LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta đang trong thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất của một nền sản xuất lớn, hiện đại nên nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế là rất cao. Trong khi đó, tuy thị trường chứng khoán ở nước ta đã ra đời nhưng việc huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chưa nhiều, do đó, nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế chủ yếu vẫn do hệ thống ngân hàng thương mại, trong đó chủ yếu là các ngân hàng thương mại quốc doanh cấp. Đóng vai trò chủ đạo trong đầu tư vốn trung và dài h
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp nhà nước tại Sở Giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn cho nền kinh tế, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đang ngày càng khẳng định vị thế của mình trong hệ thống các ngân hàng thương mại.
Trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn, tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng. Đối với các ngân hàng, hoạt động này đóng góp không nhỏ vào tổng lợi nhuận của ngân hàng. Đối với các Doanh nghiệp nhà nước, nó đáp ứng vốn cho các Doanh nghiệp nhà nước để họ thực hiện vai trò to lớn của mình: là lực lượng mở đường, hỗ trợ và định hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu kinh tế- xã hội; góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước, đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội và đặc biệt sẽ là lực lượng quan trọng để Nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Hoạt động trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam tuy đã đạt được nhiều thành tựu nhưng vẫn còn một số mặt hạn chế, do đó chưa phát huy được hết khả năng to lớn của mình.
Với ý nghĩa này, việc tìm hiểu về tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hơn nữa chất lượng của hoạt động này là vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, em xin lựa chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Em xin trình bày bố cục luận văn thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).
Chương 2: Thực trạng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (SGD NHĐT&PTVN).
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Trong quá trình thực tập tại Sở giao dịch, em đã nhận được sự chỉ bảo và hướng dẫn rất tận tình của các cán bộ trong Sở. Đồng thời, để hoàn thành được luận văn này, em đã nhận được sự hướng dẫn chu đáo của giảng viên- Ths. Phan Thị Hạnh. Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
1.1.1. KHÁI NIỆM TÍN DỤNG
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế thì thuật ngữ này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
Xét trên giác độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
....
Như vậy có nhiều cách hiểu về “ tín dụng”, tuy nhiên theo quan điểm của em thì tín dụng có thể được hiểu là: sự vay mượn hoặc sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng.
Căn cứ vào hai tiêu thức là chủ thể và đối tượng tín dụng thì quan hệ tín dụng gồm có các loại hình: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng và tín dụng quốc tế. Trong mỗi loại hình này, tín dụng lại được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Trong phạm vi nghiên cứu, em chỉ xin đề cập đến “tín dụng” gắn liền với chủ thể nhất định là ngân hàng. Theo đó, tín dụng ngân hàng là hoạt động tài trợ (cho vay) của ngân hàng cho khách hàng. Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 49 ghi: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”.
Tín dụng ngân hàng được chia thành nhiều loại khác nhau căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau. Trong đó, phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian thì tín dụng được phân thành:
Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống, tài trợ cho tài sản lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm (theo quy định của ngân hàng nhà nước Việt Nam), tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn, mở rộng sản xuất kinh doanh hay để xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ yếu để đầu tư vào các đối tượng sau: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều...Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, tín dụng trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20 – 30 năm, nhiều trường hợp đặc biệt có thể lên đến 40 năm, tài trợ cho công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu.
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng.
Ở các nước khác nhau, những ngân hàng khác nhau có thể có những cách quy định khác nhau về thời gian trung và dài hạn.
1.1.2. PHÂN LOẠI TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản tín dụng theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại này tuy chỉ mang tính tương đối nhưng nó lại rất quan trọng vì nó là cơ sở khoa học để thiết lập quy trình tín dụng một cách thích hợp đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng.
Cũng như tín dụng nói chung, ta có thể phân chia tín dụng trung và dài hạn theo những tiêu thức khác nhau:
- Căn cứ vào loại khách hàng:
Cấp tín dụng cho doanh nghiệp: Ngân hàng cấp tín dụng cho những tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Quy mô của hầu hết các khoản vay này là lớn, lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường.
Cấp tín dụng cho cá nhân: các cá nhân có thể sử dụng vốn vay từ ngân hàng nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng nhưng chủ yếu là để tiêu dùng. Quy mô khoản tín dụng thường nhỏ hơn so với khoản cấp cho các doanh nghiệp, lãi suất thường “cứng nhắc” và cao.
Cấp tín dụng cho các đơn vị khác: các đơn vị như các tổ chức xã hội cũng cần vốn với nhiều mục đích khác nhau, để giải quyết sự thiếu hụt vốn họ cũng có thể vay từ ngân hàng.
- Căn cứ vào tính chất đảm bảo:
Tín dụng có đảm bảo bằng tài sản cầm cố, thế chấp: Để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng của mình phải có tài sản cầm cố hoặc thế chấp. Và trên nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo.
Tín dụng không đảm bảo bằng tài sản (Gồm: tín chấp và bảo lãnh bằng uy tín). Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, trung thực trong kinh doanh, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, quản trị có hiệu quả, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng... cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng:
Cho vay kinh doanh: các cá nhân, tổ chức vay vốn từ ngân hàng để mở rộng sản xuất; đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mới...nhằm tăng lợi nhuận, nâng cao doanh số...chứ không phải để thỏa mãn các nhu cầu (ăn, mặc...) của cá nhân.
Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình, xe cộ, du lịch, giáo dục, y tế...Việc cho vay tiêu dùng giúp các ngân hàng mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gửi cho ngân hàng đồng thời tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng. Với người tiêu dùng, nhờ vay tiêu dùng mà họ được hưởng các tiện ích trước khi tích lũy đủ tiền và đặc biệt quan trọng hơn là nó rất cần thiết cho những trường hợp khi cá nhân có các chi tiêu có tính cấp bách như nhu cầu chi tiêu cho giáo dục và y tế.
- Căn cứ vào phương thức quản lý:
Tín dụng trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Tức là trong loại tín dụng này có mối quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng trong toàn bộ quá trình từ khi nộp hồ sơ vay vốn, phân tích thẩm định, ra quyết định cho vay, giải ngân, thu nợ... đến khi thanh lý hợp đồng vay.
Tín dụng gián tiếp: khác với tín dụng trực tiếp là có sự tham gia của các tổ chức trung gian trong toàn bộ tiến trình cho vay. Các tổ chức trung gian có thể là: Tổ, đội, hội, nhóm (Hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, hội nông dân...); hay những người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất.
Hình thức này có rất nhiều ưu điểm: giảm thời gian, chi phí đi lại trong việc làm thủ tục vay của người vay vốn, đồng thời thông qua các hội, tổ, nhóm thì người vay sẽ được phổ biến kiến thức, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm quản lý vốn, giúp người vay sử dụng vốn đúng mục đích, đạt kết quả, tránh rủi ro trong quá trình kinh doanh... Đối với ngân hàng, ngân hàng sẽ chủ động chuẩn bị vốn để cho vay, sắp xếp lịch giải ngân hợp lý, tránh ùn tắc hay quá tải vào cao điểm vụ sản phẩm. Tuy nhiên, hình thức cho vay này bộc lộ khuyết điểm là các trung gian có thể lợi dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình.
- Căn cứ vào mức độ rủi ro: Xem xét về mặt rủi ro hay tính an toàn, tín dụng có thể ở các “cung bậc” khác nhau: khoản có mức độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Xếp loại tín dụng theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao, nhiều ngân hàng có thể chia tới rất nhiều thang bậc rủi ro. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trù quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đồng thời để đánh giá chất lượng tín dụng.
Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính...
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn...
Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì...
Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
Tín dụng có thời hạn: là loại tín dụng có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng. Trong loại này lại được phân chia tiếp, bao gồm:
Tín dụng chỉ có một kỳ hạn trả nợ: là loại chỉ thanh toán một lần theo thời hạn đã thỏa thuận.
Tín dụng có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Loại này thường được áp dụng rộng rãi trong cho vay bất động sản nhà ở thương mại, cho vay tiêu dùng...
Tín dụng không có thời hạn cụ thể: đối với loại này thì ngân hàng có thể yêu cầu hoặc để người vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý (có thể được thỏa thuận trong hợp đồng).
- Căn cứ vào các tiêu thức khác:
Theo ngành kinh tế (Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...).
Theo số lượng ngân hàng tham gia cấp tín dụng (Do một ngân hàng thực hiện; đồng tài trợ).
- Bàn thêm về một số loại tín dụng trung và dài hạn khác:
Tín dụng tuần hoàn: là một hình thức cho vay, trong đó ngân hàng cam kết chính thức dành cho khách hàng một hạn mức tín dụng trong một thời hạn nhất định. Cần chú ý rằng, cam kết này có thể kéo dài từ 1 đến 3 hoặc 5 năm, chính vì vậy đây cũng là một loại tín dụng trung và dài hạn.
Khi có nhu cầu về vốn trung và dài hạn, các doanh nghiệp có thể sử dụng các biện pháp để huy động vốn như: phát hành các chứng khoán, vay ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng khác...tuy nhiên, việc phát hành những chứng khoán mua, bán trên thị trường không phải là biện pháp hàng đầu để các doanh nghiệp tài trợ cho các hoạt động của họ vì rất mất thời gian để tiến hành công việc này trong khi cơ hội thì lại “đến” và “đi” rất nhanh. Chính vì vậy, nguồn vốn được tài trợ từ ngân hàng là vô cùng quan trọng. Họ có thể vay ngân hàng dưới hình thức tín dụng tuần hoàn để tài trợ cho nhu cầu tăng trưởng tài sản lưu động, sử dụng khi ngân hàng chưa xác định được phần tài sản lưu động thường xuyên của doanh nghiệp.
Tín dụng thuê mua: là hình thức vay tài sản thông qua một hợp đồng tín dụng thuê mua.
Khách hàng thường đến vay ngân hàng với mục đích là mua tài sản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, khách hàng không thể đáp ứng được các điều kiện để vay. Để giúp khách hàng có thể thực hiện được mục đích, đồng thời không để bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh, các ngân hàng đã tiến hành mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng và cho khách hàng thuê lại. Tài sản này không nằm trong tài sản của doanh nghiệp mà nằm trong tài sản của ngân hàng, chính vì vậy ngân hàng có thể thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả nợ được. Điều này góp phần làm giảm thiệt hại cho ngân hàng. Thông thường, để thực hiện nghiệp vụ này, các ngân hàng thường thiết lập các công ty còn để chuyên quản. Công ty con này có nhiệm vụ nghiên cứu cùng với bên vay để lựa chọn các máy móc, trang thiết bị thích hợp để thực hiện hợp đồng thuê mua.
1.1.3. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Tín dụng trung và dài hạn cũng là hoạt động tín dụng nên nó cũng có vai trò như hoạt động tín dụng nói chung. Vai trò đó được thể hiện ở các điểm sau:
Góp phần làm ổn định nền kinh tế (quá trình sản xuất kinh doanh của các cá thể, cá nhân thường xuyên hơn), tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế: hoạt động sản xuất kinh doanh không phải lúc nào cũng suôn sẻ, các tổ chức, cá nhân luôn phải đương đầu với những khó khăn để tồn tại cũng như để đi lên. Một trong những khó khăn mà đa số họ gặp phải trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay là sự thiếu hụt vốn trong kinh doanh. Bên cạnh việc đi vay mượn ở người thân, bạn bè...còn gọi là vay nóng thì việc các tổ chức, cá nhân đi vay ở các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu về vốn là rất thường xuyên.
