Lời nói đầu
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua hơn 10 năm đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên bước đầu khẳng định được uy tín, chinh phục được khách hàng chiếm lĩnh được thị trường lớn, ổn định góp phần nâng cao vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắ
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1431 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất do đó cần thiết phải có một lượng vốn lớn mà các ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế một cách có hiệu quả.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp: NHNN thực hiện quản lý Nhà nước và cấp kinh doanh là các ngân hàng thương mại. Cùng với việc triển khai thực hiện pháp lệnh ngân hàng ở nước ta trong thời gian qua đã tạo ra những chuyển biến rõ nét cả về tổ chức, hoạt động và trình độ nghiệp vụ của hệ thống ngân hàng góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền... Các tổ chức tín dụng hình thành mạng lưới trên hầu khắp các địa bàn cả nước. Ngoài hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh... Nghiệp vụ ngân hàng cũng được đổi mới và từng bước hiện đại hoá, tiếp cận với công nghệ và thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng ngân hàng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Ngày nay Ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác Ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công ăn việc làm cho người lao động, phát triển thị trường ngoại hối.
Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời kỳ mới chuyển đổi sang cơ chế thị trường, môi trường kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp lý đang dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại đang gặp nhiều khó khăn nhất là chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn. Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng, từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng là một nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của ngành ngân hàng.
Trước tình hình trên, là một sinh viên khoa Ngân hàng - Tài chính đang thực tập tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội, em đã quyết định chọn đề tài là: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội”.
Em hy vọng rằng bài viết của mình sẽ góp phần đẩy lùi những khó khăn cản trở trong công tác tín dụng, đưa hiệu quả tín dụng ngày càng tốt hơn, tạo đà cho hoạt động sản xuất kinh doanh của chi nhánh phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Bài viết của em được chia làm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về tín dụng và chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội.
Do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế và thời gian nghiên cứu có hạn, nên đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng - Tài chính và các cô chú trong Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I :
những vấn đề cơ bản về Tín dụng và
chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1. Tín dụng và các hình thức tín dụng ngân hàng.
1.1.1. Sự cần thiết của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân.
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Trải qua quá trình phát triển đã có nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Đầu tiên là tín dụng nặng lãi xuất hiện ở thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ. Trong thời kỳ này do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội mở rộng, xã hội đã có sự phân chia giai cấp kẻ giàu người nghèo. Trong quá trình đầu tiên chủ yếu là cho vay bằng hiện vật, về sau chủ yếu cho vay bằng tiền. Đây là hình thức cho vay nặng lãi với lãi suất rất cao, không có giới hạn và là hình thức tín dụng tiêu dùng, chủ yếu để giải quyết nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản cho thấy tín dụng nặng lãi không còn phù hợp nữa, nó cản trở sự phát triển của nền kinh tế bởi các nhà tư bản kinh doanh với mục đích lợi nhuận không thể vay với mức lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận. Vì vậy hoạt động của nó ngày càng thu hẹp và tín dụng thương mại xuất hiện. Đây là hình thức tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau do đó chủ thể tham gia quá trình vay mượn này cũng là các nhà sản xuất kinh doanh.
Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn giá bán bằng tiền mặt, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu. Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. Vì vậy nó không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hoá và tín dụng ngân hàng ra đời.
Vậy tín dụng Ngân hàng là gì ?
"Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là Ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội trong đó Ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay ".
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
Nhưng một vấn đề được đặt ra là liệu người thiếu vốn và những người thừa vốn đó có gặp nhau không? Và trong nền kinh tế thị trường hàng ngày hàng giờ diễn ra không biết bao nhiêu mối quan hệ như vậy? Nó đã hình thành nên: Một bên là những người có tiền tích luỹ, có khả năng cung cấp và phía bên kia là những người có nhu cầu vay cho đầu tư phát triển. Như vậy nảy sinh vấn đề là làm thế nào để họ có thể tìm gặp được nhau và làm thế nào để cùng một lúc thoả mãn được nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguồn tiết kiệm còn đang nằm phân tán trong xã hội. Do đó các Ngân hàng thương mại với chức năng cơ bản là trung gian tài chính, hoạt động như một chiếc cầu nối liền giữa khả năng cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội đã cơ bản giải quyết được những vấn đề nẩy sinh trên. Đồng thời với tư cách là một trung gian tín dụng Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và một bên là người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện pháp kinh tế năng động và áp dụng các phương pháp kỹ thuật theo hướng hiện đại tiên tiến Ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết kiệm dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã trở thành tiền hoạt động, biến những đồng tiền phân tán thành nguồn vốn tập trung phục vụ cho nhu cầu kinh doanh. Qua đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển.
