Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - Dài hạn tại Sở Giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) VN

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Nước ta là một quốc gia giầu tài nguyên thiên nhiên, lao động dồi dào nhưng nền kinh tế còn chưa phát triển, nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn, công nghiệp còn kém phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, không có khả năng khai thác được hết những tiềm năng sẵn có của mình. Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, Đất nước ta đã thu được những kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong nhân dân cũng như cá

doc51 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - Dài hạn tại Sở Giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra mục tiêu đến năm 2010: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá Đất nước, tập trung xây dựng và phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, có tính mũi nhọn, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới để phát triển toàn diện”. Cùng với sự chuyển dịch đó, ngành Ngân hàng trong những năm gần đây đã liên tục đổi mới về cơ cấu, hoạt động, khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển. Ngành Ngân hàng đã hiểu rõ một điều là nền kinh tế muốn phát triển được, muốn thực hiện được công nghiệp hoá - hiện đại hoá Đất nước thì phải cung cấp vốn cho các thành phần, các tổ chức kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn trung – dài hạn. Với nguồn vốn trung – dài hạn được cung ứng hợp lý sẽ tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật, đặt nền móng cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Việc đổi mới và phát triển các hoạt động của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt được thì Ngân hàng còn có những hạn chế: nợ quá hạn, nợ khê đọng khó đòi…là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả kinh doanh của NHTM. Hiệu quả kinh doanh của NHTM tập trung chủ yếu là hiệu quả của hoạt động tín dụng. Do vậy, vấn đề mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung – dài hạn có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại, tăng trưởng và phát triển của NHTM nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Qua thời gian thực tập tại SGD NHNo & PTNT Việt Nam, từ việc nắm bắt tình hình thực tế của nền kinh tế và tình hình hoạt động của SGD NHNo & PTNT Việt Nam, em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại SGD NHNo & PTNT Việt Nam", với mong muốn góp phần vào sự đổi mới hoạt động kinh doanh của SGD NHNo & PTNT Việt Nam. Nội dung đề tài là một vấn đề rộng và phức tạp vì vậy bài khoá luận sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô, của ban lãnh đạo SGD NHNo & PTNT Việt Nam và các bạn sinh viên để bài viết được hoàn thiện và có tính thực tiễn hơn. hợp với phương pháp khác: phân tích diễn giải, tổng hợp, thống kê… Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày thành ba chương: Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Chương 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI SGD NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI SGD NHNo&PTNT VN CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Thương mại và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế_xã hội 1.1.1. Khái niệm về tín dụng trung, dài hạn . Tín dụng trung, dài hạn (TDTDH) là: “hoạt động tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn trung, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống”. Tùy theo từng quốc gia, từng thời kỳ mà có những quy định cụ thể của hoạt động TDTDH. ở Việt Nam, về thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời gian thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD). Hình thức tín dụng này có một số đặc trưng sau: • Thời hạn đáo hạn trên 1 năm. Thời hạn cho vay trung