Tích tụ và tập trung vốn (góp phần làm giảm số tiền nhàn rỗi, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông và khắc phục lạm phát tiền tệ).
Mỗi người, với một khoản tiền nhỏ thì rất khó có thể đầu tư, kinh doanh hay mua những vật có giá trị lớn. Nhưng nếu nhiều người góp lại thì nó sẽ trở thành một khoản tiền lớn. Tuy nhiên việc tập trung các lượng vốn nhỏ này lại rất khó khăn đối với chỉ một người hay một nhóm người mà họ không được mọi người trong xã hội biết đến. Trong khi đó lại có rất nhiều người cần một lượng tiền lớn, nhiều công trình, dự án cần vốn lớn để đầu tư…Để kết nối những trường hợp trên lại, chúng ta phải nhờ đến các tổ chức tín dụng mà đặc biệt là các ngân hàng. Cũng thông qua hoạt động này của ngân hàng, số tiền nhàn rỗi trong dân cư sẽ giảm xuống vì họ có một nơi để “đầu tư” kiếm lời thay vì cất giữ ở nhà, do đó lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ giảm, khắc phục lạm phát tiền tệ.
Là công cụ điều tiết vĩ mô thông qua việc phân bổ lại các nguồn lực, qua đó góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu với những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại, nền kinh tế nước ta so với các nước trên thế giới mới chỉ được xếp là “nước đang phát triển”. Sự tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật…của nước ta là rất lớn. Để tiến lên hội nhập với thế giới, không có con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nặng về nông nghiệp sang phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ. Muốn vậy, Nhà nước cần phải phân bổ các nguồn lực cho hợp lý giữa các ngành này. Một trong những cách để làm điều đó là thông qua hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn. Với cách này, khi Nhà nước muốn mở ra hay phát triển một ngành, lĩnh vực, Nhà nước sẽ có những khuyến khích trong chính sách tín dụng như có những ưu đãi về lãi suất, thời hạn, tài sản đảm bảo trong việc vay vốn…để các cá nhân, doanh nghiệp chú ý đến và thực hiện đầu tư.
Thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
Thật vậy, thông qua hoạt động này của ngân hàng, ta có thể biết được nền kinh tế đang cần vốn như thế nào. Mà ta biết rằng, một nền kinh tế phát triển luôn có nhu cầu lớn về vốn cho sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy nó sẽ phản ánh một phần về hoạt động kinh doanh của một đất nước.
Đồng thời, với chức năng này, đồng tiền được sử dụng để xây dựng các thước đo, chỉ tiêu và xác định xem các hoạt động sản xuất kinh doanh có hợp pháp, hợp lệ hay không, có hiệu quả hay không. Do đó nó có vai trò quan trọng trong việc tổng hợp, kiểm soát các hoạt động kinh tế, thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế.
1.1.4.CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
1.1.4.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng
Trong thời gian qua, hoạt động của các ngân hàng đã đạt được nhiều thành công, đóng góp một phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng vẫn còn có nhiều khó khăn đe dọa đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng nói riêng và của toàn xã hội nói chung; vẫn còn nhiều mối quan tâm, lo ngại cần các ngành, các cấp giải quyết. Một trong những mối quan tâm lo ngại đó chính là chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Cho đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể về hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Chính vì vậy, việc xây dựng một hệ thống như vậy là cần thiết không chỉ đối với đội ngũ thanh tra trong quá trình thực hiện thanh tra, kiểm soát các ngân hàng thương mại mà còn là cơ sở để các ngân hàng thương mại tự đánh giá độ an toàn và chất lượng của đồng vốn mà họ cung cấp cho các khách hàng.
Vậy chất lượng tín dụng là gì? Có thể hiểu: chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng ( bao gồm cả người gửi và người vay), phù hợp sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Với khái niệm này, chất lượng tín dụng được thể hiện ở cách khía cạnh sau:
Đối với ngân hàng thương mại:
Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng của ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn và có lãi.
Đối với khách hàng:
Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng phải có thái độ đón tiếp, hướng dẫn và phục vụ khách hàng một cách hòa nhã, ân cần.
Thủ tục đơn giản.
Phục vụ nhanh nhất cho khách hàng trong phạm vi thờigian quy định.
Đảm bảo cung ứng đúng và đủ lượng tiền theo hợp đồng tín dụng đã ký.
Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn của khách hàng.
Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa; giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người đi vay cũng như người cho vay, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng.
Với việc phân tích trên đây ta thấy rằng:
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể lại vừa trừu tượng vì nó vừa có thể được biểu hiện bằng những chỉ tiêu định lượng như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn…lại vừa được biểu hiện bằng những chỉ tiêu định tính như khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế…Đồng thời, chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan như khả năng quản lý, trình độ cán bộ, sự tuân thủ quy trình nghiệp vụ..và các nhân tố khách quan như sự thay đổi của môi trường bên ngoài, sự cố ý của khách hàng…
Chất lượng tín dụng phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, nó là một chỉ tiêu tổng hợp.
Chất lượng tín dụng được biểu hiện thông qua các yếu tố: thủ tục đơn giản, mức độ an toàn của vốn tín dụng…và một điều quan trọng mà chúng ta đều phải thừa nhận về chất lượng tín dụng là: nó không tự nhiên mà có, nó là kết quả của sự kết hợp “ăn ý” giữa nhiều người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung.
1.1.4.2. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Như đã đề cập ở trên, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu vừa mang tính định lượng lại vừa mang tính định tính. Với những chỉ tiêu định tính, việc xác định là hết sức khó khăn, nó chỉ mang tính tương đối. Với nhóm chỉ tiêu định lượng, có dễ dàng hơn nhưng vẫn có nhiều tranh cãi, theo quan điểm của em thì hệ thống phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn gồm các chỉ tiêu:
Chỉ tiêu định lượng
Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ gia hạn trung và dài hạn:
Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn trung - dài hạn và tổng dư nợ trung – dài hạn của Ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Nợ gia hạn về bản chất cũng là nợ quá hạn nhưng đã được tăng thêm thời hạn vay. Tỷ lệ này làm rõ trong dư nợ ngoài phần nợ thực sự quá hạn thì đã có bao nhiêu phần trăm quá hạn.
Vì tín dụng là việc sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng nên trong hoạt động tín dụng, tính an toàn (khả năng hoàn trả của người vay) là yếu tố quan trọng nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được trả một đúng hạn như đã cam kết mà không có lý do chính đáng thì nó đã vi phạm nguyên tắc trong hoạt động tín dụng của ngân hàng và nó bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế, phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề, có khả năng mất vốn, tức là tính an toàn thấp.
Trong hoạt động kinh doanh, rủi ro xảy ra cho ngân hàng là điều đương nhiên và do đó việc tồn tại nợ quá hạn và nợ gia hạn là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nếu một ngân hàng thương mại có nhiều khoản nợ quá hạn thì nó sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh vì có thể bị mất vốn, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và làm giảm thu nhập của ngân hàng, nặng hơn nữa thì ngân hàng có thể đi đến bờ vực phá sản. Còn nợ gia hạn là một biện pháp giúp khách hàng vượt qua những khó khăn tạm thời nhưng nếu quá nhiều khoản được gia hạn nợ thì chứng tỏ danh mục cho vay của ngân hàng thương mại thực sự đang có vấn đề. Ngân hàng nào có tỷ lệ nợ quá hạn, nợ gia hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng tín dụng thấp, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh ở thời điểm hiện tại cũng như trong tương lai.
Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn
Khoản mục tín dụng thường chiếm khoảng 70% tổng tài sản, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của tín dụng trung và dài hạn. Với quy mô đó, hoạt động tín dụng trung và dài hạn mang lại thu nhập lớn cho ngân hàng; có ảnh hưởng cũng lớn đến rất nhiều yếu tố như chiến lược kinh doanh của ngân hàng, dự trữ, đầu tư, vay… chính vì lý do đó mà có thể nói rằng chỉ tiêu này cũng rất quan trọng trong việc đánh giá chất lượng tín dụng. Dựa vào chỉ tiêu này ta còn có thể tính thêm được một vài chỉ tiêu khác phản ánh chất lượng tín dụng như:
Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn
Tỷ lệ sinh lời trung và dài hạn =
Tổng dư nợ trung và dài hạn
Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn
Tỷ lệ lợi nhuận trung và dài hạn =
Tổng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Chỉ tiêu quay vòng vốn:
Thu nợ trung-dài hạn
Vòng quay vốn tín dụng trung và dài hạn =
Dư nợ tín dụng trung-dài hạn BQ
Chỉ tiêu này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng trung và dài hạn (thường là một năm). Đây là một chỉ tiêu quan trọng thường được các ngân hàng tính toán để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chỉ tiêu này càng tăng càng phản ánh tình hình tổ chức quản lý vốn tín dụng tốt, chất lượng tín dụng cao.
Cơ cấu vốn đầu tư:
Mục đích của các ngân hàng là an toàn và sinh lời (bên cạnh các mục tiêu thực hiện chính sách của nhà nước) vì vậy trong hoạt động tín dụng nói riêng và các hoạt động khác nói chung của ngân hàng luôn có sự cân nhắc giữa an toàn và sinh lời. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn có thể đem lại lợi nhuận cao nhưng nếu cho vay quá nhiều mà không quan tâm đến khả năng thanh toán của ngân hàng thì rủi ro cũng sẽ rất cao, tức là tính an toàn thấp. Hơn nữa, nếu ngân hàng cho vay quá nhiều trong một ngành, lĩnh vực nào đó mà không đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư thì như người ta thường nói, ngân hàng đã “đặt quá nhiều trứng trong một rổ”, không phân tán được rủi ro. Do đó, các ngân hàng phải quyết định quy mô, tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa bảo đảm an toàn vốn lại vừa có thể thu lại lợi nhuận cao nhất.
Giá trị tài sản đảm bảo và tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay:
Để vay được tiền từ ngân hàng, các cá nhân, doanh nghiệp sẽ phải áp dụng các biện pháp để bảo đảm tiền vay, các biện pháp đó có thể là: tín chấp, bảo lãnh, có tài sản cầm cố, thế chấp. Trong trường hợp hoạt động kinh doanh của người vay thua lỗ, không thể lấy từ lợi nhuận để trả ngân hàng:
Nếu là bảo lãnh, tín chấp: người vay phải bán tài sản để trả nợ ngân hàng.
Nếu là vay có tài sản đảm bảo: ngân hàng sẽ là người bán tài sản đó đi để xiết nợ. Nếu số tiền bán được lớn hơn số tiền vay thì sau khi trừ đi khoản nợ, ngân hàng sẽ phải trả lại người vay, nếu số tiền bán được lại nhỏ hơn số tiền vay thì ngân hàng sẽ phải chịu lỗ.
