LỜI CAM KẾT
Tên tôi là: VŨ THỊ DUNG.
Sinh viên lớp: Kinh tế Phát triển 48B
Khoa: Kế hoạch và Phát triển
Sau 4 năm học tập, 15 tuần thực tập tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á, được sự cho phép của khoa Kế hoạch và phát triển cùng với sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Phan Thị Nhiệm tôi đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á” làm đề tài tốt nghiệp của mình.
Tôi xin cam đoan đây là kết quả của việc áp dụng những kiến thức học
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tập được tại nhà trường và những kiến thức thực tế tại ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á. Nó là công trình nghiên cứu của riêng tôi chứ không sao chép từ bất kỳ một chuyên đề, luận văn nào khác.
Hà Nội, ngày 09 tháng 05 năm 2010
Sinh viên
Vũ Thị Dung
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của Ngân hàng trong những năm gần đây: 22
Bảng 2.2 Tình hình dư nợ theo thời hạn cho vay tại ngân hàng TMCP Bắc Á 24
Bảng 2.3: Bảng tình hình dư nợ theo chất lượng nợ cho vay tại ngân hàng TMCP Bắc Á: 25
Bảng 2.4 Tình hình hoạt động đầu tư của ngân hàng: 26
Bảng 2.5: Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP Bắc Á 31
Bảng 2.6: Hệ số sử dụng vốn qua các năm 33
Bảng 2.7: Chỉ tiêu dư nợ trong những năm gần đây 34
Bảng 2.8 :Tình hình nợ quá hạn 35
Bảng 2.9 Bảng phân tích chất lượng nợ cho vay các dự án đầu tư 36
Bảng 2.10: Trích dự phòng rủi ro tín dụng 38
Bảng 2.11: Bảng số dự án xin vay vốn, số dự án được duyệt 38
Bảng 1.12: Bảng tổng kết hoạt động cho vay của ngân hàng TMCP Bắc Á 39
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kế hoạch năm 2010 44
Biểu 2.1 Tình hình huy động vốn của ngân hàng TMCP Bắc Á 22
Biểu 2.2: Biểu đồ kết quả hoạt động cho vay của ngân hàng TMCP Bắc Á 39
LỜI MỞ ĐẦU
Đã từ lâu, ngân hàng trở thành một dịch vụ nền tảng của những quốc gia phát triển. Ngân hàng ra đời góp phần điều tiết các nguồn vốn, là kênh phân phối vốn, điều chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Sở dĩ ngân hàng thực hiện được điều này là thông qua vai trò tín dụng. Tín dụng là nhân tố trợ thủ đắc lực giúp cho các thành phần trong xã hội phát triển toàn diện.
Trong xu thế toàn cầu hoá nhu cầu tín dụng đối với các thành phần kinh tế càng trở nên cấp thiết hơn. Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng (hay cụ thể hơn là ngân hàng) cũng cạnh tranh gay gắt hơn do có nhiều hệ thống ngân hàng hiện hữu nên vấn đề cấp phát tín dụng ngày càng có nhiều rủi ro và ngày càng được cải thiện về chất lượng lẫn số luợng cho vay.
Vậy các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại, làm thế nào để có thể tồn tại và phát triển ngày càng vững mạnh trong thời kỳ hội nhập với những đối thủ cạnh tranh đầy tiền lực và giàu kinh nghiệm? Đây thực sự là một vấn đề khá khó khăn cho tất cả các ngân hàng. Một trong những câu trả lời trên đây nghe đơn giản nhưng cũng thật sự khó thực hiện đó là nâng cao hiệu quả kinh doanh và tăng cường cạnh tranh.
Cùng với sự đổi mới của toàn bộ hệ thống ngân hàng, Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á, trong những năm qua đã rất chú trọng tới hoạt động tín dụng và đang từng bước hoàn thiện trong hoạt động kinh doanh của mình để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong lúc sự quản lý kinh tế, sự chuyển đổi cơ chế quản lý trong lĩnh vực ngân hàng đang diễn ra hết sức phong phú và đa dạng. Song sẽ là không phải khi muốn hoàn thiện hơn mà lại không chấp nhận những phần còn thiếu sót còn tồn tại trong hoạt động tín dụng của mình.
Qua quá trình nghiên cứu, học tập, tìm hiểu để có thể tiếp cận, xâm nhập và từ những yêu cầu thực tiễn đặt ra, đặc biệt trong quá trình thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á được sự giúp đỡ và khuyến khích của các thầy cô giáo trong khoa, các cô chú, anh chị trong ngân hàng, em đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á ”để viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Chuyên đề được chia thành 3 chương:
Chương I: Tổng quan về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á
Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bác Á
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phan Thị Nhiệm đã hướng dẫn, giúp đỡ em tận tình, em cũng xin chân thành cảm ơn các anh chị trong phòng tín dụng tại ngân hàng TMCP Bắc Á đã giúp em có cái nhìn thực tế về hoạt động tín dụng tại ngân hàng để em có thể hoàn thành đề tài này.
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1 Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
1.1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ những đồ vật quí cho những người sở hữu nó tránh mất mát và người chủ sở hữu nó phải trả cho người giữ một khoản tiền công. Khi xã hội phát triển kéo theo thương mại phát triển nhu cầu về lượng tiền càng lớn thì ngân hàng trở thành nơi giữ tiền và nhàn rỗi trong xã hội và dùng lượng tiền đó cho vay lại. Đó chính là nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng.
Ngân hàng thương mại (NHTM) được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở các nước trên thế giới. Ở một số nước, thì khái niệm NHTM để chỉ một số tổ chức tài chính tiền tệ nơi hoạt động kinh doanh chủ yếu của nó là nhận tiền gửi từ các cá nhân hay tổ chức kinh tế rồi lại để cho các tổ chức này vay lại. Các ngân hàng không được phép kinh doanh tổng hợp các dịch vụ khác như đầu tư tài chính, cung cấp dịch vụ cho các nhóm ngành nghề riêng biệt. Trong khi đó ở một số nước khác thì lại cho rằng NHTM là ngân hàng được phép kinh doanh tổng hợp tất cả các dịch vụ ngân hàng.
Ở Việt Nam, NHTM được quy định rõ trong luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng: “ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Trên thực tế, ở nước ta ngoài việc thực hiện các hoạt động trong luật thì còn phải thực hiện các hoạt động khác phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội thực hiện theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là cho vay để phát triển một số thành phần kinh tế, ưu đãi đối với một số dự án, một số đối tượng phù hợp.
Do đó, ở Việt Nam các NHTM thường được hiểu như một ngân hàng thực hiện các dịch vụ tổng hợp về kinh doanh tiền tệ như nhận gửi của khách hàng để rồi cho vay, cung cấp lại vốn đầu tư... dưới sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước.
1.1.1.2 Các hoạt động của NHTM
* Nghiệp vụ huy động vốn
Vốn của NHTM là những gía trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Trên thực tế, nguồn vốn của ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM.
Xuất phát từ vai trò và tính chất vốn như vậy, nghiệp vụ huy động vốn (hay còn gọi là nghiệp vụ tạo lập vốn) luôn được coi là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của NHTM. Ngoài vốn ban đầu cần thiết tức là đủ vốn pháp định theo luật thì ngân hàng phải thường xuyên quan tâm tới việc tăng trưởng vốn trong cả quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Thông thường kết cấu nguồn vốn của một NHTM gồm có: vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn khác. Mỗi loại vốn đều có những ai trò tính chất riêng. Trong tổng nguồn vốn hoạt động của NHTM và trong suốt quá trình hoạt động của NHTM các nghiệp vụ huy động theo từng loại vốn kể trên sẽ được tiến hành xen kẽ lẫn nhau phụ thuộc vào yêu cầu của hoạt động kinh doanh và thực trạng vốn của ngân hàng.
* Nghiệp vụ sử dụng vốn
Sau khi huy động được vốn, NHTM phải sử dụng thế nào để hiệu quả hoá những nguồn tài sản này. Thông thường hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng tập trung vào các hình thức sau:
Nghiệp vụ ngân quỹ: là hoạt động của ngân hàng nhằm mục đích bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên như: các quỹ tiền mặt, các khoản tiền gửi thanh toán ở NHTW và NHTM khác, các khoản tiền đang trong quá trình thu về.
Nghiệp vụ cho vay: là hoạt động kinh doanh giữ vị trí chủ chốt của ngân hàng trong việc tạo ra lợi nhuận. Các khoản cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn từ 60-80% tổng số tài sản có của NHTM và đem lại hơn 60% doanh lợi cho ngân hàng. Đại bộ phận tiền huy động được ngân hàng cho vay theo 2 loại chính là cho vay ngắn hạn và cho vay trung dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, đời sống, dịch vụ kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế, đi cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và của ngành ngân hàng, các NHTM còn đưa ra nhiều loại hình tín dụng khác, đa dạng đáp ứng đầy đủ nhu cầu tín dụng của các thành phần trong nền kinh tế như: tín dụng thông thường cho các đơn vị kinh doanh, tín dụng chứng từ, tín dụng thuê mua,…
Nghiệp vụ đầu tư: hoạt động đầu tư của NHTM diễn ra chủ yếu trên thị trường tài chính thông qua việc mua bán các chứng khoán. Thu nhập ngân hàng thu được từ hoạt động này là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể tiến hành đầu tư thông qua việc mua cổ phiếu hoặc hùn vốn hoặc góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp và được phân chia lợi nhuận trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
* Nghiệp vụ trung gian
Để giúp các ngân hàng phát triển toàn diện, đem lại cho ngân hàng những khoản thu nhập khá quan trọng, NHTM còn tiến hành các nghiệp vụ trung gian gồm nhiều loại dịch vụ ngân hàng khác nhau để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng nhằm qua đó làm tăng sự thoả mãn của khách hàng đối với 2 loại nghiệp vụ cơ bản kể trên. Các dịch vụ trung gian thường gặp như: dịch vụ chuyển khoản, dịch vụ cung cấp các công cụ thanh toán, dịch vụ thu hộ chi hộ, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ kiều hối thu đổi ngoại tệ, dịch vụ thuê mua bảo lãnh, dịch vụ tư vấn thông tin,… Vai trò của các nghiệp vụ trung gian này là bổ sung vào các nghiệp vụ cơ bản, tạo giá trị gia tăng và có thể tạo nên sự khác biệt của ngân hàng trong cạnh tranh.
1.1.2 Hoạt động tín dụng của NHTM
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng với một bên là các chủ thể khác trong nền kinh tế, trong khi đó ngân hàng đóng vai trò với tư cách một bên là ngân hàng một bên là các chủ thể khác trong nền kinh tế. Ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay, nói cách khác ngân hàng là một trung gian tài chính có nhiệm vụ luân chuyển vốn từ nơi tạm thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Giá (lãi suất) của khoản vay do ngân hàng ấn định cho khách hàng vay là mức lợi tức mà khách hàng phải trả trong suốt khoảng thời gian tồn tại của khoản vay. Có thể nhận thấy về thực chất tín dụng là quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối quan hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và hàng hoá từ người cho vay chuyển sang người đi vay và sau một thời gian nhất định quay về với người cho vay với lượng giá trị lớn hơn ban đầu. Tín dụng được cấu thành nên từ sự kết hợp của ba yếu tố chính là: lòng tin (sự tin tưởng vào khả năng hoàn trả đầy đủ và đúng hạn của người cho vay đối với người đi vay); thời hạn của quan hệ tín dụng (thời gian người vay sử dụng tiền vay); sự hứa hẹn hoàn trả. Và như vậy, phạm trù tín dụng có các đặc trưng chủ yếu sau:
Tín dụng là có lòng tin: bản thân từ tín dụng xuất phát từ tiếng la-tinh “creditum” có nghĩa là “sự giao phó” hay “sự tín nhiệm”. Nghiên cứu khái niệm tín dụng cũng cho ta thấy tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn thời gian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện “mức tín nhiệm” hay “lòng tin” của người cho vay vào người đi vay. Yếu tố lòng tin tuy vô hình nhưng không thể thiếu trong quan hệ tín dụng, đây là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh.
Trong quan hệ tín dụng “lòng tin” được biểu hiện từ nhiều phía, không chỉ có lòng tin từ một phía của người cho vay đối với người đi vay. Nếu người cho vay không tin tưởng vào khả năng hoàn trả của người đi vay thì quan hệ tín dụng có thể không phát sinh và ngược lại, nếu người đi vay cảm nhận thấy người cho vay không thể đáp ứng được yêu cầu về khối lượng tín dụng, về thời hạn vay,…thì quan hệ tín dụng cũng có thể không phát sinh. Trong quan hệ tín dụng lòng tin của người cho vay đối với người đi vay quan trọng hơn nhiều bởi lẽ người cho vay là người giao phó tiền bạc hoặc tài sản của mình cho người khác giữ và sử dụng.
Tín dụng là có tính thời hạn: khác với các quan hệ mua bán thông thường khác (sau khi trả tiền người mua trở thành chủ sở hữu của vật mua hay còn gọi là “mua đứt bán đoạn”), quan hệ tín dụng chỉ trao đổi quyền sử dụng giá trị khoản vay chứ không trao đổi quyền sở hữu khoản vay. Người cho vay giao giá trị khoản vay dưới dạng hàng hoá hay tiền tệ cho người kia sử dụng trong một thời gian nhất định. Sau khi khai thác giá trị sử dụng của khoản vay trong thời hạn cam kết, người đi vay phải hoàn trả toàn bộ giá trị khoản vay cộng thêm khoản lợi tức hợp lý kèm theo như cam kết đã tảo thuận với người cho vay.