hạn: từ 12 đến 60 tháng. Thời hạn cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống. • Khoản tín dụng này được trả dần bằng những khoản trả vay theo thời gian (có thể theo quý, nửa năm hoặc thanh toán hàng năm) trong kỳ hạn của khoản vay. • Chúng thường được đảm bảo bằng tài sản lưu động đem ra thế chấp hoặc có văn tự cầm cố tài sản cố định. Mục đích của hoạt động TDTDH là để đầu tư dự án, xây dựng mới, mua sắm tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới cải tiến thiết bị công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm mục tiêu lợi nhuận phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội và pháp luật quy định. 1.1.2. Các hình thức tín dụng trung, dài hạn Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các hình thức TDTDH ngày càng phong phú và hấp dẫn. Có thể nêu ra đây một số hình thức TDTDH: • Cho vay theo dự án đầu tư: Đây là hình thức TDTDH chủ yếu của các NHTM Việt Nam hiện nay. Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất dựa trên cơ sở căn cứ khoa học và thực tiễn về việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng, cải tạo đổi mới kỹ thuật và công nghệ những đối tượng là tài sản cố định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định. Dựa vào lĩnh vực tài trợ mà người ta chia hai hình thức phổ biến: Hình thức TDTDH nhằm cải tạo, khôi phục, mở rộng, thay thế tài sản cố định. Hình thức TDTDH nhằm đầu tư cho các dự án xây dựng mới, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. • Cho thuê tài chính: Đây là hoạt động TDTDH trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là TCTD với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng. Hoạt động này đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nói chung và các bên liên quan nói riêng. • Cho vay hợp vốn: là hình thức cho vay trong đó có từ hai TCTD trở lên tham gia vào một dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh của một khách hàng vay vốn. Nhìn chung các hình thức tín dụng đều có thể thực hiện hợp vốn. Song do đặc thù của hình thức tài trợ này, ở Việt Nam tách ra thành một loại cho vay. • Cho vay tiêu dùng: là hình thức tín dụng nhằm giúp người tiêu dùng có nguồn tài chính để trang trải nhu cầu về nhà ở, đồ dùng gia đình và phương tiện đi lại… 1.1.3. Vai trò của tín dụng trung, dài hạn đối với phát triển kinh tế – xã hội 1.1.3.1. Vai trò của tín dụng trung, dài hạn đối với nền kinh tế Ở tất cả các quốc gia, nhu cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư xây dựng các công trình sản xuất kinh doanh mới, hiện đại hóa công nghệ sản xuất, mở rộng các ngành sản xuất vật chất đều rất lớn. Nhu cầu này được thỏa mãn một phần bằng nguồn ngân sách Nhà nước, vay nước ngoài, một phần huy động dân cư nhưng phần lớn vẫn bằng TDTDH của NHTM. • TDTDH giúp tăng tích lũy vốn để mở rộng sản xuất cho nền kinh tế. • TDTDH tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật • TDTDH thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. • TDTDH thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu. • TDTDH tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn. • TDTDH tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. • TDTDH tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại. Như vậy, đầu tư cho vay trung, dài hạn (TDH) trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần phát triển khoa học công nghệ, ổn định lạm phát, nâng cao đời sống của dân cư, phát triển lực lượng lao động, đẩy mạnh tăng trưởng ổn định. Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng là việc vô cùng cấp bách đối với sự phát triển kinh tế cả ở hiện tại và tương lai. 1.1.3.2. Vai trò của tín dụng trung, dài hạn đối với khách hàng Kinh doanh trong nền kinh tế thị trườNg, để giành được thắng lợi trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp với tiềm lực của doanh nghiệp, đồng thời thực hiện tốt chiến lược kinh doanh đó. Về dài hạn, các doanh nghiệp luôn chú trọng đến việc mở rộng sản xuất, xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, đổi mới công nghệ để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí đến mức tối thiểu. Để đáp ứng những nhu cầu trên doanh nghiệp cần một lượng vốn không nhỏ. Doanh nghiệp có thể huy động vốn dưới nhiều hình thức: tích lũy trong quá trình sản xuất kinh doanh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu hoặc vay Ngân hàng. Tuy nhiên, với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng tự tích lũy là không đáng kể, phát hành cổ phiếu, trái phiếu liên quan đến sự phân chia quyền lực kiểm soát công ty… Đối với doanh nghiệp, việc vay vốn TDH nhiều khi mang lại thuận lợi hơn so với huy động vốn trên thị trường chứng khoán. TDTDH tránh được các chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, lệ phí đăng ký chứng khoán. Về mặt kỳ hạn, doanh nghiệp có thể vay vốn Ngân hàng theo kỳ hạn phù hợp với yêu cầu kinh doanh, đồng thời họ có thể điều chỉnh kỳ hạn nợ, có thể trả sớm hơn khi doanh nghiệp không cần sử dụng vốn đó nữa. Việc trả nợ TDH cũng được xây dựng theo sự phân chia hợp lý và ổn định, do đó doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các nguồn trả nợ một cách dễ dàng hơn. TDTDH còn giúp doanh nghiệp trong việc chớp cơ hội kinh doanh. Khi có cơ hội, doanh nghiệp có thể nhanh chóng vay vốn Ngân hàng để mở rộng sản xuất, gia tăng sản lượng để chiếm lĩnh thị trường. TDTDH ngày càng được các doanh nghiệp ưa thích vì nó phù hợp với thực tế của các công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) và các doanh nghiệp nhỏ. Còn đối với dân cư thì TDTDH chủ yếu là đáp ứng nhu cầu về tiêu dùng (về nhà ở, đồ dùng gia đình, phương tiện đi lại…) khi mà họ không có đủ khả năng tài chính để có thể thỏa mãn ngay nhu cầu này. Bên cạnh những thuận lợi mà TDTDH đem lại thì mức lãi suất của nó vẫn là chi phí khá cao đối với doanh nghiệp. Nó buộc các doanh nghiệp phải chú trọng đến hiệu quả đầu tư, doanh thu không chỉ đủ để trả lãi và vốn cho Ngân hàng mà phải đem lợi tức cho chính mình. Do vậy, lãi suất TDTDH của Ngân hàng là đòn bẩy thúc đẩy doanh nghiệp khai thác triệt để hiệu quả của đồng vốn, kinh doanh có lãi và thắng lợi trong cạnh tranh. 1.1.3.3. Vai trò của tín dụng trung, dài hạn đối với Ngân hàng Thương mại Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ, nhận tiền gửi và huy động các nguồn tài chính nhằm mục đích kinh doanh có lời. An toàn trong lợi nhuận luôn là mục tiêu tìm kiếm của Ngân hàng. Những khoản TDTDH có quy mô lớn, lãi suất cao, thời hạn dài đã mang lại lợi nhuận chủ yếu cho Ngân hàng. Đồng thời mở rộng quy mô TDTDH cả về số lượng và chất lượng còn nâng cao được khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Khi Ngân hàng cho khách hàng vay chính là đang tạo ra và duy trì khách hàng cho mình trong tương lai, tạo điều kiện để Ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động cho mình và ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của mình trong nền kinh tế. Khi NH không đa dạng hóa hoạt động cho vay, đa dạng hóa khách hàng, thời hạn vay thì NH sẽ không thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng khác. Mặt khác TDTDH còn là cách thức khả thi để giải quyết nguồn vốn huy động còn dư thừa tại mỗi Ngân hàng, là cách Ngân hàng gọi vốn từ nền kinh tế đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp. Vì vậy mở rộng TDTDH sẽ giúp Ngân hàng giải được “bài toán” khó về huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả, thu được lợi nhuận, qua đó phát triển hoạt động Ngân hàng, tăng khả năng cạnh tranh với các Ngân hàng khác. 1.