Tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam - Chi nhánh Chương Dương: ... Ebook Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam - Chi nhánh Chương Dương
123 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1297 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam - Chi nhánh Chương Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, khi mà xu thế hội nhập và hợp tác trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế ngày càng trở nên rõ ràng và cần thiết hơn bao giờ hết. Đứng trước tình hình đó ngành Ngân hàng- một ngành có thể nói là ngành luôn đi đầu trong công tác đổi mới, mở cửa và cũng là ngành hết sức nhạy cảm đối với những thay đổi dù là nhỏ, đã đang và sẽ có được những thời cơ rất lớn để phát huy hơn nữa vai trò của nó đối với bản thân hệ thống ngân hàng, đối với khách hàng và đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, nhưng đồng thời hệ thống ngân hàng cũng phải đối mặt với rất nhiều thách mới, rất gay gắt từ phía các ngân hàng và các định chế tài chính nước ngoài- là các đơn vị có ưu thế rất lớn về vốn, về trình độ quản lý, về khoa học công nghệ. Hơn thế nữa, các ngân hàng này lại có bề dày kinh nghiệm trong việc đưa ra các sản phẩm mới, cùng với sự đa dạng phong phú trong danh mục các sản phẩm (trung bình khoảng 600 sản phẩm dịch vụ các loại) sẽ tạo ra những thách thức rất lớn đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam, ngay cả đối với những ngân hàng tốt nhất. Nắm bắt được những thách thức đó trong những năm vừa qua, ngành ngân hàng Việt Nam đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần đã có những nỗ lực rất lớn trong việc đưa ra hàng loạt các sản phẩm dịch vụ mới nhằm thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của toàn xã hội. Trong số đó, hoạt động tín dụng vẫn từng bước khẳng định được vị trí của nó đối với sự tồn tại và phát triển không ngừng của tổng thể nền kinh tế Quốc dân. Là một ngân hàng thương mại ra đời khá sớm so với các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước, cùng với những kinh nghiệm phong phú của bản thân ngân hàng trong việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ phục vụ khách hàng, sự linh hoạt trong chính sách, chiến lược kinh doanh, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam đã nhanh chóng xác định cho mình một phân đoạn thị trường mục tiêu, là một thị trường tiềm năng trong tương lai, phù hợp với các nguồn lực hiện có của ngân hàng, đó chính là thị trường bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tư nhân và các hộ kinh doanh cá thể, là các đối tượng mà trên thị trường quốc tế được gọi là “Retail Customers”.
Nhờ vậy, ngay sau khi đi vào hoạt động tháng 02 năm 2002, hướng phục vụ chủ yếu của chi nhánh Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Chương Dương đã nhằm chủ yếu vào các đối tượng khách hàng trên. Tuy nhiên, theo thống kê thì cho tới thời điểm hiện nay, khả năng đáp ứng vốn cho khách hàng loại này của tất cả các ngân hàng Việt nam mới chỉ đạt khoảng 20% tổng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Vậy, thực trạng hoạt động tín dụng, chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Chương Dương đối với các khách hàng trên là như thế nào?
Được sự giúp đỡ động viên của thầy cô, gia đình và bạn bè, cùng với sự chỉ bảo tận tình của các cán bộ công nhân viên Ngân hàng Thương mại Kỹ thương Chương Dương, kết hợp với những kiến thức đã được học tập tại trường và tại chi nhánh Ngân hàng Thương mại Kỹ thương Chương Dương đã giúp em tự tin hơn trong việc chọn ra đề tài : “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam– chi nhánh Chương Dương”cho chuyên đề tốt nghiệp.
Nội dung chuyên đề bao gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương – Chi nhánh Chương Dương (Techcombank Chương Dương)
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam – chi nhánh Chương Dương
Hy vọng rằng, với những vấn đề về lý thuyết và thực tiễn về chất lượng hoạt động tín dụng được trình bày trong chuyên đề này sẽ góp phần làm sáng tỏ phần nào thực trạng, chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam, đồng thời, với việc đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại với mong muốn đóng góp một phần lý luận nhỏ bé của mình vào sự phất triển của hoạt động tín dụng Ngân hàng Thương mại nói riêng và sự nghiệp phát triển toàn ngành ngân hàng nói chung.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm
Những thắng lợi của toàn Đảng, toàn dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và đặc biệt là những kết quả đạt được trong công cuộc đổi mới toàn diện vừa qua của đất nước đã khẳng định dược vai trò không thể thiếu của một ngành, một lĩnh vực hoạt động rất đặc biệt, là lĩnh vực mà đối tượng kinh doanh là tiền tệ, là một loại hàng hoá đặc biệt, đồng thời cũng khẳng định sự đúng đắn trong đường lối lãnh đạo của Đảng và nhà nước đối với sự nghiệp đổi mới toàn diện của nước ta trong thời gian qua. Vai trò của nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế của đất nước lớn như vậy nhưng khái niệm thực sự vê Ngân hàng như thế nào thì không phải ai cũng hiểu rõ?
Vậy Ngân hàng là gì? Chức năng của nó là gì? Xung quanh những vấn đề này hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau.Có quan điểm cho rằng Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với các hoạt động chủ yếu là huy động, cho vay, thanh toán. Quan điểm khác lại cho rằng Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với chức năng chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
Và quan điểm được hầu hết các nhà quản lý Ngân hàng và các nhà khoa học nghiên cứu về Ngân hàng, đồng tình đó là:
“Ngân hàng là loại hình tài chính cung cấp một dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất cứ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của các Ngân hàng Thương Mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng (cá nhân, hộ gia đình) và với hầu hết các cơ quan chính quyền địa phương (thành phố, tỉnh,...).
Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương, từ người bán rau quả cho tới người kinh doanh xe ô tô, Ngân hàng là tổ chức cung cấp tín dụng cơ bản phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc mua ô tô trưng bày. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng cần phải thanh toán cho các khoản hàng hoá, dịch vụ hay cần lập kế hoạch tài chính, họ thường sử dụng các phương tiện thanh toán, hay thường sử dụng các lời tư vấn của Ngân hàng.
Ngân hàng được hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển Ngân hàng, đến lượt mình sự phát triển của hệ thống Ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển thông qua các nghiệp vụ mà nó thực hiện.
Nghề Ngân hàng sơ khai bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng – Mô hình Ngân hàng của những người thợ vàng, hoặc Ngân hàng của những kẻ cho vay nặng lãi, đầu tiên đã dùng vốn tự có để tài trợ cho hoạt động của họ và khách hàng của họ chủ yếu là những cá nhân giàu có như quan lại, địa chủ,… nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng. Sau đó mở rộng ra cho vay đối với vua chúa, nhằm tài trợ một phần nhu cầu chi tiêu cho chiến tranh.
Sau đó, loại hình Ngân hàng này đã sụp đổ do sự chủ quan, ham siêu lợi nhuận, chấp nhận rủi ro cao của các chủ Ngân hàng.
Sự sụp đổ này đã gây khó khăn rất lớn cho hoạt động thanh toán, ảnh hưởng xấu đến hoạt động buôn bán. Hơn thế nữa, lãi suất của những khoản vay lại quá cao cho nên chi phí để sử dụng nguồn vốn này rất cao. Trước tình hình đó, một số nhà buôn đã nhóm lại với nhau và hình thành ra Ngân hàng phục vụ cho chính bản thân họ và một số nhà buôn quen biết khác và gọi là Ngân hàng Thương Mại (NHTM). Như vậy NHTM được hình thành xuất phát từ Tư bản thương nghiệp và hoạt động của nó gắn liền với quá trình phát triển của Tư bản thương nghiệp.
Ngân hàng Thương Mại lúc này đã có những khác biệt tương đối lớn so với Ngân hàng của người thợ vàng, an toàn hơn do hình thức cho vay của Ngân hàng Thương Mại chủ yếu là chiết khấu thương phiếu, là một loại giấy tờ có giá, đảm bảo cho khả năng hoàn trả của khoản vay chứ không phải là hình thức thấu chi như Ngân hàng của người thợ vàng, tuy thời hạn vay mới dừng lại ở các khoản vay ngắn hạn dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hoá và đối tượng vay không bao gồm người tiêu dùng, vay trung, dài hạn. Sau đó cùng với quá trình phát triển thăng trầm, sự đổ vỡ cộng với sự phát triển của kinh tế khoa học công nghệ, hoạt động của Ngân hàng đã có bước phát triển rất nhanh. Trước hết, đó là sự tách riêng Ngân hàng Trung ương và Ngân hàng Thương Mại, sự đa dạng hoá các loại hình Ngân hàng và các hoạt động Ngân hàng: các loại hình tài trợ cho vay, các phương thức huy động vốn ngày càng được đa dạng hoá, đáp ứng ngày càng tốt hơn những nhu cầu đa dạng ngày càng cao hơn của nền kinh tế. Không những thế, khi khoa học công nghệ trở thành một yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất xã hội thì hàng loạt các dịch vụ mới ra đời: dịch vụ ATM, dịch vụ Ngân hàng tại gia,…
Quá trình phát triển này không những làm gia tăng số lượng mà còn làm tăng quy mô của mỗi Ngân hàng. Quá trình tích tụ và tập trung vốn đã tạo ra những Ngân hàng cực lớn, kèm theo nó là các thành công trong việc thực hiện các nghiệp vụ mà bản thân Ngân hàng không trực tiếp thực hiện theo quy định của pháp luật. Quá trình phát triển này đã và đang tạo ra mối liên hệ ràng buộc ngày càng chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các Ngân hàng. Các hoạt động Ngân hàng xuyên quốc gia và đa quốc gia đã và đang tạo ra sự liên kết giữa các Ngân hàng ở trong cùng một nước và giữa các nước với nhau tạo ra những thuận lợi căn bản trong việc tạo ra các chính sách chung hoặc tương thích để kiểm soát chung, để kết nối và tạo sự thống nhất trong điều hành hệ thống Ngân hàng trong mỗi nước và vận hành hệ thống Ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế.
Lịch sử phát triển của Ngân hàng, không phải là không phải trải qua những thăng trầm, những cuộc khủng hoảng và hoảng loạn trong mỗi quốc gia, khu vực và thế giới, gây ra những tổn thất không phải là nhỏ cho nền kinh tế và gây ra những biến động lớn trong hoạt động chính trị song sau tất cả những gì mà Ngân hàng đã làm được đối với sự phát triển của lịch sử nhân loại thì sự tồn tại và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước và trên toàn thế giới là điều không ai phải nghi ngờ.
1.1.3. Chức năng của các Ngân hàng Thương Mại
1.1.3.1. Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: các cá nhân và các tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; loại cá nhân và tổ chức thứ hai là tổ chức cá nhân thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm và nếu như không có Ngân hàng và các trung gian tài chính khác thì để cho những người cần vốn có cơ hội đầu tư tốt và người có vốn mà lại không có cơ hội đầu tư tốt là rất khó, tốn kém nhiều chi phí, lại khó tạo ra được sự phù hợp về quy mô, thời gian vay có thể dẫn đến khả năng bỏ qua cơ hội đầu tư tốt của cả người đi vay và người cho vay. Ngân hàng và các trung gian tài chính khác xuất hiện đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm. Từ đó mà khuyến khích tiết kiệm đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư từ đó mà khuyến khích đầu tư. Vì vậy mà giải quyết được những khó khăn nêu trên. Hơn thế nữa, Ngân hàng còn có một đội ngũ cán bộ có năng lực cao, có khoa học công nghệ hàng đầu. Do yêu cầu đặc tính của ngành Ngân hàng, nên khả năng thu thập và xử lý thông tin của Ngân hàng có ưu thế rất lớn, đây cũng là nhân tố góp phần làm gia tăng vai trò không thể thiếu được của Ngân hàng trong hoạt động của cả nền kinh tế.
1.1.3.2. Tạo phương tiện thanh toán
Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (Mo). Thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại Ngân hàng. Thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản, tiền gửi tiết kiệm, và tiền gửi có kỳ hạn. Do vậy không phải như Ngân hàng của người thợ vàng – tạo phương tiện thanh toán thông qua việc phát hành các giấy nợ với khách hàng hay in tiền kim loại, Ngân hàng ngày nay, khi mà điều kiện thanh toán qua ngân hàng phát triển ngày càng nhanh, Ngân hàng và khách hàng nhận thấy nếu khách hàng có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Và khi Ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên. Do đó bằng việc cho vay Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1).
Tương tự như vậy toàn bộ hệ thống Ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo ra phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay.
