Lời nói đầu
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua hơn 10 năm đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên bước đầu khẳng định được uy tín, chinh phục đựơc khách hàng chiếm lĩnh được thị trường lớn, ổn định góp phần nâng cao vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay g
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1200 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao dịch - Ngân hàng NHCSXH Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắt giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất do đó cần thiết phải có một lượng vốn lớn mà các ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế một cách có hiệu quả.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước và cấp kinh doanh là các ngân hàng thương mại. Cùng với việc triển khai thực hiện pháp lệnh ngân hàng ở nước ta trong thời gian qua đã tạo ra những chuyển biến rõ nét cả về tổ chức, hoạt động và trình độ nghiệp vụ của hệ thống ngân hàng góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền... Các tổ chức tín dụng hình thành mạng lưới trên hầu khắp các địa bàn cả nước. Ngoài hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh... Nghiệp vụ ngân hàng cũng được đổi mới và từng bước hiện đại hoá, tiếp cận với công nghệ và thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng ngân hàng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Ngày nay ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công ăn việc làm cho người lao động, phát triển thị trường ngoại hối.
Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời kỳ mới chuyển đổi sang cơ chế thị trường, môi trường kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp lý đang dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại đang gặp nhiều khó khăn nhất là chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn. Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng, từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng là một nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của ngành ngân hàng. Vấn đề càng trở nên bức xúc và cần thiết đối với hệ thống Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội có thị trường tín dụng chủ yếu là khu vực nông thôn.
Trước tình hình trên, là một sinh viên khoa Quản trị kinh doanh đang thực tập tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội, em đã quyết định chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định”.
Em hy vọng rằng bài viết của mình sẽ góp phần đẩy lùi những khó khăn cản trở trong công tác tín dụng, đưa hiệu quả tín dụng ngày càng tốt hơn, tạo đà cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Sở phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Bài viết của em được chia làm 3 phần:
Phần 1: Tín dụng và chất lượng tín dụng của Ngân Hàng Thương Mại.
Phần 2: Phân tích thực trạng chất lượng tín dụng của Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định.
Phần 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng của Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định.
Do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế và thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy giáo PGS.TS Lê Văn Tâm và ban Giám đốc nhân viên ngân hàng để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Phần I: Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín
dụng của ngân hàng thương mại
I. Tín dụng và các hình thức tín dụng ngân hàng
1. Tín dụng - Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân :
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Trải qua quá trình phát triển đã có nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Đầu tiên là tín dụng nặng lãi xuất hiện ở thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ. Trong thời kỳ này do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội mở rộng, xã hội đã có sự phân chia giai cấp kẻ giàu người nghèo. Trong quá trình đầu tiên chủ yếu là cho vay bằng hiện vật, về sau chủ yếu cho vay bằng tiền. Đây là hình thức cho vay nặng lãi với lãi suất rất cao, không có giới hạn và là hình thức tín dụng tiêu dùng, chủ yếu để giải quyết nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản cho thấy tín dụng nặng lãi không còn phù hợp nữa, nó cản trở sự phát triển của nền kinh tế bởi các nhà tư bản kinh doanh với mục đích lợi nhuận không thể vay với mức lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận. Vì vậy hoạt động của nó ngày càng thu hẹp và tín dụng thương mại xuất hiện. Đây là hình thức tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau do đó chủ thể tham gia quá trình vay mượn này cũng là các nhà sản xuất kinh doanh.
Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn giá bán bằng tiền mặt, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu. Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. Vì vậy nó không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hoá và tín dụng ngân hàng ra đời.
Mặt khác do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội thường xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này và nhu cầu thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác. Hiện tượng thừa, thiếu vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời gian. Trong khi đó số lượng các khoản thu nhập và chi tiêu ở các tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành một cách liên tục. Vậy để khắc phục tình trạng này thì chỉ có ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết được những mâu thuẫn đó.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì ?
"Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay "
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
Thật vậy, chúng ta xem xét trường hợp sau:
Giả sử: Đã vào đầu mùa hè, nhu cầu về nước giải khát rất lớn và nếu tôi biết tận dụng cơ hội này thì việc sản xuất ra nước giải khát phục vụ trong hè không những đem lại lợi nhuận cho tôi mà còn đem lại sự phát triển của nền kinh tế. Song để mua được một dây chuyền sản xuất nước giải khát thì phải cần một lượng vốn rất lớn mà nếu một mình tôi sẽ không đủ vốn. Trong khi đó có một số người khác có một món tiết kiệm do tích luỹ được trong nhiều năm. Nếu tôi và những người đó gặp nhau và những người đó cung cấp vốn cho tôi thì kế hoạch của tôi sẽ trở thành hiện thực.
Nhưng một vấn đề được đặt ra là liệu tôi - người thiếu vốn và những người thừa vốn đó có gặp nhau không? Và trong nền kinh tế thị trường hàng ngày hàng giờ diễn ra không biết bao nhiêu mối quan hệ như vậy? Nó đã hình thành nên: một bên là những người có tiền tích luỹ, có khả năng cung cấp và phía bên kia là những ngưòi có nhu cầu vay cho đầu tư phát triển. Như vậy nảy sinh vấn đề là làm thế nào để họ có thể tìm gặp được nhau và làm thế nào để cùng một lúc thoả mãn được nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguồn tiết kiệm còn đang nằm phân tán trong xã hội. Không phải bất kỳ ai cũng có khả năng đầu tư hoặc vay vốn trên thị trường tài chính, ngoài ra khi giao dịch trên thị trường tài chính đòi hỏi chi phí về tiền bạc và thời gian rất lớn. Do đó các ngân hàng thương mại với chức năng cơ bản là trung gian tài chính, hoạt động như một chiếc cầu nối liền giữa khả năng cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội đã cơ bản giải quyết được những vấn đề nẩy sinh trên. Đồng thời với tư cách là một trung gian tín dụng ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và một bên là người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện pháp kinh tế năng động và áp dụng các phương pháp kỹ thuật theo hướng hiện đại tiên tiến ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết kiệm dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã trở thành tiền hoạt động, biến những đồng tiền phân tán thành nguồn vốn tập trung phục vụ cho nhu cầu kinh doanh. Qua đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển.
2. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế với xu hướng tự do hoá, các ngân hàng phải luôn luôn nghiên cứu và đưa ra các hình thức tín dụng khác nhau để có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của quá trình tái sản xuất, từ đó đa dạng hóa danh mục đầu tư để mở rộng tín dụng, thu hút khách hàng, tăng lợi nhuận và thực hiện phân tán rủi ro.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau mà chúng ta tiến hành phân loại các hình thức tín dụng ngân hàng:
- Căn cứ vào mục đích sử dụng có các hình thức tín dụng sau:
+ Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở đất đai, bất động sản trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
+ Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệp, thương mại, dịch vụ.+ Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như: phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động...
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân: Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiện cho vay để trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
- Căn cứ vào tài sản thế chấp có các hình thức tín dụng ngân hàng sau:
+ Cho vay có tài sản thế chấp: Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng để đảm bảo cho việc trả nợ của khách hàng.
+ Cho vay cầm cố: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản khách hàng mang đến cầm cố tại ngân hàng. Tài sản của khách hàng do ngân hàng bảo quản, trong suốt thời gian cầm cố khách hàng không được sử dụng nhượng bán, cho thuê...