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại 1.2.1. Khái niệm TDTDH là một phần của tín dụng vì vậy nói đến chất lượng tín dụng cũng chính là nói đến chất lượng TDTDH. Đối với các NHTM, cái được biểu hiện ra bên ngoài vừa cụ thể, vừa trừu tượng của hoạt động tín dụng chính là chất lượng tín dụng. Chỉ khi chất lượng tín dụng tốt thì Ngân hàng mới có nhiều khách hàng, uy tín Ngân hàng được nâng cao tạo điều kiện thúc đẩy cho Ngân hàng phát triển. Chất lượng tín dụng được hiểu là: “sự đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu hợp lý của khách hàng, tạo ra độ an toàn và lợi nhuận cho ngân hàng đồng thời góp phần vào quá trình phát triển của nền kinh tế”. Qua khái niệm này chúng ta thấy: NHTM, khách hàng, nền kinh tế là ba nhân tố được tính đến khi xem xét chất lượng tín dụng. Thứ nhất: Chất lượng tín dụng xét từ giác độ NHTM Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân Ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Thứ hai: Chất lượng tín dụng xét từ giác độ khách hàng Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu khách hàng sẽ tăng lên làm cho Ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của khách hàng, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu hợp lý về vốn cho họ. Thứ ba: Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác khả năng tiềm ẩn trong nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vay vốn nước ngoài có lợi cho sự phát triển kinh tế. Từ những điều trên có thể rút ra một số đặc trưng của chất lượng tín dụng: • Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh mức độ thích nghi của NHTM và sự thay đổi của môi trường bên ngoài. • Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: Thu hút được khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí tổng thể về lãi suất, chi phí nghiệp vụ… • Chất lượng TD không tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy trình kết hợp giữa hoạt động con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung. Do đó để đạt được chất lượng cần phải có sự quản lý. Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích đánh giá được chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng sẽ giúp Ngân hàng tìm được biện pháp thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế hoạt động sôi động và có sự cạnh tranh gay gắt. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn Để đánh giá được chất lượng TDTDH người ta sử dụng một số chỉ tiêu sau: • Doanh số cho vay trung, dài hạn Nó phản ánh lượng vốn mà Ngân hàng đã giúp doanh nghiệp trong việc đầu tư cải tiến, xây dựng công nghệ mới, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nếu doanh số cho vay lớn thì chứng tỏ rằng hoạt động TDTDH của Ngân hàng phát triển và ngược lại bởi con số và tốc độ doanh số cho vay qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng của việc đầu tư TDH là mở rộng hay thu hẹp. Tuy nhiên, không phải bất cứ thời điểm nào việc tăng doanh số cho vay cũng là tốt vì trong mỗi thời kỳ khác nhau, với tốc độ phát triển kinh tế, định hướng phát triển các ngành nghề khác nhau do đó Ngân hàng cần phải nhạy bén để thay đổi hướng đầu tư cho phù hợp và hiệu quả. • Doanh số thu nợ trung, dài hạn Nó phản ánh lượng vốn đã được hoàn trả Ngân hàng trong một thời kỳ. Doanh số thu nợ có thể phản ánh hai tình trạng trái ngược nhau: khách hàng hoàn trả đúng hạn, tự nguyện do việc đầu tư có hiệu quả hoặc có thể Ngân hàng nhận thấy những dấu hiệu không lành mạnh có nguy cơ mất vốn nên đẩy mạnh các biện pháp thu hồi vốn. Trong cả hai trường hợp doanh số thu nợ tăng lên đều tốt cho Ngân hàng. Trong mối tương quan doanh số cho vay và doanh số thu nợ TDH sẽ ảnh hưởng tới dư nợ TDTDH. • Dư nợ tín dụng trung, dài hạn Đây là chỉ tiêu thời điểm phản ánh quy mô cấp TDTDH của Ngân hàng cho nền kinh tế tại một thời điểm cụ thể. Không thể đánh giá chất lượng TDTDH là cao hay thấp mà chỉ thông qua chỉ tiêu này, bởi tới một thời điểm nào đó, khi Ngân hàng cho vay vượt quá mức