thực sự khả thi và đó là tiền đề để nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. 1.3.3.3. Năng lực giám sát và xử lý các tình huống tín dụng của Ngân hàng. Cho dù công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng được tiến hành tốt, giúp cho ngân hàng lựa chọn được những khách hàng tốt, những dự án khả thi có khả năng sinh lời cao. Song đó chưa phải là sự bảo đảm chắc chắn để có được chất lượng tín dụng cao, đặc biệt là đối với tín dụng trung và dài hạn. Bởi lẽ hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời gian dài luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn không thể lường trước. Bản thân dự án trong quá trình thực hiện cũng nảy sinh những tình huống ngoài dự kiến. Chính vì vậy mà công tác giám sát, xử lý tình huống tín dụng khi cho vay có ý nghĩa rất quan trọng. 1.3.3.4 Chính sách tín dụng của Ngân hàng. Chính sách tín dụng của NHTM là một hệ thống các biện pháp liên quan dến việc khuyếch trương hoặc hạn chế tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu của ngân hàng đó trong từng thời kỳ. Với ý nghĩa như vậy rõ ràng chính sách tín dụng có tác động rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Trước hết về mặt quy mô tín dụng, nếu chính sách tín dụng của ngân hàng trong một thời kỳ nào đó là hạn chế tín dụng trung và dài hạn thì có nghĩa là quy mô tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng đó sẽ bị thu hẹp. Đó có thể là dấu hiệu cho thấy chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng đang có vấn đề hay xét về mặt quy mô không thể nói chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng đó trong giai đoạn đó là tốt. Ngoài ra, chính sách tín dụng của ngân hàng còn bao gồm một loạt các vấn đề như: quy định về điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng đối với khách hàng, lĩnh vực tài trợ, biện pháp bảo đảm tiền vay, quy trình quản lý tín dụng, lãi suất có tác dụng trực tiếp hay gián tiếp đến chất lượng tín dụng ngân hàng. Nếu chính sách tín dụng được xây dựng và thực hiện một cách khoa học và chặt chẽ, kết hợp được hài hoà lợi ích của ngân hàng, khách hàng và của xã hội thì sẽ hứa hẹn một chất lượng tín dụng tốt. Còn ngược lại, nếu việc xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng không hợp lý, không khoa học thì chắc chắn chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng của ngân hàng sẽ không cao, thậm chí là rất thấp. 1.3.3.5 Thông tin tín dụng. Thông tin tín dụng luôn là yếu tố cơ bản cần thiết cho công tác quản lý dù ở bất kỳ lĩnh vực nào. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng vậy, để thẩm định dự án, thẩm định khách hàng trước tiên phải có thông tin về khách hàng đó, về dự án đó, để làm tốt công tác giám sát sau khi cho vay cũng cần thông tin. Thông tin càng chính xác, kịp thời càng thuận lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cho vay, theo dõi việc sử dụng vốn vay và tiến độ trả nợ. Thông tin chính xác, kịp thời, đầy dủ còn giúp cho ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chính sách tín dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả những điều đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. 1.3.3.6 Công nghệ ngân hàng, trang thiết bị kỹ thuật. Cũng là một nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Một ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại, được trang bị các phương tiện kỹ thuật chất lượng cao sẽ tạo điều kiện đơn giản hoá các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vay vốn. Đó là điều kiện tiền đề để ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở rộng tín dụng. Sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, công tác lập kế hoạch, xây dựng chính sách tín dụng cũng có hiệu quả hơn. 1.3.3.7 Chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự của ngân hàng. Cho dù khoa học kỹ thuật hiện đại đã mở ra cơ hội tự động hoá nhiều lĩnh vực song nhân tố con người vẫn luôn giữ vai trò quyết định. Đặc biệt, trong hoạt động tín dụng ngân hàng là hoạt động rất phức tạp, có liên quan đến nhiều vấn đề của đời sống xã hội thì vai trò của con người càng quan trọng. Các phương tiện kỹ thuật hiện đại chỉ có thể trợ giúp chứ không thể thay thế được sự nhạy cảm hay kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ tín dụng. Do vậy vấn đề nhân sự là một vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mỗi ngân hàng, trong dó nổi bật lên hai vấn đề: chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự. Chất lượng nhân sự ở đây không chỉ đề cập đến trình độ chuyên môn mà còn cả lương tâm, đạo đức, tác phong, kỷ luật lao động