Ta gọi chung khoản tiền thực mà ngân hàng thu được từ việc bán tài sản của khách hàng là A, tổng doanh số thu nợ là B. Khi đó xác định được chỉ tiêu:
Tỷ lệ thanh toán nợ do việc bán tài sản của người vay =A/B
Chỉ tiêu định tính:
Khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng (qua uy tín, kết quả hoạt động, các dịch vụ đi kèm như tư vấn…): Một ngân hàng sẽ không thể hoạt động được nếu không có khách hàng. Khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào kết quả hoạt động của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào uy tín về chất lượng phục vụ, về quan hệ với các tổ chức tài chính khác...của ngân hàng. Khách hàng sẽ không muốn giao dịch với những ngân hàng không có uy tín vì rủi ro có thể xảy ra đối với họ làm gián đoạn quá trình kinh doanh, hoặc làm mất đi cơ hội kinh doanh của họ. Bên cạnh đó, ngân hàng có thể tăng khả năng thu hút khách hàng thông qua các hoạt động đi kèm với hoạt động tín dụng như: dịch vụ tư vấn, thẻ tín dụng...
Tuân thủ các quy định do ngân hàng nhà nước đề ra trong lĩnh vực tín dụng trung và dài hạn: Nhận thức được vai trò và chức năng của các ngân hàng trong nền kinh tế, Nhà nước luôn có những chính sách quy định về hoạt động của họ, mà một trong những quy định hết sức quan trọng đó là những quy định về hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Tuân thủ các quy định này của Nhà nước chính là sự tuân thủ pháp luật, góp phần ổn định nền tiền tệ quốc gia, giúp cho nền kinh tế có sự tăng trưởng cao và bền vững - tăng chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Góp phần vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước (đáp ứng vốn cho những ngành, lĩnh vực mũi nhọn nhờ đó đã giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động…): Hoạt động tín dụng mở rộng sẽ đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế: các dự án đầu tư có hiệu quả cao sẽ không bị thiếu vốn, tức là nó có thể đi vào hoạt động, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho nhiều người lao động, giải quyết một vấn đề vô cùng “bức xúc” của mỗi quốc gia, và xét về mặt đóng góp cho xã hội-đó là chất lượng tín dụng.
Để đánh giá các chỉ tiêu trên một cách chính xác thì rất là khó vì nó là những chỉ tiêu định tính, không tính toán được như những chỉ tiêu định lượng. Tuy nhiên, trong khi so sánh với nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng cùng hoạt trong một môi trường kinh tế, môi trường pháp lý...và cùng chịu sự chỉ đạo của các chính sách thì ta cũng sẽ có thể dễ dàng đánh giá được các chỉ tiêu này. Và thông qua đó, ta cũng có thể một phần thấy được chất lượng tín dụng của các ngân hàng.
1.2. TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN
1.2.1. TỔNG QUAN VỀ DNNN
1.2.1.1. Khái niệm
DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc nhà nước có cổ phần hoặc vốn góp chi phối được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần nhà nước, công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam.
1.2.1.2. Đặc điểm
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế được nhà nước thành lập để thực hiện những mục tiêu do nhà nước giao.
Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối.
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của pháp nhân theo quy định của pháp luật.
Doanh ._.nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn, nghĩa là nó tự chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số tài sản do doanh nghiệp quản lý.
1.2.1.3. Phân loại doanh nghiệp nhà nước
Công ty nhà nước: là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định. Công ty nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc lập, tổng công ty nhà nước. Trong đó, Tổng công ty nhà nước là hình thức liên kết kinh tế trên cơ sở tự đầu tư, góp vốn giữa các công ty nhà nước, giữa công ty nhà nước với các doanh nghiệp khác hoặc được hình thành trên cơ sở tổ chức và liên kết các đơn vị thành viên có mối liên hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác, hoạt động trong một hoặc một số chuyên nghành kinh tế - kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả năng kinh doanh và thực hiện lợi ích của các đơn vị và toàn tổng công ty.
Tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập là hình thức liên kết và tập hợp các công ty thành viên hạch toàn độc lập và có tư cách pháp nhân, hoạt động trong một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, nhằm tăng cường tích tụ, tập chung vốn và chuyên môn hoá kinh doanh của các đơn vị.
Tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập là hình thức liên kết thông qua đầu tư, góp vốn của công ty nhà nước quy mô lớn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ với các doanh nghiệp khác, trong đó công ty nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác.
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là tổng công ty được thành lập để thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên chuyển đổi từ các công ty nhà nước độc lập và các công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên do mình thành lập; thực hiện chức năng đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước và quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp đã chuyển đổi sở hữu hoặc hình thức pháp lý từ công ty nhà nước độc lập.
Công ty cổ phần nhà nước là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty nhà nước hoặc các tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên: là công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có hai thành viên trở lên là công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên đều là công ty nhà nước hoặc có thành viên là công ty nhà nước và thành viên khác là tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ, Nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
1.2.1.4. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường
DNNN là lực lượng quan trọng để nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế:
Nhà nước nào cũng vậy, muốn điều tiết được nền kinh tế thì phải có một tiềm lực kinh tế mạnh. Kinh tế nhà nước mà trong đó tiêu biểu là Doanh nghiệp nhà nước sẽ là chỗ dựa vật chất to lớn, tạo ra tiềm lực kinh tế mạnh để Nhà nước thực hiện yêu cầu đó. DNNN có ở những khâu trọng yếu của nền kinh tế, cung ứng phần lớn những tư liệu sản xuất chủ yếu và tư liệu tiêu dùng thiết yếu, đóng vai trò nòng cốt trong việc củng cố, phát triển các bộ phận cấu thành hệ thống kinh tế nhà nước, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế. DNNN là một lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định, bảo đảm những cân đối lớn và đủ khả năng sẵn sàng ứng phó với những đột biến trong nền kinh tế. Trong các cuộc kháng chiến cứu nước, DNNN đã khẳng định vị trí đó của mình và trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang hội nhập với nền kinh tế thế giới, khi những biến động của nền kinh tế thế giới cũng có những ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nước ta thì vai trò đó càng thể hiện rõ hơn: DNNN cùng với nhiều loại hình doanh nghiệp khác đã góp phần quan trọng trong việc bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát…
DNNN có vị trí then chốt trong kinh tế nhà nước; là lực lượng mở đường, hỗ trợ, định hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước.
Trong nền kinh tế, việc mở ra một loại hình kinh doanh mới sẽ luôn gặp phải những khó khăn, trở ngại. Song, nếu không có người mở đường đi vào lĩnh vực đó, thì nền kinh tế sẽ mất đi những cơ hội kinh doanh, mất đi tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế và do đó sẽ tụt hậu so với các nước khác. Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả kinh tế cho toàn xã hội, cần thiết phải có các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này. Đóng vai trò này không có ai khác ngoài các doanh nghiệp nhà nước. Ở một khía cạnh khác, trong xã hội, bên cạnh những doanh nghiệp hoạt động với mục đích kinh doanh thì phải có những doanh nghiệp khác sản xuất các hàng hóa công cộng. Việc sản xuất các hàng hóa này thường đem lại lợi nhuận thấp hoặc là sẽ có rất nhiều rủi ro trong việc đầu tư, nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội lại rất cần thiết cho sự phát triển như đường sá, cơ sở hạ tầng, nghiên cứu khoa học…Ở những lĩnh vực đó cần thiết phải phát triển các DNNN.
DNNN có điều kiện về mọi mặt để đáp ứng tốt nhất cho việc thực hiện các quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông, điện…DNNN có điều kiện để đi đầu trong việc tập trung nghiên cứu, xây dựng và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất những hàng hóa mà trong nước có lợi thế, có khả năng cạnh tranh, thị trường có nhu cầu, đem lại lợi nhuận cao, thu hút và sử dụng nhiều lao động, tạo điều kiện để kinh tế trong nước phát triển và hội nhập với kinh tế thế giới. DNNN có vai trò quyết định trong việc thăm dò và cùng các thành phần kinh tế khác khai thác tài nguyên nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, vừa khai thác có hiệu quả tài nguyên, vừa bảo vệ môi trường sinh thái. DNNN là tấm gương tiêu biểu cho các thành phần kinh tế khác trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về mọi lĩnh vực, đặc biệt là giải quyết việc làm, thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật…và đóng góp một phần quan trọng vào ngân sách nhà nước.
DNNN góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước từ đó đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội.
DNNN có mặt trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trên nhiều vùng trong cả nước với sự phân bố hợp lý theo vùng, miền, địa bàn để phát huy lợi thế, khả năng về mọi mặt. Do đó đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế từng vùng: phủ xanh đất trống, đồi trọc; giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, miền trong cả nước.
Hiện nay nước ta đang trong tiến trình cổ phần hóa (CPH) các DNNN vì CPH là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất trong việc cơ cấu lại DNNN để DNNN có cơ cấu thích hợp, quy mô lớn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Trong tương lai, khi nhiều DNNN được CPH thì số lượng các DNNN tuy bị giảm đi nhưng chất lượng hoạt động của các DNNN sẽ tăng lên đáng kể, từ đó loại hình doanh nghiệp này sẽ càng phát huy hơn nữa vai trò to lớn của mình.
1.2.2.VAI TRÒ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN
Đối với ngân hàng thương mại:
Tín dụng trung và dài hạn tuy là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với tín dụng ngắn hạn đồng thời nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn nhưng hoạt động này lại đem lại cho ngân hàng một khoản lợi nhuận lớn hơn.
Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng trung và dài hạn là một hoạt động có đóng góp quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, do đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng thương mại.
Đối với DNNN:
Tín dụng trung và dài hạn tài trợ cho nhu cầu tài sản cố định và bộ phận tài sản thường xuyên của doanh nghiệp do đó các doanh nghiệp có thể duy trì, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Nhu cầu về vốn để duy trì sản xuất kinh doanh đối với mỗi doanh nghiệp là rất lớn, bên cạnh các nguồn khác có thể tài trợ vốn cho doanh nghiệp thì hoạt động tín dụng trung và dài hạn sẽ cung cấp một lượng vốn quan trọng cho các doanh nghiệp, giúp các DNNN tiếp tục hoạt động kinh doanh của mình.
Tín dụng trung và dài hạn tài trợ vốn, giúp các DNNN có một cơ cấu vốn hợp lý đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp.
Vốn là một nhân tố cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm các khoản nợ và vốn chủ sở hữu. Trong đó, vốn của chủ có thể bao gồm vốn huy động bằng cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu tiên, lợi nhuận không chia. Tỷ trọng của các nguồn đó trong tổng nguồn chính là cơ cấu vốn. Một cơ cấu vốn hợp lý không thể thiếu nợ vay, hơn nữa doanh nghiệp sử dụng nợ sẽ tạo ra đòn bẩy tài chính, tức là việc sử dụng nợ có thể giúp người vay tiền tạo ra các khoản thu nhập lớn hơn chi phí của khoản nợ, làm tăng thu nhập cho doanh nghiệp. Do đó có thể khẳng định rằng: tín dụng nói chung và tín dụng trung – dài hạn nói riêng đã tài trợ vốn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có một cơ cấu vốn hợp lý.
Trong hoạt động tín dụng, để đảm bảo an toàn và giảm thiểu rủi ro thì các ngân hàng không thể bỏ qua một khâu quan trọng: Kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp trong quá trình tín dụng. Với công việc này, ngân hàng đã không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân ngân hàng mà còn giúp các doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, có trách nhiệm hơn với đồng vốn đi vay bởi vì chỉ cần phát hiện ra một trục trặc nhỏ về tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh…của doanh nghiệp là ngân hàng có thể thu hồi vốn lại. Nhờ đó, hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp sẽ được nâng cao.
1.2.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN
Hoạt động tín dụng bao giờ cũng tiềm ẩn những rủi ro mà không một ai cũng có thể dự đoán chính xác những vấn đề gì sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể thay đổi do nhiều nguyên nhân cũng như những biến động của thị trường sẽ có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Phân tích để đưa ra được những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng là một việc làm quan trọng, giúp ngân hàng có thể dự đoán được những gì có thể xảy ra, để từ đó tìm những biện pháp đề phòng, hạn chế rủi ro, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp nhà nước:
1.2.3.1. Các nhân tố thuộc về phía ngân hàng
Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng:
Thông thường, mỗi ngân hàng đều có một chiến lược kinh doanh riêng vì các ngân hàng thường có những thế mạnh riêng. Tuy nhiên, các chiến lược kinh doanh đó trước tiên phải phù hợp với chính sách phát triển chung của Nhà nước, tiếp theo đó, chiến lược kinh doanh của ngân hàng phải phù hợp với khả năng của mình. Một ngân hàng nhỏ, không có nhiều kinh nghiệm thì không thể theo đuổi chiến lược kinh doanh là thâm nhập vào các thị trường cần nhiều vốn đầu tư, rủi ro quá cao. Ta có thể lấy một ví dụ cụ thể như: nếu một ngân hàng có khả năng huy động vốn trung và dài hạn không lớn thì không thể tiến hành chiến lược kinh doanh là tập trung vào cho vay trung và dài hạn. Trong thời kỳ hiện nay, mặc dù chiến lược kinh doanh của mỗi ngân hàng có thể tập trung vào các đối tượng khác nhau nhưng các ngân hàng thương mại đều đã cho vay trung và dài hạn đối với tất cả các thành phần kinh tế, từ kinh tế tư nhân đến doanh nghiệp Nhà nước, bằng nguồn vốn huy động ngắn hạn. Nhiều ngân hàng thương mại còn có chiến lược kinh doanh là cho vay trung và dài hạn bằng ngoại tệ. Với chiến lược này, nếu ngân hàng không dự tính được những biến động về tỷ giá, về xu hướng phát triển của nền kinh tế trong tương lai hoặc nếu doanh nghiệp đi vay sử dụng khoản vay để nhập khẩu máy móc, thiết bị đã lạc hậu hoặc giá nhập khẩu quá cao, khiến cho sản phẩm sản xuất trong nước không thể cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài như: xi măng, mía đường...thì sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng.
Chính sách tín dụng của ngân hàng:
Với tầm quan trọng và quy mô lớn của hoạt động tín dụng, hoạt động này phải được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng với các nội dụng như: Chính sách khách hàng, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng, chính sách lãi suất và phí suất tín dụng, chính sách về thời hạn tín dụng và kì hạn nợ, các tài sản đảm bảo, chính sách đối với các tài sản có vấn đề. Các chính sách này sẽ phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, nó hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Với vai trò này, nếu chính sách tín dụng của ngân hàng không được xây dựng phù hợp với khả năng, quy mô của ngân hàng, không phù hợp với đối tượng khách hàng của ngân hàng thì hoạt động của ngân hàng sẽ không mang lại lợi nhuận cao, không làm thỏa mãn khách hàng, từ đó sẽ làm giảm dần lượng khách hàng của ngân hàng, chất lượng tín dụng giảm. Nhưng ngược lại, nếu được xây dựng tốt, nó sẽ phát huy vai trò to lớn đối với hoạt động của ngân hàng.
Quy trình phân tích tín dụng:
Để chuẩn hoá quá tình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng thường đặt ra quy tình phân tích tín dụng. Đó là các bước mà cán bộ tín dụng ở các phòng ban khác nhau có liên quan trong ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng. Quy trình này gồm các bước: phân tích trước khi cấp tín dụng, xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng, giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng, và thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới. Trong quy trình phân tích tín dụng, nếu ngân hàng chỉ cần lơi lỏng một hay một số khâu như: không phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện về khách hàng trước khi cho vay; không tôn trọng đầy đủ quy trình cho vay, làm thiếu hoặc bớt một số khâu gây ra sự sơ hở để khách hàng chiếm đoạt vốn của ngân hàng; điều tra, kiểm soát đối tượng vay vốn về phương án kinh doanh lúc đầu không đảm bảo, thiếu cân nhắc dẫn đến sơ hở thiếu đảm bảo cho sự đầu tư vốn có hiệu quả; hay không kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kiểm tra, đôn đốc quá trình sử dụng vốn vay và thu hồi vốn nên dẫn đến có khách hàng sử dụng vốn sai mục đích...sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ:
Theo luật các tổ chức tín dụng, tại điều 38 có nói: Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động tài chính, giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán, sự an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, thực hiện kiểm toán nội bộ từng thời kỳ, từng lĩnh vực nhằm đánh giá chính xác hoạt động kinh doanh và thực trạng tài chính của tổ chức tín dụng. Như vậy, đây là một hoạt động hết sức quan trọng trong mỗi ngân hàng. Công tác này thực hiện đều đặn, thường xuyên sẽ giúp ngân hàng kịp thời phát hiện những biểu hiện vi phạm pháp luật, những tiềm ẩn rủi ro, những tồn tại yếu kém trong hoạt động tín dụng, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
Trình độ và đạo đức của đội ngũ nhân viên:
Ngân hàng cũng như những tổ chức khác: đều sẽ không thể hoạt động nếu thiếu các cán bộ nhân viên. Nhân viên tốt sẽ giúp ngân hàng tránh được rủi ro và ngược lại, nếu chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không đúng, cố tình làm sai... là một trong những nguyên nhân làm giảm chất lượng tín dụng. Ta biết rằng, nhân viên ngân hàng luôn phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, nhiều quốc gia khác nhau. Nếu không am hiểu khách hàng và lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống thì việc cấp tín dụng sẽ không có hiệu quả. Các nhân viên ngân hàng phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay, đến xu hướng của nền kinh tế trong nước và trên thế giới...Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng, kiên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kỹ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Hơn nữa, do sống trong môi trường luôn phải tiếp xúc với “tiền”, nhiều nhân viên ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền: họ tiếp tay cho khách hàng để lừa bịp ngân hàng, họ gian lận, tham nhũng, cố tình vi phạm quy định hoặc có hành vi lừa đảo gây thất thoát vốn nghiêm trọng cho ngân hàng. Như vậy, chất lượng nhân viên của ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân làm giảm chất lượng tín dụng.
Tuy nhiên, “nhân viên tốt” ở đây không chỉ đề cập đến chất lượng nhân viên mà còn đề cập đến số lượng nhân viên trong ngân hàng. Ta biết rằng, tùy theo đối tượng khách hàng, quy mô của khoản cho vay và đặc điểm của ngân hàng mà những người làm công tác cho vay, làm tín dụng lại tiếp tục được phân công những công việc chi tiết cụ thể ở những phòng ban khác nhau: thẩm định dự án, tín dùng...nhưng nhìn chung, các cán bộ tín dụng là người trực tiếp phải thực hiện về quy chế cho vay của ngân hàng đối với khách hàng, quy định về đảm bảo tiền vay, quy trình cho vay cụ thể của từng ngân hàng. Nếu như món vay càng nhỏ, địa bàn cư trú của người vay càng phân tán, trình độ dân trí càng thấp...thì khối lượng công việc cán bộ tín dụng phải thực hiện càng nhiều. Song, số lượng công việc chỉ có thể thực hiện được trong giới hạn thời gian nhất định. Do đó, nếu công việc quá nhiều trong khi số lượng cán bộ lại có hạn thì sẽ dẫn tới tình trạng quá tải về công việc dành cho mỗi nhân viên. Trong tình trạng này, nhân viên ngân hàng sẽ phải làm thêm giờ hoặc là phải bỏ bớt một số khâu trong công việc hay thực hiện qua loa, đại khái, có tính chất hình thức. Như vậy, các nhân viên sẽ không thực hiện được đúng quy trình tín dụng đã đề ra và hậu quả sẽ là nợ quá hạn phát sinh, hoặc bị khách hàng lừa đảo... làm chất lượng tín dụng giảm sút.
1.2.3.2. Các nhân tố thuộc về DNNN
Tình trạng mất khả năng trả nợ của của người đi vay có thể do nhiều nguyên nhân, chủ quan và khách quan, trực tiếp và gián tiếp. Nhưng cho dù nguyên nhân nào, thì cuối cùng vấn đề là người vay không thực hiện được các cam kết và nghĩa vụ tín dụng; không có khả năng trả nợ do năng lực tài chính suy giảm, do đó làm giảm chất lượng tín dụng. Có thể liệt kê một số nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng từ phía các doanh nghiệp như sau:
Trình độ quản lý, kinh doanh của DNNN:
Bị ảnh hưởng sâu sắc bởi thời kỳ bao cấp, nhiều DNNN hiện nay vẫn còn tồn tại tư tưởng “được Nhà nước bao cấp” nên họ không cố gắng kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp do trình độ kinh doanh yếu kém (đội ngũ cán bộ lãnh đạo phần đông là trải qua kinh nghiệm trong thời bao cấp, kiến thức về kinh tế thị trường nắm bắt chưa được bao nhiêu,trình độ tay nghề hạn chế, ý thức kỷ luật lao động thấp, chưa có tác phong công nghiệp... làm khả năng tổ chức, điều hành sản xuất kinh doanh của lãnh đạo doanh nghiệp yếu kém) nên hoạt động của doanh nghiệp không hiệu quả trên đồng vốn vay từ ngân hàng, làm khả năng trả nợ giảm đi. Cũng có nhiều doanh nghiệp không có sự linh hoạt trong kinh doanh: không cải tiến quy trình công nghệ, không trang bị máy móc hiện đại, không thay đổi mẫu mã hoặc nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm dẫn tới sản phẩm sản xuất ra thiếu sự cạnh tranh (giá thành cao, sản phẩm đơn điệu, hình thức kém hấp dẫn), bị ứ đọng trên thị trường khiến cho doanh nghiệp không có khả năng thu hồi vốn trả nợ cho ngân hàng. Tất cả những nguyên nhân đó đều ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng, cụ thể là nó làm giảm chất lượng tín dụng.
Đạo đức của các cán bộ trong doanh nghiệp:
Các nguyên nhân kể trên đã rất nguy hiểm, nhưng nguy hiểm hơn nữa là tình trạng bản thân doanh nghiệp có chủ định lừa gạt, chiếm dụng vốn của ngân hàng. Ta biết rằng, các doanh nghiệp nhà nước luôn được ưu tiên trong việc vay vốn từ ngân hàng, tuy luật đã có những quy định thay đổi làm việc vay này trở nên gắt gao hơn nhưng quả thật là vẫn có sự ưu tiên hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã tận dụng sự ưu tiên này để lừa gạt ngân hàng trong việc vay vốn (ví dụ như: DNNN có thể tận dụng lợi thế này để vay vốn từ các ngân hàng rồi cho vay lại đối với các doanh nghiệp khác nhằm kiếm lời chênh lệch, từ đó sẽ gia tăng rủi ro cho ngân hàng), làm chất lượng tín dụng giảm. Trong tương lai, khi các doanh nghiệp đều thật sự bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng, khi các DNNN được cổ phẩn hóa, họ sẽ ý thức hơn trong hoạt động kinh doanh của mình, cùng cố gắng, nỗ lực như bao doanh nghiệp khác để tồn tại thì chắc chắn rằng chất lượng tín dụng của ngân hàng sẽ tăng lên đáng kể.