giới hạn cũng là lúc Ngân hàng bắt đầu chấp nhận những rủi ro tín dụng. Vì vậy vấn đề ở đây là cần phải xem xét mức độ an toàn và lành mạnh của chỉ tiêu này. Ngoài những chỉ tiêu chính trên, khi xét đến chất lượng TDTDH, người ta còn dùng một vài chỉ tiêu khác có liên quan: • Chỉ tiêu huy động vốn trung và dài hạn Nếu như một Ngân hàng có khả năng huy động vốn có thời hạn dài, với chi phí thấp nhất có thể phục vụ cho việc cho vay và đầu tư TDH thì đã tạo cơ sở đảm bảo cho chất lượng TDTDH. Khả năng huy động vốn TDH thể hiện qua hai chỉ tiêu: Tổng vốn TDH huy động được và tốc độ tăng của nguồn vốn này qua các năm phản ánh tốc độ tăng trưởng và khả năng huy động vốn TDH của NH. Vốn TDH trên tổng nguồn vốn huy động: phản ánh cơ số vốn của NH và nó nói lên khả năng cung ứng vốn TDH cho đầu tư phát triển. Ngân hàng không thể mở rộng được việc cho vay và đầu tư TDH nếu tỷ lệ này quá thấp. • Chỉ tiêu về lãi treo và lợi nhuận Lợi nhuận do hoạt động TDTDH lại là một trong những chỉ tiêu đánh giá chất lượng TDTDH. Không thể đánh giá chất lượng tín dụng là cao nếu như lợi nhuận mà nó đem lại bằng không hoặc thậm chí là âm. Lãi treo phản ánh mặt trái của chất lượng TDTDH. Đây là khoản phải thu của Ngân hàng, nhưng thực tế thì doanh nghiệp đã không trả. Số lượng và tốc độ tăng của lãi treo phản ánh khả năng trả lãi vay của khách hàng không tốt. Ngoài việc sử dụng các chỉ tiêu định lượng thì hiện nay nhiều Ngân hàng cũng sử dụng các chỉ tiêu định tính để đánh giá xem chất lượng TDTDH có tốt không và nó được thể hiện qua các quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng, cho vay phải tuân theo nguyên tắc tín dụng, các điều kiện sau: lập hồ sơ cho vay, có phương án sản xuất kinh doanh, có báo cáo tài chính, sản xuất kinh doanh phải có hiệu quả, có tài sản thế chấp hợp pháp… kèm theo việc kiểm tra trước, trong và sau khi vay. Việc đánh giá có thể thực hiện bằng cách căn cứ vào tài liệu kiểm tra của nghiệp vụ Ngân hàng, những tài liệu này ghi lại số điểm chất lượng tín dụng theo yêu cầu của từng mặt chất lượng của loại cho vay. • Tỷ lệ nợ quá hạn trung, dài hạn Đến kỳ hạn trả nợ, nếu người đi vay không trả và không được gia hạn nợ thì Ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ nợ đến hạn sang tài khoản nợ quá hạn và đương nhiên người đi vay phải chịu lãi suất quá hạn thường là cao gấp 1,5 lần lãi suất trong hạn, vì thế sẽ càng gây khó khăn hơn cho khách hàng trong việc trả nợ. Sẽ không thể cho rằng chất lượng TDTDH cao nếu nợ quá hạn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư nợ và có xu hướng ngày càng tăng. Thông thường tỷ lệ này dưới 5% thì chấp nhận được. Tổng dư nợ quá hạn TDH Tổng dư nợ cho vay TDH Tỷ lệ nợ quá hạn TDH = - Chỉ tiêu đánh giá khả năng thu hồi vốn: Chỉ tiêu này biểu hiện qua nợ quá hạn, là khoản nợ mà thời gian tồn tại của nó vượt quá thời hạn cho vay theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng cộng với thời gian đã được gia hạn thêm nếu khách hàng yêu cầu và được ngân hàng chấp thuận. Thông thường đây được coi là những khoản vay có vấn đề, là những khoản vay đã quá hạn ít nhất là 90 ngày. Nợ qúa hạn là chỉ tiêu quan trọng và phổ biến nhất khi đánh giá hiệu quả tín dụng đối với ngân hàng. Tuy nhiên, khi đánh giá nợ quá hạn cần nghiên cứu chi tiết hơn thông qua việc phân loại nợ quá hạn. Có hai loại nợ quá hạn. - Nợ qúa hạn có khả năng thu hồi, là những khoản nợ mà người vay vẫn có thể trả nợ được ngân hàng. Lý do của khoản nợ bị chậm này có thể là chủ quan hoặc khách quan. - Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là các khoản nợ mà người vay không có khả năng trả nợ ngân hàng, có thể là hành vi lừa đảo, hoặc làm ăn thua lỗ, phá sản dẫn đến khách hàng không còn khả năng trả nợ ngân hàng. - Ngoài ra, để đánh giá chi tiết hơn, các ngân hàng còn phân loại nợ qúa hạn theo phần