+ Cho vay thế chấp: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng để đảm bảo cho khả năng trả nợ của khách hàng. Tài sản không cần mang đến ngân hàng, khách hàng có quyền sử dụng nhưng không có quyền bán và cho thuê.
+ Cho vay không có tài sản thế chấp (Tín chấp): Ngân hàng cho vay trên cơ sở tin tưởng khách hàng, tài sản thế chấp là uy tín, danh dự của khách hàng. Ngoài ra còn có hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
Ví dụ: Hội nông dân Việt Nam, Hội Phụ nữ Việt Nam.
- Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng có các hình thức tín dụng ngân hàng sau:
+ Cho vay bằng tiền: Là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền như: Thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp...
+ Cho vay bằng tài sản: Phổ biến là tài trợ thuê mua.
- Căn cứ vào xuất xứ tín dụng có các hình thức tín dụng sau:
+ Cho vay trực tiếp: Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng và khách hàng trực tiếp trả lãi và gốc cho ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn lại trong thời hạn thanh toán gồm các hình thức:
+ Chiết khấu thương mại.
Mua các khoản nợ của các doanh nghiệp (factoring): Là dịch vụ mua các yêu cầu
(giấy đòi nợ) của các công ty sau đó nhận tiền thanh toán về các yêu cầu này. Các yêu cầu ở đây thường là các giấy đòi nợ ngắn hạn phát sinh do cung cấp hàng hoá.
+ Tín dụng chứng từ...
- Căn cứ vào thời hạn cho vay có các hình thức tín dụng sau:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn không quá 12 tháng (1 năm). Được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân...
+ Tín dụng trung hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng (5 năm). Mục đích là vay vốn để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định hoặc cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ và xây dựng mới những công trình loại nhỏ, thời hạn thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ 60 tháng trở lên. Mục đích sử dụng là để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định, đổi mới công nghệ và xây dựng mới đối với những công trình mới... thời hạn thu hồi vốn lâu.
II. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế và với chính sách xã hội.
Cho đến hiện nay, mọi người đều thống nhất ý kiến cho rằng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tạo ra động lực lớn, đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, đưa lại sự phồn vinh kinh tế cho nước ta trong những năm qua. Và để đạt được những kết quả như vậy thì phải kể đến một nhân tố góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế đất nước đó chính là tín dụng ngân hàng. Khác so với tín dụng trước đây, trong thời kỳ bao cấp tín dụng được coi như là một công cụ cấp phát thay ngân sách, vì lẽ đó mà đã xảy ra tình trạng có nơi cần vốn sản xuất thì không có hoặc không kịp thời để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong khi đó vẫn có nơi lại có một lượng vốn ứ đọng tương đối lớn trong xã hội. Ngày nay khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì tín dụng ngân hàng được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế, điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu một cách hiệu quả, giúp cho nền kinh tế ngày một phát triển.
Biểu hiện:
1. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Sự ra đời của tín dụng ngân hàng đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế trong những thập kỷ qua. Với chức năng là trung gian tài chính đứng giữa người gửi tiền và người đi vay ngân hàng đã biến mọi nguồn ngoại tệ phân tán trong xã hội thành nguồn vốn tập trung, qua đó điều hoà quan hệ cung cầu về tiền tệ trong xã hội, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Là một đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với mục đích lợi nhuận, các ngân hàng thương mại luôn tìm cách để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Lợi tức thu được của các ngân hàng được hình thành từ hai hoạt động đó là: Hoạt động tín dụng và các dịch vụ của ngân hàng trong đó thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Tín dụng ở đây chúng ta hiểu là hoạt động cho vay của ngân hàng. Vậy ngân hàng lấy vốn ở đâu ra để cho vay? Phải chăng là vốn tự có của ngân hàng. ở đây các ngân hàng phải huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, cá nhân và các tầng lớp dân cư trong xã hội sau đó phân phối vốn trở lại một cách hợp lý. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà các chủ thể “thừa“ vốn có cơ hội không những bảo tồn vốn mà còn tạo thu nhập (thu lãi), còn đối với chủ thể thiếu vốn tín dụng ngân hàng giúp họ bổ sung vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc đời sống. Trong công tác huy động vốn một mặt các ngân hàng phải cố gắng đưa ra những mức lãi suất hấp dẫn đối với khách hàng mặt khác phải đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Nguồn vốn nhàn rỗi mà ngân hàng huy động bao gồm:
+ Vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế: Đó là thu nhập bằng tiền của xí nghiệp để bù đắp hao phí vật chất trong quá trình sản xuất, thu nhập thuần tuý sáng tạo từ các xí nghiệp sản xuất...
+ Vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư...
Bằng các hình thức khác nhau ngân hàng đã động viên, tập trung các nguồn vốn đó về một mối. Trên cơ sở các nguồn tài chính tạm thời ngân hàng sẽ tiến hành khai thác và sử dụng một cách triệt để nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao tránh tình trạng vốn chết, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Thông qua công tác tín dụng, ngân hàng đã đáp ứng được hầu hết các nhu cầu về vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội, giúp cho quá trình sản xuất được liên tục, đẩy mạnh quá trình tái sản xuất. Đồng thời việc tập trung và phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế quốc dân từ nơi thừa đến nơi thiếu. Bên cạnh việc đáp ứng vốn kịp thời đầy đủ cho các doanh nghiệp, các ngân hàng còn có những ý kiến đóng góp cho phương án sản xuất kinh doanh, lựa chọn đối tác thông qua quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp...
Ngoài ra khi sử dụng vốn vay ngân hàng các doanh nghiệp bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả vốn gốc + lãi trong thời gian nhất định khi ký kết hợp đồng tín dụng. Do đó buộc các doanh nghiệp phải hết sức nỗ lực, tận dụng hết khả năng của mình để sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn vốn tín dụng bằng cách động viên vật tư hàng hoá, thúc đẩy quá trình ứng dụng khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ với ngân hàng. Như vậy hoạt động tín dụng của ngân hàng góp phần đẩy lùi lạm phát,thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.
2. Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng và tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ
Thực tế cho thấy bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động và sản xuất kinh doanh cũng phải cần có một lượng vốn nhất định, trong trường hợp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh thì cần phải có một lượng vốn lớn hơn. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và mở rộng sản xuất. Vậy lấy vốn ở đâu ra? Và tín dụng ngân hàng là nguồn vốn cơ bản hình thành nên vốn cố định và vốn lưu động của doanh nghiệp. Thông qua việc đầu tư tín dụng tín dụng ngân hàng sẽ góp phần hình thành cơ cấu vốn hợp lý cho các doanh nghiệp. ở nước ta hiện nay cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, mở cửa thông thương với nhiều nước trên thế giới do vậy nhu cầu về vốn ngày càng cao, các thành phần kinh tế đang rất cần vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với sự phát triển của xã hội đòi hỏi các ngân hàng cần phải nỗ lực hơn nữa để đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng lớn của các doanh nghiệp. Muốn vậy các ngân hàng cần phải làm tốt công tác huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh hợp lý, phù hợp với xu thế phát triển của các thành phần kinh tế. Có như vậy các ngân hàng mới có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất đưa nền kinh tế nước nhà ngày càng phát triển.
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng của mình, các ngân hàng đã huy động và tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, đồng thời rút ra khỏi lưu thông một bộ phận tiền tệ không cần thiết góp phần giảm lạm phát. Bởi việc Ngân hàng Nhà nước phát hành tiền để tạo ra nguồn vốn đầu tư phát triển sẽ làm tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, gây mất cân đối trong quan hệ tiền hàng dẫn đến lạm phát cho nền kinh tế. Mặt khác, dựa vào quy luật của lưu thông tiền tệ trong quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng với nhu cầu vay mà Ngân hàng Nhà nước Trung ương thực hiện pháp lệnh đưa tiền vào lưu thông. Do đó sự vận động của vốn tín dụng là dựa trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế để tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ.
Hơn nữa quá trình hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với việc thanh toán không dùng tiền mặt góp phần giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông trôi nổi trên thị trường mà không có sự quản lý của nhà nước nhằm mục đích ổn định lưu thông tiền tệ. Điều này đồng nghĩa với việc làm giảm lạm phát - một vấn đề mà nền kinh tế phải đương đầu khi có tốc độ tăng trưởng gia tăng nhanh.
Như vậy tín dụng ngân hàng được coi là một công cụ có thể điều hoà vốn trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
3. Tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường việc chấp hành chế độ hạch toán trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Trong quá trình nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng trước khi cho vay ngân hàng có nghiệp vụ giúp đỡ các đơn vị vay vốn xây dựng kế hoạch vay vốn dựa trên cơ sở các kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính. Khi xét duyệt cho vay ngân hàng còn căn cứ vào tình hình chấp hành các nguyên tắc cơ bản của chế độ tín dụng ngân hàng, tình hình thực hiện nghĩa vụ hợp đồng kinh tế đối với các đơn vị bạn cũng như tôn trọng các quy chế thủ tục cho vay. Đặc biệt cần phải có các báo cáo tài chính kế hoạch sản xuất kinh doanh trong đó nêu rõ mục đích và khẳng định tính khả thi và mức sinh lợi của dự án. Như vậy muốn vay được vốn các doanh nghiệp cần phải thực hiện chế độ hạch toán thật tốt. Tất cả những công tác trên giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, ngân hàng có khả năng thu hồi được vốn.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả cả gốc lẫn lãi của các con nợ đối với ngân hàng. Các đơn vị kinh tế, cá nhân khi vay vốn ngân hàng đều phải cam kết thực hiện đầy đủ các điều kiện mà ngân hàng đưa ra nhằm đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị và hoàn trả vốn + lãi đúng thời hạn. Trong trường hợp các đơn vị vay vốn không thực hiện đúng cam kết thì ngân hàng sẽ dùng đến các biện pháp chế tài tín dụng. Do vậy các đơn vị sản xuất kinh doanh luôn luôn tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn như: Đẩy nhanh vòng quay vốn, tăng năng xuất, giảm giá thành nhằm tạo ra nhiều lợi nhuận, để có thể hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn. Điều này đã thúc đẩy đơn vị sản xuất kinh doanh tăng cường khâu hạch toán kế toán một cách chặt chẽ đảm bảo doanh lợi ngày càng cao, tăng hiệu quả sử dụng vốn tín dụng. Để tránh rủi ro tín ngân hàng chỉ thực hiện đầu tư tập trung vào một các đơn vị có triển vọng sản xuất kinh doanh.
4. Tín dụng ngân hàng góp phần giải quyết các vấn đề xã hội
Trong những năm qua với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước cùng với sự cố gắng của tất cả các thành viên trong xã hội nước ta đã và đang từng bước đi lên và đạt được những thành tựu đáng kể như: Tốc độ tăng trưởng tương đối cao, tăng thu nhập, đời sống nhân dân được cải thiện... Nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước đã nẩy sinh các vấn đề xã hội lớn: Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, chênh lệch giữa nông thôn và thành thị này càng doãng rộng, tham nhũng có dấu hiệu gia tăng cả về quy mô và số vụ, thất nghiệp ở tỷ lệ cao... Nhận thức sâu sắc thực trạng này, các nghị quyết của Đảng luôn luôn nhấn mạnh yêu cầu phải kết hợp tăng trưởng với công bằng, giải quyết các yêu cầu về công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước tăng trưởng và tín dụng ngân hàng được sử dụng như một công cụ để khắc phục tình trạng này.
Thông qua cơ chế tín dụng ưu tiên và ưu đãi chúng ta đang dần dần khắc phục được các vấn đề xã hội. Tín dụng ưu tiên là hình thức tập trung nguồn vốn cho một vùng, giới, ngành trong một thời gian nhất định nhằm đạt tới một mục tiêu nào đó. Tín dụng ưu đãi là cho vay các đối tượng cần ưu đãi với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường gọi là lãi suất ưu đãi.
Bằng cách các ngân hàng cung cấp nguồn vốn với lãi suất ưu đãi cho người nghèo, người khó khăn để họ có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, áp dụng kỹ thuật mới, mở rộng thị trường từ đó tăng thu nhập. Với mức lãi suất ưu đãi, tín dụng ngân hàng có vai trò to lớn trong việc giúp người nghèo tự vươn lên, tự giải quyết được tình trạng nghèo đói của mình. Đồng thời chúng ta phải khẳng định rằng giúp người nghèo bằng tín dụng là giải quyết vấn đề công bằng theo quan điểm hiện đại, coi trọng sự nỗ lực và tham gia của bản thân người nghèo. Đó là sự giúp đỡ tích cực “Cho cần câu chứ không cho xâu cá”. Song để đạt được mục đích trên các ngân hàng cần phải có một cơ chế giám sát chặt chẽ bởi thực tế cho thấy do lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị trường cán bộ tín dụng có cơ hội lạm dụng quyền hạn để cho vay với những đòi hỏi ngoài lãi suất làm cho người nghèo khó lòng đáp ứng.
Ngoài ra các cán bộ tín dụng ngân hàng cần phải quan tâm đến vấn đề làm sao để vốn được sử dụng đúng mục đích là phát triển sản xuất, cải tiến kỹ thuật để tăng thu nhập, tránh rủi ro cho ngân hàng không thu hồi được vốn...
Trong điều kiện hiện nay chúng ta hy vọng rằng tín dụng ngân hàng sẽ phát huy tốt vai trò to lớn của mình trong việc cung cấp nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng chủ động, tích cực, phù hợp với kinh tế thị trường.
III. Chất lượng tín dụng ngân hàng :
1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng :
Trong nền kinh tế thị trường, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đựoc thì phải thắng trong cạnh tranh. Khi nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển thì cạnh tranh ngày càng gay gắt. Cạnh tranh diễn ra trên 3 phương diện: Số lượng, chất lượng, giá cả trong đó chất lượng đóng vai trò quan trọng hàng đầu, tạo điều kiện nâng cao tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường.
Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và có tác động rất lớn tới toàn bộ nền kinh tế bởi thực tế cho thấy nguyên nhân của hầu hết các cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra đều bắt nguồn từ ngân hàng. Do đó vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng là rất cần thiết, vậy ta hiểu chất lượng tín dụng ngân hàng là như thế nào?
" Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn hay hạn chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận cho ngân hàng phù hợp và phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội "
Việt Nam trong điều kiện hiện nay với sự bung ra của cơ chế mới ngoài các ngân hàng quốc doanh đã xuất hiện hàng loạt các loại hình ngân hàng khác nhau như: Các ngân hàng liên doanh, các ngân hàng cổ phần, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Chính sự xuất hiện này đã làm cho mức độ cạnh tranh trên thị trường ngân hàng ngày càng tăng. Điều này đòi hỏi các ngân hàng phải luôn luôn tìm ra những giải pháp nhằm thắng trong cạnh tranh, nâng cao uy tín vị thế của mình trên thị trường. Một trong những biện pháp đó chính là phải nâng cao chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng được thể hiện cụ thể qua các chỉ tiêu có thể tính toán được như kết quả kinh doanh, dư nợ, nợ quá hạn..., đồng thời nó cũng được thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng và mức độ tác động tới nền kinh tế. Để có được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín. Hiểu đúng bản chất của tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn tại về chất lượng sẽ giúp cho ngân hàng tìm được những biện pháp thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường.
Cùng với sự phát triển mãnh mẽ của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng ngân hàng cũng không ngừng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện để đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng của xã hội đòi hỏi chất lượng tín dụng cần phải được quan tâm hơn. Hơn nữa việc đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung tâm thanh toán của mình. Chất lượng đảm bảo sẽ tăng vòng quay của vốn tín dụng để có thể tạo ra được số lần giao dịch lớn hơn, làm giảm lượng tiền trong lưu thông, mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt từ đó giảm chi phí lưu thông cho xã hội. Như vậy nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại có quan hệ chặt chẽ với số lượng tiền mặt trong lưu thông - nguyên nhân tiềm ẩn của lạm phát. Làm tốt công tác tín dụng sẽ giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, góp phần kiềm chế lạm phát, điều hoà và ổn định lưu thông tiền tệ.
Mặt khác chúng ta thấy rằng với một chính sách tín dụng đúng đắn và được thực hiện có chất lượng không những hỗ trợ cho các ngành kém phát triển, thúc đẩy các ngành mũi nhọn mà còn góp phần vào việc tăng hiệu quả sản xuất kinh tế xã hội, đảm bảo sự cân đối giữa các vùng, giải quyết các vấn đề mang tính xã hội... tạo điều kiện đưa đất nước ta tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Thông qua khâu phân tích khả năng phát triển của đối tượng định đầu tư để đánh giá chất lượng khoản tín dụng từ đó đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn sẽ khai thác tốt tiềm năng về tài nguyên, lao động... tăng cường năng lực sản xuất, cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Việc thực hiện đúng nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay đúng đối tượng, hạn chế và xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi ở các vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh.
Một lý do quan trọng mà ta phải đề cập đến là việc nâng cao chất lượng tín dụng có vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Bởi chất lương tín dụng có tốt mới tăng khả năng cung cấp dịch vụ do tạo thêm được nguồn vốn từ việc quay vòng vốn tín dụng, thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức sản phẩm dịch vụ đa dạng. Chất lượng tín dụng ngân hàng tốt sẽ làm tăng khả năng sinh lời do giảm được sự chậm chễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn đã cho vay. Từ đó tạo ra thế mạnh và nâng cao uy tín cho ngành ngân hàng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của mình. Chính nhờ đó mà tạo ra điều kiện cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của ngân hàng. Vì vậy các ngân hàng luôn luôn phải quan tâm tới việc nâng cao chất lượng tín dụng.
2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng
2.1. Tổng vốn huy động :
Tổng vốn huy động cho biết tổng nguồn tiền mà ngân hàng huy động được trong nền kinh tế. Chỉ tiêu này cho thấy ngân hàng có hoạt động uy tín, có được người gửi tin tưởng không, mức giá mà ngân hàng đưa ra có phù hợp không, có khuyến khích được nhân dân gửi tiền vào không? Đồng thời cho thấy ngân hàng đã tham gia vào các hình thức huy động vốn và các dịch vụ ngân hàng như thế nào?
2.2. Tỷ trọng từng loại tiền gửi trên tổng nguồn vốn huy động :
Thông thường nguồn vốn huy động của ngân hàng bao gồm các loại tiền gửi như: Tiền gửi của các doanh nghiệp (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi._. có thể phát hành séc...), tiền gửi tiết kiệm (không kỳ hạn, có kỳ hạn). Mỗi loại tiền gửi khác nhau có các mức lãi suất khác nhau. Chỉ tiêu này xác định kết cấu của nguồn vốn huy động, để phát hiện ra mặt mạnh, mặt yếu của ngân hàng trong kinh doanh từ đó để đưa ra các biện pháp để đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng một cách phù hợp.Trong trường hợp ngân hàng có tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn cao ngân hàng đó sẽ có nhiều thuận lợi trong việc tạo ra lợi nhuận bởi lãi suất của loại hình tiền gửi này tương đối thấp. Ngược lại nếu tỷ lệ tiền gửi với lãi suất cao chiếm tỷ trọng lớn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết đầu ra của nguồn vốn. Song đây mới chỉ xét về một khía cạnh là lãi suất, còn việc đem lại lợi nhuận cao hay thấp và độ rủi ro ra sao thì còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
2.3. Tổng dư nợ :
Chỉ tiêu này cho biết ngân hàng cho vay được nhiều hay ít, mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng như thế nào? Chỉ tiêu này cao cho thấy ngân hàng đã tạo được uy tín đối với khách hàng, cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng phong phú thu hút được khách hàng.
2.4. Hiệu suất sử dụng vốn vay :
Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng dư nợ
Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động. Vậy tỷ lệ này lớn là tốt hay nhỏ là tốt? Chúng ta chưa thể khẳng định được bởi: Nếu tiền gửi ít hơn tiền cho vay thì ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn có chi phí cao hơn, còn nếu tiền gửi nhiều hơn tiền cho vay thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng thừa vốn.
2.5. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ :
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này thể hiện chất lượng của những khoản vay. Khi tỉ lệ này vượt quá một giới hạn cho phép thì nó thể hiện sự yếu kém của hoạt động tín dụng( Mức giới hạn của mỗi nước là khác nhau, ở Việt Nam hiện nay chấp nhận tỷ lệ này là 5%).
Theo thời gian, tỷ lệ này có thể phân làm 2 trường hợp:
Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 12 tháng =
Nợ quá hạn bình thường + Nợ quá hạn có vấn đề
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn trên 12 tháng =
Nợ quá hạn khó thu hồi
Tổng dư nợ
Qua việc phân loại nợ quá hạn, ta có thể biết rõ các khoản nợ đang gặp khó khăn hay những khoản nợ không thể thu hồi được từ đó đưa ra các biện pháp hợp lý rủi ro tới mức thấp nhất.
2.6. Chỉ tiêu lợi nhuận :
Chỉ tiêu lợi nhuận =
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng. Lợi nhuận ở đây phản ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lãi suất huy động) và thu lãi đầu ra.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng
Hiện nay vấn đề chất lượng tín dụng đang được các ngân hàng rất quan tâm và đang tìm mọi cách để có thể nâng cao chất lượng tín dụng một cách tốt nhất. Để quản lý và đưa ra những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng một cách có hiệu quả đòi hỏi chúng ta phải có một sự hiểu biết sâu sắc các nhân tố tác động đến nó. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng nhưng chúng ta có thể phân thành các nhóm nhân tố như :
3.1. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế và pháp lý :
ở đây chúng ta xét đến cả môi trường kinh tế trong nước và quốc tế:
Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân hàng phát triển, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được tiến hành một cách bình thường, không bị ảnh hưởng bởi lạm phát, khủng hoảng tài chính dẫn đến khả năng cho vay và khả năng trả nợ vay không có biến động lớn. Tuy nhiên để xã hội phát triển đi lên đòi hỏi nền kinh tế phải có sự tăng trưởng mà tăng trưởng thì dẫn đến lạm phát. Nếu chúng ta không quản lý tốt để lạm phát ở con số cao thì các ngân hàng sẽ là người chịu thiệt thòi nhất do đồng tiền mất giá và như vậy chất lượng tín dụng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. Ngoài ra do chính sách vĩ mô của nhà nước ưu tiên hay hạn chế phát triển một số ngành nghề kinh tế đảm bảo cho sự ổn định phát triển chung cho nền kinh tế cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng ngân hàng.