Mọi khoản vay dưới dạng hiện vật hay tiền tệ đều là hàng hoá và vì thế nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Trong kinh doanh tín dụng người cho vay chỉ bán “giá trị (quyền) sử dụng của khoản vay” chứ không bán “giá trị của khoản vay”, vì thế sau khi hết thời gian sử dụng theo cam kết, khoản vay đó được hoàn trả về và vẫn giữ nguyên giá trị của nó, phần lợi tức theo thoả thuận là “giá bán” quyền sử dụng khoản vay trong thời gian nhất định. Như vây, khối lượng hàng hoá hay tiền tệ cho vay ban đầu chỉ là vật chuyên chở giá trị sử dụng của chúng, được phát ra qua các thời gian nhất định rồi sẽ thu về chứ không được bán đứt.
Tín dụng là có tính hoàn trả: đây là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng và là dấu ấn để phân biệt phạm trù tín dụng với các phạm trù kinh tế khác. Sau khi kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng, hoàn thành một chu kỳ sản xuất trở về trạng thái tiền tệ, vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả cho người cho vay kèm theo một phần lãi như đã thoả thuận.
Một mối quan hệ tín dụng được gọi là hoàn hảo nếu được thực hiện với đầy đủ các đặc trưng trên, nghĩa là người đi vay hoàn trả được đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn.
1.1.3 Phân loại tín dụng
Phân loại tín dụng nhằm mục đích giám sát và kiểm tra những khoản nợ hiện có theo các mức độ khác nhau, xác định xem chất lượng và mức độ rủi ro của những khoản nợ, từ đó có chế độ quản lý thích hợp đối với từng khoản cho vay. Có nhiều tiêu thức phân loại tín dụng, nhưng để phục vụ trực tiếp cho việc quản lý, người ta thường phân loại nợ theo các tiêu thức: theo thời hạn cho vay, theo mức độ rủi ro của khoản nợ, theo kỳ hạn nợ, theo tính chất bảo đảm của tài sản thế chấp.
+ Phân loại theo thời hạn cho vay, có 3 loại: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và dài hạn, tuỳ theo quan niệm và điều kiện quản lý cụ thể của từng nước trong việc huy động vốn mà quy định các loại tín dụng có khác nhau. Thông thường, tín dụng có liên quan đến việc bổ sung vốn phục vụ cho mua sắm tài sản lưu động còn tín dụng trung và dài hạn có liên quan tới lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Phân loại theo thời hạn, tính chất của các khoản vay tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng chính sách tín dụng, kế hoạch hóa nguồn vốn huy động và cho vay phù hợp với từng giai đoạn cụ thể.
+Phân loại theo kỳ hạn nợ: Phân loại theo kỳ hạn nợ căn cứ vào thời hạn trả nợ đã thoả thuận trong hợp đồng vay vốn và khả năng thanh toán thực tế của bên vay vốn để quy định từng lần vay vốn cụ thể cho một khoản vay. Theo tiêu thức này, người ta chia các khoản nợ thành 3 loại: nợ chưa đến hạn, nợ đến hạn và nợ quá hạn.
Nợ chưa đến hạn là nợ chưa đến thời hạn thanh toán, khoản nợ này có thể thu hồi được nhưng cũng có khả năng rủi ro. Giai đoạn này có thể biến Ngân hàng ở thế bất lợi thành thuận lợi và ngược lại. Làm tốt khâu này sẽ tạo điều kiện cho việc hoàn thành chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng .
Nợ đến hạn là khoản nợ đến hạn phải thanh toán, nó được dùng để đánh giá một khoản tín dụng đã cung cấp và có ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính và khả năng thanh toán của NHTM. Không thể nói rằng tình hình của một NHTM là khả quan khi có nhiều khoản nợ đến hạn mà không có khả năng thanh toán được.
Nợ quá hạn là những khoản nợ vì lý do nào đó mà đến thời hạn chưa thanh toán được. Đây là nguyên nhân chính làm cho tình hình tài chính của NHTM trở nên khó khăn. Nợ quá hạn càng lớn, mức độ rủi ro thiếu thanh khoản ngày càng cao. Mục tiêu của NHTM là thu nợ đúng hạn. Thực hiện mục tiêu này, không những chỉ có thể đảm bảo cho sự thành công trong kinh doanh của NHTM mà nó còn cho thấy vai trò đòn bẩy của vốn tín dụng trong thúc đẩy sản xuất phát triển.
Việc thực hiện quản lý các khoản nợ này là một dãy liên hoàn và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình quản lý của một khoản cho vay. Quản lý, theo dõi chặt chẽ các khoản nợ chưa đến hạn, thu nợ kịp thời khi khoản vay đến hạn thanh toán sẽ góp phần hạn chế được nợ quá hạn. Phân loại theo kỳ hạn nợ giúp cho cán bộ tín dụng có biện pháp theo dõi, quản lý thích hợp, dự kiến được khoảng thời gian và biện pháp thu hồi nợ, trên cơ sở đó lập kế hoạch tín dụng cho thời kỳ tiếp theo.
+ Phân loại theo tính chất đảm bảo của khoản nợ:
Theo tiêu thức này, các khoản nợ được chia thành 2 loại: nợ có đảm bảo (bằng tài sản thế chấp hay được bảo lãnh, tái bảo lãnh) và nợ không có đảm bảo. Mức độ rủi ro của khoản nợ có đảm bảo tuỳ thuộc vào mức độ đảm bảo của tài sản thế chấp. Xác định đúng giá trị của nó và cho vay theo đúng mức độ rủi ro của việc đảm bảo tiền vay co thể tránh được những rủi ro đáng tiếc khi nợ đến hạn không thể thu hồi được.
Nợ không đảm bảo, với mức độ rủi ro của tín dụng tuỳ thuộc chủ yếu vào tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của bên vay. Do đó, các khoản nợ này nên được quản lý chặt chẽ bằng các biện pháp nghiệp vụ và thông qua nhiều nguồn tin để đánh giá tình hình khoản vay. Nắm chắc tình hình nợ và có biện pháp quản lý chặt chẽ, kịp thời là biện pháp thu nợ hiệu quả và thể hiện sức mạnh của Ngân hàng.
Như vậy, nợ có đảm bảo tuy mức độ rủi ro ít hơn nhưng đứng về mặt hiệu quả thì các khoản nợ không có gì đảm bảo xét về mặt nào đó sẽ có tác dụng tích cực hơn nếu thu hồi đúng hạn cả gốc và lãi vì điều đó thể hiện uy tín, tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng quản lý của người vay tốt. Vốn vay đã có tác động tích cực trong việc hỗ trợ doanh nghiệp khi gặp khó khăn tài chính tạm thời. Về phía ngân hàng, điều đó cũng chứng tỏ ngân hàng có khả năng trong việc nhận định, đánh gía tình hình khách hàng cũng như khả năng quản lý, giám sát hoạt động tín dụng. Do đó, cho vay có đảm bảo là cần thiết nhưng không nên lấy đó làm mục tiêu chính của hoạt động tín dụng .
+ Phân loại theo mức độ rủi ro của các khoản nợ:
Cách phân loại này thường được sử dụng trong phân tích chất lượng tín dụng và tính toán dự phòng tổn thất cho vay. Theo cách này, các khoản nợ được phân chia thành những thứ bậc khác nhau dựa trên cơ sở các mức khác nhau về khả năng thu nợ. Dựa vào cách phân loại này, các NHTM có khả năng quản lý chặt chẽ các khoản nợ, phát hiện sớm các khoản nợ khi đến hạn thanh toán.
1.2. Chất lượng của tín dụng ngân hàng
1.2.1 Khái niệm chất lượng tín dụng
Thông thường, chất lượng của một sản phẩm hay một dịch vụ đều được biểu hiện ở mức độ thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và lợi ích về mặt tài chính cho người cung cấp. Do đó, trong kinh doanh tín dụng, chất lượng tín dụng ngân hàng được thể hiện ở sự thoả mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời phải đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Với cách định nghĩa như trên, chất lượng tín dụng ở đây sẽ được đánh giá trên 3 góc độ: ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.
Đối với NHTM: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, giới hạn, mức độ tín dụng phù hợp với khả năng thực lực của bản thân ngân hàng đồng thời đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn và đồng thời có lãi.
Đối với khách hàng: do nhu cầu vay vốn tín dụng của khách hàng là để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh do đó chất lượng tín dụng được đánh giá theo tính chất phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng ở mức lãi suất và kỳ hạn hợp lý. Hơn nữa đó là thủ tục vay đơn giản, thuận lợi, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn phải bảo đảm nguyên tắc tín dụng.
Đối với nền kinh tế: với sự phát triển kinh tế xã hội, chất lượng tín dụng được đánh giá thông qua khả năng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, khai thác các khả năng trong nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tăng trưởng tín dụng, hoà nhập với cộng đồng quốc tế.
Hiểu đúng bản chất của chất lượng tín dụng, đánh giá và phân tích đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như việc xác định chính xác các nguyên nhân những tồn tại về chất lượng sẽ giúp cho ngân hàng tìm được biện pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
1.2.2 Sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM
Trong tổng thể các hoạt động ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng luôn giữ vai trò quan trọng, chiếm tới khoảng 2/3 tổng số các tài sản có và tạo ra phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng yếu tố rủi ro luôn thường trực và ở mức tỷ lệ khá cao, do đó mà tại các ngân hàng luôn dành sự chú ý đặc biệt đến việc kiểm soát cũng như những biện pháp để chống đỡ, hạn chế rủi ro tín dụng. Một trong những biện pháp hữu hiệu là đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng các khoản tín dụng. Đảm bảo chất lượng tín dụng đem đến lợi ích cho các NHTM, các doanh nghiệp nói riêng và tổng thể nền kinh tế nói chung. Hoạt động tín dụng không những tác động trực tiếp đến ngân hàng mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới các nhân tố, tổ chức, doanh nghiệp trong nền kinh tế.
+ Đối với ngân hàng thương mại: nâng cao chất kượng tín dụng có ý nghĩa rất lớn đối với các ngân hàng thương mại. Đó là cả quá trình hoàn thiện sản phẩm tín dụng, giúp ngân hàng giảm bớt chi phí mà vẫn đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng tín dụng còn giúp ngân hàng tạo dựng được uy tín tốt với khách hàng, từ đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Khi chất lượng tín dụng đã được nâng cao khi đó nguồn vốn đã được sử dụng đúng mục đích, ngân hàng được đảm bảo đúng thời hạn thu hồi vốn, tạo điều kiện mở rộng tín dụng cùng những hoạt động khác của ngân hàng. Từ đó, ngân hàng nâng cao được thương hiệu của mình trên thị trường tài chính.
+ Đối với khách hàng: việc nâng cao chất lượng tín dụng là được ngân hàng cấp vốn đúng theo nhu cầu về khối lượng và thời gian, tạo thuận lợi cho khách hàng mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Đối với nền kinh tế: nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, là công cụ hiệu quả tài trợ cho nền kinh tế. Không những đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế mà với việc sử dụng các loại vốn khác có chi phí thấp hơn. Nâng cao chất lượng tín dụng còn tạo ra xu hướng cạnh tranh giữa các ngân hàng, thúc đẩy các ngân hàng áp dụng công nghệ hiện đại, chuyên nghiệp vào hoạt động, dần hoàn thiện mọi hoạt động của ngân hàng, từ đó hoàn thiện toàn hệ thống ngân hàng.
Các kết quả thu được từ việc nâng cao chất lượng tín dụng kể trên sẽ góp phần cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong suốt quá trình cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động của khách hàng, kéo theo sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng là một tất yếu khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của bản thân các NHTM.
1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó, đo lường chất lượng tín dụng là một nội dụng quan trọng trong việc phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Tùy vào mục đích phân tích mà đưa ra nhiều chỉ tiêu khác nhau, tuy mỗi chỉ tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong phạm vi bảng báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh, chúng ta có thể áp dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá tình hình chất lượng tín dụng của ngân hàng.
*Chỉ tiêu sử dụng vốn
Huy động
Hệ số sử dụng vốn = ¾¾¾¾
Sử dụng
Hệ số sử dụng vốn là chỉ tiêu hiệu quả phản ánh chất lượng tín dụng, cho phép đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động tín dụng của một ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn thì càng chứng tỏ ngân hàng đã sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn huy động được.
* Chỉ tiêu dư nợ: Dư nợ ngắn hạn (hoặc trung - dài hạn) / Tổng dư nợ
Chỉ tiêu dư nợ là một chỉ tiêu định lượng, xác định cơ cấu tín dụng trong trường hợp dư nợ được phân theo thời hạn cho vay (ngắn, trung hoặc dài hạn). Chỉ tiêu này còn cho thấy biến động của tỷ trọng giữa các loại dư nợ tín dụng của một ngân hàng qua các thời kỳ khác nhau. Chỉ tiêu này càng cao càng chứng tỏ mức độ phát triển của nghiệp vụ tín dụng càng lớn, mối quan hệ của ngân hàng với khách hàng càng có uy tín.