1.2.3.3. Các nhân tố khác
Môi trường kinh tế:
Việt nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng. Trong vài năm trở lại đây, nền kinh tế duy trì được tốc độ phát triển cao, các hoạt động kinh tế xã hội đạt được tốc độ tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng GDP, công nghiệp, xuất khẩu và một số hoạt động dịch vụ đặc biệt là du lịch, hàng không, bưu chính viễn thông đạt kết quả tốt... đã có tác động không nhỏ đến hoạt động tín dụng, làm chất lượng tín dụng tăng lên đáng kể. Đồng thời, trong quá trình hội nhập, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước và ngoài nước càng trở nên gay gắt, sản phẩm đa dạng hơn với những công nghệ tinh vi hơn đã làm cho các ngân hàng luôn phải cải tiến bản thân mình. Trong môi trường kinh tế đó, có nhiều ngân hàng đã quá nóng vội nên có những quyết định không đúng đắn như: hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, bỏ qua một số khâu trong quy trình tín dụng, tăng lãi suất huy động vốn, hạ thấp lãi suất cho vay đối với các DNNN hoạt động có hiệu quả...dẫn tới năng lực tài chính yếu, kinh doanh kém hiệu quả, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Đặc biệt, những biến động của nền kinh tế theo chiều hướng không tốt, vượt quá khả năng phán đoán của ngân hàng như thay đổi lãi suất và tỷ giá, khủng hoảng nợ dây chuyền... luôn đe doạ chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Môi trường chính trị-xã hội:
Những mâu thuẫn về sắc tộc, đảng phái, tôn giáo; hay những cuộc xung đột xã hội thông qua các cuộc biểu tình, đình công, bạo động, chiến tranh luôn đe dọa sự không ổn định trong nội bộ đất nước. Ở nước ta tuy những sự kiện trên là rất hiếm nhưng không phải là không có. Nước ta có 54 dân tộc với những phong tục, truyền thống khác nhau, trình độ văn hóa, khoảng cách giàu nghèo cũng khác nhau nên đòi hỏi các ngân hàng luôn phải chú ý đến từng đối tượng, từng vùng hoạt động để nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng nhưng cũng để góp phần vào hiệu quả kinh tế chung của đất nước.
Môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý được thể hiện ở các văn bản pháp luật, dưới luật quy định về hoạt động của ngân hàng, nó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng. Tuy nhiên ở Việt nam hiện nay, môi trường này vẫn chưa thực sự tạo thuận lợi cho hoạt động tín dụng: nhiều văn bản chưa đầy đủ, đôi khi lại thừa hoặc chồng chéo, sơ hở, có nhiều bất cập (hiệu lực pháp lý chưa cao, chậm sửa đổi những bất cập)... ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Các nguyên nhân bất khả kháng:
Các nguyên nhân này tác động tới người vay, làm họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng như: thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi tầm vĩ mô (thay đổi chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan...) làm cho người vay lẫn người cho vay không thể kiểm soát được, làm giảm chất lượng tín dụng.
Tất cả những yếu tố đó tác động liên tục tới người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nếu người vay có khả năng trong việc dự báo hoặc khắc phục, thích ứng với những khó khăn thì sẽ vẫn có thể tiếp tục kinh doanh, trả nợ được cho ngân hàng. Nhưng nếu những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ sẽ bị suy giảm, có thể không trả được nợ cho ngân hàng.
Một số nhân tố khác:
Thông tin không cân xứng, các cấp quản lý điều hành ngân hàng không có thông tin kịp thời, hoặc thông tin sai lệch, thiếu đầy đủ để xử lý các tình huống...luôn làm giảm chất lượng tín dụng.
Những biến động của thị trường có thể làm giảm giá tài sản đảm bảo, hoặc do quá thời hạn bảo quản nên chất lượng tài sản thế chấp bị hỏng, khi doanh nghiệp không trả được nợ, buộc các ngân hàng phải bán tài sản đảm bảo thì khoản tiền mà ngân hàng thu được sẽ giảm đi, chất lượng tín dụng giảm.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN TẠI SGD NH ĐT&PTVN
2.1. KHÁI QUÁT VỀ SGD NH ĐT&PTVN
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của SGD
Gắn liền với sự ra đời và phát triển của Ngân hàng ĐT&PT VN là quá trình hình thành và phát triển của SGD:
Ngày 26/04/1957,Ngân hàng ĐT&PT VN khai trương hoạt động với tên gọi là Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam, lúc này ngân hàng có nhiệm vụ chủ yếu là thanh toán và quản lý vốn do nhà nước cấp cho kiến thiết cơ bản, mục đích là để thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, hỗ trợ sự nghiệp bảo vệ tổ quốc.
Ngày 21/06/1981, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 259-CP, chuyển Ngân hàng kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ tài chính thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam. Theo đó, Ngân hàng có nhiệm vụ mới là thu hút và quản lý các nguồn vốn dành cho đầu tư xây cơ bản, các công trình không do ngân sách cấp hoặc không đủ vốn tự có, làm đại lý thanh toán và kiểm soát các công trình thuộc diện ngân sách đầu tư.
Ngày 14/11/1990, Chủ tịch hội đồng bộ trưởng ra quyết định thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Lúc này, ngân hàng có chức năng huy động vốn trung và dài hạn ở trong và ngoài nước, đồng thời nhận vốn từ ngân sách nhà nước để cho vay các dự án chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư. Kể từ ngày 1/1/1995, NH ĐT&PT VN hoạt động với đầy đủ nghiệp vụ của một Ngân hàng thương mại.
SGD NH ĐT&PT VN được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 28/03/1991.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của SGD
Hiện nay, SGD có 14 phòng với tổng số cán bộ là 217. Các phòng của Sở giao dịch gồm có:
Phòng tín dụng 1.
Phòng tín dụng 2.
Phòng tín dụng 3.
Phòng thanh toán quốc tế.
Phòng dịch vụ khách hàng cá nhân.
Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp.
Phòng tiền tệ kho quỹ.
Phòng giao dịch .
Phòng thẩm định và quản lý tín dụng.
Phòng kế hoạch nguồn vốn.
Phòng tài chính kế toán.
Phòng điện toán.
Phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ.
Phòng tổ chức hành chính.
Để góp phần xây dựng một SGD “hùng mạnh”, các phòng ngoài việc phải thực hiện đầy đủ, đúng đắn các chức năng nhiệm vụ được giao thì còn cần phải có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ và giúp đỡ giữa các phòng với nhau.
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của SGD NH ĐT&PT VN
Qua mỗi năm thì hoạt động của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đều có một “bộ mặt” mới và SGD Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam cũng vậy. Mặc dù trong hoạt động kinh doanh có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, đã và đang hiện ra ở trước mắt mà SGD nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung phải đối mặt, cụ thể như sau:
Thuận lợi:
Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định.
Thu nhập cũng như trình độ giáo dục của người dân ngày càng được cải thiện.
Chính phủ cũng có những chính sách, những văn bản pháp luật nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Xu thế của hội nhập quốc tế ngày càng tăng, tạo ra nhiều cơ hội đầu tư vì nước ta được nhiều nhà đầu tư ở các nước bạn chú ý, coi là một môi trường đầu tư an toàn và ổn định..., qua hội nhập, ngân hàng có điều kiện để tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý của các nước tiên tiến, đội ngũ cán bộ qua làm việc, tiếp xúc với các chuyên gia nước ngoài sẽ tăng thêm độ nhanh nhạy và sự năng động sáng tạo.
Khó khăn:
Quá trình hội nhập tạo ra nhiều thách thức vì bên cạnh việc phải cạnh tranh với các ngân hàng trong nước thì giờ đây các ngân hàng còn phải cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài có trình độ cao trong việc quản lý, có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh, có công nghệ tinh vi...vì vậy, với thực lực tài chính còn mỏng, công nghệ còn lạc hậu, năng lực quản trị điều hành của các ngân hàng thương mại còn hạn chế.. thì chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh.
Tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước cũng như hệ thống tài chính ngân hàng diễn ra chậm, nhiều ngành kinh tế gặp nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập, ngân sách nhà nước do các bộ ngành bố trì không kịp thời tiến độ đầu tư dẫn đến tình trạng nợ tồn đọng, chiếm dụng vốn lẫn nhau của các doanh nghiệp.
Một số cán bộ trẻ thiếu kinh nghiệm nên đôi lúc còn chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc.
Mặc dù có không ít khó khăn nhưng hoạt động của Sở vẫn đạt được kết quả rất tốt:
Năm 2003, SGD đã có những đóng góp đáng kể, góp phần tạo nên những sự kiện quan trọng trong kết quả hoạt động của NH ĐT&PTVN:
Hoàn thành kế hoạch kinh doanh tổng tài sản đạt 95.000 tỷ, doanh số phục vụ đầu tư phát triển đạt 28.000 tỷ đồng.
Hoàn thành giai đoạn đầu tư đề án cơ cấu lại - vốn điều lệ đạt 3.650 tỷ đồng.
100% đơn vị thành viên BIDV được cấp chứng chỉ ISO 9001.2000.
Thương hiệu BIDV đạt giải “Sao vàng đất Việt”.
Là thành viên chính thức của tổ chức thể quốc tế Visa international.
Triển khai thành công dự án hiện đại hóa Ngân hàng giai đoạn 1.
Năm 2004, ta thấy được kết quả hoạt động kinh doanh qua một số mặt sau:
2.1.3.1. Công tác huy động vốn
Hoạt động huy động vốn của SGD trong thời gian qua đạt kết quả tốt, SGD đã huy động khách hàng gia hạn một lượng tiền gửi tương đối lớn như: quỹ hỗ trợ phát triển, Bảo hiểm xã hội (BHXH)...huy động mới từ nhiều khách hàng như Công ty đầu tư và phát triển khu đô thị Nam Thăng Long 150 tỷ...Các khách hàng mới trong khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) rất được chú ý, quan tâm ví dụ như công ty cổ phần Hàm Rồng, công ty cổ phần may Hồ Gươm. Hoạt động này góp phần quan trọng trong sự tăng trưởng nguồn vốn của SGD.
Trong năm 2004, nguồn huy động ngắn hạn là 3.849 tỷ đồng, trung và dài hạn là 5.275 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ tương ứng trong tổng nguồn là 42,2% và 57,8%. So với năm 2003 thì ._.hính sách lãi suất, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng...cho phù hợp. Đồng thời, với mỗi lĩnh vực, Sở nên soạn thảo ra hướng dẫn chi tiết về quy trình cho vay, phương thức kiểm tra, đánh giá và quản lý tín dụng, đề cương đánh giá toàn diện tình hình khách hàng để áp dụng thống nhất và bắt buộc trong toàn hệ thống.
Với chính sách khách hàng:
Tăng cường công tác tiếp thị để mở rộng và đa dạng hóa khách hàng ở mọi ngành, mọi lĩnh vực.
Phân loại khách hàng truyền thống và quan trọng, khách hàng khác đồng thời có những chính sách ưu đãi đối với khách hàng truyền thống.