của người cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng. Chất lượng nhân sự tốt, biểu hiện ở sự năng động sáng tạo trong công việc, tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật cao của cán bộ, trong một chừng mực nhất định có thể giúp ngân hàng bù đắp lại những hạn chế về công nghệ, kỹ thuật, nhờ đó ngân hàng có thể tồn tại và phát triển cho dù phải cạnh tranh với những đối thủ có tiềm lực công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật mạnh hơn. Bên cạnh chất lượng nhân sự thì công tác quản lý nhân sự cũng cần đặc biệt chú ý, bởi lẽ không phải cứ có cán bộ tín dụng giỏi là có chất lượng tín dụng cao. Mỗi cán bộ tín dụng đều có những điểm mạnh và yếu riêng, điều quan trọng là phải biết bố trí, sắp xếp công việc của họ sao cho phát huy hết thế mạnh và hạn chế những điểm yếu của từng người, đồng thời có chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, tạo sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động của từng thành viên trong một guồng máy thống nhất cùng hướng tới một mục tiêu chung là nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2008. 2.1 Tổng quan hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2008. 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển SGDI Sở giao dịch 1 ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam (NHĐT&PTVN ) có lịch sử hình thành phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của NHĐT&PTVN. NHĐT&PTVN là một trong những ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam, với 254 chi nhánh tại các thành phố lớn , với hơn 12000 cán bộ, có quan hệ với nhiều ngân hàng trong và ngoài nước. NHĐT&PTVN với hơn 50 năm hình thành và phát triển đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế nhà cũng như sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Ngày 26/4/1957, Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam – tiền thân của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển - được thành lập trực thuộc bộ tài chính theo quyết định 177/TTG của Thủ tướng chính phủ với quy mô ban đầu nhỏ bé gồm 8 chi, nhánh 200 cán bộ. Nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng kiến thiết là thực hiện cấp phát, quản lí vốn kiến thiết cơ bản từ nguồn vốn ngân sách cho tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội. Ngày 24/6/1981, Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam, trực thuộc Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng là cấp phát, cho vay và quản lí vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thuộc kế hoạch nhà nước. Ngày 14/11/1990, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Đầu năm 1991, thực hiện các quyết định của Nhà Nước và Thống đốc ngân hàng, NHĐT&PTVN triển khai hoạt động theo mô hình tổ chức mới. Ban lãnh đạo NHĐT&PTVN đã xác định: Vốn là mặt trận phía trước, tín dụng là trung tâm với phương chậm “Hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của BIDV” đồng thời bước đầu triển khai các dịch vụ ngân hàng, mở rộng quan hệ đối ngoại và thanh toán quốc tế. Song song với việc ổn định tổ chức và đào tạo cán bộ, NHĐT&PTVN cũng bước đầu mở thêm một số lượng nghiệp vụ mới như: Huy động vốn, phát hành kì phiếu bảo đảm giá trị theo giá vàng, thanh toán quốc tế, cho vay xuất nhập khẩu, cho vay làm nhà ở… Sở giao dịch I được thành lập theo Quyết định số 572 TCCB/ ĐT ngày 26/12/1990 của Vụ Tổ chức cán bộ Ngân hàng Nhà nước về tổ chức bộ máy của NHĐT&PTVN và Quyết Định số 76 QĐ/TCCB ngày 28/03/1991 của Tổng Giám đốc NHĐT&PTVN. Theo các Quyết định này, Sở giao dịch I là đơn vị trực thuộc, thực hiện hạch toán nội bộ, có bảng cân đối tài khoản riêng, có con dấu riêng và trực tiếp giao dịch với khách hàng. Trụ sở đặt tại 191 Đường Bà Triệu-Hai Bà Trưng- Hà nội. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Sở Giao dịch I trải qua hai thời kỳ: - Thời kỳ từ 1991 – 1995: Nhiệm vụ chính trong thời kỳ này là cấp phát vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản. Trong giai đoạn này ngân hàng đã thực hiện cấp phát vốn cho nhiều dự án như: Các dự án về bưu điện, đường sắt, chè, cà phê… với số tiền lên đến hàng trăm tỷ đồng. Không những thế ngân hàng còn cho vay đối với các đơn vị thiết kế thi công, xây dựng… - Thời kỳ từ 2000 đến nay: Năm 2000 các chỉ tiêu đề ra không còn nhưng một số dự án lớn vẫn còn kéo dài trong đó có nhiều dự án mang tính bao cấp chỉ thị. Chỉ đến năm 2001 sở mới chính thức hạch toán độc lập. Trong những ngày đầu mới thành lập sở giao dịch chỉ có hai phòng và một tổ nghiệp vụ trong quá trình phát triển ngân hàng không ngừng mở rộng quy mô cũng như