1.1.2. Các hình thức tín dụng Ngân hàng .
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế với xu hướng tự do hoá, các Ngân hàng phải luôn luôn nghiên cứu và đưa ra các hình thức tín dụng khác nhau để có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của quá trình tái sản xuất, từ đó đa dạng hóa danh mục đầu tư để mở rộng tín dụng, thu hút khách hàng, tăng lợi nhuận và thực hiện phân tán rủi ro.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau mà chúng ta tiến hành phân loại các hình thức tín dụng ngân hàng:
- Căn cứ vào mục đích sử dụng có các hình thức tín dụng sau:
+ Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở đất đai, bất động sản trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
+ Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ.
+ Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như: phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động...
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân: Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay Ngân hàng còn thực hiện cho vay để trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
- Căn cứ vào tài sản thế chấp có các hình thức tín dụng ngân hàng sau:
+ Cho vay có tài sản thế chấp: Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng để đảm bảo cho việc trả nợ của khách hàng.
+ Cho vay không có tài sản thế chấp (Tín chấp): Ngân hàng cho vay trên cơ sở tin tưởng khách hàng, tài sản thế chấp là uy tín, danh dự của khách hàng. Ngoài ra còn có hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
- Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng có các hình thức tín dụng ngân hàng sau:
+ Cho vay bằng tiền: Là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền như: Thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp...
+ Cho vay bằng tài sản: Phổ biến là tài trợ thuê mua.
- Căn cứ vào xuất xứ tín dụng có các hình thức tín dụng sau:
+ Cho vay trực tiếp: Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng và khách hàng trực tiếp trả lãi và gốc cho Ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn lại trong thời hạn thanh toán. Chiết khấu thương mại.
- Căn cứ vào thời hạn cho vay có các hình thức tín dụng sau:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn không quá 12 tháng (1 năm). Được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân...
+ Tín dụng trung hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng (5 năm). Mục đích là vay vốn để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định hoặc cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ và xây dựng mới những công trình loại nhỏ, thời hạn thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ 60 tháng trở lên. Mục đích sử dụng là để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định, đổi mới công nghệ và xây dựng mới đối với những công trình mới... thời hạn thu hồi vốn lâu.
1.2.Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế .
Cho đến hiện nay, mọi người đều thống nhất ý kiến cho rằng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tạo ra động lực lớn, đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, đưa lại sự phồn vinh kinh tế cho nước ta trong những năm qua. Và để đạt được những kết quả như vậy thì phải kể đến một nhân tố góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế đất nước đó chính là tín dụng ngân hàng. Khác so với tín dụng trước đây, trong thời kỳ bao cấp tín dụng được coi như là một công cụ cấp phát thay ngân sách, vì lẽ đó mà đã xảy ra tình trạng có nơi cần vốn sản xuất thì không có hoặc không kịp thời để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong khi đó vẫn có nơi lại có một lượng vốn ứ đọng tương đối lớn trong xã hội. Ngày nay khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì tín dụng ngân hàng được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế, điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu một cách hiệu quả, giúp cho nền kinh tế ngày một phát triển. Biểu hiện:
1.2.1. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn .
Sự ra đời của tín dụng ngân hàng đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế trong những thập kỷ qua. Với chức năng là trung gian tài chính đứng giữa người gửi tiền và người đi vay Ngân hàng đã biến mọi nguồn ngoại tệ phân tán trong xã hội thành nguồn vốn tập trung, qua đó điều hoà quan hệ cung cầu về tiền tệ trong xã hội, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Là một đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với mục đích lợi nhuận, các Ngân hàng thương mại luôn tìm cách để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Lợi tức thu được của các Ngân hàng được hình thành từ hai hoạt động đó là: Hoạt động tín dụng và các dịch vụ của Ngân hàng trong đó thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Tín dụng ở đây chúng ta hiểu là hoạt động cho vay của Ngân hàng. Vậy Ngân hàng lấy vốn ở đâu ra để cho vay? Phải chăng là vốn tự có của Ngân hàng. ở đây các Ngân hàng phải huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, cá nhân và các tầng lớp dân cư trong xã hội sau đó phân phối vốn trở lại một cách hợp lý. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà các chủ thể “thừa“ vốn có cơ hội không những bảo tồn vốn mà còn tạo thu nhập (thu lãi), còn đối với chủ thể thiếu vốn tín dụng ngân hàng giúp họ bổ sung vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc đời sống. Trong công tác huy động vốn một mặt các Ngân hàng phải cố gắng đưa ra những mức lãi suất hấp dẫn đối với khách hàng mặt khác phải đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng.