Luôn tổng kết tình hình cho vay đối với các doanh nghiệp để có phương thức quản lý tín dụng riêng đối với từng nhóm đối tượng khách hàng này.
Với chính sách sách lãi suất:
Lãi suất tín dụng do Ban giám đốc ngân hàng thông qua phải luôn được phổ biến đến mọi cán bộ tín dụng, bao gồm có: lãi suất cơ bản và lãi suất bình quân đối với các kỳ hạn, các ngành và lĩnh vực chủ yếu.
Có chính sách lãi suất linh hoạt, cho phép khách hàng được lựa chọn hình thức của lãi suất.
Với chính sách về thời hạn tín dụng và kỳ hạn nguồn:
SGD phải luôn dựa trên kỳ hạn của nguồn để quyết định chính sách kỳ hạn cho vay.
Phải luôn tuân thủ theo quy định về tỷ lệ chuyển hoán tối đa nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn.
Với chính sách về các khoản đảm bảo: Cần luôn khai thác tối đa tài sản đảm bảo của các khách hàng dư nợ hiện nay tại SGD bằng cách áp dụng tổng hợp các biện pháp sau:
Hoàn thiện việc ký hợp đồng đảm bảo tằng tài sản hình thành từ vốn vay và đăng ký giao dịch đảm bảo đối với tất cả các dự án đang còn dư nợ.
Ký hợp đồng thế chấp trụ sở, cầm cố dây chuyền thiết bị, máy móc thi công và tiến hành đăng ký giao dịch đảm bảo đối với tất cả các doanh nghiệp vay đang vay vốn lưu động.
Bước đầu tiến hành cầm cố quyền đòi nợ phát sinh từ các khoản phải thu đối với các doanh nghiệp vay vốn lưu động.
3.2.2.Cải tiến quy trình phân tích tín dụng, không ngừng hoàn thiện nội dung của sổ tay tín dụng
Trong 4 bước của quy trình phân tích tín dụng như đã đề cập ở trên thì bước 1 – phân tích trước khi cấp tín dụng có vai trò quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu của bước này là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến khách hàng.
Với vai trò trên, việc tìm ra giải pháp để nâng cao chất lượng của bước này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì nó sẽ góp phần nâng cao chất lượng phân tích tín dụng từ đó nâng cao chất lượng tín dụng. Để thực hiện điều này, có một số giải pháp như sau:
Thiết lập hệ thống thông tin từ nhiều nguồn khác nhau: thông tin cần phải được đa dạng từ nhiều nguồn, không chỉ bó hẹp ở một số nguồn. Hiện nay có thể thu thập thông tin từ các nguồn, bên cạnh các nguồn thông tin từ việc phỏng vấn trực tiếp khách hàng hay mua, tìm kiếm thông tin qua trung gian thì có một số biện pháp khác như:
Áp dụng hơn nữa tiến bộ công nghệ thông tin trong việc quản lý khách hàng, tiến hành thống kê, nghiên cứu, lưu trữ thông tin từ đó bổ sung cho việc phân tích đánh giá khách hàng cho các lần vay sau.
SGD nên tổng kết và hoàn thiện các công cụ, phương pháp phân tích thẩm định dự án, đánh giá các thông tin pháp lý của các doanh nghiệp. Hoàn thiện các báo cáo về phương pháp dự báo dòng tiền và mô hình cảnh báo rủi ro tín dụng, hướng dẫn đánh giá lợi thế cạnh tranh của khách hàng theo mô hình SWOT, mô hình porter và đưa vào áp dụng bắt buộc trong phân tích, đánh giá đối với tất cả các dự án mới và khách hàng đang có dư nợ tín dụng.
Chuyên môn hóa trong khâu nhận hồ sơ và phân tích:
Khâu hướng dẫn và thu nhận hồ sơ nên giao cho một vài nhân viên thuộc bộ phận tín dụng đảm trách tùy theo đặc điểm của từng dự án. Điều này giúp giảm áp lực công việc thủ tục cho cán bộ tín dụng, đồng thời giúp khách hàng lập hồ sơ chính xác hơn, tránh phải lập nhiều lần, gây mất thời gian cho cả khách hàng và cán bộ tín dụng.
Thành lập phòng chuyên về phân tích theo lĩnh vực ngành nghề, hỗ trợ cho cán bộ tín dụng trong khâu phân tích. Hoặc với mỗi lĩnh vực thì có thể để cho một nhóm cán bộ chuyên đảm nhận để phân tích. Sau khi thu nhận hồ sơ cán bộ tín dụng sẽ chuyển cho bộ phận hoặc cán bộ phân tích theo từng ngành. Cán bộ tín dụng kết hợp với kết quả phân tích thuộc thẩm quyền của mình với kết quả của bộ phận hay cán bộ phân tích để lập tờ trình bộ phận ra quyết định.
Hoạt động chuyên môn hóa trên sẽ giúp Sở tiết kiệm được chi phí cũng như thời gian phân tích, hạn chế những rủi ro mang tính chủ quan của cán bộ tín dụng, đồng thời giúp cán bộ tín dụng giảm được áp lực nặng nhọc trong công việc phân tích, còn cán bộ phân tích lại có thêm điều kiện để nghiên cứu kiến thức chuyên ngành được phân công, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
Tiếp tục đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp (từng ngành, lĩnh vực) theo điểm số để đưa ra quyết định tài trợ:
Việc đánh giá, xếp loại doanh nghiệp nói chung đã khó nhưng việc đánh giá và xếp loại doanh nghiệp nhà nước theo từng ngành nghề còn khó hơn: sẽ phải xây dựng hệ thống các yếu tố cần phân tích đối với từng loại doanh nghiệp (doanh nghiệp xây lắp, doanh nghiệp khai thác tài nguyên...), hệ thống thang điểm chuẩn phù hợp, kết quả điểm quyết định ngân hàng có cho vay hay không, mức điểm quyết định mức cho vay, quyết định lãi suất cho vay..., những việc này đòi hỏi cần có thời gian, nhân lực. Tuy nhiên nếu có thể làm được điều này thì lợi ích đem lại là rất lớn: giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu nợ quá hạn, tăng lơi nhuận của hoạt động tín dụng trung và dài hạn...tức là làm chất lượng tín dụng tăng lên.
Trong bước cuối cùng - thu nợ và đưa ra các phán quyết tín dụng mới, nếu khách hàng không trả được nợ thì Sở cần tìm hiểu thật kỹ nguyên nhân để ra những quyết định mới: thu nợ, phong tỏa và bán tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi...hay tiếp tục tài trợ cho khách hàng với sự ưu đãi về lãi suất, gia hạn nợ...Việc này cũng rất quan trọng, nó vừa mang lại lợi ích cho hoạt động của SGD, lại vừa đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội, bởi vì nếu SGD có thể “cứu vãn” được hoạt động của các doanh nghiệp thì họ có thể tiếp tục sản xuất, cán bộ trong doanh nghiệp sẽ tiếp tục có việc làm... Điều này đóng góp giải quyết một trong những vấn để bức xúc của xã hội là thất nghiệp.
Cuối cùng, trong quá trình phân tích tín dụng, các cán bộ tín dụng cần phải thực hiện đầy đủ các nguyên tắc của quá trình này, phải ý thức được rằng mỗi bước là một mắt xích của một dây truyền mà nếu mắt xích nào đó bị hỏng thì toàn bộ dây truyền sẽ không hoạt động tốt được.
Sổ tay tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng: nó đưa ra khuôn khổ các chính sách, nguyên tắc về hoạt động tín dụng, đồng thời quy định những thủ tục, trình tự cho vay nhằm đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng...chính vì vai trò quan trọng đó mà SGD cần bổ sung, chỉnh sửa sổ tay tín dụng thường xuyên hơn để phù hợp với yêu cầu quản lý và điều hành về tín dụng.
3.2.3. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ các khâu trong hoạt động tín dụng
Đối với mỗi ngân hàng, tín dụng luôn là hoạt động phong phú, đa dạng nhưng đồng thời cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn nhất. Bởi vậy, để đảm bảo mục tiêu nâng cao hiệu quả, kiểm soát rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng thì cần phải luôn kiểm tra, giám sát các khâu trong hoạt động tín dụng.
SGD nên thành lập đoàn kiểm tra, xây dựng chương trình kiểm tra, thu thập các thông tin và sử dụng triệt để sự hữu ích của hệ thống máy vi tính để phục vụ công tác kiểm tra.
Sau bước kiểm tra này, cần thiết phải thực hiện việc kiểm tra, xem xét chất lượng đợt kiểm tra để rút kinh nghiệm cho những đợt kiểm tra sau.
Công việc kiểm tra cần được lập kế hoạch, và phải lập đề cương kiểm tra (với nội dung hoặc chi tiết hoặc tóm tắt). Tuy nhiên, SGD cũng nên tiến hành thường xuyên hơn các đợt kiểm tra bất chợt để tránh tình trạng có sự chuẩn bị sẵn của các cán bộ tín dụng, công tác kiểm tra đột suất này sẽ đem lại hiệu quả cao hơn cho công tác kiểm tra.
3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ có vai trò rất quan trọng: phát hiện những sai sót trong những mặt nghiệp vụ, kịp thời uốn nắn, chỉnh sửa, góp phần hạn chế những rủi ro, đảm bảo kinh doanh an toàn, giữ nghiêm kỷ cương pháp luật, tạo tiền đề để SGD phát triển bền vững.
Trong thời gian qua, hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ đã chứng minh được tính thiết yếu không thể thiếu của nó trong việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì cũng còn không ít những tồn tại cần khắc phục nhanh chóng để nâng cao chất lượng tín dụng. Giải pháp cho một số mặt còn tồn tại là:
Tiếp tục tăng cường cho bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ, bổ nhiệm kiểm tra viên cho các chi nhánh của Sở, hoàn chỉnh mô hình bộ máy tổ chức và thực hiện quy chế tổ chức và họat động cho hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ theo luật các tổ chức tín dụng.
Các văn bản đã có về quy định, quy trình kiểm tra, kiểm toán cần được tiếp tục hoàn thiện, cần phổ biến để kiểm tra viên ý thức hơn nữa nhiệm vụ của mình.
Công tác này cần phải được tiến hành ở mọi cấp, mọi phòng ban, trong mọi thao tác nghiệp vụ, đồng thời với nó là phải đổi mới phương thức kiểm tra một cách toàn diện, sâu sắc cả về mặt chất và mặt lượng.
Tiếp tục chỉ đạo các chi nhánh của Sở trong việc sửa chữa những sai sót sau thanh tra, kiểm tra, tránh việc lặp lại những thiếu sót, sai lầm đó.
Có cán bộ chuyên môn tiến hành kiểm tra, kiểm soát, tránh tình trạng kiêm nhiệm chức vụ vì có thể có những ý kiến chủ quan trong đánh giá.
Xúc tiến các chi nhánh của SGD chấp hành tốt về thời gian gửi báo cáo hàng tháng, quý năm về SGD.
Giải quyết triệt để tình trạng: kiểm tra theo vụ việc, nặng về kiểm tra chứng từ kế toán, chưa quan tâm đi sâu kiểm tra các mặt hoạt động khác, thụ động kiểm tra theo chỉ đạo của cấp trên.
Chủ động hơn nữa trong việc tham mưu cho lãnh đạo các cấp trong việc hoạch định và thực thi chiến lược kinh doanh dài hạn.
Triển khai giải quyết kịp thời những kiến nghị sau kiểm tra, kiểm soát và những văn bản chỉ đạo để nhanh chóng khắc phục, giải quyết những sai sót.
3.2.5. Nâng cao chất lượng cán bộ trong ngân hàng
Tiến hành tuyển mộ, tuyển chọn một cách công khai, bình đẳng.
Tuyển mộ là quá trình thu hút những người xin việc có trình độ từ lược lượng lao động xã hội và lực lượng lao động bên trong tổ chức. Có thể sử dụng nhiều cách để có được nguồn tuyển mộ phong phú: Thông qua sự giới thiệu của cán bộ trong SGD; Cử cán bộ của phòng nhân sự tới tuyển mộ trực tiếp tại các trường đại học. Tuy nhiên với hai cách này thì có thể sẽ có sự không công bằng vì các cán bộ đi tuyển mộ có thể tiến cử những người là con em, họ hàng của họ. Vì vậy, theo em Sở nên sử dụng các phương thức sau để tuyển mộ:
Thu hút nguồn tuyển mộ thông qua quảng cáo trên các phương tiện thông tin: báo, tạp chí, trên các trang Wet của Sở, trên tivi. Phương pháp này cần chú ý nội dung quảng cáo để người xin việc nhanh chóng liên lạc với SGD.
Tuyển mộ thông qua các hội chợ việc làm: phương pháp này cho phép các ứng cử viên và các nhà tuyển dụng tiếp xúc trực tiếp với nhau, mở rộng khả năng lựa chọn với quy mô lớn hơn.
Sau khi đã tuyển mộ là quá trình tuyển chọn. SGD nên đưa ra các bài trắc nghiệm để kiểm tra về lịch sử làm việc, trình độ của người xin việc. Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập nên việc các nhân viên trong Sở sử dụng được ngôn ngữ giao tiếp quốc tế (Tiếng Anh) là rất quan trọng, tuy nhiên, quan trọng hơn cả vẫn là trình độ nghiệp vụ, khả năng tiếp cận với thông tin, và sự nhanh nhạy trong việc xử lý các thông tin thu nhận được. Do đó trong các bài thi trắc nghiệm kiến thức, nên đánh hệ số cao cho phần nghiệp vụ, tin học và bài thi tiếng Anh theo quan điểm của em nên thiết kế theo cấu trúc thi GMAT.
Tiếp tục đa dạng hóa các loại hình đào tạo để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của Sở.
Có thể áp dụng các loại hình đào tạo như: Đào tạo tại Hội sở chính NH ĐT&PTVN; đào tạo tại các trường Đại học, các Học viện; Đào tạo, bồi dưỡng tại nước ngoài.
Đặc biệt, để chuẩn bị cho tiến trình hội nhập, SGD nên quan tâm hơn nữa trong việc cử cán bộ đi học nghiệp vụ tại nước ngoài, có nhiều hình thức: chọn cán bộ đi học, đào tạo ngắn ngày, dài ngày ở nước ngoài; gửi nhân viên có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ đi thực tập dài ngày ở các ngân hàng nước ngoài; chọn cán bộ đi nghiên cứu sinh, học cao học ở nước ngoài; cử cán bộ đi tham quan, khảo sát, học tập kinh nghiệm của các ngân hàng ở nước ngoài... để chuẩn bị cho kế hoạch phát triển trong tương lai.
Tạo điều kiện vật chất, tinh thần và các động lực nhằm khuyến khích cán bộ.
Cần tạo điều kiện cho cả cán bộ đang được đào tạo và đang làm việc. Những cán bộ nào có kết quả lao động tốt nên được chọn đi tham quan, khảo sát, học tập ở nước ngoài, được khen thưởng trước toàn bộ nhân viên trong Sở, được thăng chức...Riêng với những cán bộ đang được đào tạo, để chất lượng đào tạo tốt, nên thực hiện thường xuyên các công việc:
Tổ chức kiểm tra nghiêm túc trong các khóa học theo định kỳ. Có như vậy mới tạo ra môi trường học tập nghiêm túc cho các học viên, tạo nên tính khách quan trong quá trình đào tạo và góp phần tạo nên sự thi đua học tập giữa các học viên.
Khen thưởng cho những học viên có điểm số cao, đây là yếu tố tạo động lực cho người học. Lấy kết quả học tập làm một trong những tiêu chuẩn để xét điểm thi đua hàng năm và xếp lương kinh doanh.
Chấn chỉnh, kỷ luật kịp thời, công minh những cán bộ có hành vi trái với các quy định, nội quy của ngân hàng hoặc có hành vi sai trái gây thiệt hại cho ngân hàng.
Bên cạnh những hình thức nhằm khuyến khích học tập, tạo niềm say mê trong học tập, tạo kết quả học tập và làm việc tốt thì Sở giao dịch cần xử phạt nghiêm minh các hành vi sai trái. Tuy nhiên, tùy mức độ sai trái mà có những biện pháp kỷ luật khác nhau. Để kỷ luật có hiệu quả thì SGD cần tuân thủ theo những nguyên tắc:.
Phải thông tin đầy đủ và kịp thời các điều khoản của kỷ luật lao động đến mọi cán bộ nhằm khuyến khích ý thức tốt, tự thực hiện giữ gìn kỷ luật trong từng cán bộ và kỷ luật phòng, ban.
Trước khi tiến hành kỷ luật, cần phải tiến hành điều tra, xác minh được các vi phạm, mức độ vi phạm và các hình thức kỷ luật tương ứng đã được quy định và thông báo cho cán bộ vi phạm biết.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
Chính phủ cần đẩy nhanh tiến độ sắp xếp lại các DNNN, đổi mới và nâng cao hiệu quả của DNNN, mạnh dạn giải thể những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, giải quyết tình trạng nợ đọng ngân sách xây dựng các công trình cho các đơn vị thi công. Kiến nghị cụ thể:
Tiến hành cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu DNNN (kể cả các tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp có quy mô lớn), thu hẹp tối đa số doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước đầu tư 100% vốn, chỉ giữ lại các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như: an ninh, quốc phòng, điện lực...
Gắn chặt tiến trình cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu DNNN với thị trường vốn nhằm mục đích khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp; với đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Trong tiến trình sắp xếp lại doanh nghiệp sẽ có hiện tượng dư thừa lao động, để giải quyết tình trạng này thì Nhà nước cần điều chỉnh chính sách đối với lao động dôi dư ở các doanh nghiệp, cần bổ sung quy định về tỷ lệ lao động tối đa được áp dụng chính sách lao động dôi dư.
Nhằm tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài để mở rộng hoạt động kinh doanh, đồng thời nhằm mục đích tạo ra một cơ chế linh hoạt trong hoạt động quản lý và đầu tư vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp thì Nhà nước nên bỏ quy định về tỷ lệ cổ phần Nhà nước nắm giữ.
Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp: hoàn thiện chính sách thuế, tiền thuê đất ...để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa; đồng thời Nhà nước cần xây dựng một hệ thống văn bản, nghị định không mâu thuẫn, chồng chéo nhau.
Nhà nước cần ban hành cơ chế tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giảm sự can thiệp hành chính của cơ quan Nhà nước đối với doanh nghiệp, Nhà nước chỉ bao cấp vốn điều lệ cho những DNNN cần nắm giữ 100% vốn, có như thế doanh nghiệp mới ý thức và cố gắng hơn trong hoạt động, tránh tình trạng ỷ nại vào Nhà nước. Thay vì hỗ trợ trực tiếp, Chính phủ có thể hỗ trợ một cách gián tiếp cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, giảm chi phí đầu vào, nâng cao tính cạnh tranh.
Đổi mới quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp theo hướng: Các loại hình doanh nghiệp sẽ được nhà nước có chính sách, chế độ để giám sát theo các chỉ tiêu tài chính, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu về tài chính, hệ thống đánh giá rủi ro qua các công cụ kiểm toán, kế toán... được công khai minh bạch và được xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế. Thống nhất quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp theo hướng xóa bỏ sự chia cắt về quyền sở hữu doanh nghiệp giữa các Bộ, ngành, địa phương. Nhà nước giữ vai trò là nhà đầu tư vốn thống nhất thông qua một tổ chức đầu tư vốn trung gian bằng việc thành lập công ty đầu tư tài chính Nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
Tạo môi trường kinh tế ổn định: trong điều kiện kinh tế phát triển, xã hội ổn định sẽ là điều kiện tốt cho tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN phát triển vì khi đó doanh nghiệp sẽ có như cầu vốn lớn hơn để sản xuất kinh doanh, có khả nợ tốt hơn. Thông qua việc xây dựng chiến lược phát triển của kinh tế - xã hội trong dài hạn thì chính phủ sẽ giúp cho chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, các ngân hàng ổn định, phù hợp với chiến lược đó.
Chính phủ cần có sự hỗ trợ triệt để và có các giải pháp hiệu quả hơn để các ngân hàng thương mại có thể thực hiện được việc tái cơ cấu: có ý kiến phản hồi kịp thời đối với các kiến nghị, đề xuất của các ngân hàng thương mại, với các khoản nợ tồn đọng cần sử dụng ngân sách nhà nước để chuyển vốn và xóa.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng Nhà nước, với vai trò điều hành chính sách tiền tệ góp phần ổn định nền kinh tế, có tác động rất lớn đến hoạt động của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại quốc doanh trong hoạt động tín dụng nói chung, trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN nói riêng thì Ngân hàng nhà nước (NHNN) cần có các biện pháp, chính sách:
Trước tiên, NHNN cần tiếp tục hoàn chỉnh các văn bản pháp luật, các quy định, tạo ra sự thống nhất giữa chúng. Bên cạnh đó là việc nghiên cứu, bổ sung quy chế để giải quyết kịp thời, loại bỏ tình trạng một doanh nghiệp vay vốn từ nhiều ngân hàng với cùng một dự án xin vay.
NHNN cần triển khai quyết liệt, bắt tay cùng làm và tháo gỡ những vướng mắc với các ngân hàng thương mại, đồng thời tăng cường quan hệ đối ngoại để tranh thủ sự trợ giúp có hiệu quả của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực.
Luôn quản lý chặt chẽ lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế: mỗi một nghiệp vụ tín dụng của một ngân hàng thương mại sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng, nếu lượng tiền cung ứng tăng sẽ làm lãi suất tăng lên, kéo theo đó là một loạt các vấn đề khó khăn khác. Chính vì vậy NHNN phải luôn quản lý chỉ tiêu này.
Về vấn đề nợ quá hạn: NHNN cần ban hành thêm một số quy định khác mang tính định lượng đối với nợ quá hạn như: tỷ lệ nợ quá hạn ròng tối đa mà các ngân hàng thương mại được phép duy trì, phương pháp xác định nợ quá hạn ròng...