* Chỉ tiêu nợ quá hạn Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Nợ quá hạn khó đòi / Tổng dư nợ
Nợ quá hạn khó đòi / Tổng nợ quá hạn
Chỉ tiêu nợ quá hạn là một trong những chỉ số quan trọng để đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng. Các ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng tỏ được chất lượng tín dụng cao của mình và ngược lại chỉ số này cao độ rủi ro trong khâu tín dụng của ngân hàng càng cao.
Thông thường, tỷ lệ nợ quá hạn tốt nhất là ở mức <= 5%. Tuy nhiên, chỉ tiêu này đôi khi cũng chưa phản ánh hết chất lượng tín dụng của một ngân hàng. Bởi vì rằng, bên cạnh những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý do đã thực hiện tốt các bước trong qui trình tín dụng, còn có những ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn thấp qua việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng qui định.
* Chỉ tiêu về tốc độ chu chuyển vốn tín dụng (vòng quay vốn tín dụng)
Doanh số thu trong năm
Vòng quay vốn tín dụng trong năm = ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾
Doanh số nợ bình quân trong năm
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn của ngân hàng được sử dụng cho vay mất lần trong một năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ nguồn vốn của ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.
* Lãi treo: là khoản lãi tính trên nợ quá hạn mà ngân hàng chưa thu được. Vì thế chỉ số này càng thấp càng tốt.
Ngoài việc sử dụng các chỉ tiêu định lượng trên, hiện nay nhiều ngân hàng đã sử dụng thêm các chỉ tiêu định tính để đánh giá chất lượng tín dụng như việc tuân thủ các quy chế, lập hồ sơ cho vay, chế độ thể lệ tín dụng, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả,…
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng thể hiện ở cả một quá trình tính từ khi khoản tín dụng được ngân hàng xét duyệt, giải ngân cho đến khi được thu hồi. Trong quá trình đó có rất nhiều những tác động gây rủi ro dẫn đến việc ngân hàng không thu hồi được vốn và có thể phải chịu thua lỗ. Để quản lý chất lượng tín dụng có hiệu quả đòi hỏi phải hiểu rõ về các nhân tố gây ảnh hưởng.
1.2.4.1 Các yếu tố chủ quan (hay nhóm nhân tố từ phía ngân hàng)
Chính sách tín dụng: chính sách tín dụng phản ánh định hướng cơ bản cho quá trình hoạt động tín dụng. Nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Để đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần có những chính sách tín dụng phù hợp với đường lối phát triển kinh tế, đồng thời kết hợp được lợi ích của khách hàng với ngân hàng.
Quy trình tín dụng: quy trình tín dụng là trình tự tổ chức thực hiện các bước kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, chỉ rõ trình tự, cách làm từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một giao dịch thuộc nhiệm vụ, chức năng của cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng có liên quan. Quy trình tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng, nếu nó được tổ chức khoa học, hợp lý sẽ cho phép bảo đảm thực hiện các khoản vay có hiệu quả.
Kiểm soát nội bộ: đây là hoạt động mang tính thường xuyên và cần thiết đối với mọi ngân hàng. Công tác kiểm tra nội bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng chặt chẽ và thường xuyên sẽ càng làm cho hoạt động tín dụng đúng hướng, thực hiện đúng các yêu cầu, đúng nguyên tắc. Kiểm soát nội bộ kịp thời ngăn ngừa, hạn chế những sai sót của cán bộ tín dụng, giúp cho hoạt động tín dụng kịp thời sửa chữa, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao chất lượng tín dụng.
Tổ chức nhân sự: con người luôn là nhân tố hàng đầu quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh nói chung và tất yếu nó cũng không loại trừ khỏi hoạt động trong lịch vực ngân hàng. Muốn nâng cao được hiệu quả trong kinh doanh cũng như chất lượng trong hoạt động tín dụng, ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi về chuyên môn, được đào tạo có hệ thống, am hiểu rộng và có kiến thức phong phú đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư vốn, nắm vững các bộ luật, văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng. Trong cách bố trí sử dụng, người cán bộ tín dụng cần phải được sàng lọc kỹ càng, phải có kế hoạch thường xuyên bồi dưỡng kiến thức cần thiết để bắt kịp với nhịp độ phát triển không ngừng của kinh tế thị trường. Ngoài ra, cần có tiêu chuẩn về đạo đức và sự liêm khiết, bởi lẽ nếu người cán bộ tín dụng thiếu trách nhiệm hay cố tình vi phạm sẽ gây tổn thất không lường cho ngân hàng.
Ngân hàng phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Vai trò và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh ngân hàng là hết sức quan trọng. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần xây dựng hệ thống thông tin đầy đủ và linh hoạt, nhờ đó cung cấp các thông tin kịp thời, chính xác tăng cường hơn nữa khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng.
1.2.4.2 Các yếu tố khách quan (Nhóm nhân tố từ phía khách hàng)
Uy tín, đạo đức của người vay
Trong qui trình tín dụng các ngân hàng thường đưa ra quyết định cho vay sau khi đã phân tích các yếu tố có liên quan đến uy tín và khả năng trả nợ của người vay nhằm hạn chế thấp nhất khả năng rủi ro do chủ quan của người vay có thể gây ra. Đạo đức người vay là một nhân tố quan trọng của qui trình thẩm định. Tính cách của người vay không chỉ được ._.đánh giá bằng phẩm chất đạo đức chung mà còn phải được kiểm nghiệm qua kết quả hoạt động trong quá khứ, hiện tại và chiến lược phát triển ở tương lai. Thực tế kinh doanh đã cho thấy, tính chân thật và khả năng chi trả của người vay có thể thay đổi sau khi món vay được thực hiện. Khách hàng có thể đánh lừa ngân hàng qua việc gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu tài sản, sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, không theo phương án kinh doanh,…Việc khách hàng gian lận tất yếu sẽ dẫn đến những rủi ro cho tín dụng ngân hàng.
Uy tín khách hàng cũng là một yếu tố mà ngân hàng cần lưu tâm. Uy tín của khách hàng là tiêu chí để đánh giá sự sẵn sàng trả nợ và khả năng thực hiện các nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng của khách hàng. Uy tín của khách hàng được thể hiện dưới nhiều khía cạnh đa dạng như: chất lượng, dịch vụ, giá cả hàng hoá, mức độ chiếm lĩnh thị trường, các quan hệ kinh tế tài chính, sản phẩm, chu kỳ sống của sản phẩm, vay vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng và ngân hàng. Uy tín được khẳng định và kiểm nghiệm thông qua kết quả thực tế trên thị trường với thời gian càng dài càng chính xác. Do vậy, ngân hàng cần phân tích các số liệu và tình hình trong suốt quá trình phát triển của khách hàng trong những thời gian khác nhau mới có kết luận chính xác.
Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của khách hàng
Chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào năng lực tổ chức, kinh nghiệm, năng lực kinh doanh của khách hàng. Đây là tiền đề tạo ra khả năng kinh doanh có hiệu quả của khách hàng, là cơ sở cho khách hàng thực hiện cam kết hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Nếu trình độ của người quản lý còn bị hạn chế về nhiều mặt như kinh nghiệm, học vấn,… thì doanh nghiệp có khả năng dễ bị thua lỗ, dẫn đến tình trạng trả nợ kém, ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Mối trường kinh tế
Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế và chính sách kinh tế mỗi quốc gia luôn có tác động trực tiếp đến hoạt động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Tính ổn định về kinh tế, trước hết là ổn định về tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát là những điều mà các doanh nghiệp kinh doanh quan tâm hàng dầu vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế ổn định là điều kiện, môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận cao, từ đó góp phần tạo nên sự thành công trong kinh doanh của ngân hàng. Trong trường hợp ngược lại, sự bất ổn tất nhiên cũng ảnh hưởng bao trùm lên các hoạt động của ngân hàng, làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, gây tổn thất cho ngân hàng
Môi trường chính trị
Môi trường chính trị đã, đang và sẽ là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh, đặc biệt đối với các hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tính ổn định về chính trị trong nước sẽ là một trong những nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thuận lợi và có hiệu quả. Nếu xẩy ra các diễn biến gây bất ổn chính trị như: chiến tranh, xung đột đảng phái, bạo động, cấm vận, biểu tình,…không những dẫn đến những thiệt hại cho doanh nghiệp mà cả nền kinh tế nói chung (làm tê liệt sản xuất, đình trễ lưu thông hàng hoá,…). Như vậy, dẫn đến những khoản tiền doanh nghiệp vay ngân hàng sẽ khó được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn, ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng ngân hàng.
Môi trường pháp lý
Một trong những nhân tố của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng là hệ thống pháp luật. Với một môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh, thiếu tính đồng bộ, thống nhất giữa các luật, văn bản dưới luật. Kéo theo là sự sắc nhiễu của các cơ quan hành chính có liên quan sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp phải những khó khăn, thiếu đi tính linh hoạt cần thiết, vốn góp vào kinh doanh dễ bị rủi ro. Do vậy, xây dựng môi trường pháp lý thông thoáng, lành mạnh sẽ tạo thuận lợi trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong đó có các NHTM.
Môi trường cạnh tranh
Có thể nói, đây là yếu tố tác động mạnh mẽ đến chất lượng tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của NHTM. Sự tác động đó diễn ra theo hai chiều hướng. Thứ nhất, để chiếm vị trí ưu thế trong cạnh tranh ngân hàng luôn phải luôn củng cố và khuyếch trương uy tín, thế mạnh của ngân hàng, không ngừng quan tâm tới đầu tư trang thiết bị tốt, tăng cường đội ngũ nhân viên có trình độ. Hướng tác động này đã tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, chiều hướng thứ hai, dưới áp lực của cạnh tranh gay gắt các ngân hàng có thể bỏ qua những điều kiện tín dụng cần thiết làm cho độ rủi ro tăng lên và giảm chất lượng tín dụng.
Môi trường tự nhiên
Các yếu tố rủi ro do thiên nhiên gây ra như lũ lụt, hoả hoạn, động đất, dịch bệnh, mất mùa… có thể gây ra những thiệt hại không lường trước được cho cả hệ thống nền kinh tế dẫn đến rủi ro trong tín dụng ngân hàng là điều khó tránh khỏi. Mặc dù những rủi ro này khó dự đoán nhưng bù lại nó lại chiếm một tỷ lệ không lớn, mặt khác ngân hàng thường được chia sẻ thiệt hại bởi các Công ty Bảo hiểm hoặc được Nhà nước hỗ trợ.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG TMCP BẮC Á
2.1 Tổng quan về ngân hàng TMCP Bắc Á
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng TMCP Bắc Á
Ngân hàng TMCP Bắc Á, được thành lập và hoạt động theo giấy phép hoạt động số 0052/NH-CP ngày 01 tháng 09 năm 1994 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, theo quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, vốn góp cổ phần do các cổ đông có uy tín. Là một trong số các ngân hàng TMCP lớn có hoạt động kinh doanh lành mạnh của Việt Nam. Trụ sở chính của ngân hàng đặt ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An và là ngân hàng TMCP có doanh số hoạt động kinh doanh lớn nhất khu vực miền Trung với thời gian hoạt động là 16 năm kể từ ngày cấp giấy phép hoạt động.
Sau hơn 10 năm hoạt động , đến tháng 8 năm 2009, theo số liệu thông báo của Ngân hàng Nhà nước vốn điều lệ của ngân hàng Bắc Á đã lên tới 1792 tỷ đồng.
Có mạng lưới hoạt động ở các tỉnh, thành phố kinh tế trọng điểm của cả nước như Hà Nội, Thanh Hóa,Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ,…
Cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng như: Mở tài khoản nội tệ và ngoại tệ, nhận tiền gửi, đầu tư cho vay và bảo lãnh, séc du lịch, thanh toán trong và ngoài nước, chuyển tiền nhanh, tài trợ thương mại, kinh doanh ngoại hối, phát hành và thanh toán thẻ, homebanking, ngân hàng trực tuyến...
Ngân hàng Bắc Á đã là thành viên chính thức của Hiệp hội Thanh toán Viễn thông Liên ngân hàng toàn cầu, Hiệp hội các ngân hàng Châu Á, Hiệp hội các ngân hàng Việt Nam và Phòng thương mại Công nghiệp Việt Nam.
Trong hơn 10 năm hoạt động, Ngân hàng TMCP Bắc Á đã vinh dự được nhận cờ thi đua của Thủ Tướng Chính phủ, bằng khen của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về thành tích hoạt động kinh doanh và cờ thi đua của Ủy Ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, là một trong 10 ngân hàng được lựa chọn tham gia vào hệ thống thanh toán tự động liên ngân hàng.
Ngoài các dịch vụ chính của một ngân hàng thương mại như huy động vốn, cho vay, cung cấp các dịch vụ thanh toán, tài trợ thương mại … Ngân hàng TMCP Bắc Á còn tham gia các hoạt động kinh doanh du lịch và khách sạn.
Các hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng: huy động vốn ngắn hạn trung dài hạn; tiếp nhận vốn đầu tư và phát triển; vay vốn các tín dụng khác; cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; thương phiếu, cổ phiếu, trái phiếu, giấy tờ có giá khác; hùn vốn liên doanh và mua cổ phần; làm dịch vụ thanh toán; phát hành thanh toán thẻ nội địa; thanh toán quốc tế, kinh doanh vàng bạc; kinh doanh ngoại tệ; huy động vốn nước ngoài và các dịch vụ ngân hàng khác trong quan hệ với nước ngoài.