chất lượng hoạt động của mình đến nay ngân hàng có tới 15 phòng nghiệp vụ với hơn 300 cán bộ, với tổng tài sản chiếm khoảng 10% tổng tài sản của hệ thống. SGDI phải làm tất cả các nhiệm vụ mà trung ương giao, cũng như phải hoàn thành tốt nhiệm vụ mà lãnh đạo NHĐT&PTVN giao như: bảo toàn và phát triển nguồn vốn cũng như các nguồn lực của ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh doanh đề ra, thông qua việc xây dựng kế hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm với hoạt động kinh doanh phù hợp với chiến lược phát triển của toàn ngành và của chính ngân hàng 2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam trong ba năm 2006, 2007, 2008 Thời gian gần đây, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới với xuất phát điểm là sự sụp đổ hệ thống cho vay dưới chuẩn của Mỹ đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam mà nhất là thị trường tài chính tiền tệ có nhiều diễn biến mang tính phức tạp, điển hình như việc dư thừa vốn khả dụng của các NHTM kéo dài suốt trong năm 2007 và lại thiếu hụt vốn trầm trọng vào đầu năm 2008. Việc chỉ số chứng khoán Việt Nam giảm mạnh, hay việc tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, NHNN kiểm soát chặt chẽ cho vay đối với đầu tư chứng khoán và tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng v.v… dường như càng làm tăng lên những khó khăn mà hệ thống ngân hàng gặp phải. Trước những biến động đó, hoạt động của SGDI NHĐT&PTVN trong thời gian qua cũng không tránh khỏi những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo quyết liệt, chủ động, linh hoạt bằng những quyết sách mạnh mẽ, kịp thời của Ban lãnh đạo cùng sự nỗ lực chung của toàn bộ tập thể cán bộ nhân viên, hoạt động của SGDI đã đạt được những kết quả rất khả quan, xứng đáng là cánh chim đầu đàn trong toàn hệ thống NHĐT&PTVN . 2.1.2.1 Đánh giá nguồn vốn huy động a) Đánh giá tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của SGDI. (Đvt: triệu đồng) Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI Tính đến hết ngày 31/12/2007, số dư huy động vốn của SGDI đạt 13620.6 tỷ đồng, tăng 34.71% so với năm 2006. Nguồn vốn huy động luôn tăng trưởng như vậy đã đảm bảo cho SGDI lúc nào cũng có nguồn vốn sẵn sàng bổ sung cho nhu cầu thanh khoản. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của năm 2008 cao hơn tốc độ tăng trưởng huy động vốn của năm 2007 (so với 2006) 88.9%, là do cuộc chạy đua lãi suất vào đầu năm 2008 của các ngân hàng, tỷ lệ lạm phát tăng khá cao khiến cho đôi khi dẫn tới mức lãi suất thực âm. Thêm vào đó không thể không kể đến sự biến động của thị trường vàng, sự tăng cao của tỷ giá USD/VND và những tác động tiêu cực đến huy động vốn của các ngân hàng. Đặc biệt kết thúc năm 2008 vốn huy động tăng 88.96% so với năm 2007. Nguyên nhân chủ yếu do việc huy động vốn với lãi suất khá cao trong bối cảnh lạm phát của nền kinh tế. Biểu đồ 2.2: Tốc dộ tăng trưởng vốn thành phần (Đvt: triệu đồng) Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI Tiền gửi tổ chức kinh tế tăng trưởng đều đặn qua các năm, tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn ngày càng tăng lên. Điều đó cho thấy SGDI dường như đi đúng hướng trong việc phát triển hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt cho hệ thống doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung, giúp cho việc kiểm soát lưu thông tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Tiền gửi của dân cư biến động mạnh trong giai đoạn 2006 – 2008, giảm mạnh vào năm 2007 và lại tiếp tục tăng trong năm 2008 dù kinh tế có nhiều khó khăn. Điều đó đã cho thấy SGDI đã năng động và sáng tạo trong việc chọn giải pháp phát triển những sản phẩm và cung ứng dịch vụ huy động vốn linh hoạt, mang tính cạnh tranh cao bên cạnh những dịch vụ truyền thống như tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm “ổ trứng vàng”…và chú trọng công tác mở rộng mạng lưới trên các thi trường tiềm năng, khách hàng tiềm năng. b) Đánh giá cơ cấu nguồn vốn huy động Cơ cấu huy động vốn của SGDI đã có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực thể hiện ở đối tượng tiền gửi của tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng lớn thay cho loại hình tiền gửi của cá nhân trong giai đoạn trước đây. Nguồn vốn huy động khác đang dần chiếm tỷ trọng tăng cao thể hiện sự năng động của SGDI trong việc tìm kiếm nguồn vốn cho sự phát triển của mình. Tính đến 31/12/2008 tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 26485,352 tỷ đồng, tiền gửi dân cư đạt 2355,873 tỷ đồng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22481.doc