Giám sát để loại bỏ tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng: để tồn tại, các ngân hàng luôn phải hoạt động trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt mà nếu không có chính sách hợp lý, họ sẽ dễ dàng bị thua lỗ, hoặc phá sản. Chính vì vậy, mỗi ngân hàng thường có những chính sách hoạt động riêng để cạnh tranh với các ngân hàng khác. Nhiều ngân hàng có thể tăng lãi suất để huy động vốn, giảm lãi suất thấp xuống để thu hút được nhiều khách hàng đến vay hơn; có khi họ còn chấp nhận lỗ để có thể huy động vốn, hoặc cho vay ... nhiều hơn. Đây là một hình thức của cạnh tranh không lành mạnh và nó sẽ gây ra hậu quả rất nặng nề cho nền kinh tế, đó là khủng hoảng kinh tế. Chính vì vậy, nhất thiết phải có sự điều chỉnh của NHNN nhằm đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng thương mại thông qua các quy định cụ thể, các biện pháp quản lý chặt chẽ đối với cạnh tranh không lành mạnh.
Hoàn thiện chính sách lãi suất để hoạt động của các ngân hàng thương mại được tự chủ hơn nữa: Hiện nay, tuy đã áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt nhưng chính sách lãi suất vẫn còn một số tồn tại như khung lãi suất huy động và cho vay trong hệ thống ngân hàng áp dụng một cách tương đối cứng nhắc, không thực sự linh hoạt, điều này ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của ngân hàng thương mại. Chính vì vậy, việc hoàn thiện chính sách lãi suất là rất quan trọng.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của ngân hàng đối với các ngân hàng thương mại nhằm sớm phát hiện những ngân hàng nào đang gặp khó khăn để có biện pháp sử lý kịp thời:
Thanh tra NHNN cần chọn điểm, diện thanh tra trong từng năm có trọng điểm, trọng tâm theo từng ngân hàng chuyên doanh cụ thể. Đối với từng loại hình ngân hàng, trước mỗi đợt kiểm tra cần tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật, nghiệp vụ thanh tra đối với từng lĩnh vực chuyên sâu theo đặc điểm của từng ngân hàng thương mại.
NHNN nên nhanh chóng ban hành các quy chế cụ thể để chuẩn hóa các văn bản, quy trình, thủ tục thanh tra, kiểm tra không ngành ngân hàng để công tác nghiệp vụ thanh tra ngân hàng ngày càng được củng cố và nâng cao về cả chất là lượng.
Tăng vốn chủ sở hữu cho các ngân hàng thương mại.
Vốn chủ sở hữu trong mỗi ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi ngân hàng: nó là điều kiện tiên quyết để ngân hàng có thể đi vào hoạt động, cần thiết để duy trì hoạt động của ngân hàng, nó là một tấm đềm phòng chống rủi ro phá sản...Tuy nhiên hiện nay, khi đang trong quá trình hội nhập, có thể nói rằng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng là vẫn còn nhỏ, thực lực tài chính của các ngân hàng còn mỏng. Trong tương lai, để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài thì NHNN cần tăng vốn chủ sở hữu cho các ngân hàng thương mại quốc doanh.
NHNN cần tiến hành cổ phần hóa một số ngân hàng thương mại quốc doanh:
Mục tiêu chính của cổ phần hóa là tăng vốn, thực hiện mở rộng kinh doanh, đảm bảo các tiêu chí về an toàn. Cổ phần hóa sẽ tạo cho ngân hàng động lực sử dụng vốn có hiệu quả hơn, đồng sự giám sát của xã hội đối với ngân hàng sẽ thường xuyên hơn, điều này làm cho các ngân hàng hoạt động đúng hơn với chức năng của mình trên thị trường. Do đó, cổ phần hóa là con đường nhanh nhất để các ngân hàng thương mại quốc doanh đạt được những chỉ số an toàn về vốn.
Hiện nay, có 2 ngân hàng được lựa chọn để thí điểm thực hiện cổ phẩn hóa là Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng Nhà đồng bằng Sông Cửu Long. Ngân hàng đầu tư và phát triển tỷ không được chọn làm thí điểm nhưng cũng luôn theo dõi việc cổ phần hóa của 2 ngân hàng trên để đưa ra cho mình một bước đi phù hợp, cố gắng đạt mục tiêu: đến năm 2010 có vốn chủ sở hữu là 1,5 tỷ USD .
3.3.3. Kiến nghị với NH ĐT&PTVN
Thay đổi các chính sách, cơ chế tín dụng theo hướng tạo thuận lợi cho các chi nhánh thực hiện.
Với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau thì cần có những chính sách tín dụng cụ thể. Với các tổng công ty, cần quản lý thống nhất giữa các chi nhánh trên cùng địa bàn, đảm bảo thực hiện một chính sách như nhau đối với một công ty.
Đầu tư công sức và tiền bạc để áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, áp dụng công nghệ thông tin nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả xử lý thông tin, lưu trữ và quản lý các doanh nghiệp, từ đó sẽ hạn chế được rủi ro tín dụng.
Phát triển mạng lưới thông tin rộng khắp tới các chi nhánh để có thể chuyển tải một cách nhanh nhất và kịp thời các thông tin quan trọng về chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, về sự thay đổi trong các văn bản pháp luật có liên quan, về hoạt động của các doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng...
Cần nghiên cứu kỹ càng hơn về tính đúng đắn và ý nghĩa của việc chuyển nợ quá hạn, từ đó đề ra kế hoạch hành động nhất quán phù hợp với hoàn cảnh đổi mới và tiến trình hội nhập. Nhanh chóng ứng dụng các chuẩn mực hoạt động của Ngân hàng thương mại quốc tế vào hoạt động của ngân hàng, tránh tình trạng quá đề cao thành tích nên tìm mọi cách để giảm tỷ lệ nợ quá hạn mà bỏ qua những tiềm ẩn đang rình rập và đe dọa ngân hàng đằng sau các khoản nợ quá hạn đó.
Trên cơ sở tổng hợp các hoạt động của các doanh nghiệp cần xây dựng một chính sách lãi suất hợp lý, không áp dụng một loại lãi suất cứng nhắc, đồng loạt cho tất cả các doanh nghiệp. Lãi suất phải mềm dẻo, linh hoạt, được hợp lý hóa trên cơ sở lãi suất điều hành đầu vào bình quân của SGD tại từng thời điểm nhưng phải ngang bằng với lãi suất của các ngân hàng mạnh nhằm giữ vững và mở rộng khách hàng.
Để trở thành ngân hàng đứng đầu về lĩnh vực đầu tư phát triển và là một ngân hàng mạnh toàn diện thì NH ĐT&PTVN không thể thiếu được một yếu tố vô cùng quan trọng đó là nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ. Do đó, NHĐT&PTVN cần tổ chức đều đặn và thường xuyên các buổi học nghiệp vụ, tập huấn định kỳ nhằm đào tạo và bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho các cán bộ tín dụng, tạo điều kiện cho người được học trước truyền đạt lại những kiến thức, kỹ năng cho những người chưa được học.
Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng, đồng thời nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng, thực hiện nghiêm túc các chính sách, cơ chế, quy trình tín dụng đã ban hành để giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng.
3.3.4. Kiến nghị với các DNNN
Phải luôn đặt lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh là tiêu chí hàng đầu trong hoạt động của doanh nghiệp, tránh tình trạng chạy theo quy mô, doanh số hay phạm vi hoạt động.
Cung cấp một cách đầy đủ, chính xác và trung thực những thông tin mà ngân hàng yêu cầu: các thông tin về tình hình tài chính được thể hiện ở các bản báo cáo kết quả kinh doanh, bản cân đối kế toán, bản lưu chuyển tiền tệ, nhất định không được lập các báo cáo “ma” để lừa bịp ngân hàng.
Trong hoạt động kinh doanh phải có phương án sản xuất kinh doanh chi tiết, phải tìm hiểu kỹ càng các thông tin: về thị trường tiêu thụ, về đối thủ cạnh tranh, về đối tác làm ăn... để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Bên cạnh những sản phẩm truyền thống của mình, các doanh nghiệp nên mạnh dạn mở rộng, đa dạng hóa các sản phẩm khác để phân tán rủi ro, mở rộng thị trường hoạt động.
Nguyên nhân chính hiện nay gây ra tình trạng không hiệu quả của các DNNN là trong các doanh nghiệp đã không khuyến khích được các nhà điều hành hành động vì mục tiêu làm gia tăng giá trị doanh nghiệp và không khuyến khích được người lao động làm việc với khả năng thực sự của họ. Vì vậy, những người lãnh đạo doanh nghiệp cần tạo ra một cơ chế nhằm khuyến khích các nhà điều hành và đội ngũ lao động làm việc vì lợi ích của doanh nghiệp. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể phát triển bền vững trong dài hạn.
Nâng cao trình độ của các cán bộ thông qua việc đào tạo trong công việc hoặc đào tạo ngoài công việc: có thể tổ chức các lớp cạnh doanh nghiệp, cử đi học ở các trường chính quy, hoặc thông qua các cuộc hội nghị và các cuộc hội thảo...
Đổi mới công nghệ sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm...từ đó sẽ dễ dàng thắng thế trong quá trình cạnh tranh.
Nhanh chóng tiến hành cổ phần hóa nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Giảm biên chế trong các DNNN; bố trí đúng người, đúng việc, tránh tình trạng trình độ cán bộ thì cao trong khi công việc lại đơn giản hoặc công việc phức tạp, đòi hỏi cán bộ giỏi thì cán bộ lại có trình độ quá thấp, không đáp ứng được yêu cầu công việc. Công việc này sẽ giúp doanh nghiệp có được một số lượng nhân viên chuẩn, tăng hiệu quả làm việc của họ.
KẾT LUẬN
Qua tìm hiểu về tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN tại SGD NH ĐT&PTVN ta đã hiểu được rõ hơn về những vấn đề cơ bản liên quan đến hoạt động này nói chung và hoạt động này nói riêng tại Sở.
Trong tương lai, nước ta sẽ phát triển hơn nữa hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng và do đó nhu cầu của các DNNN về vốn trung và dài hạn sẽ ngày càng gia tăng. SGD cần có những biện pháp để vừa có thể đáp ứng được nhu cầu này, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước lại vừa có thể thực hiện chiến lược kinh doanh của mình, tiến tới hội nhập.
Tại SGD, hoạt động này đã đạt được rất nhiều thành tựu nhưng cũng có không ít những mặt còn hạn chế và cần được giải quyết. Với những kiến thức còn hạn chế, em xin được nêu lên một số giải pháp và kiến nghị trên, mong rằng có thể đóng góp một phần nhỏ cho việc giải quyết vấn đề này.
Do thời gian tìm hiểu và kiến thức còn ít ỏi nên luận văn của em sẽ không tránh khỏi những sai sót, em mong nhận được sự đóng góp phê bình của các thầy cô giáo, các cán bộ trong SGD và cô giáo hướng dẫn – Ths. Phan Thị Hạnh để luận văn của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quản trị ngân hàng thương mại.Peter S.Rose.
Giáo trình Ngân hàng thương mại. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Khoa Ngân hàng – Tài chính.
Giáo trình tín dụng Ngân hàng. Học viện Ngân hàng.
Nghiệp vụ ngân hàng thương mại - NXBThống kê.
Sổ tay tín dụng. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam (kỷ yếu hội thảo khoa học). NXB Chính trị Quốc gia.
Những nội dung cơ bản xây dựng văn hóa doanh nghiệp – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Tạp chí ngân hàng số 5,11 năm 2001; số 10 năm 2002; số 1,8,9,12 năm 2004.
Tài chính tháng 2,3 năm 2005.
Tài chính doanh nghiệp số 4,6,8,9 năm 2004.
Một số tài liệu khác.
Môc lôc
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28450.doc