Thông qua công tác tín dụng, Ngân hàng đã đáp ứng được hầu hết các nhu cầu về vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội, giúp cho quá trình sản xuất được liên tục, đẩy mạnh quá trình tái sản xuất. Đồng thời việc tập trung và phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế quốc dân từ nơi thừa đến nơi thiếu. Bên cạnh việc đáp ứng vốn kịp thời đầy đủ cho các Doanh nghiệp, các Ngân hàng còn có những ý kiến đóng góp cho phương án sản xuất kinh doanh, lựa chọn đối tác thông qua quá trình sử dụng vốn của Doanh nghiệp...
1.2.2. Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, đẩy mạnh đầu tư phát triển.
Thực tế cho thấy bất kỳ một Doanh nghiệp nào muốn hoạt động và sản xuất kinh doanh cũng phải cần có một lượng vốn nhất định, trong trường hợp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh thì cần phải có một lượng vốn lớn hơn. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các Doanh nghiệp đòi hỏi các Doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và mở rộng sản xuất. Vậy lấy vốn ở đâu ra?
Và tín dụng ngân hàng là nguồn vốn cơ bản hình thành nên vốn cố định và vốn lưu động của Doanh nghiệp. Thông qua việc đầu tư tín dụng tín dụng ngân hàng sẽ góp phần hình thành cơ cấu vốn hợp lý cho các Doanh nghiệp.ở nước ta hiện nay cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, mở cửa thông thương với nhiều nước trên thế giới, do vậy nhu cầu về vốn ngày càng cao, các thành phần kinh tế đang rất cần vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với sự phát triển của Xã hội đòi hỏi các Ngân hàng cần phải nỗ lực hơn nữa để đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng lớn của các Doanh nghiệp. Muốn vậy các Ngân hàng cần phải làm tốt công tác huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh hợp lý, phù hợp với xu thế phát triển của các thành phần kinh tế.
1.2.3. Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong tổ chức điều hoà lưu
thông tiền tệ .
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng của mình, các Ngân hàng đã huy động và tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, đồng thời rút ra khỏi lưu thông một bộ phận tiền tệ không cần thiết góp phần giảm lạm phát. Bởi việc NHNN phát hành tiền để tạo ra nguồn vốn đầu tư phát triển sẽ làm tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, gây mất cân đối trong quan hệ tiền hàng dẫn đến lạm phát cho nền kinh tế. Mặt khác, dựa vào quy luật của lưu thông tiền tệ trong quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng với nhu cầu vay mà NHNN Trung ương thực hiện pháp lệnh đưa tiền vào lưu thông. Do đó sự vận động của vốn tín dụng là dựa trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế để tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ.
1.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường việc chấp hành chế độ hạch toán trong các Doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn .
Trong quá trình nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng trước khi cho vay Ngân hàng có nghiệp vụ giúp đỡ các đơn vị vay vốn xây dựng kế hoạch vay vốn dựa trên cơ sở các kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính. Khi xét duyệt cho vay Ngân hàng còn căn cứ vào tình hình chấp hành các nguyên tắc cơ bản của chế độ tín dụng ngân hàng, tình hình thực hiện nghĩa vụ hợp đồng kinh tế đối với các đơn vị bạn cũng như tôn trọng các quy chế thủ tục cho vay. Đặc biệt cần phải có các báo cáo tài chính kế hoạch sản xuất kinh doanh trong đó nêu rõ mục đích và khẳng định tính khả thi và mức sinh lợi của dự án. Như vậy muốn vay được vốn các Doanh nghiệp cần phải thực hiện chế độ hạch toán thật tốt. Tất cả những công tác trên giúp cho Doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả và Ngân hàng có khả năng thu hồi được vốn.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả cả gốc lẫn lãi của các con nợ đối với Ngân hàng. Các đơn vị kinh tế, cá nhân khi vay vốn Ngân hàng đều phải cam kết thực hiện đầy đủ các điều kiện mà Ngân hàng đưa ra nhằm đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị và hoàn trả vốn + lãi đúng thời hạn. Trong trường hợp các đơn vị vay vốn không thực hiện đúng cam kết thì Ngân hàng sẽ dùng đến các biện pháp chế tài tín dụng. Do vậy các đơn vị sản xuất kinh doanh luôn luôn tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn như: Đẩy nhanh vòng quay vốn, tăng năng xuất, giảm giá thành nhằm tạo ra nhiều lợi nhuận, để có thể hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn. Điều này đã thúc đẩy đơn vị sản xuất kinh doanh tăng cường khâu hạch toán kế toán một cách chặt chẽ đảm bảo doanh lợi ngày càng cao, tăng hiệu quả sử dụng vốn tín dụng.
1.2.5. Tín dụng ngân hàng là công cụ chủ yếu để đầu tư, tài trợ cho các ngành kinh tế then chốt và các ngành, vùng kinh tế kém phát triển .
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng là tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội của các tổ chức, cá nhân để cho các đơn vị kinh tế vay. Nhưng không phải tất cả các chủ thể có nhu cầu vay đều được Ngân hàng đáp ứng, bởi để tránh rủi ro tín dụng các Ngân hàng chỉ thực hiện đầu tư tập trung vào một các đơn vị có triển vọng sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên trong điều kiện đất nước ta hiện nay một bộ phận lớn dân cư đang sống bằng nghề nông. ở hầu hết các tỉnh miền núi vấn đề đưa máy móc vào nông nghiệp còn rất hạn chế nguyên nhân ở đây là do thiếu vốn. Vì vậy trong giai đoạn trước mắt thông qua công tác tín dụng, Nhà nước cần tập trung vào phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế khác.
Bên cạnh đó nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá tham gia vào các quan hệ kinh tế mang tính chất quốc tế. Bởi vậy chúng ta cần phải tập trung vào việc phát triển các ngành mũi nhọn như: công nghiệp chế biến, dầu khí... và tín dụng ngân hàng là một trong những yếu tố cơ bản góp phần quan trọng vào việc phát triển các ngành này. Với một chính sách tín dụng và mức lãi suất hợp lý sử dụng trong việc khuyến khích phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn sẽ là một công cụ linh hoạt tích cực trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước một cách vững chắc.
1.2.6. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển quan hệ đối ngoại.
Ngày nay khi tất cả các quốc gia trên thế giới đều có xu hướng chuyển từ đối đầu sang đối thoại thì việc phát triển kinh tế không chỉ bó hẹp trong phạm vi đất nước mình mà phải hoà vào sự phát triển chung của các quốc gia trong khu vực và trên Thế giới. Tín dụng ngân hàng đã trở thành một phương tiện nối liền nền kinh tế các nước với nhau. Đặc biệt là các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc xuất nhập khẩu hàng hoá và hiện đại hoá nền kinh tế.
Sự phát triển của hoạt động tín dụng giữa các tổ chức tài chính quốc tế, các quỹ tiền tệ quốc tế và các Ngân hàng nước ngoài với chính phủ Việt Nam đã góp phần to lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế nước ta có những bước tiến vượt bậc để có thể có khả năng hội nhập với các tổ chức kinh tế trong khu vực và trên Thế giới.
1.3. Chất lượng tín dụng ngân hàng .
1.3.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường, một Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì phải thắng trong cạnh tranh. Khi nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển thì cạnh tranh ngày càng gay gắt. Cạnh tranh diễn ra trên 3 phương diện: Số lượng, chất lượng, giá cả trong đó chất lượng đóng vai trò quan trọng hàng đầu, tạo điều kiện nâng cao tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường.
Ngân hàng là một Doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và có tác động rất lớn tới toàn bộ nền kinh tế bởi thực tế cho thấy nguyên nhân của hầu hết các cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra đều bắt nguồn từ Ngân hàng. Do đó vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng là rất cần thiết, chất lượng tín dụng ngân hàng được hiểu như sau:
" Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn hay hạn chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận cho Ngân hàng phù hợp và phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội "
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng.
1.3.2.1. Chỉ tiêu về dư nợ.
Dư nợ cho vay
- Chỉ tiêu dư nợ =
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết tương quan so sánh về quy mô cho vay so với tổng tài sản của Ngân hàng. Nếu tỷ lệ này càng cao chứng tỏ các khoản cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của Ngân hàng.
- Chỉ tiêu thu nợ
=
Doanh thu thu nợ
Tổng dư nợ bình quân
Chỉ số này đo lường tốc độ tăng trưởng của doanh số thu nợ qua các thời kỳ. Tốc độ tăng doanh số thu nợ cao chứng tỏ công tác thu nợ của Ngân hàng tiến hành tốt và ngược lại.
Dư nợ cho vay kỳ này
- Mức độ tăng dư nợ = ----------------------------
Dư nợ cho vay kỳ trước
Chỉ tiêu này cho biết tổng số cho vay của Ngân hàng kỳ này so với kỳ trước tăng hay giảm. Chỉ tiêu này cao cho thấy Ngân hàng đã ngày càng tạo được uy tín đối với khách hàng, cung cấp nhiều hơn các dịch vụ đa dạng và phong phú, thu hút được nhiều khách hàng.
1.3.2.2. Hiệu suất sử dụng vốn vay.
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của Ngân hàng với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động. Vậy tