Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - Dài hạn tại Sở Giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) VN

Tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - Dài hạn tại Sở Giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) VN: ... Ebook Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - Dài hạn tại Sở Giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) VN

doc61 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1424 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - Dài hạn tại Sở Giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Nước ta là một quốc gia giầu tài nguyên thiên nhiên, lao động dồi dào nhưng nền kinh tế còn chưa phát triển, nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn, công nghiệp còn kém phát triển so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, không có khả năng khai thác được hết những tiềm năng sẵn có của mình. Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, Đất nước ta đã thu được những kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong nhân dân cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra mục tiêu đến năm 2010: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá Đất nước, tập trung xây dựng và phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, có tính mũi nhọn, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới để phát triển toàn diện”. Cùng với sự chuyển dịch đó, ngành Ngân hàng trong những năm gần đây đã liên tục đổi mới về cơ cấu, hoạt động, khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển. Ngành Ngân hàng đã hiểu rõ một điều là nền kinh tế muốn phát triển được, muốn thực hiện được công nghiệp hoá - hiện đại hoá Đất nước thì phải cung cấp vốn cho các thành phần, các tổ chức kinh tế, đặc biệt là nguồn vốn trung – dài hạn. Với nguồn vốn trung – dài hạn được cung ứng hợp lý sẽ tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật, đặt nền móng cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Việc đổi mới và phát triển các hoạt động của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt được thì Ngân hàng còn có những hạn chế: nợ quá hạn, nợ khê đọng khó đòi…là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả kinh doanh của NHTM. Hiệu quả kinh doanh của NHTM tập trung chủ yếu là hiệu quả của hoạt động tín dụng. Do vậy, vấn đề mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung – dài hạn có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại, tăng trưởng và phát triển của NHTM nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Qua thời gian thực tập tại SGD NHNo & PTNT Việt Nam, từ việc nắm bắt tình hình thực tế của nền kinh tế và tình hình hoạt động của SGD NHNo & PTNT Việt Nam, em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại SGD NHNo & PTNT Việt Nam", với mong muốn góp phần vào sự đổi mới hoạt động kinh doanh của SGD NHNo & PTNT Việt Nam. Nội dung đề tài là một vấn đề rộng và phức tạp vì vậy bài khoá luận sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô, của ban lãnh đạo SGD NHNo & PTNT Việt Nam và các bạn sinh viên để bài viết được hoàn thiện và có tính thực tiễn hơn. 2. Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt quan tâm đến các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn. Xem xét thực trạng hoạt động tín dụng trung - dài hạn của SGD NHNo & PTNT Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn của SGD NHNo & PTNT Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Nghiên cứu cơ sở lý luận về tín dụng trung - dài hạn. - Nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng trung - dài hạn tại SGD NHNo & PTNT Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu. Luận văn sử dụng chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng, bên cạnh đó còn kết hợp với phương pháp khác: phân tích diễn giải, tổng hợp, thống kê… 5. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày thành ba chương: Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Chương 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI SGD NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI SGD NHNN&PTNT VN CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Thương mại và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế_xã hội 1.1.1. Khái niệm về tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Thương mại Tín dụng trung, dài hạn (TDTDH) là: “hoạt động tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn trung, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống”. Tùy theo từng quốc gia, từng thời kỳ mà có những quy định cụ thể của hoạt động TDTDH. ở Việt Nam, về thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời gian thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD). Hình thức tín dụng này có một số đặc trưng sau: • Thời hạn đáo hạn trên 1 năm. Thời hạn cho vay trung hạn: từ 12 đến 60 tháng. Thời hạn cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống. • Khoản tín dụng này được trả dần bằng những khoản trả vay theo thời gian (có thể theo quý, nửa năm hoặc thanh toán hàng năm) trong kỳ hạn của khoản vay. • Chúng thường được đảm bảo bằng tài sản lưu động đem ra thế chấp hoặc có văn tự cầm cố tài sản cố định. Mục đích của hoạt động TDTDH là để đầu tư dự án, xây dựng mới, mua sắm tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới cải tiến thiết bị công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm mục tiêu lợi nhuận phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội và pháp luật quy định. 1.1.2. Các hình thức tín dụng trung, dài hạn Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các hình thức TDTDH ngày càng phong phú và hấp dẫn. Có thể nêu ra đây một số hình thức TDTDH: • Cho vay theo dự án đầu tư: Đây là hình thức TDTDH chủ yếu của các NHTM Việt Nam hiện nay. Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất dựa trên cơ sở căn cứ khoa học và thực tiễn về việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng, cải tạo đổi mới kỹ thuật và công nghệ những đối tượng là tài sản cố định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định. Dựa vào lĩnh vực tài trợ mà người ta chia hai hình thức phổ biến: Hình thức TDTDH nhằm cải tạo, khôi phục, mở rộng, thay thế tài sản cố định. Hình thức TDTDH nhằm đầu tư cho các dự án xây dựng mới, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. • Cho thuê tài chính: Đây là hoạt động TDTDH trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là TCTD với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng. Hoạt động này đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nói chung và các bên liên quan nói riêng. • Cho vay hợp vốn: là hình thức cho vay trong đó có từ hai TCTD trở lên tham gia vào một dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh của một khách hàng vay vốn. Nhìn chung các hình thức tín dụng đều có thể thực hiện hợp vốn. Song do đặc thù của hình thức tài trợ này, ở Việt Nam tách ra thành một loại cho vay. • Cho vay tiêu dùng: là hình thức tín dụng nhằm giúp người tiêu dùng có nguồn tài chính để trang trải nhu cầu về nhà ở, đồ dùng gia đình và phương tiện đi lại… 1.1.3. Vai trò của tín dụng trung, dài hạn đối với phát triển kinh tế – xã hội 1.1.3.1. Vai trò của tín dụng trung, dài hạn đối với nền kinh tế Ở tất cả các quốc gia, nhu cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư xây dựng các công trình sản xuất kinh doanh mới, hiện đại hóa công nghệ sản xuất, mở rộng các ngành sản xuất vật chất đều rất lớn. Nhu cầu này được thỏa mãn một phần bằng nguồn ngân sách Nhà nước, vay nước ngoài, một phần huy động dân cư nhưng phần lớn vẫn bằng TDTDH của NHTM. • TDTDH giúp tăng tích lũy vốn để mở rộng sản xuất cho nền kinh tế. • TDTDH tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật • TDTDH thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. • TDTDH thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu. • TDTDH tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn. • TDTDH tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. • TDTDH tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại. Như vậy, đầu tư cho vay trung, dài hạn (TDH) trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần phát triển khoa học công nghệ, ổn định lạm phát, nâng cao đời sống của dân cư, phát triển lực lượng lao động, đẩy mạnh tăng trưởng ổn định. Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng là việc vô cùng cấp bách đối với sự phát triển kinh tế cả ở hiện tại và tương lai. 1.1.3.2. Vai trò của tín dụng trung, dài hạn đối với khách hàng Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có nghĩa là doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh khốc liệt, muốn tồn tại và phát triển thì phải thắng trong cạnh tranh. Để có thể giành được thắng lợi trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp với tiềm lực của doanh nghiệp, đồng thời thực hiện tốt chiến lược kinh doanh đó. Về dài hạn, các doanh nghiệp luôn chú trọng đến việc mở rộng sản xuất, xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, đổi mới công nghệ để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí đến mức tối thiểu. Để đáp ứng những nhu cầu trên doanh nghiệp cần một lượng vốn không nhỏ. Doanh nghiệp có thể huy động vốn dưới nhiều hình thức: tích lũy trong quá trình sản xuất kinh doanh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu hoặc vay Ngân hàng. Tuy nhiên, với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng tự tích lũy là không đáng kể, phát hành cổ phiếu, trái phiếu liên quan đến sự phân chia quyền lực kiểm soát công ty… Đối với doanh nghiệp, việc vay vốn TDH nhiều khi mang lại thuận lợi hơn so với huy động vốn trên thị trường chứng khoán. TDTDH tránh được các chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, lệ phí đăng ký chứng khoán. Về mặt kỳ hạn, doanh nghiệp có thể vay vốn Ngân hàng theo kỳ hạn phù hợp với yêu cầu kinh doanh, đồng thời họ có thể điều chỉnh kỳ hạn nợ, có thể trả sớm hơn khi doanh nghiệp không cần sử dụng vốn đó nữa. Việc trả nợ TDH cũng được xây dựng theo sự phân chia hợp lý và ổn định, do đó doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các nguồn trả nợ một cách dễ dàng hơn. TDTDH còn giúp doanh nghiệp trong việc chớp cơ hội kinh doanh. Khi có cơ hội, doanh nghiệp có thể nhanh chóng vay vốn Ngân hàng để mở rộng sản xuất, gia tăng sản lượng để chiếm lĩnh thị trường. TDTDH ngày càng được các doanh nghiệp ưa thích vì nó phù hợp với thực tế của các công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) và các doanh nghiệp nhỏ. Còn đối với dân cư thì TDTDH chủ yếu là đáp ứng nhu cầu về tiêu dùng (về nhà ở, đồ dùng gia đình, phương tiện đi lại…) khi mà họ không có đủ khả năng tài chính để có thể thỏa mãn ngay nhu cầu này. Bên cạnh những thuận lợi mà TDTDH đem lại thì mức lãi suất của nó vẫn là chi phí khá cao đối với doanh nghiệp. Nó buộc các doanh nghiệp phải chú trọng đến hiệu quả đầu tư, doanh thu không chỉ đủ để trả lãi và vốn cho Ngân hàng mà phải đem lợi tức cho chính mình. Do vậy, lãi suất TDTDH của Ngân hàng là đòn bẩy thúc đẩy doanh nghiệp khai thác triệt để hiệu quả của đồng vốn, kinh doanh có lãi và thắng lợi trong cạnh tranh. 1.1.3.3. Vai trò của tín dụng trung, dài hạn đối với Ngân hàng Thương mại Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ, nhận tiền gửi và huy động các nguồn tài chính nhằm mục đích kinh doanh có lời. An toàn trong lợi nhuận luôn là mục tiêu tìm kiếm của Ngân hàng. Những khoản TDTDH có quy mô lớn, lãi suất cao, thời hạn dài đã mang lại lợi nhuận chủ yếu cho Ngân hàng. Đồng thời mở rộng quy mô TDTDH cả về số lượng và chất lượng còn nâng cao được khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Khi Ngân hàng cho khách hàng vay chính là đang tạo ra và duy trì khách hàng cho mình trong tương lai, tạo điều kiện để Ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động cho mình và ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của mình trong nền kinh tế. Khi Ngân hàng không đa dạng hóa hoạt động cho vay, đa dạng hóa khách hàng, thời hạn vay thì Ngân hàng sẽ không thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng khác. Mặt khác TDTDH còn là cách thức khả thi để giải quyết nguồn vốn huy động còn dư thừa tại mỗi Ngân hàng, là cách Ngân hàng gọi vốn từ nền kinh tế đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp. Vì vậy mở rộng TDTDH sẽ giúp Ngân hàng giải được “bài toán” khó về huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả, thu được lợi nhuận, qua đó phát triển hoạt động Ngân hàng, tăng khả năng cạnh tranh với các Ngân hàng khác. 1.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại 1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại TDTDH là một phần của tín dụng vì vậy nói đến chất lượng tín dụng cũng chính là nói đến chất lượng TDTDH. Đối với các NHTM, cái được biểu hiện ra bên ngoài vừa cụ thể, vừa trừu tượng của hoạt động tín dụng chính là chất lượng tín dụng. Chỉ khi chất lượng tín dụng tốt thì Ngân hàng mới có nhiều khách hàng, uy tín Ngân hàng được nâng cao tạo điều kiện thúc đẩy cho Ngân hàng phát triển. Chất lượng tín dụng được hiểu là: “sự đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu hợp lý của khách hàng, tạo ra độ an toàn và lợi nhuận cho ngân hàng đồng thời góp phần vào quá trình phát triển của nền kinh tế”. Qua khái niệm này chúng ta thấy: NHTM, khách hàng, nền kinh tế là ba nhân tố được tính đến khi xem xét chất lượng tín dụng. Thứ nhất: Chất lượng tín dụng xét từ giác độ NHTM Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân Ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Thứ hai: Chất lượng tín dụng xét từ giác độ khách hàng Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu khách hàng sẽ tăng lên làm cho Ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của khách hàng, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu hợp lý về vốn cho họ. Thứ ba: Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác khả năng tiềm ẩn trong nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vay vốn nước ngoài có lợi cho sự phát triển kinh tế. Từ những điều trên có thể rút ra một số đặc trưng của chất lượng tín dụng: • Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh mức độ thích nghi của NHTM và sự thay đổi của môi trường bên ngoài. • Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: Thu hút được khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí tổng thể về lãi suất, chi phí nghiệp vụ… • Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có. Nó là kết quả của một quy trình kết hợp giữa hoạt động con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung. Do đó để đạt được chất lượng cần phải có sự quản lý. Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích đánh giá được chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng sẽ giúp Ngân hàng tìm được biện pháp thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế hoạt động sôi động và có sự cạnh tranh gay gắt. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn Nền kinh tế thị trường đang đặt ra vấn đề cho các nhà sản xuất, kinh doanh là phải đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, có như vậy mới tồn tại và phát triển được. Vì vậy đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm là một yêu cầu khách quan, là điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh tiền tệ cũng như mọi hoạt động khác trong xã hội cũng có những sản phẩm riêng của mình, đó là dịch vụ Ngân hàng. Để đánh giá được chất lượng TDTDH người ta sử dụng một số chỉ tiêu sau: • Doanh số cho vay trung, dài hạn Nó phản ánh lượng vốn mà Ngân hàng đã giúp doanh nghiệp trong việc đầu tư cải tiến, xây dựng công nghệ mới, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nếu doanh số cho vay lớn thì chứng tỏ rằng hoạt động TDTDH của Ngân hàng phát triển và ngược lại bởi con số và tốc độ doanh số cho vay qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng của việc đầu tư TDH là mở rộng hay thu hẹp. Tuy nhiên, không phải bất cứ thời điểm nào việc tăng doanh số cho vay cũng là tốt vì trong mỗi thời kỳ khác nhau, với tốc độ phát triển kinh tế, định hướng phát triển các ngành nghề khác nhau do đó Ngân hàng cần phải nhạy bén để thay đổi hướng đầu tư cho phù hợp và hiệu quả. • Doanh số thu nợ trung, dài hạn Nó phản ánh lượng vốn đã được hoàn trả Ngân hàng trong một thời kỳ. Doanh số thu nợ có thể phản ánh hai tình trạng trái ngược nhau: khách hàng hoàn trả đúng hạn, tự nguyện do việc đầu tư có hiệu quả hoặc có thể Ngân hàng nhận thấy những dấu hiệu không lành mạnh có nguy cơ mất vốn nên đẩy mạnh các biện pháp thu hồi vốn. Trong cả hai trường hợp doanh số thu nợ tăng lên đều tốt cho Ngân hàng. Trong mối tương quan doanh số cho vay và doanh số thu nợ TDH sẽ ảnh hưởng tới dư nợ TDTDH. • Dư nợ tín dụng trung, dài hạn Đây là chỉ tiêu thời điểm phản ánh quy mô cấp TDTDH của Ngân hàng cho nền kinh tế tại một thời điểm cụ thể. Không thể đánh giá chất lượng TDTDH là cao hay thấp mà chỉ thông qua chỉ tiêu này, bởi tới một thời điểm nào đó, khi Ngân hàng cho vay vượt quá mức giới hạn cũng là lúc Ngân hàng bắt đầu chấp nhận những rủi ro tín dụng. Vì vậy vấn đề ở đây là cần phải xem xét mức độ an toàn và lành mạnh của chỉ tiêu này. Ngoài những chỉ tiêu chính trên, khi xét đến chất lượng TDTDH, người ta còn dùng một vài chỉ tiêu khác có liên quan: • Chỉ tiêu huy động vốn trung và dài hạn Nếu như một Ngân hàng có khả năng huy động vốn có thời hạn dài, với chi phí thấp nhất có thể phục vụ cho việc cho vay và đầu tư TDH thì đã tạo cơ sở đảm bảo cho chất lượng TDTDH. Khả năng huy động vốn TDH thể hiện qua hai chỉ tiêu: Tổng vốn TDH huy động được và tốc độ tăng của nguồn vốn này qua các năm phản ánh tốc độ tăng trưởng và khả năng huy động vốn TDH của Ngân hàng. Vốn TDH trên tổng nguồn vốn huy động: phản ánh cơ số vốn của Ngân hàng và nó nói lên khả năng cung ứng vốn TDH cho đầu tư phát triển. Ngân hàng không thể mở rộng được việc cho vay và đầu tư TDH nếu tỷ lệ này quá thấp. • Chỉ tiêu về lãi treo và lợi nhuận Lợi nhuận do hoạt động TDTDH lại là một trong những chỉ tiêu đánh giá chất lượng TDTDH. Không thể đánh giá chất lượng tín dụng là cao nếu như lợi nhuận mà nó đem lại bằng không hoặc thậm chí là âm. Lãi treo phản ánh mặt trái của chất lượng TDTDH. Đây là khoản phải thu của Ngân hàng, nhưng thực tế thì doanh nghiệp đã không trả. Số lượng và tốc độ tăng của lãi treo phản ánh khả năng trả lãi vay của khách hàng không tốt. Ngoài việc sử dụng các chỉ tiêu định lượng thì hiện nay nhiều Ngân hàng cũng sử dụng các chỉ tiêu định tính để đánh giá xem chất lượng TDTDH có tốt không và nó được thể hiện qua các quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng, cho vay phải tuân theo nguyên tắc tín dụng, các điều kiện sau: lập hồ sơ cho vay, có phương án sản xuất kinh doanh, có báo cáo tài chính, sản xuất kinh doanh phải có hiệu quả, có tài sản thế chấp hợp pháp… kèm theo việc kiểm tra trước, trong và sau khi vay. Việc đánh giá có thể thực hiện bằng cách căn cứ vào tài liệu kiểm tra của nghiệp vụ Ngân hàng, những tài liệu này ghi lại số điểm chất lượng tín dụng theo yêu cầu của từng mặt chất lượng của loại cho vay. • Tỷ lệ nợ quá hạn trung, dài hạn Đến kỳ hạn trả nợ, nếu người đi vay không trả và không được gia hạn nợ thì Ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ nợ đến hạn sang tài khoản nợ quá hạn và đương nhiên người đi vay phải chịu lãi suất quá hạn thường là cao gấp 1,5 lần lãi suất trong hạn, vì thế sẽ càng gây khó khăn hơn cho khách hàng trong việc trả nợ. Sẽ không thể cho rằng chất lượng TDTDH cao nếu nợ quá hạn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư nợ và có xu hướng ngày càng tăng. Thông thường tỷ lệ này dưới 5% thì chấp nhận được. Tổng dư nợ quá hạn TDH Tổng dư nợ cho vay TDH Tỷ lệ nợ quá hạn TDH = • Tỷ lệ nợ khó đòi Nợ khó đòi Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ khó đòi = Cả hai chỉ tiêu này đều giúp Ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho vay và đều càng nhỏ càng tốt. Tuy nhiên sự khác biệt giữa hai tỷ lệ này là tỷ lệ nợ quá hạn chỉ xem xét đến giá trị của khoản nợ quá hạn, trong khi đó tỷ lệ nợ khó đòi xem xét giá trị các khoản nợ khó đòi trong nợ quá hạn. Hai chỉ tiêu này đều chịu ảnh hưởng của chính sách xóa nợ của Ngân hàng. Một Ngân hàng có chính sách tốt phải thiết lập được quỹ dự phòng rủi ro đủ mạnh và thông báo định kỳ về những món vay không có khả năng thu hồi quá lớn và làm giảm tài sản của Ngân hàng một cách nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu như Ngân hàng thực hiện xóa nợ quá nhanh thì hai tỷ lệ này dù ở mức rất thấp cũng không có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ra, người ta còn tính đến chỉ tiêu gián tiếp là tỷ lệ mất vốn: (Tổng số tiền cho vay được xóa nợ)x100% Dư nợ bình quân Tỷ lệ mất vốn = Tỷ lệ này cũng càng nhỏ càng tốt. Các tổ chức tín dụng đều có những khoản cho vay không có khả năng thu hồi nhưng một TCTD quản lý tốt là TCTD có tỷ lệ này ở mức thấp nhất. Rất nhiều TCTD phản đối việc xóa nợ bởi họ tin rằng những khoản vay này vẫn có thể thu hồi. Một khi món nợ đã được xóa, các nỗ lực thu hồi vốn vẫn tiếp tục nếu điều đó có ý nghĩa kinh tế. • Vòng quay vốn tín dụng Đây là chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức, quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Doanh số thu nợ trong kỳ Dư nợ bình quân Vòng quay vốn tín dụng = Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay của vốn tín dụng càng cao càng chứng tỏ nguồn vay Ngân hàng luân chuyển càng nhanh, tham gia càng nhiều vào chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Hệ số này càng tăng thì càng cho thấy tình hình quản lý vốn tín dụng tốt, chất lượng tín dụng cao. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện khả năng thu nợ tốt, hiệu quả cho vay của Ngân hàng. Chính vì thế, một đồng vốn khi cho vay được nhiều lần sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Tuy nhiên, cần xét đến một nhân tố quan trọng là dư nợ bình quân. Khi dư nợ bình quân thấp sẽ làm cho vòng quay lớn nhưng lại không phản ánh chất lượng khoản tín dụng là cao bởi nó thể hiện khả năng cho vay kém của Ngân hàng. • Doanh số cho vay trung, dài hạn Nó phản ánh lượng vốn mà Ngân hàng đã giúp doanh nghiệp trong việc đầu tư cải tiến, xây dựng công nghệ mới, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nếu doanh số cho vay lớn thì chứng tỏ rằng hoạt động TDTDH của Ngân hàng phát triển và ngược lại bởi con số và tốc độ doanh số cho vay qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng của việc đầu tư TDH là mở rộng hay thu hẹp. Tuy nhiên, không phải bất cứ thời điểm nào việc tăng doanh số cho vay cũng là tốt vì trong mỗi thời kỳ khác nhau, với tốc độ phát triển kinh tế, định hướng phát triển các ngành nghề khác nhau do đó Ngân hàng cần phải nhạy bén để thay đổi hướng đầu tư cho phù hợp và hiệu quả. Dư nợ cho vay trung và dài hạn Hiệu suất sử dụng vốn = ___________________________ Tổng nguồn vốn trung và dài hạn Chỉ tiờu phản ỏnh quy mụ tớn dụng trung và dài hạn so với tổng tài sản của Nh tại một thời điểm. Tỷ lệ này mà thấp cho thấy cỏc Nh dố dặt hạn chế trong hoạt động tớn dụng trung và dài hạn. Ngược lại tỷ lệ này mà cao chứng tỏ cỏc khoản cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của Nh, đõy sẽ là điều tốt khi Nh cú nguồn vốn trung và dài hạn dồi dào và ổn định, đồng thời cũng thể hiện việc quản lý cỏc khoản tớn dụng của Nh cú thể là tốt. Ngược lại, nếu một Nh khụng cú tiềm lực về vốn trung và dài hạn lại cho vay trung và dài hạn quỏ nhiều thỡ nguy cơ rủi ro cho Nh là rất lớn, Nh cú thể mất khả năng thanh toỏn bất cứ lỳc nào nếu khỏch hàng ồ ạt đến rỳt tiền. Do vậy khi xem xột chỉ tiờu này cần phải kết hợp xem xột cơ cấu nguồn vốn của Nh. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Thương mại 1.2.3.1. Các nhân tố từ phía Ngân hàng Các nhân tố bên trong ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng Ngân hàng chính là sự hoạt động của Ngân hàng trên tất cả các mặt có liên quan đến hoạt động tín dụng. Vì vậy mà các nhân tố này thường có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Muốn thấy được sự ảnh hưởng trực tiếp đó, ta hãy xem xét các nhân tố sau: • Chính sách tín dụng Đây là những quy định thành văn của mỗi Ngân hàng khi cho khách hàng vay nhằm nhiều mục đích khác nhau, đem lại cho các cán bộ tín dụng sự hướng dẫn cần thiết để hình thành mức độ đồng nhất trong hoạt động cho vay. Thông thường, chính sách tín dụng có các khoản mục sau: ranh giới tín dụng, các loại cho vay, sự đảm bảo và khả năng thanh toán có thể chấp nhận được, các kỳ hạn đối với tín dụng, hướng giải quyết tín dụng vượt giới hạn, thanh toán nợ, các khoản cho vay có vấn đề, cam kết cho vay, quy mô các khoản tín dụng. Chính sách tín dụng đúng đắn sẽ kích thích được việc tiết kiệm và đầu tư tức là thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo được khả năng sinh lời của Ngân hàng đồng thời tuân thủ theo pháp luật và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra. Bất cứ một Ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng tốt đều phải có một chính sách tín dụng rõ ràng, phù hợp với Ngân hàng mình. • Quy mô tín dụng Việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng cũng làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng theo hướng tích cực hoặc tiêu cực. Bởi lẽ, chất lượng tín dụng vừa mang tính cụ thể cho phép ta tính toán được kết quả kinh doanh, tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn… Như thế việc mở rộng hay thu hẹp quy mô tín dụng đều tạo sự khác biệt về cơ cấu tín dụng, tổng dư nợ cho vay cũng như kết quả kinh doanh của Ngân hàng, có thể làm tăng lợi nhuận của Ngân hàng qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến uy tín, khả năng thu hút khách hàng của Ngân hàng. • Quy trình tín dụng Quy trình tín dụng bao gồm những quy định cần phải được thực hiện trong suốt quá trình diễn ra hoạt động tín dụng từ khâu chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra quá trình cho vay cho đến khi thu hồi được nợ. Chất lượng tín dụng có đảm bảo được hay không là tùy thuộc vào việc thực hiện tốt hay không các quy định ở từng khâu và sự phối hợp giữa các bước trong quy trình tín dụng. Quy trình này trải qua ba bước cơ bản sau: bước chuẩn bị cho vay, bước giám sát, bước thu hồi. • Công tác huy động vốn Hoạt động của Ngân hàng là: “đi vay để cho vay”, do đó công tác huy động và công tác tín dụng là hai hoạt động không thể tách rời. Khối lượng huy động vốn phù hợp với khả năng cho vay của Ngân hàng thì hoạt động của Ngân hàng mới có hiệu quả, tránh tình trạng ứ đọng vốn, vốn huy động được lại không cho vay được dẫn đến tình trạng thua lỗ, từ đó làm giảm uy tín của Ngân hàng. Bởi vì Ngân hàng không thể “tạm dừng” nhận tiền gửi vào từ dân cư hay từ tổ chức mà chỉ có thể điều chỉnh lượng tiền gửi vào thông qua chính sách lãi suất hay các chính sách khác của Ngân hàng. Do vậy, việc cân nhắc tính toán sao cho vốn huy động được phù hợp với “đầu ra” của Ngân hàng là rất quan trọng, tạo cho Ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn. Hiện nay vốn để Ngân hàng cho vay TDH hình thành từ một số nguồn chủ yếu như: vốn tự có của các NHTM, TCTD; huy động từ các thành phần kinh tế, từ vốn của Bộ tài chính chuyển sang hay từ nước ngoài. • Công tác tổ chức của Ngân hàng Công tác tổ chức không chỉ tác động đến chất lượng tín dụng mà còn tác động tới hoạt động của Ngân hàng. Nếu chỉ xét riêng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng thì việc tổ chức Ngân hàng không khoa học sẽ ảnh hưởng tới thời gian ra quyết định với một món vay. Sự phân công công việc không hợp lý sẽ dẫn đến sự chồng chéo, thiếu chặt chẽ trong các khâu, dẫn đến sự thiếu trách nhiệm của các cán bộ tín dụng đối với công việc. Vì vậy cần phải có sự phân công rõ ràng, cụ thể, đúng người đúng việc, vừa đảm bảo phát huy năng lực của mỗi cá nhân đồng thời tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban. Nếu được tổ chức hợp lý, các bước thẩm định được thực hiện một cách tuần tự, logic thì các món vay sẽ được đảm bảo về thời gian, chất lượng tín dụng của chúng sẽ được nâng cao. • Thông tin tín dụng Muốn thực hiện tốt quy trình tín dụng thì thông tin tín dụng là không thể thiếu được. Thông tin tín dụng có thể thu được từ những hồ sơ lưu trong Ngân hàng, từ phía nhân viên tín dụng, từ phía khách hàng (theo chế độ báo cáo định kỳ hoặc phản ánh trực tiếp), từ các TCTD khác, từ phòng chống rủi ro của toàn hệ thống Ngân hàng hay từ các cơ quan chuyên về thông tin tín dụng trong và ngoài nước. Số lượng, chất lượng của thông tin tín dụng liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích, nhận định tình hình thị trường và khách hàng để đưa ra những quyết định hợp lý. Vì vậy thông tin càng đầy đủ, chính xác, kịp thời, toàn diện thì quyết định đưa ra càng hợp lý, khả năng phòng ngừa rủi ro càng cao, từ đó sẽ nâng cao chất lượng tín dụng. • Các nhân tố khác Chất lượng nhân sự: Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại của công việc. Nghiệp vụ Ngân hàng càng phát triển thì đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao. Bên cạnh trình độ, lương tâm và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng cũng ảnh hưởng tới quyết định tín dụng của họ, từ đó ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng: Để quản lý và theo dõi có hiệu quả hoạt động tín dụng, song song với công tác tổ chức Ngân hàng, công tác thông tin cần phải chú ý tới các phương tiện cần thiết phục vụ cho công tác tín dụng. 1.2.3.2. Các nhân tố từ phía khách hàng • Mong muốn đầu tư TDH của doanh nghiệp quyết định nhu cầu vay vốn TDH của Ngân hàng, mong muốn đó càng lớn thì Ngân hàng càng có điều kiện mở rộng TDTDH. • Khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện tiêu chuẩn của TDTDH. Điều kiện tín dụng được đưa ra nhằm tiêu chuẩn hóa khả năng của doanh nghiệp trong quá trình vay vốn nhằm đảm bảo cho khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng. Khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất: Năng lực thị trường của doanh nghiệp Biểu hiện ở các mặt như khối lượng sản phẩm có phù hợp với khách hàng không? Vị trí doanh nghiệp trong trường quốc tế, tương lai phát triển của doanh nghiệp và ngành kinh tế đó, hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm… Năng lực thị trường càng cao, nhu cầu đầu tư càng lớn, rủi ro thị trường của doanh nghiệp càng nhỏ là một nhân tố nâng cao chất lượng tín dụng. Thứ hai: Năng lực sản xuất của doanh nghiệp Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu hiện giá trị của công cụ lao động mà chủ yếu là tài sản cố định: biểu hiện cụ thể là quá trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất, cơ cấu và việc làm chủ giá thành sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm tốt nhưng giá thành lớn hơn giá bán là không tốt. Việc nghiên cứu giá thành và năng lực sản xuất cho thấy tính cấp th._.iết và quy mô phải đầu tư mới. Thứ ba: Năng lực tài chính của doanh nghiệp Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng. Điều kiện tín dụng quy định một tỷ lệ cụ thể, tối thiểu của vốn tự có trong tổng nguồn vốn hoạt động hay tỷ lệ vốn tự có tương ứng với khối lượng vốn vay, tỷ lệ vốn tự có tham gia vay vốn. Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán của doanh nghiệp, tính lỏng của tài sản. Năng lực tài chính của doanh nghiệp trong TDTDH còn đòi hỏi doanh nghiệp phải có số vốn lưu động tối thiểu trong việc duy trì hoạt động thường xuyên của tài sản cố định. Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng càng lớn thì càng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng TDTDH nói riêng. Thứ tư: Năng lực quản lý của doanh nghiệp Trình độ quản lý của doanh nghiệp có quyết định rất lớn tới hiệu quả làm ăn của công ty. Nếu doanh nghiệp có đội ngũ quản lý tốt thì khả năng thu hồi vốn vay càng cao. Thứ năm: Quyền sở hữu tài sản đảm bảo Quan hệ tín dụng thường đưa ra đòi hỏi có tài sản đảm bảo bằng các hình thức thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Điều kiện tối thiểu là khối lượng tín dụng chỉ bằng 70% giá trị tài sản đảm bảo. Thứ sáu: Sự đáp ứng của dự án đối với tiêu chuẩn tín dụng Dự án phải thuyết minh được tính chất cần thiết, mục đích, kết quả của dự án, phải phù hợp với quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Có vốn tự có tham gia của doanh nghiệp vào tổng giá trị vốn đầu tư có khả năng hoàn trả từ bản thân dự án và từ các hoạt động kinh doanh khác của doanh nghiệp. 1.2.3.3. Các nhân tố vĩ mô • Môi trường kinh tế xã hội Môi trường kinh tế xã hội là tổng hòa các mối quan hệ về kinh tế xã hội tác động lên các hoạt động của doanh nghiệp. Một môi trường kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện cho lưu thông hàng hóa, thúc đẩy sản xuất phát triển, do đó hoạt động tín dụng sẽ thuận lợi hơn. Mức thu nhập bình quân người dân, tính ổn định của thu nhập và chi phí cần thiết cho đời sống sinh hoạt sẽ tác động và ảnh hưởng tới chất lượng TDTDH. Chu kỳ kinh tế cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động tín dụng. Trong thời kỳ suy thoái thì sản xuất đình trệ, do đó hoạt động tín dụng gặp khó khăn về mọi mặt. Ngân hàng phải hạn chế tín dụng, các món cho vay ra khó thu hồi và khó thu hồi đúng thời hạn. ở thời kỳ phục hưng, nhu cầu tín dụng lại tăng cao, vấn đề đặt ra là Ngân hàng phải xác định nền kinh tế đang ở thời kỳ nào và đưa ra chính sách tín dụng hợp lý. • Môi trường pháp lý Một môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ thống nhất và ổn định có tác động rất lớn tới chất lượng tín dụng, đặc biệt là trung và dài hạn. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, pháp luật trở thành bộ phận tối quan trọng, với vai trò hướng dẫn và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong xã hội hoạt động theo trật tự trong khuôn khổ pháp luật, đảm bảo sự an toàn và hiệu quả đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật đầy đủ đồng bộ. • Môi trường chính trị Trong tình hình kinh tế chính trị xã hội không ổn định như đình công, sự đấu tranh giữa các đảng phái, chiến tranh… thì không chỉ riêng các doanh nghiệp sản xuất mà bản thân các Ngân hàng cũng khó có thể yên tâm tập trung vào đầu tư, mở rộng kinh doanh và trong điều kiện như vậy duy trì sự phát triển đã khó huống hồ là nói đến việc mở rộng, vì vậy chất lượng tín dụng khó có thể đảm bảo được. Hơn nữa, sự bất ổn về chính trị xã hội sẽ dẫn đến sự mất lòng tin đầu tư của dân chúng cũng như các chủ doanh nghiệp trong và ngoài nước. Ngân hàng không huy động thêm vốn trong khi có thể có xu hướng dân chúng rút tiền gửi Ngân hàng về tự bảo quản, như vậy Ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tóm lại, việc nắm vững những nhân tố ảnh hưởng và biết vận dụng những nhân tố sáng tạo trong hoàn cảnh thực tế của Ngân hàng mình sẽ tạo ra chất lượng tín dụng tốt góp phần vào sự phát triển vững mạnh của Ngân hàng và của nền kinh tế quốc dân. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI SGD NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM 2.1. Khái quát về SGD NHNo & PTNT Việt Nam Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam được thành lập theo quyết định số 232/QĐ/HĐQT -02 ngày 13/5//1999 của Chủ tịch Hội đồng quản trị, trên cơ sở sắp xếp cơ cấu lại Sở kinh doanh hối đoái NHNo & PTNT Việt Nam. Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam (gọi tắt là sở giao dịch ) là đơn vị hạch toán độc lập, đại diện theo ủy quyền của NHNo & PTNT Việt Nam, có nhiệm vụ thực hiện một phần các hoạt động của NHNo & PTNT Việt Nam và một số chức năng có liên quan đến các chi nhánh theo phân cấp ủy quyền của NHNo & PTNT Việt Nam, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với NHNo & PTNT Việt Nam. Sở giao dịch có trụ sở đặt tại tòa nhà số 2 Láng Hạ, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội, có con dấu và có bảng cân đối tài khoản riêng. Trong thời gian đầu mới thành lập, SGD đã gặp không ít khó khăn như: bộ máy chưa hoàn thiện, phạm vi hoạt động hẹp, quy mô hoạt đông kinh doanh còn nhỏ, chất lượng kinh doanh hạn chế. Sau một thời gian hoạt động, với vai trò là đơn vị đầu môí của toàn hệ thông, thực hiện các nghiệp vụ theo ủy quyền của NHNo & PTNT Việt Nam, các nhiệm vụ theo lẹnh của Tổng giám đốc, và kinh doanh trực tiếp như một chi nhánh trên địa bàn thành phố Hà Nội, SGD đã sớm ổn định và củng cố tổ chức bộ máy theo quy chế tổ chức và hoạt đông mới đảm bảo thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao, nhiều có chế quy trình và các nghiệp vụ mới trong kinh doanh của một NHTM hiện đại được áp dụng và bước đầu họat động có hiệu quả tốt đáp ứng được yêu cầu hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống và trong giai đoạn hội nhập toàn diện mới. Trong hoạt động kinh doanh trực tiếp, hơn 7 năm qua, SGD luôn đạt được sự tăng trưởng cao, bền vững và hiệu quả, nhiều khoản nợ tồn đọng, nợ rủi ro được xử lý… Đến nay, NHNo & PTNT Việt nam, mà trong đó SGD đóng vai trò quan trọng, được coi là một trong những Ngân hàng phát triển nhất, đem lại lợi ích cho khách hàng, cho bản thân ngân hàng và cho toàn bộ nền kinh tế. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của SGD NHNo & PTNT Việt Nam. Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam có cơ cấu tổ chức từ trên xuống bao gồm ban giám đốc và các phòng ban như sau: * Ban giám đốc bao gồm: - 1 Giám đốc - 2 phó giám đốc; - 1 giám đốc phụ trách kinhdoanh. - 1 giám đốc phụ trách kế toán, ngân quỹ Mối quan hệ của ban giám đốc và các phòng ban khác được thể hiện trên sơ đồ sau: Sơ đồ 2.1. Giám đốc Sở giao dịch Tổ kiểm tra kiểm toán nội bộ Các phó giám đốc Phòng kinh doanh Phòng kinh doanh ngoại tệ và thanh toán Quốc tế Phòng nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp Phòng kế toán ngân quỹ Phòng thẩm định Phòng hành chính nhân sự Tổ kiểm tra kiểm toán nội bộ Tổ tiếp thị nguồn vốn và dịch vụ sản phẩm mới Phòng giao dịch Hai Bà Trưng Phòng giao dịch Kim Liên Phòng giao dịch Cát Linh * Các phòng ban và chức năng, nhiệm vụ của từng phòng: - Phòng tín dụng: + Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm mở rộng đầu tư tín dụng. + Thực hiện nghiệp vụ cho vay ngắn, trung và dài hạn, nghiệp vụ bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh tóan, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, chiết khất, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá, tiếp nhận các dự án đồng tài trợ và các dự án ủy thác đầu tư. + Tổng hợp phân tích thông tin kinh tế, quản lý danh mục, phân loại kỳ hạn, lựa chọn biện pháp cho vay an toàn và đạt hiệu quả cao, thẩm định các dự án và hoàn thiện hồ sơ trình cấp trên. - Phòng nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp: + Nghiên cứu, đề xuất chiến lược khách hàng, chiến lược huy động vốn và cho vay. Xây dựng các chiến lược cho vay trung và dài hạn theo định hướng kinh doanh của NHNo & PTNT Việt Nam. + Tổng hợp, phân tích, đánh giá diễn biến tình hình thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch kinh doanh, thông tin, báo cáo thường xuyên, kịp thời giúp ban giám đốc chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh doanh. - Phòng kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tê. + Thực hiện các giao dịch mua bán ngoại tệ: giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi… và các dịch vụ ngoại hối khác theo chính sách quản lý ngoại hối của chính phủ, NHNN và các quy đinh của NHNo & PTNT Việt Nam, đáp ứng nhu cầu giao dịch của khách hàng. + Thực hiện các giao dịch thanh toán xuất, nhập khầu về hàng hóa và dịch vụ theo kế hoạch tại SGD. Tổ kiểm tra và kiểm toán nội bộ: Tổ chức kiểm tra, kiểm toán nội bộ các chứng từ, sổ sách, hồ sơ nghiệp vụ phát sinh tại SGD. Kiến nghị kịp thời các biện pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo an toàn hiệu quả. - Phòng thẩm định Thu thập, quản lý, cung cấp những thông tin phục vụ cho việc thẩm định và phòng ngừa rủi ro. Thẩm định những món vay vượt quyền phán quyết của trưởng phòng tín dụng. Đó là những món vay có khối lượng lớn và thời hạn vay dài mà nhân sự cũng như điều kiện, trách nhiệm của phòng tín dụng không thể đáp ứng được. - Phòng kế toán ngân quỹ Phòng kế toán ngân quỹ vừa thực hiện các giao dich trực tiếp với khách hàng vừa thực hiện quá trình hạch toán thu chi ngân quỹ. Các dịch vụ được thực hiện tại phòng kế toán ngân quỹ bao gồm nhận mở tài khoản cho khách hàng là mọi đối tượng theo quy định của NHNN, nhận gửi tiền tiết kiệm các kỳ hạn, ghi nợ đối với những khách hàng rút tiền và ghi có cho những khách hàng gửi tiền, thực hiện thanh toán và chuyển tiền điện tử, thanh toán liên ngân hàng. Quản lý thực hiện công tác tài chính kế tóan trong Ngân hàng, trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê, xây dựng kế hoạch tài chính, tổng hợp lưu trữ hồ sơ. - Phòng hành chính nhân sự. : Thực hiện công tác quản trị, hành chính, lễ tân, quản lý văn thư lưu trữ. Xây dựng chương trình công tác hàng tháng, quý của chi nhánh và có trách nhiệm đôn đốc thường xuyên việc thực hiện các chương trình dã được duyệt, tư vấn pháp chế. - Phòng giao dịch Phòng giao dịch trực thuộc Sở giao dịch, hoạt động theo đúng quy chế tổ chức và hoạt động của phòng giao dịch trực thuộc SGD chi nhánh NHNo & PTNT Việt Nam” của chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo & PTNT Việt Nam ban hành. Nhìn chung cơ cấu tổ chức củ SGD NHNo & PTNT Việt Nam một cơ cấu tổ chức hợp lý, làm nền tảng cơ sở vững chắc cho hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch. 2.1.3. Nội dung hoạt động của SGD. 1. Huy động vốn: Bao gồm các hoạt động khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ; Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam ; Được vay vốn các tổ chức tài chính tín dụng trong nước khi Tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt Nam cho phép; Vay vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam , 2. Cho vay: Các họat động cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu câu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; Cho vay trung hạn, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh , dịch vụ, đời sống cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. 3. Cung ứng các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ gồm: Cung ứng các phương tiện thanh toán Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy đinh của Ngân hàng Nhà nước và của NHNo & PTNT Việt Nam. Kinh doanh ngoại hối: Huy động, cho vay, mua, bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế, bảo lãnh, tái bảo lãnh, chiết khấu, tái chiết khấu bộ chứng từ và các dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và của NHNo & PTNT Việt Nam. Kinh doanh các dịch vụ ngân hàng: Kinh doanh các dịch vụ ngân hàng theo luật các TCTD, bao gồm: thu, chi tiền mặt; mua bán vàng bạc; máy rut tiền tự động;dịch vụ thẻ; két sắt, nhận bảo quản, cất giữ, chiết khấu các loại giấy tờ có giá, thẻ thanh toán; nhận ủy thác cho vay của các tổ chức tài chính tín dụng, tổ chức, cá nhân. 2.1.4. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh Để thực hiện tốt chương trình hành động của NHNo&PTNT Việt Nam đã đề ra, SGD NHNo&PTNT VN đã triển khai tích cực các mặt hoạt động đóng góp vào kết quả chung của toàn hệ thống. Kết quả kinh doanh chủ yếu qua các năm được thể hiện qua các mặt sau: a) Công tác huy động vốn: Đối với một Ngân hàng thì nguồn vốn là yếu tố đầu vào của quá trình hoạt động kinh doanh. Khi nguồn vốn có cơ cấu hợp lý, chi phí huy động thấp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. SGD đã tập trung khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế bằng cách đưa ra các hình thức huy động khác nhau, năng động và phù hợp có tính cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng. Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn tại SGD NHNo&PTNT VN Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Tổng nguồn vốn 3.446 100,00 3.850 100,00 4.502 100,00 1.Phân theo kỳ hạn - Không kỳ hạn - Có kỳ hạn 1.220 2.226 35,40 64,60 1.456 2.394 37,82 62,18 1.800 2.702 39,98 60,02 2.Phân theo tiền tệ - VND - Ngoại tệ đã quy đổi 3.020 426 87,64 12,36 3.425 425 88,96 11,04 4.051 451 89,98 10,02 3.Phân theo đối tượng - Dân cư - Doanh nghiệp 1.545 1.901 44,83 55,17 1.593 2.257 41,38 58,62 1.755 2.747 38,98 61,02 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm: 2005, 2006, 2007) Trong năm 2005 SGD đã huy động được 3.446 tỷ VND, tăng 354 tỷ VND so với năm 2004 tương đương với tốc độ tăng trưởng 11%. Theo báo cáo trên thì lượng vốn huy động qua các năm đều tăng lên. Nếu xét trên khía cạnh tốc độ tăng trưởng về nguồn vốn huy động, có thể thấy tình hình huy động vốn tương đối lạc quan. Năm 2006 tăng 12% so với năm 2005 thì đến năm 2007 tốc độ tăng trưởng đã lên 17%. • Xét theo thời hạn: Cả hai nguồn không kỳ hạn và có kỳ hạn đều tăng theo các năm. Năm 2006 nguồn vốn không kỳ hạn tăng 19% so với năm 2005. Đến năm 2007 nguồn vốn này là 1.800 tỷ VND tăng 344 tỷ VND so với năm 2006 bằng 124%. Trong khi đó nguồn vốn có kỳ hạn cũng theo xu hướng trên. Nếu năm 2006 nguồn vốn có kỳ hạn tăng 168 tỷ VND so với 2005 thì đến năm 2007 con số này đã là 308 tỷ VND so với năm 2006. Về cơ cấu, nguồn vốn không kỳ hạn ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Năm 2005 lượng vốn này chiếm 35,4% thì đến năm 2006, 2007 đã chiếm 37,82%; 39,98%. Tương ứng với việc nguồn vốn không kỳ hạn tăng tỷ trọng trong tổng nguồn vốn thì tỷ trọng nguồn vốn có kỳ hạn có xu hướng giảm. • Xét theo loại tiền tệ: Nguồn vốn bằng VND tăng nhanh qua các năm. Năm 2006 tăng 405 tỷ VND so với năm 2005. Đến năm 2007 nguồn vốn này đã là 4.051 tỷ VND tăng lên 626 tỷ VND so với năm trước đó. Đồng thời với việc nguồn vốn bằng ngoài tệ đã quy đổi tăng chậm và thậm chí còn giảm đã làm cho tỷ trọng của nguồn vốn bằng VND đã lớn nay càng lớn hơn. Nếu năm 2005 và 2006 nguồn vốn bằng VND chiếm 87,64% và 88,96% thì đến năm 2007 nó đã chiếm 89,98% trong tổng nguồn vốn huy động. • Xét theo đối tượng: Theo như báo cáo thì cả hai nguồn tiền từ dân cư và doanh nghiệp đều tăng lên qua các năm. Nhưng tốc độ tăng trưởng của hai nguồn này thì chênh lệch khá lớn. Đối với nguồn vốn từ dân cư, tốc độ này của năm 2006 và 2007 lần lượt là 3% và 10% so với năm trước đó. Còn nguồn vốn từ doanh nghiệp, con số này đã là 19% và 22%. Chính vì vậy mà tỷ trọng của nguồn vốn từ doanh nghiệp năm 2005 là 55,17% đã tăng lên 58,62% vào năm 2006 và 61,02% vào năm 2007. Đến lúc này nguồn vốn từ dân cư chỉ còn chiếm 38,98%. Nhìn chung nguồn vốn huy động tại SGD có tăng lên qua các năm. Việc nguồn vốn không kỳ hạn ngày càng chiếm tỷ trọng lớn sẽ giúp giảm chi phí cho Ngân hàng. Tuy vậy nó lại không đảm bảo cho nguồn vốn tăng trưởng ổn định. b) Công tác cho vay và đầu tư vốn: Trong những năm qua SGD NHNo&PTNT VN đã đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu vốn tín dụng cho các thành phần kinh tế, giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, cải tiến dây chuyền công nghệ, tăng chất lượng sản phẩm, giải quyết việc làm cho người lao động. Bảng 2.2: Dư nợ cho vay và đầu tư Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Tổng dư nợ và đầu tư 2.041 100,00 1.577 100,00 1.198 100,00 1.Phân theo kỳ hạn - Ngắn hạn - Trung, dài hạn 1.391 650 68,15 31,85 1.083 494 68,67 31,33 886 312 73,96 26,04 2.Phân theo tiền tệ - VND - Ngoại tệ đã quy đổi 1.643 398 80,50 19,50 1.220 357 77,36 22,64 894 304 74,62 25,38 3.Phân theo đối tượng - Doanh nghiệp quốc doanh - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1.219 822 59,73 40,27 825 752 52,31 47,69 539 659 44,99 55,01 4.Phân theo Đảm bảo tiền vay - Có tài sản bảo đảm - Không có tài sản bảo đảm 1.061 980 51,98 48,02 948 629 60,11 39,89 371 827 30,97 69,03 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm: 2005, 2006, 2007) Qua báo cáo trên có thể thấy rằng dư nợ của Ngân hàng đang có xu hướng giảm mạnh. Năm 2005 con số này đang ở mức 2.041 tỷ VND thì sang đến năm 2006 và 2007 giảm xuống còn 1.577 tỷ VND và 1.198 tỷ VND. Có thể giải thích nguyên nhân của việc dư nợ năm 2007 giảm xuống còn bằng 76% so với năm 2006 một phần là vì SGD chủ trương chọn lọc khách hàng, chỉ đầu tư cho vay đối với khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có khả năng trả nợ Ngân hàng. Những đơn vị có nợ quá hạn lớn, kinh doanh thua lỗ SGD không thể đầu tư vốn tín dụng tiếp mà chỉ thu nợ. Mặt khác, những ngày cuối tháng 12/2007 theo chỉ đạo của NHNo&PTNT Việt Nam , SGD đã động viên những khách hàng có điều kiện trả nợ trước hạn gần 100 tỷ đồng. • Xét theo kỳ hạn: Qua các năm qua, cơ cấu giữa cho vay ngắn hạn và TDH vẫn không có thay đổi đáng kể. Dư nợ ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng lớn (trên dưới 70%) trong tổng dư nợ. Trong khi đó thì dư nợ TDH lại có xu hướng giảm. Chính điều này làm cho tỷ trọng dư nợ ngắn hạn càng cao trong tổng dư nợ. Năm 2007 Ngân hàng có một số khoản tín dụng sau: Tín dụng ngắn hạn: Trong năm 2007, SGD tiếp tục đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho các đơn vị có tình hình tài chính lành mạnh, sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh cao, sức tiêu thụ lớn. Qua đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh như: Công ty Cổ phần Cao su Sao vàng, Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Cơ điện Trần Phú, Công ty Cổ phần Dược Trung ương. Tín dụng TDH: SGD tích cực chủ động thẩm định những dự án đầu tư TDH khả thi của các đơn vị để đầu tư như: Dây chuyền máy móc thiết bị sản xuất bê tông lạnh của Viện máy và Dụng cụ Công nghiệp 16 tỷ VND; Dự án của Công ty Cổ phần Bóng đèn Phích nước Rạng Đông, đầu tư dây chuyền sản xuất đèn huỳnh quang với tổng số tiền đầu tư 17 tỷ VND; Dây chuyền kéo cáp đồng của Công ty TNHH Nhà nước một thành viên cơ điện Trần Phú 21 tỷ VND. • Xét theo đối tượng: Đã có sự chuyển dịch đáng kể về cơ cấu, dư nợ tín dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) năm 2005 chỉ chiếm có 40,27% thì đến năm 2007 đã chiếm đến 55,01% tổng dư nợ tương đương với 659 tỷ VND. Đồng thời thì tỷ trọng dư nợ ở các doanh nghiệp quốc doanh (DNQD) giảm từ 59,73% năm 2005 xuống còn 44,99% năm 2007. Tuy nhiên cùng với xu hướng giảm xuống của tổng dư nợ thì dư nợ của từng đối tượng cũng giảm nhanh qua các năm. Đến năm 2007 dư nợ ở các DNQD chỉ còn bằng 44% so với năm 2005. Dư nợ ở DNNQD năm 2007 giảm nhẹ hơn khi chỉ bằng 80% so với năm 2005. • Xét theo đảm bảo tiền vay: Trong hai năm 2005 và 2006 tình hình dư nợ có khả quan khi mà dư nợ có tài sản đảm bảo luôn nằm trên con số 50% tổng dư nợ. Nhưng đến năm 2007 con số này đã giảm xuống nghiêm trọng chỉ còn chiếm 31% tổng dư nợ. Tuy rằng trong những năm gần đây, Ngân hàng đã có những thay đổi quan trọng về nhận thức đối với đảm bảo tiền vay và an toàn tín dụng (theo kế hoạch thì dư nợ có tài sản đảm bảo năm 2007 chiếm 62% tổng dư nợ). c) Công tác bảo lãnh: Trong năm qua, SGD NHNo&PTNT VN tiếp tục phát triển và đa dạng hóa các nghiệp vụ bảo lãnh cho doanh nghiệp như: Bảo lãnh dự thầu; bảo lãnh thực hiện hợp đồng; bảo lãnh mở L/C; bảo lãnh bảo hành… Các nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp, Ngân hàng đều giải quyết kịp thời nhanh chóng. Nhiều dự án được Ngân hàng bảo lãnh đã trúng thầu. Tiếp đó Ngân hàng cung cấp vốn kịp thời để thực hiện các dự án đã trúng thầu. Tổng dư bảo lãnh đến 31/12/2007 là 279 tỷ VND. d) Hoạt động thanh toán quôc tế và kinh doanh ngoại hối Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ tại SGD ngày càng được mở rộng và phát triển, nâng cao năng lực phục vụ khách hàng. SGD đã làm tốt công tác dịch vụ về thanh toán quốc tế như: Dịch vụ thanh toán và chuyển tiền kiều hối gồm chuyển tiền qua mạng Swift và chuyển tiền Western Union; Dịch vụ phát hành và thanh toán L/C, nhờ thu nhập khẩu… ; Các dịch vụ mua bán ngoại tệ. Nhờ vậy mà trong năm 2007, thu dịch vụ từ hoạt động thanh toán quốc tế và bảo lãnh đạt 4,4 tỷ VND (chiếm 41% trong tổng thu phí) và lãi kinh doanh ngoại tệ đạt 482 triệu VND. e) Công tác tiền tệ – kho quỹ. Công tác bảo đảm an toàn kho quỹ và giấy tờ có giá luôn được đặt lên hàng đầu. Phối hợp giữa lực lượng bảo vệ và công an để vận chuyển tiền an toàn. Trong năm qua hoạt động kho quỹ được đảm bảo an toàn, không để xảy ra mất mát, sai sót. Thu chi tiền mặt đảm bảo kịp thời, chính xác. Tài sản thế chấp được đảm bảo an toàn, khớp đúng. Năm 2007, tổng thu tiền mặt đạt: 7.645 tỷ VND và tổng chi tiền mặt đạt: 7.358 tỷ VND. Ngoài ra thu chi tiền mặt ngoại tệ với khối lượng lớn. Tổng thu chi tiền mặt ngoại tệ đạt: 68.299.795 USD và 11.017.857 EUR. Cán bộ SGD đã nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính liêm khiết nhiều lần trả tiền thừa cho khách hàng. Trong năm đã trả tiền thừa 229 món với tổng số tiền 517 triệu VND. f) Công tác kế toán – tài chính. Do áp dụng chương trình hiện đại hóa Ngân hàng nên các kênh thanh toán qua Ngân hàng nhanh chóng, thuận tiện và an toàn. Mặc dù lượng chứng từ thanh toán lớn và đường truyền liên tục bị lỗi nhưng SGD đã bố trí cán bộ hợp lý, cộng với sự cố gắng, nhiệt tình của cán bộ giao dịch nên việc thanh toán vẫn kịp thời, chính xác, không gây ách tắc cho khách hàng trong giao dịch. Trong năm 2007 doanh số thanh toán đạt 90.390 tỷ VND, trong đó doanh số thanh toán không dùng tiền mặt là 80.975 tỷ VND, chiếm tỷ trọng 90%. Thu dịch vụ đạt 10.749 triệu VND, đạt 90% kế hoạch và bằng 131% so với năm 2006. g) Kết quả thu chi tài chính Bảng 2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tổng thu nhập 270 280 468 Tổng chi phí 200 299 348 Lợi nhuận 70 -19 120 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm: 2005, 2006, 2007) Như vậy sau một năm thua lỗ (năm 2006) thì đến năm 2007 SGD bắt đầu lãi trở lại. Sở dĩ đạt được kết quả như vậy là do tốc độ tăng trưởng của tổng thu nhập năm 2007 là 67% cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng của tổng chi phí năm 2007 là 16%. 2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại SGD NHNo&PTNT VN 2.2.1. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại SGD NHNo&PTNT VN Trong những năm gần đây Việt Nam được biết đến là một nền kinh tế đang phát triển với tốc độ nhanh và năng động trong khu vực châu á - Thái Bình Dương với tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001 – 2005 bình quân đạt 7,5%, năm 2006 và năm 2007 lần lượt là 8,17% và 8,44%. Cùng với sự phát triển khả quan này của nền kinh tế thì Ngân hàng đã đạt được một số kết quả tương đối tốt về doanh số cho vay và doanh số thu nợ. Bảng 2.4: Tình hình cho vay trung và dài hạn Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Doanh số cho vay Doanh số cho vay TDH 2.280 725 100,00 31,80 2.467 841 100,00 34,09 2.515 892 100,00 35,47 Doanh số thu nợ Doanh số thu nợ TDH 2.236 623 100,00 27,86 2.390 512 100,00 21,42 2.418 562 100,00 23,24 Tổng dư nợ Dư nợ TDH 2.041 650 100,00 31,85 1.577 494 100,00 31,33 1.198 312 100,00 26,04 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm: 2005, 2006, 2007) Nhìn vào bảng số liệu ta thấy hoạt động cho vay trong 3 năm có sự tăng trưởng tương đối cả về doanh số cho vay và doanh số thu nợ. Doanh số cho vay TDH chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh số cho vay nhưng lại đang có xu hướng tăng dần. Năm 2005 doanh số cho vay TDH mới chỉ chiếm 31,8% trong tổng doanh số cho vay thì đến năm 2007 con số này đã tăng lên 35,47%. Cho thấy SGD đã quan tâm tới việc nâng cao tỷ trọng doanh số cho vay TDH vì đây là nguồn tiềm năng đem lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Doanh số thu nợ của TDTDH cũng khá cao, luôn xấp xỉ doanh số cho vay. Năm 2005 doanh số cho vay TDTDH là 725 tỷ VND, doanh số thu nợ TDH là 623 tỷ VND. Năm 2007 doanh số cho vay tăng lên 892 tỷ VND, doanh số thu nợ TDH là 562 tỷ VND. Tuy vậy doanh số thu nợ TDH tăng trưởng không ổn định, năm 2007 doanh số này tăng lên so với năm 2006 song lại giảm đi 61 tỷ VND so với năm 2005. Ngược lại so với 2 chỉ tiêu trên thì cùng với xu hướng giảm của tổng dư nợ thì dư nợ TDH cũng giảm đi qua các năm. Năm 2005 dư nợ TDH là 650 tỷ VND đến năm 2006 và 2007 con số này giảm xuống còn 494 tỷ VND và 312 tỷ VND. Việc dư nợ giảm xuống báo hiệu dấu hiệu xấu cho thu nhập trong tương lai. Nếu xét cơ cấu TDTDH theo đối tượng vay, DNQD vẫn chiếm ưu thế song lại đang có xu hướng tỷ trọng DNNQD tăng lên. Bảng 2.5: Cơ cấu tín dụng trung, dài hạn theo đối tượng vay Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Doanh số cho vay TDH - Doanh nghiệp quốc doanh - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 725 342 383 100,00 47,17 52,83 841 532 309 100,00 63,26 36,74 892 491 401 100,00 55,04 44,96 Doanh số thu nợ TDH - Doanh nghiệp quốc doanh - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 623 280 343 100,00 44,94 55,06 512 252 260 100,00 49,22 50,78 562 287 275 100,00 51,07 48,93 Dư nợ TDH - Doanh nghiệp quốc doanh - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 650 406 244 100,00 62,46 37,54 494 343 151 100,00 69,43 30,57 312 202 110 100,00 64,74 35,26 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm: 2005, 2006, 2007) Theo báo cáo trên tổng dư nợ DNQD trong 3 năm luôn chiếm tỷ trọng trên 60% tổng dư nợ TDH. Các chỉ tiêu TDTDH của DNNQD có sự biến động không ổn định. Về doanh số cho vay DNNQD năm 2005 chiếm 52,83%, năm 2006 sụt xuống khá nhiều còn 36,74% thì sang năm 2007 nó lại chiếm 44,96% tổng doanh số cho vay TDH. Xét về số tuyệt đối doanh số cho vay và doanh số thu nợ của DNNQD tăng giảm thất thường. Ngoại trừ tỷ lệ doanh số thu nợ của loại hình doanh nghiệp này trong tổng doanh số thu nợ lại có xu hướng giảm, năm 2005 chiếm 55,06%; năm 2006 chiếm 50,78%, năm 2006 chiếm 48,93%. Từ những con số trên chúng ta có thể thấy rõ tình hình TDTDH tại SGD. 2.2.2. Đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại SGD NHNo&PTNT VN 2.2.2.1. Những kết quả đạt được Năm 2007, quá trình gia nhập WTO của Việt Nam đã đem lại nhiều thành tựu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã lên đến đỉnh cao nhất trong 10 năm qua là 8,44%, kim ngạch xuất khẩu tăng 21% so với năm 2006, vốn đầu tư nước ngoài đạt 20,3 tỷ USD, mức cao nhất kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài. Đi đôi với lợi ích đạt được, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt nền kinh tế Việt Nam trước nhiều thách thức. Năm 2007, lạm phát tăng cao lên mức 2 con số. Một số mặt hàng tăng giá rất cao như thực phẩm, năng lượng, sắt thép, phân bón, vàng và sự mất giá của đồng đô la Mỹ đã gây nhiều khó khăn cho nền kinh tế nói chung và cho hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng. Năm 2007, cũng là năm thành công của hệ thống ngân hàng trong cải cách thể chế, hướng đến chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên bên cạnh những thành công ngành ngân hàng cũng phải chịu nhiều thách thức, mở cửa và tự do hóa khu vực tài chính đã tạo ra sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Cũng vì thế mà cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng không kém phần gay gắt. Trên địa bàn thành phố Hà Nội, một loạt chi nhánh của NHTM nhà nước, NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh đã được mở. Tình hình trên cũng gây ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của SGD. Được sự ủng hộ giúp đỡ của TP HN, UBND TP HN, cùng các ban ngành TP HN, sự chỉ đạo giúp đỡ của Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội, đặc biệt là sự chỉ đạo sát sao của Ban lãnh đạo NHNo&PTNT Việt Nam đã hạn chế được tác động tiêu cực của tình hình kinh tế xã hội, giúp cho hoạt động kinh doanh của SGD NHNo&PTNT VN đạt được một số kết quả nhất định. Thứ nhất: Do SGD đã làm tốt chính sách phục vụ khách hàng, cải tiến phong cách phục vụ thuận lợi, nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu gửi tiền của dân cư và các tổ chức kinh tế. Vì vậy tổng nguồn vốn huy động tăng lên nhanh chóng. Thứ hai: Cơ cấu dư nợ tín dụng xét theo đối tượng vay có đang có xu hướng mới mà có thể coi là phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Khi mà các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa. Dư nợ ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang tăng lên nhanh chóng. Như vậy cho thấy Ngân hàng không còn giữ quan điểm trước đây khi mà dư nợ các doanh nghiệp quốc doanh luôn chiếm từ 70 - 80% tổng dư nợ. SGD đã cố gắng đa dạng hóa đối tượng cho vay. Đây là một kết quả mang tính tích cực. Thứ ba: Doanh số cho vay của Ngân hàng tăng lên khá đều đặn theo các năm. Trong đó doanh số cho vay của TDTDH cũng có xu hướng này. Đây có thể coi là một dấu hiệu tích cực của SGD. Thứ tư: Doanh số thu nợ cũng tăng lên đều. Trong đó doanh số thu nợ của TDTDH tăng lên xong lại không ổn định. Việc doanh số thu nợ tăng lên là tốt nhưng nó lại bắt nguồn từ các nguyên nhân không tích cực. Thứ năm: Vòng quay vốn tín dụng trung, dài hạn cũng có xu hướng tăng và ở mức tương đối tốt. Bảng 2.7: Vòng quay vốn tín dụng Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Doanh số thu nợ TDH 623 512 562 Dư nợ bình quân TDH 778 572 403 Vòng quay VTD TDH 0,8 0,9 1,39 Nếu chỉ nhìn vào vòng quay vốn tín dụng thì có thế lạc quan về chất lượng TDTDH. T._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24664.doc