Hiện nay với chủ trương chuyển từ đối đầu sang đối thoại nước ta đã có quan hệ với nhiều nước trên thế giới và đem lại nhiều thuận lợi. Song việc đầu tư nước ngoài vào trong nước một cách ồ ạt sẽ làm mất cân bằng cung cầu tiền tệ gây ra lạm phát làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng một cách sâu sắc. Do vậy với hệ thống ngân hàng nước ta hiện nay chưa thực sự phát triển, chúng ta cần phải cố gắng hơn nữa trong vấn đề kiểm soát luồng tiền từ nước ngoài vào trong nước bởi luồng tiền này sẽ làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông gây ra lạm phát ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng.
Chu kỳ phát triển kinh tế cũng có tác động không nhỏ tới chất lượng tín dụng. Trong thời kỳ sản xuất kinh doanh đình trệ, nhu cầu vốn tín dụng giảm gây nên tình trạng ứ đọng vốn và các khoản tín dụng đã được thực hiện cũng khó hoàn trả. Ngược lại trong thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế, các doanh nghiệp đua nhau mở rộng sản xuất kinh doanh dẫn đến nhu cầu vay vốn ngày càng lớn. Trong một vài trường hợp do sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế đã gây ra những bất lợi cho doanh nghiệp làm cho khả năng trả các khoản nợ sẽ gặp nhiều khó khăn.
Một yếu tố mà chúng ta cần phải đề cập đến ở đây đó chính là lãi suất tín dụng cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Với phương châm “Đi vay để cho vay” các ngân hàng luôn luôn phải cố gắng để có thể đưa ra một mức lãi suất hợp lý sao cho vừa thu hút được vốn nhàn rỗi vừa đem lại lợi nhuận. Bởi nếu lãi suất huy động tiền nhàn rỗi quá thấp sẽ không khuyến khích được các tổ chức, cá nhân gửi tiền vào ngân hàng dẫn đến ngân hàng không đủ vốn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Ngược lại nếu lãi suất huy động đặt ra cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của ngân hàng, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong vấn đề cho vay. Và đối với lãi suất cho vay cũng vậy trường hợp đưa ra mức lãi suất cao sẽ dẫn đến tình trạng không cho vay được, ứ đọng vốn hoặc có cho vay được nhưng khó thu hồi bởi khách hàng của ngân hàng không phải tất cả đều làm ăn có hiệu quả mà có những khách hàng làm ăn không có lãi hoặc lãi thấp sẽ khó có thể trả được những khoản nợ lớn của ngân hàng gây rủi ro cho hoạt động của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng cũng như hoạt động của nền kinh tế nói chung muốn hoạt động có hiệu qủa thì cần phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, đầy đủ đi kèm hỗ trợ. Pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không có pháp luật hoặc một hệ thống pháp luật không đầy đủ, không phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ trở nên hỗn độn, không thể tiến hành trôi chảy. Pháp luật đã tạo lập hành lang pháp lý giúp cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao. Chỉ trong trường hợp các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng chấp hành luật pháp một cách nghiêm minh thì quan hệ tín dụng mới đạt kết quả mong muốn đem lại chất lượng cho hoạt động tín dụng ngân hàng.
Trong điều kiện nước ta hệ thống văn bản chưa được hoàn thiện đã gây khó khăn cho ngân hàng trong hoạt động của mình như: Hiện nay văn bản quy định về biện pháp đảm bảo tiền vay đối với các tổ chức Đảng chưa được ban hành trong khi đó các tổ chức này đang có nhu cầu vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp. Vì vậy Ngân hàng Nhà nước và các ban ngành có liên cần sớm ban hành thêm các văn bản cần thiết nhằm hoàn thiện dần hệ thống các văn bản tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong hoạt động của mình,góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
3.2. Nhóm nhân tố về phía ngân hàng và khách hàng:
Đây là những nhân tố thuộc về bản thân nội tại của ngân hàng có liên quan, ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng bao gồm:
- Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng có một ý nghĩa to lớn quyết định đến sự thành công hay thất bại của cả hệ thống ngân hàng. Do vậy khi xây dựng chính sách tín dụng cần phải đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng và của người sử dụng vốn vay. Đồng thời chính sách tín dụng phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và cần được dựa trên những cơ sở thực tiễn và khoa học nhất định.
Đối với các ngân hàng thương mại một chính sách tín dụng đúng đắn phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật và đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đảm bảo công bằng xã hội.
- Công tác tổ chức của ngân hàng:
Tổ chức của ngân hàng cần được cụ thể hoá và sắp xếp một cách có khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã được quy định cả về huy động vốn cũng như cho vay, quản lý đựơc cơ cấu tài sản nợ, tài sản có của ngân hàng. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do hoạt động tín dụng là loại hình kinh doanh tiền tệ có rủi ro rất lớn nên cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, bộ phận trong từng ngân hàng trong toàn hệ thống ngân hàng, giữa ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính, pháp lý... Việc thiết lập các mối quan hệ tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các vấn đề có liên quan đến tín dụng khi cần thiết.
- Chất lượng nhân sự:
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và trong hoạt động của ngân hàng nói chung. Hiện nay khi nghiệp vụ hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển thì đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại, phù hợp với sự phát triển nghiệp vụ không ngừng. Do vậy việc tuyển chọn nhân sự cần phải được tiến hành kỹ lưỡng, cán bộ tín dụng phải là người có trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp tốt, phải có chuyên môn giỏi thì mới có thể ngăn ngừa những sai phạm khi thực hiện chu kỳ khép kín cuả một khoản tín dụng, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng mình trên thị trường và đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu đa dạng của một xã hội ngày càng phát triển.
- Quy trình tín dụng:
Đây là những giai đoạn, công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay, thu nợ bắt đầu từ việc xét đơn xin vay của khách hàng cho đến khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc lập ra một quy trình tín dụng có đảm bảo tính khoa học không và việc thực hiện các giai đoạn trong quy trình tín dụng cũng như sự phối hợp nhịp nhàng giữa các giai đoạn như thế nào?
Quy trình tín dụng gồm 3 giai đoạn chính:
+ Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay: Đây là giai đoạn rất quan trọng trong quy trình tín dụng, nó quyết định đến chất lượng tín dụng của khoản tín dụng sẽ được thực hiện và là cơ sở định lượng rủi ro trong khi cho vay. Trong giai đoạn này chất lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng và việc chấp hành các quy định về điều kiện, thủ tục cho vay của ngân hàng.
+ Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro: Việc thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu áp dụng có hiệu quả các hình thức, biện pháp sẽ giúp cho ngân hàng kịp thời nắm bắt những thông tin về các khoản tín dụng đã cung cấp để có thể đưa ra kịp thời những quyết định can thiệp khi cần thiết, sớm ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
+ Thu nợ và thanh lý: Đây là giai đoạn mang tính chất quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng bởi nếu không thu được nợ đến hạn, ngân hàng sẽ mất vốn kinh doanh, chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng xấu nghiêm trọng, khủng hoảng có thể xảy ra mà điều tồi tệ hơn cả là khi hệ thống ngân hàng lâm vào tình trạng đó sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy mà ngân hàng cần phải tích cực trong công tác thu nợ. Sự linh hoạt của ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời điều kiện bất lợi xảy ra đối với khách hàng cùng những biện pháp xử lý chính xác, kịp thời sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được những rủi ro, hạn chế những khoản nợ quá hạn, bảo toàn vốn, nâng cao chất lượng tín dụng.
- Thông tin tín dụng:
Thông tin tín dụng có tác động trực tiếp đến quyết định cho vay, giúp cho các cán bộ tín dụng có câu trả lời đúng: Cho vay hay không cho vay? Xét trên tầm vĩ mô thông tin tín dụng là cơ sở đánh giá chất lượng tín dụng và đưa ra các dự báo phát triển kinh tế. Thông tin tín dụng có thể thu được nhiều nguồn: Hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh ... thông tin càng đầy đủ, chính xác, kịp thời thì khả năng ngăn ngừa rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao.
- Kiểm soát nội bộ:
Thông qua công tác này các nhà lãnh đạo ngân hàng sẽ nắm được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra, những khó khăn, thuận lợi trong việc chấp hành các quy định pháp luật, nội quy, quy chế, chính sách kinh doanh, thủ tục tín dụng từ đó giúp các nhà lãnh đạo ngân hàng đưa ra những chủ trương chính sách phù hợp nhằm giải quyết những khó khăn và phát huy những nhân tố thuận lợi nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc chấp hành các quy định, thể lệ... và mức độ kịp thời phát hiện sai sót cũng như nguyên nhân dẫn dến sai sót trong qúa trình thực hiện một khoản tín dụng.
- Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng
Trang thiết bị góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức quản lý ngân hàng, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay và thực hiện nghiệp vụ giao dịch với khách hàng. Đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện nay, các trang thiết bị tin học đã giúp cho ngân hàng cập nhật được thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Trên cơ sở đó đưa ra quyết định tín dụng đúng đắn, không bỏ lỡ thời cơ trong kinh doanh, giúp cho quá trình quản lý tiền vay và thanh toán được thuận tiện, nhanh chóng và chính xác.
Để đảm bảo khoản tín dụng đựoc sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, mang lại lợi ích cho ngân hàng góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội thì khách hàng có vai trò hết sức quan trọng. Một khách hàng có tư cách đậo đức tốt, có tình hình tài chính vững vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng hoàn trả đầy đủ những khoản vay vốn của ngân hàng khi đến hạn qua đó đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng.
Những nhân tố này bao gồm:
Trình độ quản lý điều hành của cán bộ doanh nghiệp có đáp ứng được trong nền kinh tế thị trường hay không, năng lực về vốn và tài sản của doanh nghiệp có đủ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay không, chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh tốt hay xấu, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp, tương lai phát triển của doanh nghiệp như thế nào? ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp trong công tác trả nợ ngân hàng.
Những yếu tố trên đặt ra cho SGD cần phải chọn khách hàng để đầu tư, thẩm định kỹ lưỡng và cần phải giám sát một cách chặt chẽ quá trình trước, trong, sau khi cho vay, có như vậy mới đảm bảo được chất lượng tín dụng.
Phần II: Phân tích thực trạng chất lượng tín dụng của sở giao dịch ngân hàng
Chính Sách Xã Hội Nam Định
I. Giới thiệu chung về ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định và Sở Giao dịch
Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định là một chi nhánh thuộc hệ thống Ngân Hàng Chính Sách Việt Nam đặt tại trụ sở chính tại 91 Trần Hưng Đạo-Thành phố Nam Định, phạm vi hoạt động chủ yếu trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính phủ Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định đã ra đời góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, kìm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Với quy mô hoạt động chi nhánh ngân hàng tỉnh huyện, Ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định có vị trí là ngân hàng quản lý.
Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định là một trong 64 chi nhánh của Ngân hàng Chính Sách Xã Hội, đóng vai trò tạo nguồn vốn, cung cấp các hình thức dịch vụ ngân hàng, đáp ứng nhu cầu tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, góp phần thực hiện mục tiêu chương trình, giải pháp Chính phủ đề ra, định hướng phát triển kinh doanh của Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định có tên giao dịch quốc tế:
VIET NAM BANK FOR SOCIAL POLICIES-Nam Định Branch
Trụ sở: Số 91-Trần Hưng Đạo - Nam Định
Ngày 14 tháng 01 năm 2003 số 25/QĐ-HĐQT Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định được thành lập, đóng vai trò quản lý với các ngân hàng cấp huyện, xã, dựa trên các văn bản của Thành uỷ và cơ quan cấp trên, đồng thời đóng vai trò là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng.
Là một ngân hàng hoạt động trên địa bàn phường Trần Hưng Đạo, thuộc khu vực trung tâm thành phố với nhiều hoạt động buôn bán nhộn nhịp và có nhiều doanh nghiệp đặt trụ sở nên cũng có nhiều tác động đến hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Một mặt chi nhánh có điều kiện tiếp xúc và thu hút số lượng lớn khách hàng, tạo tiền đề cho việc đa dạng hoá và mở rộng các loại hình dịch vụ.
Tuy nhiên, cùng với sự lớn mạnh của hệ thống Ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định đã trở thành một trong những ngân hàng có uy tín, quan hệ với các đối tác ngày càng mở rộng. Chi nhánh đang cố gắng vươn lên khắc phụ những khó khăn trước mắt, không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, góp phần đáng kể vào sự phát triển bền vững của toàn hệ thống.
2. Đặc điểm của sở giao dịch Nam Định
Hoạt động của Ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định không vì mục đích lợi nhuận được Nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc 0%, không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước nhưng nó vẫn mang tính chất kinh doanh.
Đối tượng cho vay chủ yếu là những hộ nghèo, những gia đình thuộc diện chính sách và các đối tượng khác thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Có bộ máy quản lý và điều hành thống nhất trong phạm vi toàn tỉnh, là một pháp nhân, có vốn điều lệ, tài sản, con dấu và hệ thống giao dịch từ tỉnh xuống các xã.
Chế độ tài chính, chế độ tiền lương và phụ cấp của cán bộ, viên chức và việc trích lập, sử dụng các quỹ của ngân hàng do Thủ tướng Chính phủ ra quyết định.
Người nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay với mức lãi suất ưu đãi để phục vụ sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo ổn định xã hội.
II. Phân tích thực trạng kinh doanh năm 2003 của Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định
Trong công tác đổi mới nền kinh tế Việt Nam thời gian qua đã thu được kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong dân chúng cũng như các nhà đầu tư. Năm 2003 là năm kinh tế nước ta bước sang giai đoạn phát triển chiều sâu theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế các nước ASEAN và quốc tế. Là một lĩnh vực đóng vai trò xương sống của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng nói chung và SGD nói riêng cần phải có những bước tiên phong trong qúa trình đổi mới vừa phải khắc phục những tồn tại cũ vừa phải vươn lên để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong tình hình mới đó là :
Tình trạng về tài chính của các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thua lỗ, gặp nhiều khó khăn. Mặc dù nhà nước cũng đã có những biện pháp tăng cường thêm nguồn vốn cho các doanh nghiệp.
Bản thân SGD hiện nay vẫn cần phải giải quyết những tồn đọng từ năm trước. Mặc dù số lượng nợ quá hạn có giảm song tỷ lệ nợ quá hạn vẫn cao, tiến độ thu nợ và sử lý tài sản thuế chấp còn chậm, các cơ chế xử lý đòi hỏi phải có sự phối kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan có liên quan chưa được bổ xung và ban hành kịp thời.
Hiện nay trên địa bàn Nam Định có nhiều ngân hàng thương mại quốc doanh và ngoài quốc doanh cùng họat động, các ngân hàng kinh doanh đa năng nội tệ, ngoại tệ và tham gia thanh toán quốc tế. Thực trạng một khách hàng vay nhiều ngân hàng đang phổ biến và là yêu cầu tất yếu của sự phát triển. Tuy nhiên các ngân hàng không có sự phối hợp chặt chẽ với nhau dẫn đến còn thiếu giải pháp để kiểm soát an toàn vốn vay. Việc cạnh tranh giữa các ngân hàng đôi khi gay gắt, thiếu lành mạnh, rất dễ xảy ra rủi ro.
Trước tình hình đó để vượt qua được khó khăn trên SGD đã bám sát định hướng nêu ra nhằm đạt được mục tiêu của mình. Vừa tổ chức thực hiện nhiệm vụ kinh doanh theo kế hoạch đã định, vừa đảm bảo thực hiện tốt nội dung công tác “chấn chỉnh hoạt động ngân hàng” với phương châm: ổn định, an toàn, hiệu qủa và phát triển, phát huy sức mạnh nội lực thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của cấp trên, tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của Ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định và các ngành có liên quan. Trong năm 2003 SGD đã đạt được kết quả trên các mặt hoạt động như :
1. Công tác tín dụng
1.1. Nguồn vốn huy động :
Là một tổ chức chuyên “đi vay để cho vay” do vậy công tác tạo vốn ở ngân hàng là tiền đề để mở rộng thị trường tín dụng và là điều kiện sống còn trong kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Thấy được tầm quan trọng của việc huy động vốn SGD luôn đề cao công tác này. Năm 2003 đã thực hiện nghiêm túc chủ chương và chỉ tiêu kế hoạch Tổng giám đốc giao về nguồn vốn huy động. Với nhiều hình thức, nhiều thể loại huy động và tuỳ từng địa điểm mà SGD đã áp dụng các biện pháp năng động mềm dẻo để thu hút nguồn vốn cả ngoại tệ và nội tệ đáp ứng nhu cầu tín dụng của Sở đảm bảo nguồn vốn điều chuyển về ngân hàng Chính Sách Xã Hội theo kế hoạch góp phần điều hoà vốn của chung cho toàn hệ thống.
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2003
- Nguồn vốn huy động đạt 541 tỷ tăng gần 10% so với năm 2002.
Cơ cấu nguồn vốn như sau :
+ Nguồn vốn không kỳ hạn chiếm tỷ lệ 25,98% tổng nguồn vốn
+ Nguồn vốn kỳ hạn dưới 12 tháng chiếm tỷ lệ 30,32% tổng nguồn vốn
+ Nguồn vốn kỳ hạn trên 12 tháng chiếm tỷ lệ 43,7% tổng nguồn vốn
+ Nguồn vốn kỳ hạn trên 12 tháng chiếm tỷ trọng lớn trong đó chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ 12 tháng (chiếm tỷ lệ 99%) tiền gửi tiết kiệm nội tệ 12 tháng chỉ đạt 2,5 tỷ đồng (1%).
1.2 Tình hình đầu tư vốn tín dụng năm 2003:
Tổng doanh số cho vay 223 tỷ đồng tăng 59 tỷ đạt 135% so với năm 2002 trong đó:
+ Cho vay ngoại tệ đạt 4000 ngàn USD giảm 4518 ngàn USD và đạt 46,33% so với năm 2003.
+ Cho vay nội tệ là 169 tỷ đồng tăng 120 tỷ, đạt 344,9% so với 2002.
+ Doanh số thu nợ trong năm đạt 230 tỷ đồng tăng 107 tỷ, đạt 186,9% so với năm 2002.
Tổng dư nợ đến 31/12/2003 đạt 183 tỷ đồng bằng 88% so với năm 2002(giảm 12% tương đương với 25 tỷ đồng). Thời điểm 31/12/2003 điều chỉnh sang tài khoản nợ khoanh số tiền 18 tỷ đồng.
+ Dư nợ cho vay nội tệ : 66 tỷ đồng, tăng 18 tỷ đồng và bằng 137% so với 2002 chiếm tỷ lệ 36% tổng dư nợ.
* Cơ cấu đầu tư như sau :
Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế:
Ngành nông lâm nghiệp đạt : 74 tỷ đồng bằng 40,43% so với tổng dư nợ
Ngành công nghiệp đạt 24 tỷ đồng bằng 13,11% so với tổng dư nợ
Ngành dịch vụ thương mại đạt 52 tỷ đồng bằng 28,41% so với tổng dư nợ
Ngành xây dựng đạt 22 tỷ đồng bằng 12,02% so với tổng dư nợ
Ngành giao thông vận tải đạt 10 tỷ đồng bằng 5,46% so với tổng dư nợ
Ngành khác (cho vay cầm cố) 1 tỷ đồng bằng 0,5% so với tổng dư nợ
Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế (năm 2003)
Doanh số cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước: 212 tỷ đồng chiếm 95,067% tổng doanh số cho vay.
Doanh số cho vay ngoài quốc doanh: 11 tỷ đồng chiếm 4,933% tổng doanh số cho vay.
Có thể nói khách hàng của SGD có số lượng không nhiều mặt khác theo như đánh giá của cán bộ tín dụng thì năng lực sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của các doanh nghiệp là không đồng đều do vậy đòi hỏi các cán bộ tín dụng cần linh hoạt trong khi xét duyệt cho vay đối với từng doanh nghiệp, gắn hiệu quả cho vay với an toàn vốn. Trong năm 2003 SGD đã thực hiện đáp ứng được vốn để duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp nhà nước. Giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động. Song hiện nay tại Sở còn có một số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh ở mức cầm chừng, tài chính khó khăn và một số doanh nghiệp khác đang gặp những khó khăn tạm thời. SGD đã đưa ra những giải pháp tích cực nhằm giúp cho doanh nghiệp có điều kiện khắc phục vươn lên đồng thời tránh rủi ro, tạo ra thế ổn định đầu tư tín dụng an toàn có hiệu quả và tạo tiền đề để phát triển nhịp độ tăng trưởng tín dụng lành mạnh, chất lượng tín dụng đưọc nâng lên, đảm bảo cơ chế tín dụng hiện hành, giảm tỷ lệ nợ quá hạn.
Tóm lại công tác tín dụng năm 2003 của Sở đã có nhiều cố gắng và thực sự đi vào chất lượng: Đối với những món vay mới thực hiện nghiêm túc thể lệ chế độ quy trình nghiệp vụ tín dụng, đảm bảo tất cả các món vay đều được kiểm tra trước, trong và sau khi phát tiền vay, thực hiện quy chế thế chấp tài sản, không tạo kẽ hở cho khách hàng lợi dụng, chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng vốn sai mục đích. Tiến hành phân loại khách hàng, chọn lựa các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, sản xuất kinh doanh đúng hướng, có tín nhiệm để tạo ra một đội ngũ khá ối với những khoản ch hàng tin cậy và mang tính chiến lược lâu dài. Vì vậy năm 2003 dư nợ quá hạn giảm so với năm 2002 bằng 8,3 tỷ.
Cơ cấu tín dụng theo thời gian đầu tư :
+ Doanh số cho vay ngắn hạn : 208.742 triệu đồng chiếm tỷ lệ 93,6% tổng doanh số cho vay.
+ Doanh số cho vay trung dài hạn : 14.258 triệu đồng chiếm tỷ lệ 6,4% tổng doanh số cho vay.
Qua số liệu trên ta thấy SGD chủ yếu là cho vay để đầu tư vốn lưu động cho các doanh nghiệp chiếm 93,6% tổng doanh số cho vay.
Tỷ lệ đầu tư trung và dài hạn còn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng doanh số cho vay trong năm - phải chăng nguyên nhân ở đây là do hầu hết các khách hàng của Sở đều có quy mô nhỏ, không đồng đều và không ổn định. Vì vậy trong năm 2003 mặc dù SGD đã thực sự cố gắng đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh cho các hộ sản xuất kinh doanh sang năm 2004 Sở cần phải tích cực hơn nữa trong công tác tìm kiếm những khách hàng có dự án đầu tư hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của SGD.
2 .Các hoạt động khác
2.1. Hoạt động quản lý và kinh doanh vốn trên tài khoản :
Từ tháng 4 năm 2003 SGD được giao nhiệm vụ quản lý toàn bộ tài khoản của ngân hàng Chính Sách Xã Hội Nam Định SGD đã sử dụng có hiệu quả vốn nhàn rỗi trên tài khoản, đảm bảo nhu cầu thanh toán, an toàn vốn và thu lợi nhuận cao thông qua việc điều chuyển vốn giữa các ngân hàng có mức chênh lệch lãi suất khác nhau.
Năm 2003 đã thực hiện 200 giao dịch gửi kỳ hạn USD (tổng doanh số 1,7 tỷ USD) với số dư bình quân khoảng 50 triệu USD thu từ chênh lệch lãi so với lãi suất tiền gửi không kỳ hạn gửi tại các ngân hàng nước ngoài là 187 ngàn USD.
Từ tháng 8/2003 được Tổng giám đốc giao tận dụng nguồn vốn ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi của toàn ngành gửi tại các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. SGD đã thực hiện 167 giao dịch tiền gửi doanh số 3460 tỷ đồng với số dư thường xuyên khoảng 200 đến 250 tỷ đồng chênh lệch thu lãi so với gửi tại Ngân Hàng Nhà Nước là 3,3 tỷ đồng.
2.2. Công tác kế toán ngân quỹ :
Với tư cách là một Sở đầu mối của toàn ngành trong đó có công việc tại phòng kế toán của SGD luôn bận rộn song với sự cố gắng của các nhân viên trong phòng năm 2003 đã tổ chức hạch toán đầy đủ, kịp thời, chính xác, đúng chế độ kế toán các nghiệp vụ phát sinh, tổ chức tốt mạng lưới nhận tiền và chuyển tiền qua mạng máy vi tính, góp phần tăng cường quay vòng vốn, tăng số lượng khách hàng đến giao dịch với SGD đồng thời tổ chức tốt công tác huy động vốn thông qua nghiệp vụ tuyên truyền, hướng dẫn khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán.
Từ tháng 3/2003 đã nhận tài khoản tiền gửi nội tệ của các hộ gia đình và của các doanh nghiệp, từ Sở II bàn giao. Đến tháng 5/2003 lại tiếp tục nhận bàn giao các tài khoản theo dõi vốn vay, quỹ và vốn tập trung của toàn ngành từ SGD I. Vấn đề trên đã làm cho khối lượng nghiệp vụ tăng lên đột biến, lượng chứng từ bình quân một ngày là 600 chứng từ song do bố trí cán bộ phù hợp tổ chức điều hành phù hợp nên đã hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo yêu cầu an toàn chính xác, hoàn thành công việc chuyển đổi từ tài khoản cũ sang hệ thống tài khoản mới đảm bảo phục vụ cho các chi nhánh và khách hàng kịp thời. Vì vậy qua các đợt kiểm tra, đối chiếu công khai số dư tiền gửi, tiền vay với khách... Thanh tra của cấp trên chưa phát hiện ra trường hợp nào tham ô và lợi dụng. Đồng thời do thực hiện nghiêm ngặt chế độ kiểm tra, kiểm soát chứng từ kiểm tra thực hiện quy trình hạch toán, chế độ sao kê đối chiếu, chế độ chuyển nợ quá hạn ... Sở đã không những chấp hành nghiêm chế độ mà còn giữ được tín nhiệm đối với khách hàng giao dịch.
Năm 2003 Sở đạt được kết quả kinh doanh như sau :
- Tổng thu : 124.888 triệu đồng tăng 30,4% so với năm 2002 trong đó:
+ Thu lãi tiền vay: 42.715 triệu đồng chiếm tỷ lệ 34,2%
+ Thu lãi tiền gửi :59.887 triệu đồng chiếm tỷ lệ 47,95%
+ Thu dịch vụ thanh toán : 4.186 triệu đồng chiếm tỷ lệ 3,35%
+ Thu kinh doanh ngoại tệ : 4.502 triệu đồng chiếm tỷ lệ 3,61%
+ Thu khác : 13.598 triệu đồng chiếm tỷ lệ 10,89%
- Tổng chi phí : 101.646 triệu đồng tăng 17% so với năm 2002 trong đó:
+ Chi về huy động vốn : 67.788 triệu đồng chiếm tỷ lệ 66,69%
+ Chi nộp thuế : 244 triệu đồng chiếm tỷ lệ 0,24%
+ Chi cho nhân viên : 905 triệu đồng chiếm tỷ lệ 089%
+ Chi phí quản lý : 1.747 triệu đồng chiếm tỷ lệ 1,72%
+ Chi về tài sản : 671 triệu đồng
+ Trích dự phòng rủi ro : 30.291 triệu đồng chiếm tỷ lệ 29,8%
- Chênh lệch thu chi: 124.888 - 101.646 = 23.242 triệu đồng tăng 62% so với năm 2002.
Nguồn thu ở đây chủ yếu là thu từ lãi tiền gửi đạt 59,887 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 48% tổng thu. Nguồn thu lãi cho vay chiếm tỷ lệ 34,2 % so với tổng thu đạt thấp hơn so với năm trước là do nhiều khách hàng vay vốn gặp khó khăn về tài chính dẫn đến nợ quá hạn cao không thu được lãi.
Bên cạnh đó ta thấy năm 2003 có một số khoản thu ổn định và tăng trưởng so với năm 2002 như: Thu dịch vụ thanh toán gần bằng 4,2 tỷ đồng, thu từ các khoản thu khác, haikhoản thu này chiếm tỷ trọng 7% tổng thu và có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Sở.
Trong tổng chi phí chủ yếu là chi trả lã._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36149.doc