1.1.3.3. Trung gian thanh toán
Ở hầu hết các quốc gia hiện nay, Ngân hàng đã trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay. Thông qua các dịch vụ thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, các loại thẻ,… Ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng thanh toán hàng hoá và dịch vụ. Không những Ngân hàng cung cấp cho khách hàng những dịch vụ thuận tiện, nhanh chóng, tiết kiệm mà thông qua những ưu thế về khoa học – công nghệ. Các Ngân hàng còn tham gia thanh toán bù trừ thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc qua trung tâm thanh toán bù trừ và công nghệ càng được mở rộng thì hiệu quả hoạt thanh toán ngày càng cao.
1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của các trung gian tài chính nói chung, và của các NHTM nói riêng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người là điều không thể không nhắc tới, thế nhưng những tồn tại ở đâu đó có một nghịch lý đó là không phải ai, không phải bất cứ một công dân nào cũng có thể hiểu một cách rõ ràng và đầy đủ về khái niệm, về hoạt động tín dụng của các NHTM và đứng trên các giác độ nghiên cứu khác nhau hoạt động tín dụng cũng được định nghĩa khác nhau xung quanh nội dung chính đó là quan hệ vay mượn bao gồm cả đi vay và cho vay. Tuy nhiên, khi gắn với một chủ thể cụ thể như NH thì tín dụng chỉ bao hàm nghĩa cho vay chứ không bao hàm hoạt động đi vay của NH.
Theo điều 49 luật các TCTD thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 do chủ tịch nước Trần Đức Lương ký công bố ngày 26 tháng 12 năm 1997 “tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN”.
Trong đó cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi bằng các nghiệp vụ đã nêu trên. Bên cạnh đó, nếu xem xét tín dụng như một chức năng cơ bản của NH thì nó sẽ được hiểu như sau:”tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc tài sản, hàng hoá) giữa bên cho vay (NH về các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định, theo thoả thuận bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán” - giáo trình tín dụng NH – Học viện Ngân hàng.
1.2.2. Đặc điểm
- TÝn dông cã tÝnh thêi h¹n: XuÊt ph¸t tõ tÝnh chÊt t¹m thêi cña qu¸ tr×nh chuyÓn giao quyÒn sö dông vèn b¾t nguån ngay tõ tÝnh chÊt cña ho¹t ®éng huy ®éng vèn cña c¸c Ng©n hµng th¬ng m¹i. TÝn dông lu«n g¾n liÒn víi qu¸ tr×nh lu©n chuyÓn vèn tõ h×nh th¸i gi¸ trÞ sang h×nh th¸i hiÖn vËt vµ ngîc l¹i, víi chu k× cña qu¸ tr×nh s¶n xuÊt kinh doanh cña kh¸ch hµng.
- TÝn dông cã tÝnh hoµn tr¶: Do chiô sù chi phèi cña tÝnh chÊt thêi h¹n, nguån vèn mµ b¶n th©n ng©n hµng ®i vay còng ph¶i thanh to¸n theo nh÷ng quy ®Þnh cô thÓ, ho¹t ®éng cho vay cña Ng©n hµng còng ph¶i cã nh÷ng rµng buéc nhÊt ®Þnh ®èi víi kh¸ch hµng vay ®Ó ®¶m b¶o thu håi vèn theo kÕ ho¹ch ®Þnh s½n,nh»m ®¶m b¶o kh¶ n¨ng thanh to¸n nî cho c¸c chñ nî kh¸c cña Ng©n hµng.
- TÝn dông cã tÝnh t¹m thêi: Trong qu¸ tr×nh s¶n xuÊt kinh doanh, t×nh tr¹ng thõa thiÕu vèn t¹m thêi rÊt thêng xuyªn x¶y ra.Vµ ®Ó ®¶m b¶o hiÖu qu¶ cho c«ng t¸c sö dông vèn,c¸c ®¬n vÞ kinh tÕ sÏ ph¶i nhê ®Õn Ng©n hµng nh lµ n¬i ®Ó göu tiÒn vµo ®Ó lÊy l·i khi guån vèn d thõa vµ lµ n¬i ®¸p øng tèt nhÊt nh÷ng nhu cÇu vÒ vèn cho s¶n xuÊt kinh doanh trong trêng hîp ®¬n vÞ ®ã r¬i vµo t×nh tr¹ng thiÕu vèn.
1.2.3. Các nguyên tắc tín dụng
Hoạt động của Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Thương mại nói riêng là các hoạt động dựa trên uy tín và hướng đến các mục tiêu chủ yếu là an toàn và sinh lợi. Để đạt được những mục tiêu trên các hoạt động này phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các quy định của ngân hàng Nhà nước và các NHTM, với một số nội dung chính sau:
Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn gốc và lãi với thời gian xác định: Các khoản tín dụng của Ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản Ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả lãi lẫn gốc như đã cam kết. Do vậy Ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích được thỏa thuận với Ngân hàng, không trái với những quy định của pháp luật và các quy định khác của Ngân hàng cấp trên. Luật phát quy định phạm vi hoạt động cho các Ngân hàng, trên cơ sở đó mỗi Ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng, cụ thể hơn. Mục đích tài trợ được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng đảm bảo Ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và việc tài trợ do là phù hợp với chính sách của Ngân hàng.
Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay chứng minh cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ cho Ngân hàng. Các khoản tài trợ của Ngân hàng phải gắn liền với tài sản hình thành của người vay. Do vậy, nếu xét thấy không hoặc kém an toàn, Ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo.
1.2.4.Vai trò
Trên cơ sở phát huy được các chức năng vốn có của Ngân hàng, tín dụng đóng một vai trò hết sức quan trọng đời sống kinh tế xã hội của không chỉ quốc gia đó mà còn ngay cả đối với các nước mà nó có quan hệ giao dịch hay đặt chi nhánh.
1.2.4.1.Vai trò của tín dụng đối với nền kinh tế
Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển
Tín dụng cho đến thời điểm hiện nay vẫn giữ chức năng kinh tế hàng đầu của các NHTM. Bất kỳ một tổ chức cá nhân nào muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, đòi hỏi đều phải có vốn kinh doanh(Vốn cố định và vốn lưu động) và các nguồn vốn này phải tồn tại đồng thời phải tồn tại dưới ba giai đoạn: dự trữ, sản xuất và lưu thông. Trong thực tế, sản xuất kinh doanh không phải lúc nào doanh nghiệp cũng cần một lượng vốn bình quân như nhau, nên hiện tượng thừa thiếu vốn tạm thời là tình trạng thường xuyên xảy ra.Từ đó tín dụng đã góp phần điều tiết nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn.
- Tín dụng Ngân hàng đóng góp vai trò quan trọng trong việc giải quyết vốn tín dụng ứ đọng ở nơi này bù đắp sự thiếu hụt tạm thời ở nơi khác. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp có kế hoạch mở rộng sản xuất thì yêu cầu về vốn là rất lớn và là mối quan tâm hàng đầu được đặt ra đối với các nhà quản lý của các doanh nghiệp. Bởi lẽ để đẩy mạnh tiến độ phát triển sản xuất không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà các doanh nghiệp phải biết tận dụng những dòng chảy khác của vốn trong xã hội. Tín dụng Ngân hàng lúc này sẽ đóng vai trò là trung tâm đáp ứng những nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư và phát triển. Như vậy,tín dụng vừa góp phần đẩy mạnh tốc độ tập trung và tích lũy vốn cho nền kinh tế, vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian huy động vốn cho đầu tư mở rộng sản xuất. Trong phạm vi đó, tín dụng giữ vai trò điều hòa vốn mà không làm tăng thêm hoặc giảm đi tổng nhu cầu trong nền kinh tế.
Thứ hai, tín dụng Ngân hàng góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được giao quyền tự chỉnh trong xác định ba vấn đề kinh tế cơ bản là: sản xuất cái gì?, sản xuất như thế nào? và sản xuất phục vụ cho đối tượng khách hàng nào? Nghĩa là doanh nghiệp được chủ động lựa chọn lĩnh vực đầu tư, quy mô đầu tư theo quy định của pháp luật và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho doanh nghiệp. Nhưng trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, thì một vấn đề nữa cần phải được đặt ra đó là: cần phải tạo ra sự cân đối trong cơ cấu kinh tế giữa các vùng, lãnh thổ, giữa các ngành và trong nội bộ từng ngành, nhất là ở các ngành mũi nhọn và ngành kém phát triển nhưng cần thiết cho nền kinh tế. Thông qua chính sách tín dụng, lãi suất sẽ được sử dụng như là một công cụ để điều tiết nhu cầu đầu tư cho phát triển, từ đó góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế chung.
Thứ ba, tín dụng Ngân hàng tác động đến chế độ hoạch toán kinh tế, là công cụ để bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có sử dụng vốn tín dụng phải chịu chi phí trả lãi nên phải tính toán hiệu quả chi phí sản xuất: đúng, đủ, kịp thời và chính xác nhằm giảm giá thành sản phẩm, tăng vòng quay vốn để tạo ưu thế cho bản thân doanh nghiệp mình trong cạnh tranh, sử dụng tối ưu các nguồn lực của doanh nghiệp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động chung của cả nền kinh tế. Cũng vì thế mà các ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn bỏ ra các thì sẽ thu hút được nhiều nguồn lực đầu tư vào do đó cơ cấu kinh tế sẽ bị dịch chuyển. Thêm vào đó, trong điều kiện hiện nay cùng với sự phân công hợp tác quốc tế ngày một sâu rộng thì quá trình điều tiết vốn không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà hình thành nên các quan hệ tín dụng quốc tế.
+ Tín dụng Ngân hàng góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Đây là nguồn vốn do các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài chuyển vào trong nước đầu tư trực tiếp tạo ra hàng hóa và dịch vụ. Đây là nguồn vốn rất lớn và quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế trong nước, giúp các doanh nghiệp trong nước bổ sung nguồn vốn, đầu tư tăng năng lực sản xuất, tăng cường chuyển giao công nghệ, giải quyết việc làm và nâng cao trình độ quản lý từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tăng xuất khẩu và thu ngân sách.
+ Thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, nền kinh tế trong nước sẽ thu hút được một nguồn vốn lớn từ các khoản đi vay nước ngoài: đây là nguồn vốn vay từ các tổ chức tài chính quốc tế lớn trên thế giới: IMF, ADB, WB...
+ Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các doanh nghiệp, tổ chức trong nước và các doanh nghiệp tổ chức nước ngoài thì yếu tố không thể thiếu là hoạt động của các Ngân hàng.Thông qua các nghiệp vụ như: nghiệp vụ bảo lãnh, nghiệp vụ L/C..ngân hàng sẽ đóng vai trò là người trợ thủ đắc lực cho các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập và phát triển.
Tín dụng góp phần ổn định giá cả và tiền tệ
Với chức năng tập trung,tận dụng những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tín dụng đã trực tiếp giamr lượng tiền mặt trong lưu thông, là lượng tiền mà nếu không được huy động và sử dụng kịp thời có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt đến tình hình lưu thông tiền tệ - làm mất cân đổi trong quan hệ hàng - tiền và hệ thống giá cả bị biến động là điều không thể tránh khỏi. Do đó, một trong những biện pháp được xem là quan trọng trong việc giúp toàn bộ nền kinh tế nói chung giảm thiểu được những hậu quả do lạm phát gây ra là thông qua việc tác động vào hoạt động tín dụng. Mặt khác tín dụng còn tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Đây là một trong những nhân tố tích cực điều tiết giảm việc sử dụng tiền mặt trong lưu thông, một mặt tín dụng còn góp phần giảm các tiêu cực phát sinh mặt khác giúp cho NHNN thực hiện tốt chức năng kiểm soát lượng tiền trong lưu thông, giảm bớt những hoạt động kinh tế ngầm.
Thông qua cụng cụ lãi suất, tín dụng thực hiện được chức năng điều tiết đầu tư trong nước thu hút đầu tư nước ngoài và thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.
¨ Tín dụng ngân hàng tác động tích cực đến quá trình cải thiện và nâng cao đời sống của dân cư; đặc biệt là dân cư nông thôn.
Ðịnh hướng đầu tư của tín dụng theo hướng kiên trì thực hiện nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi, đảm bảo lợi ích vật chất của người dân, góp phần cải tiến cơ cấu và lượng tiêu dùng trong dân cư và đặc biệt là dân cư nông thôn, tạo ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và quá trình tái sản xuất lao động, thoả mãn mọi nhu cầu vật chất, văn hoá, giáo dục, y tế của cư dân, cải thiện các quan hệ xã hội thông qua việc cho vay qua các tổ chức đoàn thể xã hội. không những thế ngân hàng hiện nay còn đưa ra rất nhiều loại sản phẩm mới: sản phẩm”ô tô xịn”, sản phẩm”nhà mới”, sản phẩm”cho vay du học”, v.v, đã giúp cho người tiêu dùng chủ dộng hơn và sớm thực hiện được những nhu cầu tiêu dùng cũng như nhu cầu sinh hoạt của mình. và trong một tương lai không xa, các sản phẩm này sẽ còn được áp dụng với cả những dân cư khu vực nông thôn, dân cư có thu nhập thấp, trên cơ sở dó giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội.
1.2.4.2. Tác động của tín dụng ngân hàng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại
- Tín dụng ngân hàng cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong quá trình cạnh tranh.
Tín dụng ngân hàng có chất lượng tốt sẽ tạo thêm được các nguồn thu từ việc tăng vòng quay vốn tín dụng và thu hút được nhiều khách hàng bằng sự đa dạng của sản phẩm, dịch vụ tạo ra một hình ảnh tốt về ngân hàng.
- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng bởi nhiều chất lượng tín dụng ngân hàng tốt cho phép ngân hàng có những khách hàng trung thành, trên cơ sở dó tạo ra những khoản lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn cho ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng góp phần củng cố các mối quan hệ xã hội trong ngân hàng thông qua việc tạo ra điều kiện làm việc tốt nhất, cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên, tạo điều kiện để họ yên tâm học tập và công tác.
1.2.4.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với người được cấp tín dụng
Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp. trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh luôn là một yếu tố khốc liệt mà các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được, phải đương đầu để làm tốt được điều đó, mỗi doanh nghiệp không những phải biết phát huy, sử dụng hợp lý những nguồn lực sẵn có mà còn phải biết tận dụng những nguồn lực từ bên ngoài, đặc biệt là nguồn lực về vốn. Tín dụng ngân hàng đã giúp các doanh nghiệp giải quyết tốt bài toán nan giải về vốn của mình. Hiện nay để có thể thực hiện được các quyết định đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, các nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể sử dụng được đó là: nguồn vốn tự có (hay vốn cổ phần), hoặc vốn đi vay. Chi phí vốn bình quân của doanh nghiệp trong trường hợp sử dụng cả hai loại nguồn vốn này được tính theo công thức:
Ko = Ke * We + Kd * Wd
Trong đó:
Ke : giá vốn (chi phí vốn) cổ phần thể hiện bằng mức lợi nhuận mà người sở hữu cổ phần được hưởng với tư cách là người góp vốn.
Kd : chi phí sử dụng vốn vay (lãi suất của khoản tiền vay)
Ko : chi phí vốn bình quân của doanh nghiệp.
We, Wd: tương ứng là tỷ lệ sử dụng của vốn cổ phần và vốn vay của doanh nghiệp.
Lãi suất tiền vay được tính vào chi phí để khấu trừ thuế, khác với chi phí vốn cổ phần được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Do vậy nếu sử dụng mức vốn vay ở một mức tỷ lệ hợp lý (thường là dưới 50% tổng vốn đầu tư) sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được đòn bẩy tài chính do việc vay vốn đem lại thông qua phần thuế duợc khấu trừ từ chi phí sử dụng vốn vay. Tuy vậy, đối với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, không phải lúc nào và với số luợng bao nhiêu doanh nghiệp cũng được đáp ứng và nếu có được đáp ứng thì khi vượt tỷ lệ cho phép nó sẽ tạo ra sự tăng thêm của chi phí vốn làm cho hiệu quả dầu tư giảm đi. Do vậy, tín dụng ngân hàng sẽ dặt ra yêu cầu đối với các doanh nghiệp là phải xây dựng cho mình một cơ cấu hợp lý nhằm tối ưu hoá các nguồn lực, đem lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. Trong điều kiện nước ta hiện nay, ngân hàng nhà nước đã có quyết định số 1627/ 2001/ qđ-nhnn về quy chế cho vay đối với các khách hàng, theo quyết định này thì hạn mức cho vay đối với các doanh nghiệp không chỉ can cứ vào tỷ trọng vốn vay trong tổng số vốn kinh doanh mà còn căn cứ vào hiệu quả của phương án kinh doanh. Ðiều đó có nghĩa là vốn tdnh giúp các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp cổ phần hóa (DNVVN) giảm chi phí vốn, trên cơ sở dó phấn đấu giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh trên thị truờng.
Tín dụng ngân hàng bổ sung vốn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. như đã nói ở phần trên, vốn tín dụng ngân hàng là phần không thể thiếu đối với việc giải quyết các thiếu hụt tạm thời tại các doanh nghiệp hiện nay. Tín dụng ngân hàng không dừng lại ở vai trò bổ sung nữa mà đã dần trở thành nguồn vốn chủ yếu quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhờ có tính linh hoạt của nó.
Tín dụng ngân hàng giúp các doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội làm ăn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục, thông suốt quá trình lưu thông và nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng còn giúp các doanh nghiệp trang trải các chi phí về đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị truờng.
Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp hiện nay.
Cũng xuất phát từ vai trò thúc đẩy khả nang cạnh tranh của mình, tín dụng ngân hàng đã tạo ra nhu cầu tập trung vốn là cơ sở dể hình thành các công ty cổ phần. Ðây là một loại hình doanh nghiệp dựa trên cơ sở góp vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra phong cách làm việc, quản lý mới trong hệ thống doanh nghiệp, tránh tình trạng trì trệ gây ra những thất thoát lãng phí lớn cho xã hội.
Đối với người tiêu dùng thì tín dụng ngân hàng sẽ giúp họ lựa chọn thời điểm, chỉ tiêu tốt nhất, giúp họ thoả mãn tốt nhất những nhu cầu phát sinh. Cũng giống như các doanh nghiệp, người tiêu dùng không phải lúc nào cũng đáp ứng tất cả các nhu cầu của mình và nếu như không có tín dụng ngân hàng họ sẽ phải._. chờ dến khi có đủ khả năng thì nhu cầu đã phát sinh mới được đáp ứng, như vậy nghĩa là nhu cầu của họ dã không được đáp ứng một cách kịp thời.
Như ở trên ta đã thấy được những vai trò quan trọng của tín dụng ngân hàng đối với bản thân ngân hàng, đối với khách hàng và những đóng góp của nó đối với hoạt động của mỗi quốc gia. Các tác động đến các chủ thể trên không phải lúc nào cũng tách bạch rõ ràng, riêng rẽ mà nó có mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Do vậy để có thể phát huy được hết vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng, thì chúng ta cần xem xét chúng trong mối tương quan với các chủ thể trên
1.2.5. Các loại hình tín dụng Ngân hàng thương mại
- Căn cứ theo thời hạn cho vay
+ Cho vay ngắn hạn: là hình thức cấp tín dụng thường có hạn dưới một năm và mục đích sử dụng chủ yếu là để bù đắp sự thiếu hụt vốn tạm thời như phục vụ cho thanh toán tiền hàng hoá, tài trợ vốn lưu động hay thanh toán ngoại thương,…
+ Cho vay trung hạn: Đây là hìn thức cấp tín dụng có thời hạn từ một đến năm năm và thường để đổi mới trang thiết bị, mua sắm máy móc và thời gian khấu hao thường không quá dài để có thể hoàn trả vốn đúng hạn cho Ngân hàng.
+ Cho vay dài hạn: Là khoản cấp tín dụng có thời hạn trên 5 năm và thường sử dụng để xây nhà xưởng, đầu tư dây chuyền công nghệ với những dự án sản xuất lớn có thời gian thu hồi vốn dài. Các khoản vay này thường đòi hỏi thế chấp và chịu nhiều rủi ro.
- Căn cứ theo khách hàng vay vốn
+ Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các Ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quý tín dụng và các định chế tài chính khác.
+ Cho vay các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
+ Cho vay cá nhân.
- Căn cứ theo mục đích sử dụng khoản vay
+ Cho vay nhằm mục đích phục vụ sản xuất – kinh doanh.
+ Cho vay nhằm mục đích phục vụ đời sống tiêu dùng.
- Căn cứ theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
+ Cho vay không đảm bảo: là loại hình cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng, đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì Ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
+ Cho vay có bảo đảm: Là loại hình cấp tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hay cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với Ngân hàng. Khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm, sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
- Căn cứ theo phương thức cho vay
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: đây là hình thức cấp tín dụng, mà Ngân hàng và khách hàng cùng ký kết một hợp đồng hạn mức trong đó quy định một khối lượng tín dụng mà khách hàng được phép vay của Ngân hàng trong một thời gian nhất định, hết thời gian này số còn lại khách hàng chưa sử dụng sẽ không còn giá trị nữa. Trong hợp đồng hạn mức có thể bao gồm các điều khoản như việc sử dụng vốn vay, lãi suất kỳ hạn trả nợ, cung cấp các báo cáo tài chính và các thông tin tài chính và các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh khác, tài sản đảm bảo, các điều khoản liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng chi trả những khoản vay còn tồn đọng. Trong thời gian của hợp đồng hạn mức, khách hàng có nhu cầu vay vốn thì chỉ cần nộp đơn xin vay và lập hợp đồng vay là được Ngân hàng xem xét cho vay theo các nội dung ghi trên hợp đồng hạn mức.
+ Cho vay từng lần: đây là hình thức cấp tín dụng mà Ngân hàng và khách hàng sẽ ký kết các hợp đồng riêng với mỗi khoản vay khi Ngân hàng có nhu cầu. Mỗi lần ký kết hợp đồng, khách hàng và Ngân hàng sẽ thoả thuận các nội dung như: số lượng tín dụng, thời hạn khoản vay, lãi suất áp dụng, tài sản đảm bảo,…
+ Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tài khoản thanh toán của mình đến một thời hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định gọi là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin Ngân hàng cấp hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi trình lên để Ngân hàng xem xét.
+ Cho vây luân chuyển.
+ Cho vay trả góp và cho vay gián tiếp.
- Căn cứ vào mức độ rủi ro
+ Tín dụng lành mạnh: các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
+ Tín dụng có vấn đề: các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như: hàng chậm tiêu thụ, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính,…
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn.
+ Nợ quá hạn khó đòi: nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ kém, tài sản đảm bảo, trị giá thấp, …
- Phân loại khác
+ Theo ngành kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp,…)
+ Theo đối tượng tín dụng (Tài sản cố định, tài sản lưu động,…).
1.3.Chất lượng tín dụng Ngân hàng thương mại
1.3.1.Quan điểm về chất lượng tín dụng Ngân hàng thương mại
Nếu như quan điểm về tăng trưởng tín dụng được hầu hết các nhà quản lý ngân hàng đều thống nhất ở một số nội dung chính được định nghĩa dưới đây: “Tăng trưởng tín dụng thông thường được hiểu là sự gia tăng đơn thuần về mặt khối lượng tín dụng trong một thời kỳ nhất định. Mức tăng trưởng tín dụng có thể duợc thể hiện bằng nhịp độ gia tăng tổng dư nợ tín dụng năm sau so với năm trước”– Tạp chí ngân hàng số 02/2004, thì khái niệm chất lượng tín dụng lại là một phạm trù rộng và gây ra nhiều tranh cãi. Nhưng tựu chung lại các quan điểm do đó đều bao gåm một số nội dung sau: tín dụng ngân hàng cũng là một sản phẩm và chất lượng của một sản phẩm (dịch vụ) thì lại được biểu hiện ở mức độ thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và lợi ích về mặt tài chính cho người cung cấp. tuy nhiên, khi chất lượng tín dụng được gắn với chủ thể cụ thể như ngân hàng thì nó được hiểu là sự dáp ứng những nhu cầu của khách hàng, phù hợp với nhu cầu của quá trình phát triển kinh tế xã hội và trên cơ sở dó đảm bảo sự tồn tại và phát triển không ngừng cho ngân hàng.
Như vậy, chất lượng tín dụng không đơn thuần tạo ra lợi ích cho nhà cung cấp, cho người sử dụng sản phẩm, dịch vụ mà nó còn góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, giải quyết các vấn đề xã hội
Ðối với khách hàng: chất lượng tín dung là sự thoả mãn những nhu cầu chi tiêu hợp lý với lãi suất và kỳ hạn hợp lý; thủ tục đơn giản, thuận lợi nhanh chóng đảm bảo thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các quy tắc, quy trình về tín dụng.
Đối với ngân hàng thương mại (NHTM): chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh và thực hiện đúng theo những nguyên tắc tín dụng.
Theo nghĩa hẹp thì chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại được thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, nếu tỷ lệ này càng cao có nghĩa là chất lượng tín dụng thay đổi theo chiều hướng không tốt và ngược lại.
Đối với nền kinh tế - xã hội: khoản tín dụng có chất lượng nghĩa là nó phải hỗ trợ tốt cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn, việc làm, khai thác và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực tiềm ẩn của đất nước, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế.
Ý nghĩa của công tác nâng cao CLTDNHTM
Cùng với quá trình tồn tại và phát triển của ngân hàng, cùng với những đóng góp to lớn của khoa học- công nghệ và kỹ thuật trong công tác phát triển sản phẩm mới của ngân hàng, tín dụng vẫn khẳng định được vai trò to lớn của nó đối với bản thân ngân hàng, với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước: tín dụng ngân hàng vẫn đóng góp 60 – 80% vào tổng tài sản có và tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. tín dụng ngân hàng vẫn là một điều kiện không thể thiếu để dảm bảo cho sự tồn tại và phát triển bền vững của ngân hàng, tuy ở mỗi ngân hàng, ở mỗi thời kỳ khác nhau thì mức độ tập trung vào nghiệp vụ này có khác nhau.
Tuy nhiên, tín dụng ngân hàng chỉ có thể phát huy được vai trò to lớn của nó khi nó được hiểu là khoản tín dụng có chất lượng mà thôi, trường hợp ngược lại nó sẽ tạo ra những tổn thất rất lớn cho ngân hàng và cho toàn xã hội.
Nếu đứng trên góc độ ngân hàng, thì nâng cao chất lượng tín dụng sẽ dem lại một số tác động tốt sau:
- Chất lượng tín dụng ngân hàng được nâng cao sẽ góp phần đảm bảo gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
- Nâng cao chất lượng tín dụng có nghĩa là ngân hàng có khả nang thu hồi nợ dầy đủ và đúng hạn, nhờ dó ngân hàng có điều kiện mở rộng khả năng cung cấp tín dụng cũng như các dịch vụ ngân hàng khác thông qua khả nang tăng vòng quay của vốn.
- Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng sẽ giúp ngân hàng duy trì được các khách hàng truyền thống và thu hút được các khách hàng tiềm năng, tạo ra một biểu tượng tốt về hình ảnh và uy tín của ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị truờng trong nước và vươn ra thị truờng quốc tế.
Những tác động to lớn trên sẽ góp phần cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng, tạo ra những ưu thế cho ngân hàng trong cạnh tranh, do vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng là một tất yếu khách quan vì sự tồn tại và phát triển ổn định lâu dài của các ngân hàng thương mại.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng NHTM
Ðể thực hiện các mục tiêu nâng cao CLTD của mình, các ngân hàng không những chỉ dựa vào các chỉ tiêu định týnh mà cần phải xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu định lượng. Trên cơ sở đó, ngân hàng mới có thể có cơ sở tin cậy để phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng của ngân hàng mình, qua đó tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín dụng cho phù hợp với yêu cầu của khách hàng, của xã hội đối với sản phẩm tín dụng.
- Nhóm chỉ tiêu định lượng
+ Doanh số cho vay: được tính bằng cách cộng dồn các khoản cho vay trong một niên độ kế toán hay trong một kỳ tính nhất định, chỉ tiêu này phản ánh tổng lượng vốn mà ngân hàng đã giải ngân cho khách hàng vay. Con số này phản ánh xu hướng hoạt động tín dụng của ngân hàng trong từng thời kỳ. Đối với từng đối tượng khách hàng cụ thể có các doanh số phát vay khác nhau.
+ Dư nợ tín dụng: được xác định bằng tổng dư nợ tại một thời điểm nhất định (thông thường là vào cuối năm kế toán).
+ Chỉ tiêu thu lãi tín dụng: chỉ tiêu này phản ánh nguồn thu từ cho vay của các ngân hàng thương mại, là nguồn để chia lãi cổ phần và bổ sung vốn hoạt động.
+ Doanh số thu nợ: được tính bằng cách cộng dồn các khoản thu nợ trong một niên độ kế toán, chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã cho khách hàng vay và đã được hoàn trả trong một thời kỳ.
+ Ðối với từng khách hàng cụ thể còn có thêm chỉ tiêu dư nợ dối với loại khách hàng đó trên tổng dư nợ. trên cơ sở của chỉ tiêu này, ngân hàng sẽ diều chỉnh cho phù hợp với chính sách của ngân hàng qua từng thời kỳ. đối với các khách hàng thuộc khu vực kinh tế tu nhân thì tỷ lệ này là dư nợ dối với khu vực kinh tế tu nhân trên tổng dư nợ.
+ Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ: xác định bằng dư nợ cho vay cuối kỳ trừ số du nợ dầu kỳ và chia cho số du nợ dầu kỳ.
Nhóm chỉ tiêu về tang trưởng tín dụng cho thấy khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, khả năng cạnh tranh và uy tín của ngân hàng trong hoạt động tín dụng, do vậy nó là chỉ tiêu cần phải được xem xét một cách kỹ luỡng trong mối liên hệ với chất lượng tín dụng.
- Nhóm chỉ tiêu về nợ quá hạn
Bao gồm một số chỉ tiêu chính sau:
+ Nợ quá hạn/tổng dư nợ.
+ Nợ quá hạn khó đòi/tổng dư nợ
+ Nợ quá hạn khó đòi/tổng nợ quá hạn.
Trong đó tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý hay cuối năm.
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi là những khoản nợ mà chủ thể vay vẫn có thể trả được cho ngân hàng. Khoản quá hạn này là do sự khó khăn tạm thời về mặt tài chính hoặc do trong quá trình ký kết hợp đồng tín dụng chưa xem xét một cách cụ thể về chu kỳ vận động của đồng vốn đầu tư, thu nợ khi khách hàng chưa kết thúc chu kỳ kinh doanh.
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi là những khoản vay nợ mà khách hàng vay khó có khả năng trả duợc nợ cho ngân hàng, ngân hàng có nguy cơ mất vốn và lãi cho vay là rất lớn. Nguyên nhân của những khoản vay này có thể do khách hàng vay cố tình lừa đảo hoặc do khách hàng lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính trầm trọng, phá sản.
Chỉ tiêu nợ quá hạn là một chỉ tiêu cực kỳ quan trọng để do lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng. Một ngân hàng được xem là một ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt khi tỷ lệ nợ quá hạn của nó nhỏ hon hoặc bằng 5% và tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi trên tổng nợ quá hạn là nhỏ và ngược lại với một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ lớn hơn 5% và tỷ lệ nợ quá hạn quá đòi trên tổng nợ quá hạn cao.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu này để dánh giá thì không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả cao và chính xác do tỷ lệ này bị tác động rất lớn của các hoạt động cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng quy định.
- Nhóm chỉ tiêu về nợ có đảm bảo
Tài sản đảm bảo là nguồn thu nợ cuối cùng của ngân hàng đối với khách hàng vay, khi khách hàng này lâm vào tình trạng mất khả nang thanh toán, làm ăn thua lỗ, phá sản. Bởi vậy, nếu một tỷ lệ lớn các khoản nợ quá hạn là có tài sản đảm bảo và tài sản đảm bảo có đủ giấy tờ hợp lệ thì khả nang thu hồi vốn sẽ cao hơn, nghĩa là khoản cho vay sẽ an toàn hơn và chất lượng tín dụng của ngân hàng đó sẽ cao hơn. Chỉ tiêu này được xác định dựa trên tỷ lệ nợ có, tài sản đảm bảo nghĩa là bằng dư nợ quá hạn có tài sản đảm bảo trên tổng dư nợ quá hạn.
+ Để phản ánh chính xác hơn khả nang thu hồi nợ từ tài sản đảm bảo, ngân hàng sẽ phải tiến hành phân loại tài sản đảm bảo theo một số tiêu thức: có đầy đủ hay không có giấy tờ pháp lý, khả năng thanh lý của tài sản. Tuy nhiên, chỉ tiêu trên mới chỉ phản ánh khả nang chứ chưa phải là số vốn thực tế thu hồi được từ tài sản đảm bảo. Do vậy, ngân hàng nên sử dụng đồng thời chỉ tiêu này với chỉ tiêu tỷ lệ thanh toán nợ từ tài sản đảm bảo được đo bằng số tiền thực tế thu được từ khai thác tài sản đảm bảo chia cho tổng dư nợ quá hạn của các khoản vay có tài sản đảm bảo.
Doanh số thu trong năm
Vòng quay vốn tín dụng trong năm =
Dư nợ bình quân trong năm
+ Chỉ tiêu tốc độ chu chuyển vốn tín dụng (vòng quay vốn tín dụng):
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn của ngân hàng được sử dụng cho vay mấy lần trong một năm. chỉ tiêu này càng lớn có nghĩa là nguồn vốn của ngân hàng đã được chuyển nhanh tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này quá cao sẽ làm cho chi phí của ngân hàng do lãi thu về không đủ bù đắp những chi phí phát sinh từ những khoản tín dụng trên.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại
1.3.3.1. Nhóm nhân tố về phía ngân hàng
- Vốn chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng phản ánh định hướng phát triển cơ bản đối với hoạt động tín dụng của mỗi ngân hàng qua từng giai đoạn phát triển cụ thể, là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng. Để dảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần phải có chính sách tín dụng phù hợp với nhu cầu của thị truờng (nhu cầu phát triển của nền kinh tế). Với từng đối tượng khách hàng qua từng thời kỳ và phù hợp với đường lối phát triển của đảng và nhà nước đồng thời kết hợp được lợi ích của cả nguời gửi tiền, ngân hàng và người đi vay tiền.
Chính sách tín dụng của mối ngân hàng qua từng thời kỳ còn tác động đến chất lượng tín dụng thông qua nội dung của quy trình tín dụng: đây là trình tự tổ chức thực hiện các nội dung kỹ thuật, nghiệp vụ cơ bản, chỉ rõ cách làm, trình tự các bước từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một giao dịch thuộc chức năng, nghiệp vụ của cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng có liên quan. Quy trình tín dụng là một nhân tố mà tính khoa học hợp lý của nó sẽ góp phần to lớn trong việc tạo ra một khoản vay có chất lượng cao.
- Chất lượng thẩm định dự án
Thẩm định dự án đầu tư là việc xem xét một cách khách toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án trước khi ra quyết định đầu tư nhằm giúp cho ngân hàng rút ra được các kết luận chính xác về tính khả thi của dự án. Từ đó, ra các quyết định cho vay. Thêm vào đó, công tác thẩm định dự án còn giúp ngân hàng thuận tiện hơn trong quá trình kiểm tra, giám sát khoản vay, v.v, thông qua việc so sánh giữa các chỉ tiêu kế hoạch và các chỉ tiêu bên vay thực hiện được.
- Tổ chức nhân sự:
Con người luôn là một yếu tố vô cùng quan trọng quyết định sự thành bại trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng. Ðặc biệt, trong thời đại ngày nay khi mà khoa học chông nghệ dã trở thành lực lượng sản xuất chính thì hơn bao giờ hết, yếu tố con người càng khẳng định được vị trí trung tâm của nó: yếu tố con người vừa là chủ thể của quá trình sản xuất kinh doanh đồng thời cũng lại là mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình sản xuất kinh doanh đó là phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao hơn của con người. Trong ngành ngân hàng, yếu tố con người là một yếu tố không thể thiếu trong việc tạo ra các khoản tín dụng tốt thông qua các công tác xúc tiến tiếp xúc, đặt quan hệ giao dịch, kiểm tra giám sát khách hàng và thu đầy đủ cả gốc và lãi số tiền đã phát vay. Do đó, muốn nâng cao được hiệu quả trong kinh doanh, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi, được đào tạo bài bản, tinh thông nghiệp vụ, có kiến thức sâu về nhiều lĩnh vực, nắm vững các văn bản pháp luật có liên quan và trong quá trình sử dụng cần phải thường xuyên xem xét, bố trí, bồi dưỡng kiến thức phù hợp với yêu cầu, năng lực cña mỗi người, tạo điều kiện để họ bắt kịp được sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, người cán bộ Ngân hàng còn cần phải có tư cách đạo đức tốt, liêm khiết, tôn trọng pháp luật và các quy định của Ngân hàng. Không chạy theo lợi ích riêng trước mắt mà cấu kết với khách hàng rút tiền của Ngân hàng gây thiệt hại không những cho riêng hệ thống Ngân hàng mà còn cho toàn bộ nền kinh tế.
- Hệ thống thu nhập và xử lý thông tin tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng của các Ngân hàng rất đa dạng, phức tạp, từ doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp hỗn doanh, doanh nghiệp tư nhân đến hộ gia đình; từ khu vực sản xuất vật chất đến các hoạt động dịch vụ, du lịch. Yếu tố đầu tiên mà các Ngân hàng dựa vào để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng, từ đó mà quyết định có cấp tín dụng hay không, là sự hiểu biết nhất định về khách hàng. Mức độ hiểu biết về khách hàng, phụ thuộc vào lượng thông tin thu thập được và xử lý hiệu quả các thông tin đó. Các thông tin đó bao gồm hai loại: thông tin đó bao gồm hai loại: Thông tin tài chính và thông tin phi tài chính. Thông tin tài chính phản ánh tình hình tài chính và do đó giúp xác định cụ thể khả n¨ng hoàn trả của khách hàng, giúp các cán bộ tín dụng phân tích tính tổng của tài sản, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, điểm hoà vốn, dự toán thu chi tiền mặt, các thông tin này được phản ánh qua các báo cáo tài chính cả trong quá khứ và hiện tại, danh mục tài sản có thể dùng làm đảm bảo tín dụng, các bản kế hoạch và dự toán và các thông tin thông qua các Ngân hàng, các doanh nghiệp khác, các cơ quan quản lý, từ các phương tiện thông tin đại chúng đã có quan hệ, bài viết với khách hàng. Đối với các khoản vay có đảm bảo thì cũng cần lưu ý đến khả năng thương mại của tài sản đảm bảo, dự báo trước diễn biến giá cả tài sản đảm bảo trên thị trường, còn thông tin phi tài chính là loại thông tin phản ánh mục đích sử dụng về việc khách hàng có thiện chí hoàn trả khoản tín dụng hay không? đó là các thông tin có tính trực giác, trong quá trình tiếp xúc, phỏng vấn khách hàng là chủ yếu và đóng vai trò quan trọng. Đặc biệt, việc cán bộ tín dụng đi khảo sát, nghiên cứu tại cơ sở của người vay giúp ích rất nhiều trong việc thu thập thông tin có tính chất định tính về khách hàng, không thể hiện thành con số cụ thể nhưng nó lại giúp hình dung khá dễ dàng về tình trạng hiện thời của khách hàng. Ví dụ như việc quan sát tình hình hoạt động ở văn phòng kho bãi, chú ý chỗ làm việc của nhân viên kế toán, văn phòng làm việc của nhân viên kế toán, tiếp xúc và kế cận trực tiếp với các lãnh đạo hiện tại.
Trên cơ sở những thông tin đó các Ngân hàng sẽ quyết định có cấp tín dụng cho khách hàng hay không? Và nhờ đó Ngân hàng có thể tăng cường thêm, như vậy sẽ quyết định đến tính an toàn của khoản vay. Thực hiện tốt công tác thu thập và xử lý thông tin, Ngân hàng nhất định sẽ giảm được rủi ro tín dụng tới mức có thể chấp nhận được.
- Công nghệ: đây là yếu tố tác động tới chất lượng tín dụng Ngân hàng Thương Mại ở một số khía cạnh sau:
+ Hệ thống quản lý rủi ro tín dụng: các Ngân hàng có tính chất và mức độ phức tạp của các hoạt động tín dung khác nhau có các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng cụ thể khác nhau, nhưng một chương trình quản lý rủi ro tín dụng toàn diện bao gồm 5 phần chính như: tạo một môi trường có mức độ rủi ro tín dung phù hợp, xây dựng quy trình cấp tín dụng hợp lý, duy trì quá trình đo lường và quản lý tín dụng, bảo đảm kiêm soát rủi ro tín dụng đầy đủ, nâng cao vai trò của các cơ quan giám sát.
+ Hệ thống thu thập và xử lý thông tin: công nghệ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu thập và xử lý thông tin tín dụng: Một Ngân hàng có trình độ khoa học - công nghệ hiện đại, trang thiết bị tiên tiến, hiệu quả hoạt động cao, sản phẩm đa dang, phong phú, nhiều tiện ích, v.v. sẽ góp phần thu hút được nhiều khách hàng đặc biệt là những khách hàng ưa mạo hiểm, khách hàng có đầu óc kinh doanh linh hoạt đồng thời vẫn giữ được niềm tin, uy tín của khách hàng truyền thống.
Như vậy, công nghệ là điều kiện tiên quyết và không thể thiếu để Ngân hàng có những khách hàng vay có chất lượng cao, khả năng thanh toán lớn đồng thời tránh cho Ngân hàng gặp phải những cú sốc lớn gây lên sự sụp đổ nhanh chóng một Ngân hàng và trong cả hệ thống, đồng thời tạo ra sự chuẩn bị chu đáo đối phó với những tình huống xấu nhất xẩy ra, giúp Ngân hàng giải quyết được những vấn đề vô cùng to lởn trong việc duy trì sự tồn tại và phát triển lâu dài của Ngân hàng; chủ động trong việc quyết định cho vay và xử lý các khoản cho vay một cách có hiệu quả, đảm bảo an toàn tín dụng, cải thiện tình hình tài chính, nâng cao năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng Thương Mại.
- Hoạt động kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại
Kiểm soát nội bộ là một bộ phận cấu thành của quản lý và thuộc trách nhiệm của ban điều hành. Hệ thống kiểm soát nội bộ là cơ cấu tổ chức cộng với những biện pháp, thủ tục do ban điều hành của một Ngân hàng chấp nhận, nhằm hỗ trợ thực thi mục tiêu của ban điều hành đảm bảo khả năng thực tiễn, tiến hành kinh doanh trong trật tự và có hiệu quả.
Phạm vi bản chất của hệ thống kiểm soát phải tính đến phạm vi công việc, sự phân bổ các giao dịch, mức độ rủi ro liên quan đến từng loại hoạt động hàng ngày được quản lý cấp trên kiểm soát, mức độ tập trung, phạm vi và các phương pháp xử lý số liệu trên máy vi tính.
Đây là hoạt động bao gồm các công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Thương Mại. Kiểm toán của cơ quan kiểm toán bên ngoài và kiểm tra của thanh tra Ngân hàng nhà nước là một hoạt động giữ vai trò quan trọng nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương Mại. Trong đó, quan trọng nhất vẫn là hoạt động kiểm toán nội bộ của các Ngân hàng Thương Mại vì nó là một trong những công cụ quan trọng nhất trong công tác quản lý, điều hành của ban lãnh đạo Ngân hàng. Thông qua hoạt động này, phát hiện những sơ hở, yếu kém, những sai phạm trong quản lý, bảo vệ hữu hiệu tài sản của Ngân hàng. Xuất phát từ mục tiêu của kiểm toán nội bộ đối với các hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng Ngân hàng Thương Mại nói riêng nhằm đánh giá tính nghiêm túc, tính đúng đắn của toàn bộ quy trình tín dụng, đánh giá tình trạng rủi ro của toàn bộ hoạt động tín dụng và cơ cấu rủi ro tín dụng. Đồng thời đưa ra được những biện pháp tối ưu nhất trong việc phòng tránh được những tổn thất có thể xảy ra, đảm bảo cho mọi hoạt động của Ngân hàng tiến hành thường xuyên liên tục, an toàn và hiệu quả.
- Các nhân tố khác
Bên cạnh những nhân tố nêu ra ở trên thì vẫn còn tồn tại một số yếu tố như vốn, v.v. cũng gây ra những tác động không phải là nhỏ trong việc duy trì các hoạt động thường nhật, duy trì khả năng phát triển lâu dài, tạo niềm tin của Ngân hàng đối với công chúng, tạo cho Ngân hàng một tấm đệm chống lại rủi ro phá sản, là nguồn bù đắp cho tổn thất bắt nguồn từ những khoan cho vay và đầu tư kém hiệu quả, từ sự quản lý yếu kém. Một Ngân hàng khả năng đủ mạnh về vốn sẽ có khả năng mở rộng quy mô cho vay, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách, tạo được mối quan hệ truyền thống với nhiều khách hàng, có điều kiện hơn trong việc thu hút đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, đầu tư mua sắm trang thiết bị hiện đại, tăng các tiện ích của sản phẩm mà các Ngân hàng cung cấp, giảm phiền hà cho khách hàng vay vốn, v.v. giảm thiểu được các chi phí trong quản lý, thu thập phân tích thông tin về khách hàng và do đó sẽ thu được lợi nhuận cao do tiết kiệm được chi phí theo quy mô.
1.3.3.2. Những nhân tố ngoài Ngân hàng
Nhóm nhân tố từ phía khách hàng
- Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của khách hàng. Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khối lượng vốn tự có, hệ số mở, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời,v.v.. Tiềm lực và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của doanh nghiệp càng cao, khả năng trả nợ ngân hàng càng lớn và như vậy, nó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, khả năng tài chính của doanh nghiệp chỉ được đánh giá chính xác khi các báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải đầy đủ, trung thực và có hậu của các cơ quan, doanh nghiệp kiểm toán có uy tín.
- Triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp
Khi ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp thì lợi ích của ngân hàng sẽ trở nên gắn bó với lợi ích của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp đang trong tình trạng thị phần bị thu hẹp, nhà cung cấp không ổn định,v.v. thì khả năng hoàn trả vốn tín dụng ngân hàng sẽ không được đảm bảo. Ngược lại, một triển vọng tương lai sáng sủa sẽ là cơ sở để ngân hàng ra quyết định cho vay.
Theo những nội dung đã nêu trên, ta thấy rằng khách hàng chính là nhân tố quan trọng nhất quyết định cuối cùng đối với sự tăng lên hay giảm đi chất lượng tín dụng ngân hàng do khách hàng chính là chủ thể đi vay, do vậy việc các ngân hàng có thu lại được vốn và lãi đúng hạn, theo đúng hợp đồng hay không phụ thuộc rất lớn vào khách hàng.
Bên cạnh đó những nội dung liên quan đến khách hàng như sự thay đổi trong nhân sự - sự già hoá dân số - sự gia tăng số người chuyển nghề - thành lập các doanh nghiệp mới ở các độ tuổi; sắc tộc, kiểu gia đình, mức thu nhập cũng là những yếu tố quan trọng đối với việc hình thành đội ngũ cán bộ làm việc phù với các môi trường khác nhau, xây dưng và triển khai các tiêu chuẩn tín dụng, các hình thức tín dụng phù hợp.
Nhóm nhân tố thuộc môi trường
- Môi trường kinh tế
Những diễn biến về lạm phát, giá cả, bất động sản, tỷ giá ngoại tệ, tổng mức tăng trưởng tín dụng nói chung và luồng vồn từ bên ngoài thường là những yếu tố gây ra những yếu kém trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt có thể gây ra những rối loạn mang tính hệ thống, khi tất cả các ngân hàng đều chịu tác động một lúc bởi những thay đổi trên.
Sự bất ổn của nền kinh tế: tăng trưởng kinh tế âm, thâm hụt tài chính lớn không có khả năng chông đỡ, bù đắp, tự do hoá tài chính quá nhanh dân đến những hành vi thiếu thận trọng, tự do hoá về cán cân vốn không tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế nội địa, sự tăng, giảm giá đột biến của tài sản có thể là những nguyên nhân gây ra rủi ro hệ thống; sự cho vay tràn lan đối với hoạt động đầu cơ tài chính vào thị trường bất động sản và thị trương chứng khoán so với các mặt hàng khác và sự cho vay như vậy lại dựa trên giá trị tài sản thế chấp là một trong những nguyên nhân kéo chất lượng tín dụng xuống thấp. ngược lại, hoạt động kinh tế cũng như những biến động trên thị trường là không đáng kể và có thể dự đoán được thì sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng Thương Mại; giải quyết tốt mối quan hệ giữa cung và cầu vốn đáp ứng được nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế ngày càng cao.
- Môi trường pháp lý
Với một môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh, thiếu tính đồng bộ, thống nhất giữa các luật, văn bản dưới luật, sự sách nhiễu của các văn bản hành chính có liên quan sẽ khiến cho các doanh nghiệp gặp phải nhiều khó khăn, thiếu đi tính linh hoạt cần thiết, do vậy vốn đưa vào kinh doanh sẽ chứa đựng nhiều rủi ro. Cùng với nó là sự thay đổi trong chính sách tiền tệ hoặc chính sách tài khoá của chính phủ qua từng thời kỳ cũng gây ra những ảnh hưởng không nhỏ cho ngân hàng trong quá trình hoạt động của nó. Vì vậy việc xây dựng môi trường pháp lý lành mạnh, ôn định sẽ tạo thuận lợi trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong đó có các ngân hàng Thương Mại.
- Môi trường chính trị
Môi trường chính trị đã, đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh, đặc biệt là đối với lĩnh vực hoạt động nhạy cảm như Ngân hàng. Tính ổn định về chính trị trong nước là một nhân tố tạo ra những thuận lợi và cũng gây ra những khó khăn không phải là nhỏ đối với hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại nói riêng. Một khi xảy ra những diễn biến gây bất ổn định về chính trị như: chiến tranh, xung đột sắc tộc mâu thuẫn nội bộ giữa các đảng phái chính trị, bạo động, biểu tình, bãi công, cấm vận, thì như vậy nghĩa là các doanh nghiệp trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không thể yên tâm đầu tư vốn vào quốc gia đó, doanh số phát vay không thể có cơ hội tốt để tăng lên và phần tăng lên đó lại rất khó có khả năng hoàn trả lại cho Ngân hàng chứ chưa nói gì đến việc chất lượng tín dụng được nâng cao do việc mất ổn định, như vậy sẽ làm tê liệt quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá bị đình trệ, vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh khó có thể thu hồi.
- ._.à một điển hình về nợ quá hạn, tỷ lệ nợ quá hạn vẫn nằm trong tỷ lệ cho phép (nhỏ hơn 5%). Tuy nhiên để bắt kịp và hội nhập với nền kinh tế thế giới hơ n bao giờ hết các NHTM nói chung, Techcombank nói riêng phải đề ra được cho những giải pháp xử lý nợ quá hạn, đặc biệt là đối với các khoản nợ quá hạn khó đòi. Trên cơ sở đó tạo điều kiện để chi nhánh chủ động phòng chống những tổn thất xảy ra và tìm được các biện pháp kịp thời khắc phục để giảm thiểu tổn thất. Để đạt được những hiệu quả tốt trong công tác xử lý nợ xấu thì một số giải pháp mà chi nhánh cần phải thực hiện là:
Thứ nhất, phải làm rõ chuẩn mực để đánh giá, phân loại đối với nợ tồn đọng, nếu không làm rõ được thì không có cơ sở và cơ chế cho việc xử lý tổng thể toàn diện các khoản nợ đọng (nợ xấu).
Thứ hai, các tổ chức tín dụng nói chung phải tổ chức đối chiếu, rà soát, đánh giá, phân loại cả các khoản nợ kết hợp với việc thu thập thông tin một cách đầy đủ về khách hàng vay vốn như quá trình sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và khả năng trả nợ, việc thu thập thông tin phải kết hợp từ nhiều nguồn khác nhau. Trên cơ sở đó rà soát, đối chiếu nợ, đánh giá xác xuất rủi ro từ người vay, xác định thực chất các khoản nợ của khách hàng. Đây là giải pháp làm rõ thực chất các khoản nợ xấu.
Thứ ba, xem xét lại quy trình, thủ tục cho vay tại ngân hàng để hoàn chỉnh và đảm bảo an toàn khi cho vay. Có chiến lược khách hàng một cách hợp lý, xoá bỏ hiện tượng cạnh tranh khách hàng không lành mạnh giữa các ngân hàng vơi nhau, đây là giải pháp xử lý tận gốc việc phát sinh nợ tồn đọng.
Thứ tư, đối với các khoản nợ tồn đọng có tài sản làm đảm bảo, cần tập trung nghiên cứu, xem xét, phân tích nguyên nhân làm chậm quá trình chuyển hoá các tài sản này thành tiền. Quá trình này cần lưu ý một số vấn đề sau: Khi xem xét giá trị tài sản gán nợ, xiết nợ phải hợp lý, phù hợp với giá thị trường, tức là phải kịp thời “lên”, “xuống” theo tín hiệu thị trường và đảm bảo cho sự chuyển hoá dó dược thực hiện một cách kịp thời, thủ tục chuyển quyền sở hữu cho người mua phải thật thận lợi và đơn giản.
Thứ năm, đối với khoản nợ tồn đọng không có tài sản làm đảm bảo thì việc xử lý này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp trongviệc nhắc nhở đôn đốc và cưỡng chế đối với khách hàng.
Thứ sáu, hình thành bộ phận công ty chuyên trách xử lý nợ xấu như công ty mua bán nợ, công ty xử lý nợ.
3.4. Kiến nghị
3.4.1. Kiến nghị đối với nhà nước
Ban hành kịp thời các quy định về quyền sử dụng đất hợp lý, thống nhất; một mặt mở rộng nguồn tài sản đảm bảo cho khách hàng, mặt khác tạo điều kiện thu hút khách hàng đối với sản phẩm “nhà mới”.
Phát triển sâu rộng hệ thống các tổ chức tín dụng bao gồm: Ngân hàng Thương mại, công ty Tài chính, công ty cho thuê,... nhằm cung cấp các nghiệp vụ tín dụng đa dạng như: cho vay, bảo lãnh, tín dụng thuê mua,... cho phép các tổ chức tài chính thực hiện chức năng thuê tài chính (mô hình tài trợ trung và dài hạn hữu hiệu).
Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhà nước nên thành lập ra công ty tài chính hoặc Ngân hàng phục vụ riêng và hoạt động của công ty này được sự hỗ trợ từ phía nhà nước. Nhật Bản là một nước đã rất thành công trong việc áp dụng phương pháp này.
Khi điều kiện Việt Nam chưa cho phép thực thi giải pháp trên, nhà nước có thể trợ giá cho Ngân hàng Thương mại để giảm lãi suất cho vay ở mức doanh nghiệp có thể tự trang trải được mà vẫn đảm bảo nguyên tắc sử dụng vốn của nhà nước “vay để cho vay”.
Đưa quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ đi vào hoạt động. Quỹ này mặc dù đã được chính phủ công bố thành lập vào tháng 4/1999, song đến nay việc áp dụng các chính sách của nhà nước vào hoạt động của của quỹ vẫn còn nằm trên giấy. Đây là quỹ được chính phủ lập ra với mục tiêu chủ yếu là tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp đồng thời hạn chế rủi ro cho Ngân hàng. Bên cạnh đó cũng cần sự tích cực, chủ động thông báo đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ về sự tồn tại của quỹ này để có thể phát huy được những lợi ích mà quỹ này đem lại.
Hoàn thiện những quy định về đảm bảo tiền vay. Hiện nay nghị định số 178/1999/NĐ-CP ra ngày 29/12/1999 về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng đã góp phần không nhỏ vào sự ổn định tiền tệ của nhà nước và tạo hành lang pháp lý an toàn cho các tổ chức tín dụng mở rộng hoạt động tín dụng.
Tuy nhiên, bên cạnh những quy định phù hợp còn một số quy định tỏ ra bất cập so với thực tế, không đáp ứng được yêu cầu đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Do vậy đến ngày 25/10/2002, trên cơ sở đề nghị của Ngân hàng nhà nước, chính phủ đã ban hành nghị định số 85/2002/NĐ-CP. Nghị định này ra đời góp phần hoàn thiện khung pháp lý về đảm bảo tiền vay của tổ chức tín dụng. Theo đánh giá của các chuyên gia Ngân hàng thì nghị định số 85 có nhiều quy định cởi mở, thông thoáng hơn nghị định 178. Cụ thể là:
- Khái niệm “tài sản đảm bảo tiền vay” được quy định cụ thể hơn, phạm vi bảo đảm của tài sản được mở rộng hơn.
- Thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất đã cởi mở và thông thoáng hơn. Thủ tục định giá tài sản tạo tâm lý yên tâm hơn cho tổ chức tín dụng.
- Điều kiện vay vốn có đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay được xác định phù hợp với khả năng, điều kiện của khách hàng.
- Hạ mức vốn tự có của khách hàng từ 50% xuống 30% theo nghị quyết số 11/2000/NQ-CP ngày 31/07/2000 và xuống 25% theo nghị định số 85.
Các quy định của nhà nước về đảm bảo tiền vay có quyết định rất quan trọng đến khả năng tiếp cần nguồn vốn tín dụng của các Ngân hàng Thương mại. Do đó nó phải không ngừng được hoàn thiện để phù hợp với các yêu cầu và điều kiện của thực tế.
Hoàn thiện khung pháp lý về tổ chức bổ máy Ngân hàng thương mại cổ phần. Hiện nay, ngoài bốn Ngân hàng thương mại nhà nước, hai Ngân hàng chính sách và ba mốt chi nhánh Ngân hàng nước ngoài thì có đến gần năm mươi Ngân hàng Thương mại cổ phần của nhà nước và nhân dân đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Sự ra đời và hoạt động của các Ngân hàng thương mại cổ phần giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống Ngân hàng Thương mại nước ta. Do đó sự phát triển và hoạt động có hiệu quả của các Ngân hàng thương mại cổ phần không chỉ thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn ổn định môi trường hoạt động kinh doanh của cả hệ thống Ngân hàng Thương mại.
Trong những năm qua, nhờ có sự chấn chỉnh đúng đắn, kịp thời của chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp cơ cấu lại những Ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ và vi phạm quy định pháp luật. Do vậy nhìn chung đã đem lại cho các Ngân hàng thương mại cổ phần những chuyển biến tích cực: độ an toàn cao hơn và không xảy ra những biến cố lớn như những năm trước.
Song vai trò của bộ máy tổ chức Ngân hàng thương mại cổ phần vẫn chưa được phát huy đúng mức trong quá trình quản trị và điều hành các hoạt động của các Ngân hàng này. Cho nên Ngân hàng Nhà nước phải thường xuyên sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy Ngân hàng thương mại cổ phần để tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.
Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ về môi trường hoạt động, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực (trang 74 luận văn của sinh viên Nguyễn Văn Lãi).
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về nâng cấp hệ thống kế toán và thông tin báo cáo tương thích với tiêu chuẩn quốc tế. Đây là điều kiện cần thiết để đánh giá tổng quan về sự hợp lý và hiệu quả của các Ngân hàng Thương mại đặc biệt là hoạt động tín dụng. Hệ thống kế toán mới phải đảm bảo chính xác, toàn diện (bao gồm cả hoạt động cụ thể, chi tiết va toàn bộ tình trạng hoạt động của Ngân hàng Thương mại hiện tại và tương lai), kịp thời thường xuyên về số liệu hoạt động cho các nhà lãnh đạo điều hành, các nhà quản lý ra quyết định kinh doanh kịp thời.
Hòan thiện và phát triển các chỉ tiêu đánh giá an toàn và hiệu quả hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động của các Ngân hàng Thương mại nói chung: hoạt động này một mặt tạo điều kiện đánh giá mức độ an toàn, đồng thời cũng nhằm mục đích tăng cường nguyên tắc thị trường, tạo điều kiện cho các bên liên quan có thể giám sát chặt chẽ hơn hoạt động tín dụng Ngân hàng Thương mại. Ngoài ra, điều này cũng góp phần tạo tiền đề cho các cổ đông, các nhà đầu tư có cơ sở đánh giá, suy xét và cân nhắc trong tham gia góp vốn cổ phần khi tiến hành cổ phần hóa của các Ngân hàng Thương mại quốc doanh hoặc phát hành thêm cổ phần mới của các Ngân hàng thương mại cổ phần.
Thúc đẩy hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các Ngân hàng Thương mại đặc biệt là giữa các Ngân hàng Thương mại quốc doanh với các Ngân hàng thương mại cổ phần.
Nhà nước cần ban hành luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Đây là hoạt động nhằm bảo hộ cho các Ngân hàng Thương mại cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Các điều khoản của luật này cần đảm bảo một số yêu cầu: quy định rõ thế nào là cạnh tranh không lành mạnh, các hình thức biểu hiện của nó...và biện pháp xử lý đối với các Ngân hàng vi phạm. Bên cạnh đó, nhà nước cần phải có văn bản hướng dẫn về tiêu chuẩn hóa sản phẩm, dịch vụ do tổ chức tín dụng cung cấp.
Bảo đảm và mở rộng quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh. Đây là nội dung được quy định tại điều 15 luật các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, nội dung của quy định này cần được cụ thể hóa và làm rõ hơn nữa nhằm tạo động lực khuyến khích các Ngân hàng Thương mại hoạt động có hiệu quả hơn. Trong đó quy định rõ những hoạt động Ngân hàng Thương mại được phép và không được phép thực hiện, đồng thời giảm mạnh sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng; công khai hóa và thực hiện đúng trách nhiệm quyền hạn của thanh tra Ngân hàng Nhà nước trong quan hệ với các Ngân hàng Thương mại.
3.4.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam
Tiếp tục rà soát các cơ chế, nghiệp vụ, đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết vay nhất là quy trình thẩm định trên cơ sở vẫn đảm bảo đầy đủ quy trình cho vay theo các quy định của nhà nước.
Thiết lập cơ chế thông tin minh bạch, công khai. Doanh nghiệp có thể tiếp xúc với doanh nghiệp nhằm công khai và thông suốt năng lực tài chính. Ngân hàng còn có trách nhiệm tư vấn cho khách hàng từ khâu lập dự án, sản xuất kinh doanh cho đến khâu triển khai trên cơ sở tránh những thông đồng giữa cán bộ tín dụng Ngân hàng và khách hàng để rút vốn của Ngân hàng. Thành lập ban dự án chuyên tư vấn và lập dự án cho các doanh nghiệp. Đây là hoạt động đem lại lợi ích cho cả hai phía và một phần giải quyết những khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam.
Sử dụng nguồn vốn huy động để thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tạo điều kiện mở rộng tín dụng có hiệu quả trên cơ sở có sự đóng góp của ngân sách nhà nước, Ngân hàng và các hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc, lãi phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh vừa nâng cao khả năng hoàn trả vốn vừa tránh được hiện tượng “đảo nợ”.
Hoạt động tín dụng còn dựa trên chữ tín, vì vậy các Ngân hàng tùy theo độ uy tín đối với khách hàng có thể mở rộng nguồn tài sản đảm bảo hoặc nâng cao tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo. Nên mở rộng hoạt động cho vay tín chấp, cho vay hợp vốn,...với khối lượng lớn qua các tổ chức, đoàn thể, hội nghề nghiệp và qua các Ngân hàng Thương mại khác.
Ngân hàng cần tạo điều kiện hơn nữa trong việc mở rộng quyền tự chủ trong kinh doanh của chi nhánh, đặc biệt là qua các công cụ lãi suất.
3.4.3. Kiến nghị đối với các khách hàng, doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể
Nâng cao trình độ quản lý, nâng cao chất lượng lập dự án kinh doanh, cung cấp những thông tin xác đáng, trung thực cho các tổ chức tín dụng, minh bạch tình hình tài chính thông qua các báo cáo tài chính.
Thành lập hiệp hội chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiệp hội các hộ kinh doanh cá thể và bằng uy tín của mình đứng ra bảo lãnh cho hội viên trong quan hệ tín dụng, cử các chuyên gia giỏi tư vấn về tài chính kế toán đặc biệt giúp doanh nghiệp lập dự án.
Xóa bỏ tâm lý e ngại khi tiếp xúc với Ngân hàng, chủ động tìm kiếm cơ hội tiếp xúc với các nguồn vốn từ các Ngân hàng Thương mại và tổ chức tín dụng khác.
Nâng cao uy tín đối với Ngân hàng bằng năng lực cạnh tranh lành mạnh, bằng việc sử dụng vốn đúng mục đích, hiệu quả sử dụng cao và trả nợ đúng hạn.
KẾT LUẬN
Đi vào hoạt động từ tháng 02 năm 2002 theo Quyết định số 01992/QĐ-HĐQT-TCB về việc thành lập chi nhánh cấp 2 Techcombank Chương Dương, chỉ mới qua hai năm xây dựng và trưởng thành song nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn chính sách phát triển tín dụng nói riêng và chính sách phát triển hoạt động Ngân hàng nói chung, cùng với đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, nhiệt tình, vững vàng nghiệp vụ chuyên môn, chi nhánh Techcombank Chương Dương đã không ngừng khẳng định ưu thế về chất lượng dịch vụ cũng như về chất lượng phục vụ của mình đối với khách hàng và đạt được một số kết quả đáng biểu dương, đặc biệt là trong công tác quản lý rủi ro đối với hoạt động tín dụng và các hoạt động khác đưa tỷ lệ nợ quá hạn xuông thấp hơn mcs trung bình của cả hệ thống (4,58%) và của cả hệ thống ngân hàng Việt nam (6,4%). Ngân hàng đã xác định và xây dựng được cho mình một nền tảng khách hàng có thể nói là bền vững, góp phần giúp cho NHTM CP Kỹ Thương việt Nam trở thành một trong năm NHTM CP hàng đầu Việt Nam à cung cấp các sản phẩm bán lẻ trong đó sản phẩm từ hoạt động tín dụng là một trong những mục tiêu hàng đầu. Tuy nhiên, để có thể đứng vững và phát triển được khi nước ta tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế thì Chi nhánh cần phải cố gắng hơn nữa trong công tác nâng cao chất lượng hoạt động, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Điều này sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng khai thác tốt hơn tiềm năng của thị trường khách hàng mục tiêu để phát triển khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế yếu về tài chính. Để làm được điều này, Chi nhánh cần phải có được sự hỗ trợ, phối hợp đồng bộ giữa các bộ, các ngành liên quan, sự hỗ trợ từ phía nhà nước, đặc biệt là những nỗ lực vươn lên khắc phục khó khăn từ chính bản thân khách hàng trên bên cạnh những nỗ lực của chính bản thân Ngân hàng.
Thời gian nghiên cứu đề tài đã giúp em hiểu thêm rất nhiều điều về các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh cá thể, hoạt động tín dụng của NHTM, chất lượng tín dụng của NHTM cũng như những tác động của chính sách Nhà nước đối với công tác mở rộng hoạt động và nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên do trình độ kiến thức còn hạn chế, thời gian nghiên cứu không dài nên chuyên đề trên khó có thể tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong được sự góp ý và nhận xét của các thầy cô, các anh chị hướng dẫn và các độc giả có cùng sự quan tâm đối với công tác nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ng ày tháng năm
Sinh viên
Nguyễn Thị Hồng Thuý
Môc lôc
PHỤ LỤC
Hoạt động tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản
1. Quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) Nhật Bản
Ngay sau chiến tranh thế giới II, nhằm mục đích phục hưng nhanh chóng nền kinh tế, cùng với chiến lược phát triển các ngành Công nghiệp mũi nhọn, theo mô hình của Mỹ.Chính phủ Nhật bản đã tiến hành thành lập Cục Phát triển DNV&N (năm 1948). Cùng với việc hoàn thiện tổ chức các cơ quan quản lý DNV&N, Chính phủ Nhật bản đã ban hành các chủ trương, chính sách, biện pháp về tài chính nhằm định hướng và hỗ trợ phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngành công nghiệp nhẹ, tạp hoá, thực phẩm…nhằm đảm bảo đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt của dân chúng. Ngay trong giai đoạn nà, các cán bộ thuộc cơ quan chỉ đạo, quản lý và phát triển DNV&N của Chính phủ và chính quyền địa phương đã được học tập các nghiệp vụ, quy trình quản lý DNV&N theo mô hình quản lý chất lượng của Mỹ.
Nhờ có sự đổi mới kỹ thuật, sự tăng trưởng với tốc độ lớn của nền kinh tế trong những năm 50, đã năng cao mức thu nhập và thúc đẩy tiêu dùng trong nước. Trong điều kiện đó, các DNV&N đã tìm được nhiều cơ hội để mở rộng sản xuất. Sự phát triển mạnh mẽ của các DNV&N cả về chất lượng và số lượng (hiện đại hoá công nghệ, các hoạt động quản lý…) đã thu hẹp dần năng suất lao động, thu nhập… của người lao động tại các DNV&N so với các công ty lớn. Nhờ có nhu cầu về tiêu dùng tăng lên trong những năm 60, các DNV&N của Nhật trên mọi lĩnh vực, từ sản xuất đến kinh doanh, đã tăng mạnh lợi nhuận và hiệu quả trên đồng vốn của mình.
Tuy nhiên, trong những năm 70, đặc biệt là cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973 đã tác động mạnh đến nền kinh tế Nhật và các DNV&N đã phải chịu những tổn thất về bán hàng và lợi nhuận. Họ đã phải đối phó bằng cách đầu tưv ào những lĩnh vực sản xuất năng lượng một cách tiết kiệm nhất, đồng thời phải đáp ứng yêu cầu của chính phủ về việc hạn chế các tác động tiêu cực của môi trường.
Trong những năm 80, hợp tác kinh tế quốc tế giữa các nước công nghiệp phát triển được dặt ra, và Nhật Bản phải có trách nhiệm điều chỉnh cơ cấu công nghiệp của mình để đáp ứng các chuẩn mực quốc tế. Sự lên giá của đồng Yên từ cuối những năm 1985 đã tác động mạnh đến DNV&N, đặc biệt là những doanh nghiệp có hàm lượng xuất khẩu cao. Họ đã phải phân định rõ chu trình sản xuất, tách biệt và gia tăng giá trị và những sản phẩm và dịch vụ của mình, tập trung hơn vào nhu cầu đáp ứng trong nước, đa dạng hoá các hoạt động và loại hình kinh doanh, và sử dụng nước ngoài trực tiếp để tổ chức các hoạt động sản xuẩt trong nước ở nước ngoài.
Đầu những năm 90,”nền kinh tế bong bóng”Nhật Bản sụp đổ. Môi trường kinh tế đã tác động mạnh đến các DNV&N, rất nhiều các DNV&N phải cơ cấu lại để duy trì sản xuất và tồn tại một cách khó khăn trong điều kiện cạnh tranh khắc nghiệt hơn. Họ đã phải cố gắng để kiểm soát và thoả mãn những thay đổi nhanh chóng của khách hàng, cố gắng phát triển công nghệ mới để tiến vào thị trường mới. Những cố gắng này đã đưa đến hình thành những doanh nghiệp táo bạo với sự kết hợp của đỏi mới kỹ thuật với tinh thần kinh doanh mạnh mẽ của các DNV&N. Dựa vào công nghệ tiên tiẻntên những lĩnh vực mới, rủi ro cao nhưng có nhiều tiềm năngvề lợi nhuận, những doanh nghiệp này sẽ tạo dựng nên một giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế Nhật Bản.
2. Những biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong suốt những thập kỷ qua, DNV&N Nhật Bản đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản nhờ có sự năng động, sáng tạovà thích ứng nhanh chóng của khu vực kinh tế này đối với môi trường thay đổi. Các DNV&N Nhật Bản dã góp phần tạo nên nguồn sống cho nền kinh tế Nhật Bản, thúc đẩy các ý tưởng sáng tạo công nghiệp mới, thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường, mở rộng cơ hội tạo công ăn việc làm cho xã hội và nâng cao tính năng động của kinh tế địa phương. Trong những năm vừa qua, sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệkhu vực, nền kinh tế Nhật Bản suy thoái kéo dài, các doanh nghiệp Nhật Bản đã bị phá sản nhiều, đặc biệt là các DNV&N. Hiện tại, Nhật Bản có khoảng 6,5 triệu DNV&N, nhưng mỗi năm bên cạnh việc thành lập mới khoảng 180 ngàn doanh nghiệp thì lại có khoảng 200 ngàn doanh nghiệp phá sản hoặc đóng cửa ngừng hoạt động. Chỉnh phủ Nhật Bản đã tiến hành nhiều biện pháp để duy trì ổn định về môi trường kinh tế xã hội, cải thiện hạ tầng kinh doanh, khuyến khích đổi mới kinh doanh, tạo điều kiện thực hiện các ý tưởng sáng tạo và sáng nghiệp cho các DNV&N.
Nhìn chung, các DNV&N của Nhật Bản so với cá doanh nghiệp lớn có một số khó khăn sau:
- Khó khăn về vốn
- Thiếu nguồn nhân lực
- Thiếu kỹ năng quản lý và công nghệ
- Khó khăn trong việc tiếp cận với thị trường
Để xử lý những khó khăn này, Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành một số biện pháp sau:
a/ Tăng cường thu hút, bổ sung nguồn vốn cho các DNV&N
* Hình thức tài trợ gián tiếp
- Nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại tư nhân
- Nguồn vốn từ ngân sách Chính phủvà chính quyền địa phương cấp
- Các ngân hàng, tổ chúc tài chính của Chính phủ
* Hình thức tổ chức tín dụng
- Các công ty bảo lãnh tín dụng hoặc hiệp hội bảo lãnh tín dụng.
- Khuyến nghị của các trung tâm đổi mới doanh nghiệp do các chính quyền địa phương thành lập hoặc của các phòng thương mại công nghiệp hoặc hiệp hội các ngành nghề.
* Hình thức tài trợ trực tiếp thông qua thị trường chứng khoán phát hành trái phiếu công ty.
b/ Các biện pháp nhằm tăng cường hạ tầng kinh doanh cho DNV&N
- Thành lập các trung tâm hỗ trợ DNV&N, các trường đại học đào tạo các chuyên gia hỗ trợ DNV&N;
- Thành lập và tạo điều kiện cho hoạt động của các tổ chức nghiệp đoàn phòng thương mại công nghiệp, trung tâm thương mại;
- Ban hành các luật, quy định hỗ trợ
c/ Các biện pháp tạo điều kiệncho việc thích ứng với sự thay đổi môi trường kinh doanh, thúc đẩy sáng tạo và sáng nghiệp
- Ban hành các luật về chống phá sản, luật xúc tiến sáng tạo doanh nghiệp mới;
- Thành lập các trung tâm hỗ trợ DNV&N thông qua sự phối hợp của chính quyền các cấp, các trường đại học (các giáo sư) và các doanh nghiệp có điều kiện đầu tư.
3. Nội dung hoạt động của các tổ chức hỗ trợ “tài trợ DNV&N”
a/ Về hoạt động tài trợ DNV&N
Hoạt động tài trợ cho DNV&N ở Nhật Bản chủ yếu vẫn do hệ thống ngân hàng thương mại tư nhân thực hiện là chủ yếu (chiếm 90,7% dư nợ cho vay DNV&N). Phần tài trợ từ các tổ chức tài chính của Chính phủ chỉ chiếm 9,3% tổng dư nợ cho vay đối với DNV&N và những đối tượng này chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ, mới thành lập hoặc không đáp ứng được các điều kiện để vay vốn của các ngân hàng thương mại tư nhân nói trên. Trong đó:
- Công ty NLFC cho vay 3,2% (món vay không quá 48 triệu Yên)
- Công ty JFS cho vay 2,5% (món vay không quá 480 triệu Yên).
- Ngân hàng SCB cho vay 3,6%
- Công ty tài chính sinh hoạt quốc gia (NLFC)
Được thành lập vào tháng 6/1949. Tổ chức này huy động vốn thông qua kênh tiết kiệm và phát hành trái phiếu có và không có bảo lãnh của Chính phủ. Tôn chỉ của NLFC là tài trợ cho các doanh nghiệp mới thành lập, những doanh nghiệp có quy mô rất nhỏ có tiềm năng rủi ro cao. Thông thường, các ngân hàng thương mại không muốn tài trợ cho loại hình doanh nghiệp này vì những lý do sau:
- Thiếu hoặc không có số liệu về tài chính.
- Doanh nghiệp phát triển chủ yếu dựa vào năng lực và phẩm chất của gfiám đốc.
- Loại hình kinh doanh đa dạng.
- Nhu cầu vay những khoản vốn nhỏ.
- Rất nhạy cảm với nhũng thay đổi về tình hình kinh tế.
- Không có tài sản thế chấp .
* Công ty tài chính doanh nghiệp nhỏ của Nhật (JFS)
JFS được thành lập ngày 20-8-1953, vốn do Chính phủ cấp. Ngoài nguồn vốn do Chính phủ cấp, JFS huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu có và không có bảo lãnh của Chính phủ. JFS cho vay theo hai loại hình:
- Cho vay chung: Đáp ứng nhu cầu rộng rãi của cá doanh nghiệpđể phát triển kinh doanh (mua thiết bị, vốn lưu động). Lãi suất thấp, dài hạn, cố định. Lãi suất được sử dụng là lãi suất ưu đãi dài hạn, thay đổi hàng tháng, mức hiện tại là 1,55%. Đây cũng là lãi suất mà các NHTM dành cho khách hàng tốt nhất.
- Cho vay đặc biệt: Là công cụ phục vụ cho chương trình, chính sách của Chính phủ. Các chương trình này bao gồm: hỗ trợ cải cách quản lý; thúc đẩy sử dụng công nghệ thông tin; giúp doanh nghiệp bình ổn sản xuất sau khi chịu tác động của sự thay đổi về xã hội, tài chính, kinh tế. Lãi suất cho vay các chương trình này rất thấp.
Ngoài việc cho vay, JFS còn cung cấp thông tin về doanh nghiệp, thực hiện các nghiên cứu về DNV&N.
JFS cho vay trực tiếp (tại 61 chi nhánh) và gián tiếp thông qua các đại lý là chi nhánh các NHTM tư nhân.
Ngoài lãi suất ưu đãi, doanh nghiệp khi vay vốn JFS còn được hưởng nhiều ưu đãi khác.
* Ngân hàng Shoko Chukin Bar (SCB)
Tổ chức này được thành lập ngày 30/11/1936 (Chính phủ chiếm79,7% vốn tự có) để thúc đẩy hoạt động tài trợ cho các DNV&N và để thực hiện phát triển các DNV&N của Chính phủ. Ngoài việc tài trợ nói chung cho các DNV&N, SBC còn thực hiện các hoạt động hỗ trợ ngành kinh doanh sáng tạo và cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài.
* Ngân hàng phát triển Nhật Bản (DBJ)
Ngoài 3 tổ chức chuyên tài trợ cho DNV&N nêu trên, DBJ – một tổ chức chuyên về cho vay trung và dài hạn cho các khách hàng lớn đã có truyền thống hoạt động lâu dài ngày nay đã chuyển hướng tham gia cho vay phát triển các ngành mới. Trước đây, DBJ chỉ dựa vào tài sản cố định làm thế chấp, ngày nay đã phát triển thêm là dựa vào quyền sở hữu trí tuệ.
Khi đầu tư vào các doanh nghiệp mới (venture companỉes), ngoài thu nhập từ lãi, DBJ cũng được hưởng lợi tức từ việc góp vốn vào doanh nghiệp khi doanh nghiệp niêm yết cổ phần (cho vay kèm theo quyền mua cổ phần)
b/ Hoạt động hỗ trợ khác cho các DNV&N và DN mới
* Trung tâm nghiên cứu Doanh nghiệp Kyoto (KRP)
KRP được công ty Osaka Gas Corporation thành lập năm 1987 để thúc đẩy hợp tác giữa giới học thuật, ngành công nghiệp và các cơ quan Chính phủ.Ngoài chức năng nghiên cứu về khoa học công nghệ, KRP còn là nơi hội tụ cả các công ty hoạt động trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, thương mại điện tử, tư vấn, các ngành công nghệ cao.
KRP tạo ra một môi trường kinh doanh năng động để thu hút các công ty nước ngoài vào hoạt động. Hiện nay có 9 công ty nước ngoài có hội sở chính tại KRP. Khoảng 60% doanh nghiệp ở KRP là khởi nghiệp ở nơi khác dau đó mới chuyển đến KRP (hoặc chuyển văn phòng, hoặc chuyển hẳn trụ sỏ chính đến đây). KRP tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp khởi nghiệp và giúp họ tìm kiếm thị trường ban đầu ở ngay trong địa bàn. KRP giúp các doanh nhân trẻ có ý tưởng kinh doanh, liên kết họ với các nhà tài trợ, các nhà chuyên môn kỹ thuật để biến ý tưởng kinh doanh thành hiện thực. Theo đại diện của trung tâm, hàng năm, KRP tổ chức hàng nghìn hội thảo cho các doanh nghiệp.
* Trung tâm đổi mới doanh nghiệp Osaka (BICO)
BICO được phòng Kinh tế Chính quyền thành phố Osaka thành lập năm 2001nhằm thực hiện các chương trình:
- Kết hợp các doanh nghiệp
- Liên kết giữa ngành công nghiệp với trường đạ học và Chính phủ
- Giới thiệu về công nghệ thông tin, đào tạo cho DNV&N trong đại bàn;
- Tư vấn thành lập và quản lý doanh nghiệp;
- Trung tâm thông tin hỗ trợ kinh doanh.
BICO thực hiện dịch vụ tư ván cho DNV&N và doanh nghiệp mới qua Iternet, gặp trực tiếp và cử chuyên gia. Trong các loại hình trên, dịch vụ tư vấn qua Iternet được đánh giá là thành công nhất. Tổng cộng có khoảng 6.600 lượt người sử dụng các loại hình dịch vụ trên, trong đó qua Iternet là 1200 lượt.
BICO thực hiện đánh giá tiềm năng của đối tượng cho vay trên 3 phương diện: kế hoạch kinh doanh, chất lượng người quản lý, tinh thần dám nghĩ dám làm. cách thức tìm kiếm là thông qua chương trình liên kết qua 4 loại phương tiện và thông qua chương trình của doanh nghiệp. Trung tâm này cũng giới thiệu khách hàng đến NLFC, DN có thể vay vốn mà không cần có tài sản thế chấp.
Kinh nghiệm của các nước trong khu vực về đẩm bảo an toàn trong cho vay
Đặc điểm chung của các quốc gia này là trình độ phất triển nền kinh tế thị trường chưa cao, hệ thống ngân hàng còn non trẻ, hoặc lề lối làm việc theo kiểu gia đình Châu ánên các quy định về đảm bảo an toàn trong cho vay của các NHTM cũng đang trong quá trình hoàn thiện và ở chừng mực nhất định (trừ Nhật Bản). Luật các nước này đều quan tâm đến việc bảo đảm quyền lợi cho người gửi tiền, luật quy định phí bảo hiểm tiền gửi, quền lợi được bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Để bảo đảm ân toàn trong cho vay, luật quy định về tài sản thế chấp, trách nhiệm người cho vay, bảo lãnh tín dụng và bảo hiểm tín dụng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luận văn tốt nghiệp: “Giải pháp năng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Techcombank Việt Nam” – Nguyễn Văn Lãi
- Luận văn tốt nghiệp: “Giải pháp năng cao chát lượng tín dụng đối với DNVVN tại NHNT Việt Nam”– Nguyễn Thị Hoài Linh
- Luận văn tốt nghiệp: Giải pháp MR hoạt động cho vay đối với sản phảm “ô tô xịn” và “nhà nước” của Phạm Bình Minh – NH41C
- Thanh Tùng: Vấn đề liên quan đến TSTC tại các TCTD (TTCTTT số 4- 2002).
- Các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể của ngành ngân hàng năm 2004 – Tạp chí ngân hàng số 2 năm 2004 – trang 3
- Một số ý kiến về quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng TD và CLTD (Tiến sĩ: Lê Đắc Trí)
- Tạp chí NH só 2 năm 2004 – trang 31
- Tăng cường cán bộ giải pháp cấp bách để nâng cao hiệu quả công tác, kiểm toán của hệ thống NHTM Việt Nam: Tạp chí NH số 2 năm 2004 – Thạc sĩ: Nguyễn Thị Hiên.
- Kinh nghiệm một số nước trong việc nâng cao năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các NHTM- Tiến sĩ: Đỗ Văn Đức – Tạp chí NH số 2 năm 2004
- Giải pháp vốn cho tăng trưởng kinh tế năm 2004 – Nguyễn Thị Thanh Sơn – Tạp chí NH số 3 năm 2004
- Giải pháp năng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM nước ta trong hội nhập KTQT – Nguyễn Văn Thầy – Tạp chí NH số 3 năm 2004
- Đổi mới chính sách khách hàng của các NHTM nhìn dưới góc độ tiếp thị - Đào Thị Chung – Tạp chí NH số 3 năm 2004
- Một số giải pháp năng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng – Bích Thuỷ – TTTCTT tháng 6 năm 2004
- Kiểm soát nội bộ của NHTM – Nguyễn Trọng Ngọ – TTTCTT số 15 tháng 12 năm 2003
- Quản lý quan hệ khách hàng, yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NH - Đăng Công Hoàn – TTTCTT số 15 tháng 12 năm 2003
- Nguyên nhân chung của rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng – Thạc sĩ: Nguyễn Thị Thao
- Tạp chí NH số 10 năm 2002
- Một só giải pháp về kiểm soát RRTD trong quản trị điều hành NHTM hiệ nay. Tạp chí NH số 6 năm 2001
- Tiếp cận vốn NH của khu vực tư nhân – cản trở cần khắc phục. Thạc sĩ: trần Sĩ Mạnh – Tạp chí NH số 4 năm 2001
- Góp thêm ý kiến về năng cao chất lượng tín dụng. Dương Hồng Tâm – Tạp chí NH số 12 nưm 2001
- Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực của các NHTM trong quá trình cạnh tranh và hội nhập quốc tế – Tiến sĩ: Lê Khắc Trí – TTTCTT ngày 1 tháng 3 năm 2004.
- Tín dụng DN vừa và nhỏ – Hồ Thị Thu Hương TTTCTT ngày 1 tháng 3 năm 2004.
- Giáo trình luật Kinh tế – PGS: Nguyễn Hữu Viện – NXBQG Hà Nội 2001
- Giáo trình quản trị NH của PETE ROSE
- Giáo trình nghiệp vụ NHTM – Tiến sĩ : Phan Thu Hà, Nguyễn Thị Thu Thảo biên soạn
- Cùng các văn bản, tài liệu nội bộ có liên quan
- Một vài suy nghĩ về giải pháp xử lý nợ tồn đọng – Hoàng Quốc Mạnh – TTTCTT ngày 15 tháng 10 năm 2003
- NHTM mở rộng cho vay vốn DNVVN – Hoàng Xuân Thuận – TTTCTT ngày 15 tháng 10 năm 2003
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34546.doc