Ngân hàng có trụ sở chính tại 117 Quang Trung, thành phố Vinh tỉnh Nghệ An. Văn phòng hội sở ở Hà Nội tại 60 Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm. Các chi nhánh ở Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An, Huế, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh.
2.1.2 Mô hình cơ cấu tổ chức của ngân hàng TMCP Bắc Á
HỘI ĐỒNG TÍN DỤNG
KHỐI NGÂN HÀNG BÁN BUỐN
KHỐI TÀI CHÍNH KẾ TOÁN
BAN CÔNG NGHỆ & TIN HỌC
BỘ PHẬN HÀNH CHÍNH NHÂN SỰ
KHỐI TÁC NGHIỆP & HỖ TRỢ
BỘ PHẬN PHÁP CHẾ
KHỐI QUẢN LÝ RỦI RO
BỘ PHẬN KIỂM TOÁN NỘI BỘ
KHỐI NGUỒN VỐN & KINH DOANH NGOẠI TỆ
HỘI ĐỒNG ALCO
KHỐI NGÂN HÀNG BÁN LẺ
BAN KIỂM SOÁT
CHI NHÁNH & PHÒNG GIAO DỊCH
BỘ PHẬN PR & MARKETING
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN TỔNG GIÁM ĐỐC
Nguồn: Báo cáo thường niên ngân hàng Bắc Á
2.1.3 Chức năng và nhiệm vụ
Mục đích hoạt động của Bắc Á là cung cấp cho khách hàng và thị trường các sản phẩm, giải pháp và dịch vụ tối ưu nhằm đem lại giá trị gia tăng tối đa cho khách hàng, lợi nhuận thỏa đáng cho cổ đông và đóng góp phần lớn vào công cuộc phát triển nền kinh tế nước nhà.
Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban cụ thể:
Đại hội cổ đông: là cơ quan có nhiệm vụ và quyền hạn cao nhất trong cơ cấu tổ chức của ngân hàng TMCP Bắc Á. Đại hội cổ đông bầu ra ban kiểm soát để giám sát các hoạt động của hội đồng quản trị và ban tổng giám đốc
Hội đồng quản trị: Bao gồm những cổ đông lớn, nắm giữ một tỷ lệ cổ phần nhất định. Hội đồng quản trị sẽ ra những quyết định lớn, và giám sát hoạt động của ban giám đốc điều hành.
Ban tổng giám đốc: Chịu sự điều hành của hội đồng quản trị, có chức năng và nhiệm vụ điều hành những hoạt động của ngân hàng và quản lý rủi ro tiền tệ thanh khoản, nguồn vốn và chiến lược hợp tác sản xuất, Marketing.
Hội đồng tín dụng: Cơ quan xét duyệt và quyết định các vấn đề cho vay, miễn giảm tại địa bàn, bảo lãnh mở L/C trong và ngoài nước gia hạn. Xem xét kiến nghị tổng giám đốc, Hội đồng quản trị thay đổi các chính sách tín dụng.
Bộ phận kiểm toán nội bộ: Làm nhiệm vụ kiểm tra, kiểm toán mọi hoạt động của chi nhánh về thực hiện các quy định, quy chế của Nhà nước.
Khối quản lý rủi ro: Tham mưu cho giám đốc về công tác quản lý rủi ro của ngân hàng, quản lý giám sát rủi ro, đảm bảo giới hạn tín dụng, thực hiện danh mục cho vay đầu tư, phản ánh đề nghị cấp tín dụng, thực hiện đúng chức năng đánh giá quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động ngân hàng. Chịu trách nhiệm quản lý và xử lý các vấn đề, quản lý khai thác và xử lý tài sản, khai thác và xử lý tài sản, đảm bảo nợ vay theo quyết định của ngân hàng nhằm thu hồi khoản nợ gốc và lãi tiền vay. Quản lý theo dõi thu hồi các khoản nợ đã có được xử lý rủi ro.
Khối tài chính kế toán: Có chức năng xử lý nhiệm vụ chuyển tiền, quản lý tài khoản khách hàng là các tổ chức, các doanh nghiệp quản lý chi tiêu nội bộ
Bộ phận hành chính – nhân sự: Có chức năng theo dõi công tác nhân sự, và công tác hành chính quản trị của chi nhánh theo chỉ đạo của Ban tổng giám đốc.
Ban công nghệ & tin học: Đưa ra một số phần mềm, quản lý kinh doanh chặt chẽ đảm bảo cập nhật thông tin chính xác.
Bộ phận PR & Marketing: Nghiên cứu phân loại thị trường, phân loại khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng về nguồn vốn và thị trường tín dụng. Nghiên cứu thị trường để đưa ra các sản phầm dịch vụ ngân hàng.
Chi nhánh và phòng giao dịch: huy động tiết kiệm đồng Việt Nam và ngoại tệ, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu đồng Việt Nam và ngoại tệ, dịch vụ thu đổi ngoại tệ và trả tiền kiều hối, dịch vụ phát hành thẻ, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, nhận gửi và thành toán séc nhờ thu các nhân, quản lý các tài khoản tiền gửi của cá nhân đồng Việt Nam và ngoại tệ, cho vay thế chấp, cầm cố tài sản.
2.1.4 Một số hoạt động của ngân hàng TMCP Bắc Á
2.1.4.1 Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng Bắc Á huy động vốn từ nhiều nguồn, và đã có sự thay đổi rõ rệt và cả chất lượng và số lượng. Tỷ trọng nguồn vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng giảm mạnh trong khi nguồn vốn huy động từ dân cư và các doanh nghiệp tăng lên và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn.
Nguồn vốn được huy động từ các tổ chức tín dụng khác, tuy nhiên ngân hàng đang có những chủ trương giảm số dư và tỷ trọng huy động từ thị trường liên ngân hàng để góp phần bảo đảm nền tảng ổn định, giảm sự phu thuộc vào thị trường dễ biến động, tránh đe dọa khả năng thanh toán khi thị trường diễn biến phức tạp.
Ngân hàng chú trọng vào hoạt động thu hút nguồn vốn từ dân cư và các doanh nhiệp, đặc biệt từ các định chế tài chính như công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty tài chính…
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của Ngân hàng trong những năm gần đây:
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Năm
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Số tiền
Số tiền
%Tăng
(Giảm)
Số tiền
%Tăng
(Giảm)
1
Tiền gửi từ các tổ chức tíndụng
8588
2676
-68,84
5313
99,25
2
Tiền gửi khách hang
2255
3663
62,44
6712
83,24
a.
Tiền gửi từ doanh nghiệp
602
538
-10,63
1038
92,94
b.
Tiền gửi từ cá nhân
1653
3125
89,05
5674
81,57
3
Vốn tài trợ, ủy thác
29
21
-27,59
41
91,57
4
Các khoản huy động khác
230
169
-26,52
209
23,66
5
Tồng nguồn vốn
11102
6529
-41,2
12275
88,01
Nguồn: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng năm 2008, 2009
Từ bảng số liệu ta có biểu đồ về tình hình huy động vốn của ngân hàng TMCP Bắc Á trong những năm gần đây như sau:
Biểu 2.1 Tình hình huy động vốn của ngân hàng TMCP Bắc Á
Đơn vị : tỷ đồng
Qua bảng tình hình huy động vốn của ngân hàng và biểu đồ biểu thị tình hình huy động vốn, ta thấy có sự thay đổi rõ nét về nguồn vốn huy động qua các năm. Năm 2007, được coi là năm ngân hàng Bắc Á khẳng định vị thế của mình trên thị trường tài chính với tổng số tiền huy động được trong năm lên tới 11102 tỷ đồng, tăng lên 91,38% so với năm 2006. Là nguồn vốn huy động lớn nhất từ trước tới nay. Tất cả các loại tiền gửi trong năm đều tăng lên, vượt mức 50% so với năm 2006. Trong đó, số vốn huy động liên ngân hàng lên tới 8588 tỷ đồng. Qui mô Ngân hàng ngày càng mở rộng và vị thế ngày càng được khẳng định.
Với sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu kéo theo sự đi xuống của ngành ngân hàng, ngân hàng Bắc Á không nằm ngoài xu hướng đó. Tổng nguồn vốn huy động được của ngân hàng năm 2008 đạt 6.529 tỷ đồng, giảm 4.573 tỷ đồng so với năm 2007, tương đương giảm 41,2%. Nguồn vốn huy động của ngân hàng đã có sự thay đổi rõ rệt cả về chất lượng và số lượng. Huy động từ các tổ chức tín dụng khác đạt 2.676 tỷ đồng, giảm 68,84% so với đầu năm. Với chủ trương giảm số dư và tỷ trọng từ thị trường liên ngân hàng được ngân hàng quán triệt đầu năm. Việc giảm số dư và tỷ trọng phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng góp phần đảm bảo nền tảng ổn định, giảm sự phụ thuộc vào thị trường biến động đồng thời tránh sự đe dọa khả năng thanh khoản khi thị trường diễn biến phức tạp. Trong khi đó nguồn vốn huy động từ dân cư và doanh nghiệp đạt được sự tăng trưởng đáng kể. Tổng nguồn vốn huy động từ thị trường này đạt 3.663 tỷ đồng, tăng 1.498 tỷ đồng, tương đương tăng 62,44% so với đầu năm. Trong đó tiền gửi tiết kiệm đạt 3.125 tỷ đồng, tăng 89,05% so với đầu năm. Huy động từ các doanh nghiệp tăng mạnh lên đến 538 tỷ đồng sau khi ngân hàng chú trọng vào hoạt động thu hút nguồn vốn của các doanh nghiệp, đặc biệt các định chế tài chính như công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty tài chính…
Năm 2009, nền kinh tế đang dần thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, ngành ngân hàng đi lên. Tổng nguồn huy động vốn của ngân hàng Bắc Á tăng lên rõ rệt so với năm 2008, đạt 12275 tỷ đồng, tăng 88% so với năm 2008. Nguồn vốn huy động tăng mạnh nhất.
Trong năm 2009, ngân hàng Bắc Á cũng đã triển khai thành công hai chương trình khuyến mại lớn là chương trình “Tri ân khách hàng mừng sinh nhật Bắc Á” và chương trình “Căn hộ hạnh phúc”. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng đã triển khai chương trình “Chăm sóc khách hàng VIP” với việc tặng thẻ khám bệnh miễn phí tại bệnh viện FV Sài Gòn và bệnh viện Việt Pháp Hà Nội cho các khách hàng có số dư tiền lớn. Các chương trình khuyến mại đã được thực hiện thành công với kết quả là gia tăng mạnh số vốn huy động và quảng bá hình ảnh tới đông đảo khách hàng. Bên cạnh mục đích quảng bá hình ảnh, chương trình khuyến mại cũng được xem là một thông điệp nói lời tri ân đối với các khách hàng gắn bó và ủng hộ ngân hàng Bắc Á trong thời gian qua.
2.1.4.2 Hoạt động sử dụng vốn
Bảng 2.2 Tình hình dư nợ theo thời hạn cho vay tại ngân hàng TMCP Bắc Á
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Số tiền
Tỷ lệ %
Số tiền
Tỷ lệ %
Số tiền
Tỷ lệ%
Tổng dư nợ
4709
100
6481
100
9164
100
Nợ ngắn hạn
1905
40,45
3297
50,87
4855
47,26
Nợ trung hạn
2325
49,37
2507
38,68
3569
42,36
Nợ dài hạn
479
10,17
677
10,45
740
10,38
Nguồn: Báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Bắc Á năm 2007-2008-2009
Qua bảng tình hình cho vay của ngân hàng ta thấy:
Tổng dư nợ của năm 2007 đạt 4709 tỷ đồng, bằng 125% kế hoạch đặt ra. Hoạt động cho vay của ngân hàng Bắc Á tăng trưởng cao trong năm 2008, tổng dư nợ cho vay khách hàng đạt 6.481 tỷ đồng, tăng 1.772 tỷ đồng, tương đương tăng 36,68% so với cuối năm 2007. Trong đó, dư nợ ngắn hạn 3297 tỷ đồng (chiếm 50,87%), dự nợ trung hạn 2.507 tỷ đồng (chiếm 38,68%); dư nợ dài hạn 677 tỷ đồng (chiếm 10,45%).
Trong năm 2009, tổng dư nợ của năm 2009 tiếp tục tăng 41,4% so với năm 2008. Hoạt động cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng lớn, chiếm 47,26%. Tổng dư nợ năm 2009 chủ yếu do ngân hàng tiếp tục giải ngân cho các cam kết tín dụng đã ký đối với các dự án lớn trên cả nước như: dự án khách sạn CELADON Huế; dự án thủy điện Za Hưng tại Quảng Nam; dự án khu công nghiệp Nam Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh; dự án khu du lịch tại Hòa Bình; dự án khoáng sản tại các tỉnh Tây Nguyên, Yên Bái… và một số dự án lớn khác
Nợ xấu (nhóm 3 đến nhóm 5) trong năm 2007, ngân hàng không xử lý rủi ro khoản nợ xấu nào. Đối với các khoản nợ đã dung quỹ dự phòng rủi ro để xử lý trong năm trước, ban điều hành vẫn chỉ đạo các bộ phận đôn đốc để tận thu.
Bảng 2.3: Bảng tình hình dư nợ theo chất lượng nợ cho vay tại ngân hàng TMCP Bắc Á:
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Số tiền
Tỷ lệ %
Số tiền
Tỷ lệ %
Số tiền
Tỷ lệ %
Nợ đủ chỉ tiêu
4650
98,75
6364
98,19
8925
97,39
Nợ cần chú ý
35
0,74
76
1,17
171
1,87
Nợ dưới tiêu chuẩn
8
0,17
24
0,37
32
0,35
Nợ nghi ngờ
7
0,15
7
0,11
17
0,18
Nợ có khả năng mất vốn
6
0,13
10
0,15
19
0,21
Nguồn: Báo cáo tài chính ngân hàng TMCP Bắc Á năm 2007-2008-2009
Nhìn chung hoạt động cho vay đã thực hiện đúng định hướng chỉ đạo trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng lan rộng, các chi nhánh đã thực hiện tốt kế hoạch hạn chế tăng trưởng tín dụng nhằm tránh tối đa các rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra. Mức tăng trưởng cho vay cao chủ yếu tập trung tại Hội sở chính do giải ngân các dự án đã cam kết từ trước.
Trong năm 2008, Bộ phận quản lý rủi ro đã đi vào hoạt động, thực hiện nhiệm vụ quan trọng là kiểm soát rủi ro của hoạt động cho vay. Nhờ hoạt động hiệu quả trên cở sở nhận diện những rủi ro tiềm ẩn, hoạt động quản lý rủi ro của Ngân hàng đã góp phần nâng cao chất lượng các món vay, quản lý rủi ro một cách khoa học và linh hoạt. Cuối năm 2008, tỷ lệ nợ quá hạn chiếm 1,8% trên tổng số dư nợ, tỷ lệ nợ xấu chiếm 0,63% tổng dư nợ. Các chỉ số này mặc dù tăng nhẹ so với năm 2007 bởi những tác động tiêu cực chung của nền kinh tế nhưng nhìn chung vẫn nằm trong giới hạn an toàn đã đặt ra. Tỷ lệ nợ đủ chỉ tiêu tăng so với năm 2008, chiếm 97,39% tổng dư nợ.
Nền kinh tế Việt Nam năm 2009 tiếp tục chịu ảnh hưởng từ khủng hoảng, Chính phủ đã thực hiện các chương trình kích thích kinh tế và có tác dụng tích cực tới hệ thống ngân hàng thương mại. Ngân hàng Bắc Á nhờ có bộ phận quản lí rủi ro đi vào hoạt động và rút ra được nhiều bài học trong năm 2008 , do vậy trong năm 2009 ngân hàng Bắc Á vẫn an toàn trên cơ sở tăng cường hệ hống quản lí rủi ro. Với tỷ lệ nợ xấu là 0,74%, đạt kế hoạch đặt ra là nhỏ hơn 1%. Tỷ lệ nợ đủ chỉ tiêu tăng lên so với năm 2008, đạt 97,39%.
2.1.4.3 Hoạt động đầu tư
Ngân hàng có các khoản đầu tư vào giấy tờ có giá, chứng khoán, góp vốn đầu tư dài hạn, đầu tư vào chứng chỉ tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác. Trong nền kinh tế suy thoái như hiện nay, ngân hàng đặt ra kế hoạch và chiến lược đầu tư thận trọng, đặt yếu tố an toàn lên hàng đầu. Do đó, hoạt động đầu tư tập trung chủ yếu thực hiện đầu tư góp vốn vào các dự án có hiệu quả đã cam kết từ trước và đầu tư vào trái phiếu chính phủ.
Từ thành công do hoạt động đầu tư mang lại, ngân hàng tiếp tục phát huy thế mạnh đầu tư vào các lĩnh vực tiềm năng như thủy điện, bất động sản, khoáng sản, trồng rừng... trên cơ sở an toàn nhưng phải đảm bảo hiệu quả mang lại lợi ích nhiều nhất cho các cổ đông.
Bảng 2.4 Tình hình hoạt động đầu tư của ngân hàng:
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Số tiền
Số tiền
Tỷ lệ
2008/2007
Số tiền
Tỷ lệ
2009/2008
Góp vốn đầu tư dài hạn
176,6
263,3
1.49
534,5
2,03
Đầu tư chứng khoán, giấy tờ có giá:
184,5
273,7
1.48
897,7
3,28
a.CK sẵn sàng để bán
179,5
268,7
1.5
885,6
3,3
b.Cất giữ đến ngày đáo hạn
5
5
1
12,1
2,42
Tổng tài sản
361,1
537
1.49
1433
2,67
Nguồn: Thuyết minh báo cáo tài chính qua các năm2007-2009
Trong năm 2007, Bắc Á tiếp tục góp vốn liên doanh vào các dự án, mua cổ phần của các tổ chức khác đạt 176,6 tỷ đồng. Các dự án tổ chức mà ngân hàng tham gia góp cổ phần đang hoạt động rất có hiệu quả chung trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong năm qua.
Ngoài ra, ngân hàng cũng tham gia thị trường chứng khoán với tổng mức đầu tư 184,5 tỷ đồng, trong đó chứng khoán sẵn sang để bán: 179,5 tỷ đồng; chứng khoán đầu tư giữ đến ngày đáo hạn: 5 tỷ đồng.
Theo báo cáo tài chính năm 2008, các khoản đầu tư vào giấy tờ có giá đạt 273,7 tỷ đồng (chiếm 45%) , góp vốn vào đầu tư dài hạn đạt 263,3 tỷ đồng (chiếm 44%), còn lại là chứng khoán kinh doanh đạt 66 tỷ (chiếm 11%)
Sự sụt giảm vào đầu tư chủ yếu là từ khoản đầu tư vào chứng chỉ tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác đến hạn trong năm đạt 1.700 tỷ đồng. Hơn nữa năm 2008 ghi nhận những khó khăn của thị trường chứng khoán, ngân hàng đã đặt ra kế hoạch, chiến lược đầu tư thận trọng, đặt yếu tố an toàn lên hàng đầu. Do vậy, hoạt động đầu tư tập trung chủ yếu thực hiện góp vốn các dự án có cam kết từ trước và đầu tư vào trái phiếu Chính phủ.
Nền kinh tế tiếp tục chịu ảnh hưởng từ khủng hoảng, Chính phủ đã thực hiện các chương trình kích thích kinh tế, hệ thống ngân hàng.
Có sự gia tăng đầu tư trong năm 2009 so với năm 2008 tuy tỷ lệ gia tăng chưa đạt được cao như năm 2007. Hoạt động đầu tư chủ yếu vào giấy tờ có giá và chứng khoán gấp 3,28 lần xo với năm 2008 nhưng vẫn trên cơ sở tăng cường quản lí rủi ro tín dụng. Do đó ngân hàng vẫn chú trọng đầu tư góp vốn đàu tư dài hạn với số tiền 534,5 tỷ đồng, tăng 2,03 lần so với năm 2008. Kinh doanh an toàn vẫn là mục tiêu chung của các ngân hàng thương mại trong năm vừa qua.
2.1.4.4 Dịch vụ bảo lãnh
Bằng những kinh nghiệm cùng với uy tín lâu năm trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, ngân hàng TMCP Bắc Á trong những năm qua đã trở thành bạn hàng đáng tin cậy nhất của tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế, với các nghiệp vụ bảo lãnh rất phong phú, thủ tục đơn giản, phí hấp dẫn cùng với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao.
- Các loại bảo lãnh:
· Bảo lãnh vay vốn:
Bảo lãnh vay vốn trong nước.
Bảo lãnh vay vốn nước ngoài.
· Bảo lãnh thanh toán và thư tín dụng dự phòng.
· Bảo lãnh dự thầu.
· Bảo lãnh hoàn thanh toán.
· Bảo lãnh tiền giữ lại.
· Bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
· Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm.
· Bảo lãnh bảo hành.
· Bảo lãnh bảo dưỡng.
· Các loại bảo lãnh khác.
- Các hình thức bảo lãnh:
· Phát hành bảo lãnh bằng thư, điện (telex/swift), phát hành bảo lãnh đối ứng và phát hành bảo lãnh trên cơ sở bảo lãnh đối ứng của tổ chức tín dụng khác
· Xác nhận bảo lãnh, ký xác nhận bảo lãnh trên các hối phiếu, lệnh phiếu
· Thông báo bảo lãnh
· Các hình thức khác theo qui định của pháp luật
2.1.4.5 Dịch vụ chuyển tiền
Chuyển tiền ra nước ngoài: Dịch vụ chuyển tiền ra nước ngoài của ngân hàng TMCP Bắc Á sẽ tiết kiệm thời gian cho khách hàng và đưa thế giới xích lại gần nhau hơn. Dịch vụ này được sử dụng vào các mục đích:
Chi phí cho việc học tập, chữa bệnh cho bản thân hoặc cho người thân.
Đi công tác, du lịch, thăm viếng người thân ở nước ngoài.
Trợ cấp cho thân nhân ở nước ngoài.
Chuyển tiền cho người được thừa kế ở nước ngoài.
Thanh toán các loại phí, lệ phí cho nước ngoài.
Đi định cư ở nước ngoài.
Những mục đích khác được pháp luật cho phép.
Chuyển tiền nhanh trong nước: Qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng và hệ thống chuyển tiền điện tử, số tiền của khách hàng sẽ được chuyển tới tận tay của người nhận an toàn và nhanh chóng.
Ngoài ra, ngân hàng TMCP Bắc Á đang tiến hành giao dịch chuyển tiền nhanh theo yêu cầu khẩn cấp của quý khách tại một số thành phố lớn. Đến với dịch vụ này của ngân hàng TMCP Bắc Á khách hàng sẽ rất hài lòng với thủ tục đơn giản, an toàn và chỉ cần 5 phút, tiền sẽ được chuyển tới tay người nhận.
2.1.4.6 Các hoạt động kinh doanh khác
* Hoạt động thanh toán quốc tế
Hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng bị ảnh hưởng bởi tác động từ khủng hoảng kinh tế khiến cho nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng sụt giảm, hơn nữa sự cạnh tranh
* Hoạt động kinh doanh khách sạn, du lịch
Ngoài hoạt động chính là kinh doanh tiền tệ, ngân hàng TMCP Bắc Á còn tham gia vào lĩnh vực kinh doanh du lịch và khách sạn. Hiện tại NHTM phần Bắc Á đang trực tiếp đầu tư và quản lí Khách sạn Xanh (Green Hotel) đạt tiêu chuẩn 3 sao tại thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An.
Với cơ sở vật chất 3 toà nhà 5 tầng (một toà nhà hướng ra biển), gần 200 phòng tiện nghi đầy đủ (27 phòng VIP, 6 phòng đặc biệt).
Hệ thống nhà hàng được trang bị các thiết bị sang trọng, hệ thống ánh sáng và âm thanh hiện đại. Bao gồm một nhà hàng hướng ra biển với sức chứa 300-400 người và một nhà hàng sức chứa 100-150 trong khuôn viên vườn hoa cây cảnh rất đẹp và lãng mạn. Đặc biệt tại đây còn có rất nhiều các phòng riêng từ 5 đến 10 người hoặc từ 20 đến 40 người phục vục quý khách tổ chức tiệc chiêu đãi, ngoại giao, các buổi giao lưu văn nghệ, sinh nhật… Ngoài ra ngân hàng còn có bể bơi thông minh, quầy bar-cà phê, các dịch vụ vui chơi giải trí, siêu thị Maximark, tổ chức tham quan du lịch, bán hàng lưu niệm, đặt vé máy bay, tầu hoả…
2.1. 5 Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàngTMCP Bắc Á trong những năm gần đây.
Năm 2008 thật sự là một năm khó khăn của thị trường tài chính Việt Nam trước sự ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bắt nguồn từ sự đổ vỡ của các khoản nợ dưới chuẩn Mỹ. Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng bị sụt giảm theo xu hướng chung của nền thế giới, tính đến cuối năm 2008, chỉ số Vn-index đã giảm 65% so với đầu năm. Phải đối mặt với khủng hoảng tài chính trong năm 2008 nhưng Ngân hàng Bắc Á dưới sự điều hành linh hoạt của Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc với sự nỗ lực của toàn bộ nhân viên ngân hàng đã từng bước vượt qua được khó khăn và đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Đến năm 2008, Ngân hàng Bắc Á đã có hai lần tăng vốn điều lệ, lần thứ nhất tăng vốn điều lệ từ mức 940 tỷ đồng lên mức 1.016 tỷ đồng, lấy từ nguồn thặng dư vốn cổ phần. Lần thứ hai, vào cuối năm 2008, vốn điều lệ tăng lên đến 1.315 tỷ đồng do các cổ đông đóng góp. Tính chung cả năm, vốn điều lệ tăng 39,9% so với đầu năm, đáp ứng các yêu cầu về vốn điều lệ của ngân hàng. Việc tăng vốn điều lệ dẫn đến gia tăng năng lực vốn chủ sở hữu trong bối cảnh kinh tế gặp khó khăn là một sự cố gắng lớn của Hội đồng quản trị, ban Tổng giám đốc và các cổ đông của ngân hàng.
Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng Bắc Á trong mấy năm gần đây được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2.5: Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP Bắc Á
Đơn vị: Tỷ đồng
STT
Năm
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
Số tiền
Số tiền
Tăng (giảm)%
Số tiền
Tăng (giảm)%
1
Thu nhập lãi thuần
221.679
223.008
0,6
421.998
89,23
2
Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ
7.188
6.044
-15,92
16.091
166,23
3
Lãi thuần từ dịch vụ khác
1.437
2.693
87,4
3.363
24,87
4
Thu nhập từ vốn góp cổ phần
356
10.829
-96,96
-
-
5
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
174.743
123.399
-29,38
195.859
58,72
6
Chi phí hoạt động
50.472
88.981
76,3
186.540
109,64
7
Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng
10.139
438
42,2
772
76,23
8
Tổng lợi nhuận trước thuế
164.604
122.961
-25,3
229.876
86,95
9
Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp
44.848
33.077
-26,25
48.282
45,97
10
Lợi nhuận sau thuế
119.756
89.884
-24,96
161.396
79,56
Nguồn: Báo cáo tài chính kiểm toán của ngân hàng Bắc Á năm 2007-2008-2009
Trong năm 2007, ngân hàng Bắc Á đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong hoạt động kinh doanh cả về số lượng và chất lượng.
Về số lượng, ngân hàng Bắc Á đã vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch về tăng trưởng, huy động vốn, mở rộng mạng lưới, dư nợ tín dụng và lợi nhuận. Kết quả kinh doanh của ngân hàng với mức tăng trưởng lợi nhuận trước thuế lên tới 106,78% từ 79.629 triệu đồng năm 2006 lên tới 164.604 triệu đồng năm 2007, tỷ lệ cổ tức trên vốn chủ sở hữu đạt mức tăng cao lên tới 26,91%.
Tổng thu nhập cả năm 2008 đạt 1.427 tỷ đồng, tăng 812 tỷ đồng so với 2007, tương đương tăng 132% so với 2007. Trong đó, thu từ lãi và tương đương lãi 1.349 tỷ đồng, chiếm 95,5% tổng thu cả năm.
Lợi nhuận trước thuế năm 2008 đạt 122.961 triệu đồng, giảm 41643 triệu đồng, tương đương giảm 25,3% so với năm 2007. Lợi nhuận năm 2008 đạt thấp hơn 2007 và kế hoạch đề ra ban đầu nhưng là một nỗ lực rất lớn trong bối cảnh phải đảm bảo an toàn hoạt động, góp phần bình ổn thị trường tiền tệ và chia sẻ khó khăn với khách hàng.
Tổng lợi nhuận trước thuế của năm 2009 đạt 229.876 tỷ đồng tăng 86,95% so với năm 2008. Lợi nhuận năm 2009 cao hơn nhiều so với năm 2008. Lợi nhuận sau thuế đạt 161.396 tỷ đồng. Năm 2009 quả là một năm thành công vượt bậc của ngân hàng Bắc Á về doanh thu và lợi nhuận. Qua bảng trên có thể thấy, hầu hết các chỉ số của ngân hàng đều tăng cao trong năm 2009.
Bên cạnh các hoạt động kinh doanh, ngân hàng Bắc Á vẫn luôn dành sự quan tâm lớn tới các hoạt động xã hội và cộng đồng nhằm hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn. Trong năm 2007, ngân hàng Bắc Á đã có một số hoạt động thiết thực như tài trợ xây dựng trường học, bệnh xá cầu cống cho vùng sâu vùng xa, ủng hộ đồng bào bị bão lụt và người nghèo… Đặc biệt, ngâ._.tiền và thanh toán không dùng tiền mặt.
- Đối với các doanh nghiệp, tổ chức có tiền gửi lớn (thường xuyên và ổn định), ngân hàng cần có những chính sách ưu đãi nhất định căn cứ theo khối lượng, thời hạn tiền gửi nhằm thu hút hơn nữa lượng tiền gửi từ các đơn vị này.
- Triển khai rộng rãi công tác chi trả kiều hối đặc biệt đối với các khu vực có đông kiều dân Việt Nam sinh sống và làm việc như Mỹ, Nga, Đức, Pháp, Séc, Australia,…thông qua các biện pháp tuyên truyền giải thích cho kiều dân cũng như qua các hành động cụ thể chi trả thuận lợi, nhanh chóng, chính xác.
- Để thu hút vốn nước ngoài, ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nguồn ngoại tệ cho khách hàng vay và thanh toán, đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh đối ngoại ngân hàng TMCP Bắc Á cần tổ chức tìm kiếm thu nhập, mở thêm tài khoản tiền gửi ngoại tệ cho các tổ chức kinh tế trong nước, nước ngoài, các tổ chức, các công ty liên doanh, cơ quan sứ quán, lãnh sự và cá nhân người nước ngoài, tăng cường khai thác nguồn vốn tài trợ uỷ thác của Chính phủ các nước. Thực hiện các chính sách ưu đãi về lãi suất, tỷ giá đối với các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ. Đồng thời mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển chiều sâu quan hệ hợp tác quốc tế, không ngừng học tập kinh nghiệm và công nghệ ngân hàng, tiến tới hội nhập với cộng đồng quốc tế.
Trên đây là một số biện pháp cần triển khai nhằm làm tăng nguồn vốn huy động cho ngân hàng, thu hút thêm khách hàng đến giao dịch và tạo cơ sở để phát triển mở rộng hoạt động tín dụng với chất lượng cao đối với mọi đối tượng khách hàng. Tuy nhiên, trong quá trình huy động vốn ngân hàng TMCP Bắc Á cần chú ý dựa trên cơ sở kế hoạch cụ thể, tránh tình trạng huy động vốn tràn lan. Công tác huy động vốn luôn gắn liền với công tác sử dụng vốn, tránh để xẩy ra hiện tượng ứ đọng vốn ảnh hưởng không tốt tới chất lượng tín dụng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
3.2.2. Tuân thủ thực hiện nghiêm túc qui trình tín dụng
Thẩm định dự án đầu tư là một quá trình kết hợp nhiều khâu từ thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường, phân tích năng lực, tư cách, khả năng tài chính của doanh nghiệp, các nguồn thu, trả nợ của dự án, từ đó đi đến quyết định cho vay hay không. Xây dựng một qui trình thẩm định hợp lý, khoa học kết hợp với việc giải quyết đồng bộ, thực hiện nghiêm túc tất cả các khâu trong qui trình đó sẽ đem lại một phán quyết tín dụng đúng đắn, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh cao cho ngân hàng. Việc thực hiện nghiêm túc qui trình cho vay cần phải được quán triệt từ cán bộ tín dụng, lãnh đạo phòng thẩm định đến giám đốc quyết định cho vay.
Trong qui trình cho vay, công tác thẩm định có ý nghĩa quan trọng hơn cả và có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng của khoản tín dụng. Do vậy, để đạt được hiệu quả cao khi cho vay, cần làm tốt công tác thẩm định khách hàng và phương án vay vốn hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro cho ngân hàng. Qui trình thẩm định cần tập trung làm rõ các vấn đề chủ yếu sau:
- Khách hàng phải có đầy đủ các điều kiện vay vốn theo quy định cụ thể đối với từng loại cho vay để đảm bảo thu hồi gốc và lãi đúng hạn.
- Phương án vay vốn phải có hiệu quả, có tính khả thi.
- Khách hàng có năng lực pháp lý được đánh giá thông qua các tài liệu như: quyết định thành lập của cấp có thẩm quyền có giấy phép kinh doanh, có tài sản riêng thuộc quyền quản lý hay sở hữu, quyết định bổ nhiệm người đại diện hợp pháp trước pháp luật,…
- Hồ sơ thủ tục vay vốn phải đầy đủ hợp pháp theo qui chế, nếu xẩy ra tố tụng tranh chấp thì phải đảm bảo an toàn về pháp lý cho ngân hàng.
- Thẩm định về tính cách, uy tín của khách hàng nhằm hạn chế những rủi ro do chủ quan của khách hàng gây ra như thiếu năng lực, trình độ kinh nghiệm thấp, khả năng thích ứng thị trường kém, uy tín, đạo đức, thấp,…
- Thẩm định về năng lực tài chính của khách hàng, xác định sức mạnh tài chính, khả năng độc lập tự chủ về tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán, khả năng hoàn trả nợ vay vốn của chủ sở hữu khi tham gia vào phương án vay vốn.
Tiêu chuẩn mà ngân hàng có thể sử dụng để phân tích đánh giá về tình hình tài chính của khách hàng là các “Tỷ lệ tài chính”. Phân tích tỷ lệ tài chính là một trong nhiều phương pháp có thể được sử dụng hỗ trợ cho công tác phân tích và tìm hiểu các báo cáo tài chính của khách hàng trong quá trình đánh giá tín dụng. (Tỷ lệ là một chỉ số toán học so sánh một yếu tố với một yếu tố khác và được tạo lập bởi việc tập hợp hai số liệu hoặc nhiều số liệu, tạo ra một mối quan hệ nào đó.) Tỷ lệ được tạo ra từ các số liệu mà ta thấy từ bảng tổng kết tài sản và từ các tài liệu kế toán khác, trong một vài năm hay quý sẽ cho thấy các xu hướng. Nếu xu hướng nghịch không thuận lợi sẽ giúp cán bộ thẩm định xác định việc tìm hiểu, kiểm tra phải thực hiện theo phương hướng nào để rồi kiến nghị khách hàng tiến hành các biện pháp điều chỉnh đảm bảo kinh doanh liên tục có lãi, tạo ra khả năng trả nợ của khách hàng. Việc phân tích xu hướng của các tỷ lệ tài chính chủ yếu sẽ giúp ngân hàng nắm bắt sâu sắc tình hình, xu hướng hiện tại của khách hàng. Ta có các tỷ lệ tài chính sau:
Thứ nhất, các chỉ tiêu đánh giá về khả năng chuyển hoá tài sản thành tiền để đảm bảo khả năng thanh toán.
1- Tỷ lệ thanh toán hiện thời (K1)
K1= TS lưu động / TS nợ lưu động
Đây là một tỷ lệ được sử dụng nhiều nhất. Nó kiểm tra khả năng doanh nghiệp có thể bảo đảm khả năng thanh toán các hợp đồng ngắn hạn được không với giả thiết rằng nếu các khoản nợ đó có thể đến hạn phải thanh toán. Tỷ lệ này lớn hơn hoặc bằng một. Tỷ lệ K1 càng lớn thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ này quá cao cũng không phải là tốt, vì lúc đó giá trị tài sản lưu động được tồn giữ quá mức không tham gia vào hoạt động sinh lời, tức là vốn không được sử dụng hiệu quả trong doanh nghiệp.
2- Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh (K2)
K2= Vốn bằng tiền / Giá trị các khoản nợ đến hạn
K2 là một tỷ lệ bổ sung cho tỷ lệ khả năng thanh toán hiện thời (K1), tỷ lệ này đánh giá khả năng thực hiện nhanh chóng các cam kết của doanh nghiệp. Điểm khác nhau giữa K1 và K2 là tốc độ thanh toán. Đây là cách kiểm tra nghiêm ngặt hơn về khả năng thanh toán vì nó cho rằng hàng tồn kho thuộc loại TS lưu động luân chuyển chậm, vì vậy nếu trong K2 không tính đến hàng hoá có trong kho. Qua thực tế, nếu doanh nghiệp có tỷ lệ K2 ³ 0,5 là bảo đảm được khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Cũng giống như K1, nếu tỷ lệ này quá cao cũng không tốt, thể hiện lượng tiền quá nhiều, gây hiện tượng sử dụng vốn không hiệu quả. Thông thường hệ số này được chấp nhận trong khoảng từ 0,5 đến 1,2.
Cần lưu ý rằng, do biết được người cho vay thường coi đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng trả nợ ngắn hạn, nên người đi vay thường cải thiện chỉ tiêu này bằng cách, trước khi lập báo cáo tài chính họ cố ý tạm ngừng mua hàng vào hoặc trả bớt các khoản nợ ngắn hạn. Khi đó nếu ta căn cứ vào chỉ tiêu này để đánh giá sẽ có nhiều sai lệch. Vì vậy, khi phân tích cán bộ tín dụng cần tính toán các chỉ tiêu theo từng quý và sau đó lấy hệ số bình quân.
3- Tỷ lệ thanh toán cuối cùng (K3)
TS có _ TS thiếu _ Chênh lệch tỷ giá và
lu động chờ xử lý chỉ số giá cha xử lý
K3 =
Nợ ngắn hạn NH và TCKT khác + Các khoản phải trả
Đây là chỉ tiêu bổ xung, làm căn cứ để cán bộ tín dụng xem xét có thể cho doanh nghiệp vay được hay không khi khả năng thanh toán hiện thời, khả năng thanh toán nhanh cha đủ tiêu chuẩn để xét cho vay. Nếu hệ số K3>1: tình hình tài chính của doanh nghiệp rất xấu, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp cũng không đủ để trả nợ.
4- Số ngày hàng nằm trong kho (N1)
Giá trị hàng hoá trong kho 360
N1= x = …ngày
Giá trị hàng hoá thực hiện 1
Tỷ lệ này để tính tốc độ hàng hoá được quay vòng hàng năm. Nó tính được mức độ nhanh chóng và hiệu quả mà một doanh nghiệp có thể bán hàng và từ đó tạo ra khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
5- Số ngày tồn đọng của hàng thành phẩm (N2)
Giá trị hàng thành phẩm 360
N2= x
Giá trị sản lượng hàng hóa hiện thực 1
Tỷ lệ này phải được xem xét kết hợp với tỷ lệ số ngày hàng tồn đọng trong kho. N2 được dùng để tính số ngày trung bình cần thiết để một doanh nghiệp thực hiện được việc bán hàng thành phẩm.
6- Số ngày thu nợ phải thu (N3)
Các khoản phải thu 360
N3= x
Giá trị hàng hoá bán chịu 1
Thứ hai, các chỉ tiêu đánh giá về tình hình kinh doanh
Đánh giá về tình hình kinh doanh gồm có các chỉ tiêu: Tỷ lệ lãi gộp so với doanh thu bán hàng (L1); Tỷ lệ doanh lợi vốn tự có (L2); Tỷ lệ doanh lợi của tài sản có (L3); Tỷ lệ lãi tái đầu t (L4); Tỷ lệ khả năng thanh toán lãi vay (L5); Hệ số tài trợ; Số vòng quay toàn bộ vốn (V).
Các tỷ lệ tài chính trên đây sẽ giúp ngân hàng cho vay đánh giá được năng lực tài chính của khách hàng vay vốn, từ đó đa ra quyết định cho vay hay không và mức cho vay là bao nhiêu. Tuy nhiên, việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp chỉ hữu ích khi các số liệu báo cáo phải đảm bảo tính chính xác. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, khi mà việc thực hiện pháp lệnh kế toán, thống kê chưa được chấp hành nghiêm chỉnh, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thẩm định tính chính xác của các số liệu báo cáo và cần phải kết hợp chặt chẽ giữa phân tích tình hình tài chính với các thông số phi tài chính để đa ra những kết luận xác đáng về doanh nghiệp mà ngân hàng đã và sẽ quan hệ làm ăn với họ.
Chuyển sang thẩm định đánh giá về tư cách, uy tín, năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của khách hàng có thể căn cứ vào bảng tổng kết sau đây:
Uy tín cao
Uy tín tốt
Uy tín khá
Uy tín hạn chế
Nếu tất cả các điều kiện dưới đây đều thuận
Nếu hầu hết các điều kiện dưới đây thuận lợi
Uy tín tín dụng cần phải cân nhắc thêm bởi các yếu tố không thuận sau
Các yếu tố rủi ro lớn, uy tín tín dụng bị hạn chế
Thanh toán
Đầy đủ có sự giải thích chính đáng với mọi sự chậm trễ.
Nói chung là đầy đủ, có sự giải thích chính đáng cho sự chậm thanh toán.
Rất chậm thanh toán
Rất chậm, thậm chí là thường xuyên chậm thanh toán
Tài chính
Thường xuyên nhận được các bản sao kê. Các số liệu thường rất khớp nhau. Điều kiện vững chắc, xu hướng đi lên.
Nhận được bản sao kê. Điều kiện khá. Xu hướng thường xuyên có thuận lợi.
Báo cáo nhận được . Điều kiện bấp bênh. Thua lỗ về nghiệp vụ. Vốn luân chuyển sút kém. Nợ nhiều.
Báo cáo nhận được . Điều kiện bấp bênh. Thua lỗ và nợ trầm trọng hơn.
Lịch sử
Ít nhất 1 năm hoạt động, nếu 3 năm thì càng tốt. Đảm bảo đầy đủ về quyền sở hữu.
Không có năm tối thiểu nếu các yếu tố khác thoả mãn. Có Đảm bảo đầy đủ về quyền sở hữu.
Có đảm bảo đầy đủ về quyền sở hữu.
Có đảm bảo đầy đủ về quyền sở hữu.
Lai lịch
Có kinh nghiệm toàn diện về quản lý kinh doanh. Gần đây không thất bại trong kinh doanh, không vi phạm pháp luật có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh doanh.
Nếu kinh nghiệm truớc đây liên tục hoặc trong quản lý thành công một doanh nghiệp trớc đây. Không có những thất bại trong kinh doanh, gần đây không có những vi phậm pháp luật có thể gây phương hại đến kinh doanh.
Có thể thiếu kinh nghiệm đầy đủ hoặc kinh nghiệm liên tục. Cân nhắc ảnh hưởng của những thất bại trong kinh doanh gần đây hoặc những vi phạm pháp luật trong kinh doanh.
Có thể thiếu kinh nghiệm đầy đủ hoặc kinh nghiệm liên tục. Cân nhắc ảnh hưởng của những thất bại trong kinh doanh gần đây hoặc những vi phạm pháp luật trong kinh doanh.
Các yếu tố khác
Có thể cân nhắc một số yếu tố khác đối với những ảnh hưởng thuận lợi hay không thuận lợi lên hoạt động kinh doanh gồm: hoạt động, vị trí, hồ sơ ngân hàng, thông tin về sổ sách công khai, các yếu tố kinh tế chung, các điều kiện ngành hay địa phương.
3.2.3. Thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro
Rủi ro là vấn đề không thể tránh khỏi trong bất kỳ một ngành nghề sản xuất kinh doanh. Đặc biệt trong kinh doanh tiền tệ của các NHTM, xuất phát từ đặc trưng hoạt động kinh doanh được thực hiện trên một diện rộng, đa dạng, phong phú và phức tạp, có liên quan đến hầu hết đến tất cả các ngành kinh doanh trong nền kinh tế. Do đó, yếu tố rủi ro luôn tiểm ẩn và có nguy cơ to lớn. Thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro là hoạt động hết sức quan trọng và cần thiết đối với mọi NHTM để đem lại hiệu quả kinh doanh cao và chất lượng tín dụng tốt. Đối với ngân hàng TMCP Bắc Á trước hết cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
*Chủ động phân tán rủi ro
Nguyên tắc của hạn chế rủi ro là phân tán rủi ro. Điều này có nghĩa rủi ro ở một mức độ nào đó là chắc chắn có nhưng nếu rủi ro xảy ra ngắt quãng về thời gian, phân tán về không gian cũng như lĩnh vực thì thiệt hại có thể sẽ không dẫn đến sự bất ổn trong kinh doanh. Vì vậy, đối với kinh doanh tín dụng mức rủi ro làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và kết quả kinh doanh của mỗi ngân hàng thế nào lại phụ thuộc vào chính khả năng ngăn ngừa và khắc phục của ngân hàng đó.
Phân tán rủi ro là một giải pháp có tính chủ động và ngăn ngừa tích cực những hậu quả lớn có thể xẩy ra đối với ngân hàng, nhất là những ngân hàng nhỏ, với năng lực tài chính còn hạn chế. Việc phân tán rủi ro thực hiện thông qua phân tán dư nợ. Nó được biểu thị dưới hình thức mỗi ngân hàng nên đa dạng hoá ngành nghề cho vay, không nên tập trung quá nhiều vốn cho một người vay, hạn chế cho vay các lĩnh vực có độ rủi ro cao, những lĩnh vực kinh doanh hay sản phẩm mà thị trường đã có dấu hiệu bão hoà, sản phẩm sản xuất ra không có khả năng cạnh tranh.
*Nâng cao chất lượng nghiệp vụ đánh giá khách hàng
Đi đôi với sự mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động tín dụng luôn là sự tăng lên của số lượng khách hàng, các đối tượng khách hàng rất đa dạng và phong phú bao gồm nhiều loại hình doanh nghiệp, nhiều ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Theo đó khả năng rủi ro trong đầu te vốn tín dụng ngày càng tăng. Chính vì vậy, để đảm bảo an toàn trong kinh doanh và nâng cao chất lượng sử dụng vốn tín dụng, ngân hàng cần chọn cho mình những khách hàng tốt, có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có hướng phát triển tốt,… Xây dựng mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng và ngân hàng trên cơ sở nâng cao chất lượng đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng. Để nâng cao nghiệp vụ đánh giá khách hàng cần có những tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá. Chất lượng đánh giá khách hàng được nhận định chủ yếu qua khả năng phân tích tình hình khách hàng trước, trong và sau khi cho vay. Điều này có quan hệ nhân quả với chất lượng tín dụng. Đánh giá khách hàng càng chính xác, chất lượng tín dụng thu được càng cao bởi thông qua đánh giá ngân hàng sẽ định được mức độ an toàn về vốn đầu tư, từ đó đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.
Muốn nâng cao chất lượng đánh giá khách hàng điều cần thiết là phải xây dựng được phương pháp phân tích kinh tế, xếp loại khách hàng thống nhất, kết hợp với hoạt động Marketing trên cơ sở số liệu thu thập được , qua báo cáo của khách hàng và sự thẩm định của cán bộ tín dụng.
* Nghiên cứu và hình thành các đảm bảo tín dụng chắc chắn
Khi nói về phương thức bảo đảm an toàn vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM, thường sử dụng hai phương thức mà về nguyên tắc được phân thành bảo đảm bằng con người và bảo đảm bằng đồ vật, tài sản. Tuy nhiên việc sử dụng đảm bảo có thể khác nhau trong từng trường hợp vì nó còn phụ thuộc vào quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng, ở các loại tín dụng khác nhau. Cho nên vấn đề đặt ra là phải tìm ra những hình thức bảo đảm tốt nhất, không chỉ thực hiện kỹ lưỡng và chính xác theo quy định pháp lý khi đặt ra đảm bảo mà trong đó cũng phải giám sát chi tiết các đảm bảo trong thời hạn tín dụng. Cần chú ý tới các yếu tố sau:
- Tài sản đảm bảo phải được nghiên cứu theo giá cả số lượng và chất lượng trên thị trường
- Người bảo lãnh phải có đủ điều kiện và khả năng
- Việc lựa chọn đảm bảo phải phù hợp với tính chất của khoản vay
Thực tế áp dụng, nếu ngân hàng làm tốt việc thế chấp tài sản, kiên quyết từ chối cho vay nếu tài sản thế chấp không đầy đủ, rõ ràng thì chắc chắn sẽ hạn chế được phần lớn những rủi ro vì ít nhất món vay đã được đảm bảo bằng tài sản có giá trị lớn hơn nhiều.
*Thực hiện hiệu quả công tác thông tin phòng ngừa rủi ro
Thu thập, phân tích, xử lý chính xác, kịp thời, các thông tin có liện quan đến khách hàng và thị trường luôn được coi là quan trọng hàng đầu trông công tác thẩm định tín dụng. Để công tác thông tin phòng ngừa rủi ro đạt hiệu quả, ngân hàng TMCP Bắc Á cần:
- Cần phải có quy định cụ thể về trách nhiệm và nghĩa vụ gửi báo cáo tài chính, kết quả kinh doanh cho ngân hàng đối với các doanh nghiệp khách hàng theo đúng quy định đảm bảo thời gian và tính chính xác. Coi đây là một điều kiện bắt buộc để được tiếp tục quan hệ tín dụng.
- Tăng cường trang bị phương tiện thông tin hiện đại cho tổ thông tin phòng ngừa rủi ro để tạo điều kiện thu thập và cung cấp thông tin chính xác, kịp thời.
- Tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thông tin phòng ngừa rủi ro nhằm trang bị phương pháp tìm kiếm, phân tích, tra cứu, các thông tin từ thị trường để cung cấp cho cán bộ tín dụng và lãnh đạo trước khi quyết định cho vay.
- Có quy chế cụ thể về việc nhận, cung cấp thông tin cho trung tâm thông tin tín dụng (trung tâm thông tin tín dụng NHNN, trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro NHNN Việt Nam).
3.2.4. Tăng cường hiệu lực công tác kiểm tra, kiểm soát, giám sát
Công tác kiểm tra, kiểm soát là công tác không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Qua công tác này mà ngân hàng nắm được thực trạng kinh doanh, biết được những thông tin cần thiết về hoạt động kinh doanh của đối tác vay vốn. Trên cơ sở đó có những biện pháp củng cố và chấn chỉnh kịp thời, nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng đặc biệt là trong hoạt động tín dụng.
Công tác giám sát phải đạt được các mục tiêu: phải thường xuyên nắm được tình hình tài chính và sự biến đổi trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phân định rõ ràng nguồn vốn dùng cho sản xuất, nguồn vốn dùng cho kinh doanh vì hiện nay các doanh nghiệp, tổ chức đang hoạt động rất đa dạng, kết hợp vừa sản xuất vừa kinh doanh và nhất là đối với khách hàng thuộc loại hình Tổng công ty 90,91. Nắm được vững chu kỳ sản xuất và tiêu thụ của doang nghiệp để có kế hoạch giúp doanh nghiệp về vốn trong quá trình kinh doanh và thu nợ, thu lãi về cho ngân hàng. Ngoài ra cũng cần lưu ý đến những thông tin khác có liên quan đến các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để có biện pháp xử lý kịp thời các tình huống phát sinh, tăng hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, công tác kiểm tra, kiểm soát nên được tổ chức theo hướng: thiết lập một cơ chế vận hành hợp lý, có hiệu quả để giám sát các quá trình vận động vốn tín dụng từ khi cho vay đến khi thu hồi hết nợ. Và cần tăng cường giám sát tình hình sử dụng tiền vay, trả nợ lãi của khách hàng, kiểm soát việc thực hiện chính sách, quy định của ngành, của Đảng và Nhà nước.