trăm khả năng thu hồi (80%, 70%…). Việc phân loại này được căn cứ vào: Thời gian qúa hạn của khoản nợ, tình hình sản xuất kinh doanh, hành vi thái độ của người trả nợ. • Tỷ lệ nợ khó đòi Nợ khó đòi Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ khó đòi = Cả hai chỉ tiêu này đều giúp Ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho vay và đều càng nhỏ càng tốt. Tuy nhiên sự khác biệt giữa hai tỷ lệ này là tỷ lệ nợ quá hạn chỉ xem xét đến giá trị của khoản nợ quá hạn, trong khi đó tỷ lệ nợ khó đòi xem xét giá trị các khoản nợ khó đòi trong nợ quá hạn. Hai chỉ tiêu này đều chịu ảnh hưởng của chính sách xóa nợ của Ngân hàng. Một Ngân hàng có chính sách tốt phải thiết lập được quỹ dự phòng rủi ro đủ mạnh và thông báo định kỳ về những món vay không có khả năng thu hồi quá lớn và làm giảm tài sản của Ngân hàng một cách nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu như Ngân hàng thực hiện xóa nợ quá nhanh thì hai tỷ lệ này dù ở mức rất thấp cũng không có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ra, người ta còn tính đến chỉ tiêu gián tiếp là tỷ lệ mất vốn: (Tổng số tiền cho vay được xóa nợ)x100% Dư nợ bình quân Tỷ lệ mất vốn = Tỷ lệ này cũng càng nhỏ càng tốt. Các tổ chức tín dụng đều có những khoản cho vay không có khả năng thu hồi nhưng một TCTD quản lý tốt là TCTD có tỷ lệ này ở mức thấp nhất. Rất nhiều TCTD phản đối việc xóa nợ bởi họ tin rằng những khoản vay này vẫn có thể thu hồi. Một khi món nợ đã được xóa, các nỗ lực thu hồi vốn vẫn tiếp tục nếu điều đó có ý nghĩa kinh tế. • Vòng quay vốn tín dụng Đây là chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức, quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Doanh số thu nợ trong kỳ Dư nợ bình quân Vòng quay vốn tín dụng = Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay của vốn tín dụng càng cao càng chứng tỏ nguồn vay Ngân hàng luân chuyển càng nhanh, tham gia càng nhiều vào chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Hệ số này càng tăng thì càng cho thấy tình hình quản lý vốn tín dụng tốt, chất lượng tín dụng cao. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện khả năng thu nợ tốt, hiệu quả cho vay của Ngân hàng. Chính vì thế, một đồng vốn khi cho vay được nhiều lần sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Tuy nhiên, cần xét đến một nhân tố quan trọng là dư nợ bình quân. Khi dư nợ bình quân thấp sẽ làm cho vòng quay lớn nhưng lại không phản ánh chất lượng khoản tín dụng là cao bởi nó thể hiện khả năng cho vay kém của Ngân hàng. • Doanh số cho vay trung, dài hạn Nó phản ánh lượng vốn mà Ngân hàng đã giúp doanh nghiệp trong việc đầu tư cải tiến, xây dựng công nghệ mới, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nếu doanh số cho vay lớn thì chứng tỏ rằng hoạt động TDTDH của Ngân hàng phát triển và ngược lại bởi con số và tốc độ doanh số cho vay qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng của việc đầu tư TDH là mở rộng hay thu hẹp. Tuy nhiên, không phải bất cứ thời điểm nào việc tăng doanh số cho vay cũng là tốt vì trong mỗi thời kỳ khác nhau, với tốc độ phát triển kinh tế, định hướng phát triển các ngành nghề khác nhau do đó Ngân hàng cần phải nhạy bén để thay đổi hướng đầu tư cho phù hợp và hiệu quả. Dư nợ cho vay trung và dài hạn Hiệu suất sử dụng vốn = ___________________________ Tổng nguồn vốn trung và dài hạn Chỉ tiêu phản ánh quy mô tín dụng trung và dài hạn so với tổng tài sản của Nh tại một thời điểm. Tỷ lệ này mà thấp cho thấy các Nh dè dặt hạn chế trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Ngược lại tỷ lệ này mà cao chứng tỏ các khoản cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của Nh, đây sẽ là điều tốt khi Nh có nguồn vốn trung và dài hạn dồi dào và ổn định, đồng thời cũng thể hiện việc quản lý các khoản tín dụng của Nh có thể là tốt. Ngược lại, nếu một Nh không có tiềm lực về vốn trung và dài hạn lại cho vay trung và dài hạn quá nhiều thì nguy cơ rủi ro cho Nh là rất lớn, Nh có thể mất khả năng thanh toán bất cứ lúc nào nếu khách hàng ồ ạt đến rút tiền. Do vậy khi xem xét chỉ tiêu này cần phải kết hợp xem xét cơ cấu nguồn vốn của Nh. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Thương mại 1.2.3.1. Các nhân tố từ phía Ngân hàng Các nhân tố bên trong ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng Ngân hàng chính là sự hoạt động của Ngân hàng trên tất cả các mặt có liên quan đến hoạt động tín dụng. Vì vậy mà các nhân tố này thường có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Muốn thấy được sự ảnh hưởng trực tiếp đó, ta hãy xem xét các nhân tố sau: • Chính sách tín dụng Đây là những quy định thành văn của mỗi Ngân hàng khi cho khách hàng vay nhằm nhiều mục đích khác nhau, đem lại cho các cán bộ tín dụng sự hướng dẫn cần thiết để hình thành mức độ đồng nhất trong hoạt động cho vay. Thông thường, chính sách tín dụng có các khoản mục sau: ranh giới tín dụng, các loại cho vay, sự đảm bảo và khả năng thanh toán có thể chấp nhận được, các kỳ hạn đối với tín dụng, hướng giải quyết tín dụng vượt giới hạn, thanh toán nợ, các khoản cho vay có vấn đề, cam kết cho vay, quy mô các khoản tín dụng. Chính sách tín dụng đúng đắn sẽ kích thích được việc tiết kiệm và đầu tư tức là thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo được khả năng sinh lời của Ngân hàng đồng thời tuân thủ theo pháp luật và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra. Bất cứ một Ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng tốt đều phải có một chính sách tín dụng rõ ràng, phù hợp với Ngân hàng mình. • Quy mô tín dụng Việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng cũng làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng theo hướng tích cực hoặc tiêu cực. Bởi lẽ, chất lượng tín dụng vừa mang tính cụ thể cho phép ta tính toán được kết quả kinh doanh, tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn… Như thế việc mở rộng hay thu hẹp quy mô tín dụng đều tạo sự khác biệt về cơ cấu tín dụng, tổng dư nợ cho vay cũng như kết quả kinh doanh của Ngân hàng, có thể làm tăng lợi nhuận của Ngân hàng qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến uy tín, khả năng thu hút khách hàng của Ngân hàng. • Quy trình tín dụng Quy trình tín dụng bao gồm những quy định cần phải được thực hiện trong suốt quá trình diễn ra hoạt động tín dụng từ khâu chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra quá trình cho vay cho đến khi thu hồi được nợ. Chất lượng tín dụng có đảm bảo được hay không là tùy thuộc vào việc thực hiện tốt hay không các quy định ở từng khâu và sự phối hợp giữa các bước trong quy trình tín dụng. Quy trình này trải qua ba bước cơ bản sau: bước chuẩn bị cho vay, bước giám sát, bước thu hồi. • Công tác huy động vốn Hoạt động của Ngân hàng là: “đi vay để cho vay”, do đó công tác huy động và công tác tín dụng là hai hoạt động không thể tách rời. Khối lượng huy động vốn phù hợp với khả năng cho vay của Ngân hàng thì hoạt động của Ngân hàng mới có hiệu quả, tránh tình trạng ứ đọng vốn, vốn huy động được lại không cho vay được dẫn đến tình trạng thua lỗ, từ đó làm giảm uy tín của Ngân hàng. Bởi vì Ngân hàng không thể “tạm dừng” nhận tiền gửi vào từ dân cư hay từ tổ chức mà chỉ có thể điều chỉnh lượng tiền gửi vào thông qua chính sách lãi suất hay các chính sách khác của Ngân hàng. Do vậy, việc cân nhắc tính toán sao cho vốn huy động được phù hợp với “đầu ra” của Ngân hàng là rất quan trọng, tạo cho Ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn. Hiện nay vốn để Ngân hàng cho vay TDH hình thành từ một số nguồn chủ yếu như: vốn tự có của các NHTM, TCTD; huy động từ các thành phần kinh tế, từ vốn của Bộ tài chính chuyển sang hay từ nước