3.2.5 Giải pháp về tổ chức nhân sự
Con người luôn đóng vai trò quyết định đến mọi hoạt động và tất nhiên không loại trừ các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó, để góp phần nâng cao chất lượng tín dụng thì giải pháp về tổ chức nhân sự chính là một giải pháp rất quan trọng và có giá trị ở mọi giai đoạn phát triển của bản thân ngân hàng. Thực hiện giải pháp nhân sự sẽ tiến hành chủ yếu trên các phương diện sau.
- Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng: thường xuyên có kế hoạch tổ chức đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, cơ chế chính sách, pháp luật, thanh toán quốc tế, thẩm định dự án, phân tích hoạt động kinh tế, tin học, ngoại ngữ,…Kết hợp giữa đào tạo chính quy với đào tạo tại chỗ giúp cho người cán bộ có đủ trình độ,năng lực làm việc trong nước và quan hệ đối ngoại. Cần phải hiểu rõ tầm quan trọng của việc thường xuyên nghiên cứu, học tập để cập nhật những kiến thức về chuyên môn và những kiến thức xã hội khác, gắn lý luận với thực tiễn để có thể vận dụng một cách linh hoạt, có hiệu quả khi cho vay.
- Kiện toàn công tác sử dụng cán bộ: tuỳ vào chức năng nhiệm vụ yêu cầu của từng vị trí công tác được phân công trong hoạt động tín dụng mà người cán bộ tín dụng cần phải có những tiêu chuẩn riêng cho phù hợp. Nhìn chung họ cần phải có đủ sức tiếp cận với cơ chế thị trường đa dạng, có bản lĩnh phẩm chất chính trị tốt, am hiểu về chính sách pháp luật, trung thực gắn bó với nghề. Đối với những cán bộ tín dụng đầu tư cho ngành nghề nào cũng cần hiểu được những vấn đề cơ bản có liên quan đến nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của ngành nghề đó, từ đó mới làm tốt công tác tư vấn cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn của ngân hàng.
- Có chế độ khuyến khích thưởng phạt vật chất đối với cán bộ làm công tác tín dụng: cần có chế độ lương, thưởng khác nhau đối với những nhiệm vụ quan trọng khác nhau, tránh hiện tượng bình quân chủ nghĩa vì công tác tín dụng thực sự nặng nề, nhiều rủi ro. Một sự đãi ngộ như nhau ở những vị trí khác nhau với năng lực và cường độ làm việc khác nhau sẽ làm triệt tiêu mọi nỗ lực, sáng tạo. Vì thế, cần nghiên cứu áp dụng chế độ lương, thưởng ưu đãi đối với những người làm tốt công tác tín dụng như mở rộng, chiếm lĩnh thị phần tín dụng tốt trên địa bàn,… Những người với chất lượng trả nợ tín dụng cao như nợ quá hạn không có hoặc có tỷ lệ thấp, chỉ mạng tính tạm thời,… Bên cạnh đó, cần phải xử phạt nghiêm minh những hành vi cố tình vi phạm quy định, lừa đảo, cương quyết xử lý thích đáng để làm gương và có tác dụng giáo dục, răn đe với người khác.
Tóm lại, để khuyến khích năng lực làm việc của nhân viên tín dụng, xoá bỏ tư tưởng co cụm và tạo tâm lý phấn đấu trong công việc, cần bố trí cán bộ phân rõ trách nhiệm pháp lý của từng vị trí công tác, đảm bảo quyền lợi gắn với trách nhiệm, kỷ luật nghiêm minh, khen thưởng kịp thời,… Có như vậy, trong kinh doanh tín dụng sẽ hạn chế được rủi ro không đáng có do ý thức chủ quan của cán bộ ngân hàng hoặc khách hàng gây ra, nâng cao chất lượng trong hoạt động tín dụng.
3.2.6 Đẩy mạnh các hoạt động thuộc Marketing ngân hàng
*Củng cố mối quan hệ với khách hàng
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Trong kinh doanh ngân hàng, các ngân hàng phải cạnh tranh với nhau để thu hút khách hàng về phía mình. Ngoài ra các ngân hàng còn chịu sự cạnh tranh từ các tổ chức tài chính khác. Thực tế, lôi kéo khách hàng đã khó, giữ được khách hàng lại càng khó hơn. Hơn nữa, chi phí để lôi kéo một khách hàng thường tốn kém hơn chi phí để duy trì một khách hàng truyền thống. Chính vì vậy, trong chính sách khách hàng các ngân hàng cần phải củng cố mối quan hệ tốt với khách hàng, ngân hàng nên tiến hành một số biện pháp:
- Ưu đãi về lãi suất, thời hạn, cách thức đối với khách hàng truyền thống. Bên cạnh việc giảm lãi suất do tiết kiệm chi phí trong kiểm tra, thẩm định giám sát khách hàng, ngân hàng nên có chính sách giảm lãi suất đối với các doanh nghiệp dư nợ lớn, có quan hệ lâu với ngân hàng nhằm mở rộng tín dụng.
- Đơn giản hoá thủ tục cho vay đối với các doanh nghiệp là khách hàng truyền thống trên cơ sở đảm bảo an toàn. Đáp ứng kịp thời những nhu cầu của doanh nghiệp trong khả năng của ngân hàng, tạo tâm lý thoải mái, tin tưởng, với khách hàng.
Ngoài ra ngân hàng cần chú trọng nâng cao uy tín thông qua việc tăng cường các hoạt động dịch vụ thông tin, tuyên truyền, quảng cáo.
*Cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng
Giữa khách hàng và ngân hàng luôn có mối quan hệ tương hỗ. Ngân hàng hoạt động và tồn tại trên cơ sở hoạt động của khách hàng. Một khách hàng nếu làm ăn có hiệu quả, thu được lợi nhuận cao thì sẽ trả được nợ ngân hàng, đồng thời có khả năng mở rộng quy mô, vay thêm vốn, tạo cơ sở cho ngân hàng hoạt động. Ngược lại một ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng hoạt động yếu kém nếu có tỷ lệ nợ quá hạn lớn là hệ quả của việc kinh doanh thua lỗ từ khách hàng. Do vậy, việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ tư vấn kinh doanh cho khách hàng là một công cụ đắc lực giúp cho doanh nghiệp cũng như ngân hàng cùng tồn tại và phát triển.
Làm dịch vụ tư vấn, ngân hàng nên đưa ra cho khách hàng những lời khuyên về các vấn đề: sáng kiến cải tiến mở rộng sản xuất kinh doanh, phát hiện bất hợp lý, tư vấn khách hàng về hướng đầu tư và thị trường tiềm năng, giúp khách hàng tháo gỡ khó khăn trong kinh doanh, dự đoán xu hướng phát triển của ngành nghề mà khách hàng đang hoặc đã có dự định kinh doanh. Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ khác như môi giới các hoạt động khác, dùng nghệ thuật liên kết khách hàng với nhau tạo cơ hội kinh doanh mới cả hai bên.
3. 3 Một số kiến nghị
3.3.1 Đối với Nhà nước
- Nhà nước nên quan tâm nhiều hơn vào hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và ngày càng hoàn thiện hơn các cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy nền kinh tế, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế suy thoái như hiện nay.
- Kinh nghiệm cho thấy, Nhà nước bằng các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, giữ tỷ giá hối đoái cố định, tạo ra hệ thống ngân hàng ngày càng vững mạnh đã và đang có ảnh hưởng rất lớn đến các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Bắc Á nói riêng. Vì vậy, trong tình hình nền kinh tế khủng hoảng như hiện nay, ngân hàng trung ương cần đưa ra một chính sách tiền tệ hợp lý hơn nũa, phải đảm bảo theo sát tín hiệu của thị trường, can thiệp của cơ quan Nhà nước phải thông qua thị trường tiền tệ gián tiếp như: thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng thương mại trên ngân hàng Nhà nước…
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan điều hành, lãnh đạo trực tiếp các ngân hàng thương mại, vì thế, rất cần thiết phải hỗ đưa ra được các tiêu chuẩn định mức, tiêu chuẩn trong thẩm định dự án, giúp các ngân hàng thương mại dễ dàng chuẩn hóa được các rủi ro trong tín dụng cho vay.
3.3.2 Đối với ngân hàng
- Ngân hàng cần phải có những chính sách giảm bớt rườm rà trong thủ tục cho khách hàng, không ỉ lại vào chế độ bảo hộ của nhà nước, cần tự mình nâng cao vị thế cạnh tranh của mình.
- Có biện pháp đẩy mạnh chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Đây là nguồn huy động vốn ổn định, tập trung đồng thời cũng là kênh sử dụng vốn hiệu quả, ngân hàng nên bám sát thực tiễn để thực hiện quy chế, quy trình nghiệp vụ cho vay, tổ chức thường xuyên, hiệu quả các buổi hội thảo, các lớp huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ lãnh đạo, giúp kinh nghiệm cán bộ được nâng lên đáng kể, giúp ngân hàng giảm thiểu được rủi ro, và an toàn hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
- Nâng cao hoạt động công tác thông tin phòng ngừa rủi ro, nắm bắt được sự cần thiết của thông tin hiện đại từ các cơ sở trở lên, cần có quan hệ trao đổi thông tin với các cơ quan tư pháp, các tổ chức phi ngân hàng… để có thông tin chính xác, để kịp thời chỉ đạo hoạt động của các chi nhánh của ngân hàng. Ngoài ra, Bắc Á nên nhanh chóng nâng cao trình độ cán bộ, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng tại các chi nhánh trên cả nước.
- Ngân hàng nên chủ động tiếp cận doanh nghiệp nhất là những doanh nghiệp là khách hàng mới để thu thập các thông tin từ phía khách hàng nhanh chóng, chính xác hơn, mở rộng thị trường, nắm bắt được kịp thời các chủ trương kế hoạch của Nhà nước, của ngành, thường xuyên chuyên sâu trong từng lĩnh vực mà đặc biệt lĩnh vực tín dụng và thẩm định dự án.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận phòng ngừa rủi ro, hoạt động của bộ phận phòng ngửa rủi ro góp phần tích cực trong công tác tín dụng ở các chi nhánh, nhưng sản lượng thông tin còn chưa cập nhật. Cần nâng cao hiệu quả bằng các biện pháp nâng cấp trang thiết bị cho bộ phận phòng ngừa rủi ro, tuyển chọn nhân viên cán bộ năng động có trình độ bổ sung cho bộ phận này.
Cần kiểm tra, giám sát hoạt động của các chi nhánh: ngân hàng TMCP Bắc Á nên khuyến khích các chi nhánh của mình đưa ra từng chiến lược kinh doanh của mình phù hợp với tình hình nơi hoạt động.
Ngoài ra, ngân hàng cần mở rộng hơn nữa chi nhánh ra các khu vực khác của Việt Nam như mở rộng các tỉnh miềm Bắc, miền Nam.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường và yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước đòi hỏi các ngân hàng cần hoàn thiện hoạt động kinh doanh của mình, trong đó có hoạt động cơ bản là hoạt động tín dụng. Việc nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của bản thân ngân hàng mà còn có tác dụng trực tiếp trong việc kích thích kinh tế phát triển, đẩy nhanh tiến trình xây dựng đất nước, góp phần tạo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế-xã hội.
Đối với hầu hết các NHTM ở nước ta hiện nay nói chung và ngân hàng TMCP Bắc Á nói riêng việc nâng cao chất lượng tín dụng đang là vấn đề thu hút sự quan tâm. Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận và phân tích thực trạng tín dụng tại ngân hàng TMCP Bắc Á, chuyên đề đã rút ra được những kết quả đã đạt, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại và nhận định nguyên nhân dẫn đến những tồn tại đó. Từ đó mạnh dạn đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm giải quyết những tồn tại và tạo điều kiện để thực hiện những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng để có thể phát huy được tác dụng của các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng thì nhất thiết phải có sự phấn đấu nỗ lực và phối hợp đồng bộ từ cả hai phía ngân hàng và khách hàng, ngoài ra cũng cần có sự hỗ trợ rất lớn từ phía Nhà nước và các cấp ngành có liên quan.
Hy vọng rằng những giải pháp đề xuất trong báo cáo chuyên đề thực tập sẽ đem lại đóng góp nhỏ bé trong việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngân hàng TMCP Bắc Á.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình NHTM khoa tài chính ngân hàng trường ĐH kinh tế quốc dân – NXB đại học kinh tế quốc dân năm 2007
2. Báo cáo thường niên ngân hàng TMCP Bắc Á năm 2007, 2008, 2009
3. Báo cáo tổng kết cuối năm của giám đốc ngân hàng TMCP Bắc Á năm 2009
4. Báo cáo tài chính kiểm toán ngân hàng TMCP Bắc Á năm 2007, 2008, 2009
5. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại (2007) – NXB Tài Chính
6. Luật ngân hàng nhà nước 2003 – NXB Chính Trị Quốc Gia
7. Giáo trình tín dụng ngân hàng, NXB Thông Kê – Hồ Liệu, Lê Thẩm Dương, Phạm Phú Quốc, Bùi Diệu Anh.
8. Quy chế cho vay đối với khách hàng – ngân hàng TMCP Bắc Á
9. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính (2001) – NXB Khoa học kỹ thuật
10. Các Website:
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25700.doc