ngoài. • Công tác tổ chức của Ngân hàng Công tác tổ chức không chỉ tác động đến chất lượng tín dụng mà còn tác động tới hoạt động của Ngân hàng. Nếu chỉ xét riêng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng thì việc tổ chức Ngân hàng không khoa học sẽ ảnh hưởng tới thời gian ra quyết định với một món vay. Sự phân công công việc không hợp lý sẽ dẫn đến sự chồng chéo, thiếu chặt chẽ trong các khâu, dẫn đến sự thiếu trách nhiệm của các cán bộ tín dụng đối với công việc. Vì vậy cần phải có sự phân công rõ ràng, cụ thể, đúng người đúng việc, vừa đảm bảo phát huy năng lực của mỗi cá nhân đồng thời tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban. Nếu được tổ chức hợp lý, các bước thẩm định được thực hiện một cách tuần tự, logic thì các món vay sẽ được đảm bảo về thời gian, chất lượng tín dụng của chúng sẽ được nâng cao. • Thông tin tín dụng Muốn thực hiện tốt quy trình tín dụng thì thông tin tín dụng là không thể thiếu được. Thông tin tín dụng có thể thu được từ những hồ sơ lưu trong Ngân hàng, từ phía nhân viên tín dụng, từ phía khách hàng (theo chế độ báo cáo định kỳ hoặc phản ánh trực tiếp), từ các TCTD khác, từ phòng chống rủi ro của toàn hệ thống Ngân hàng hay từ các cơ quan chuyên về thông tin tín dụng trong và ngoài nước. Số lượng, chất lượng của thông tin tín dụng liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận định tình hình thị trường và khách hàng để đưa ra những quyết định hợp lý. Vì vậy thông tin càng đầy đủ, chính xác, kịp thời, toàn diện thì quyết định đưa ra càng hợp lý, khả năng phòng ngừa rủi ro càng cao, từ đó sẽ nâng cao chất lượng tín dụng. • Các nhân tố khác Chất lượng nhân sự: Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại của công việc. Nghiệp vụ Ngân hàng càng phát triển thì đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao. Bên cạnh trình độ, lương tâm và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng cũng ảnh hưởng tới quyết định tín dụng của họ, từ đó ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng: Để quản lý và theo dõi có hiệu quả hoạt động tín dụng, song song với công tác tổ chức Ngân hàng, công tác thông tin cần phải chú ý tới các phương tiện cần thiết phục vụ cho công tác tín dụng. 1.2.3.2. Các nhân tố từ phía khách hàng • Mong muốn đầu tư TDH của doanh nghiệp quyết định nhu cầu vay vốn TDH của Ngân hàng, mong muốn đó càng lớn thì Ngân hàng càng có điều kiện mở rộng TDTDH. • Khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện tiêu chuẩn của TDTDH. Điều kiện tín dụng được đưa ra nhằm tiêu chuẩn hóa khả năng của doanh nghiệp trong quá trình vay vốn nhằm đảm bảo cho khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng. Khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất: Năng lực thị trường của doanh nghiệp Biểu hiện ở các mặt như khối lượng sản phẩm có phù hợp với khách hàng không? Vị trí doanh nghiệp trong trường quốc tế, tương lai phát triển của doanh nghiệp và ngành kinh tế đó, hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm… Năng lực thị trường càng cao, nhu cầu đầu tư càng lớn, rủi ro thị trường của doanh nghiệp càng nhỏ là một nhân tố nâng cao chất lượng tín dụng. Thứ hai: Năng lực sản xuất của doanh nghiệp Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu hiện giá trị của công cụ lao động mà chủ yếu là tài sản cố định: biểu hiện cụ thể là quá trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất, cơ cấu và việc làm chủ giá thành sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm tốt nhưng giá thành lớn hơn giá bán là không tốt. Việc nghiên cứu giá thành và năng lực sản xuất cho thấy tính cấp thiết và quy mô phải đầu tư mới. Thứ ba: Năng lực tài chính của doanh nghiệp Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ trọng vốn tự có trong tổng nguồ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24760.doc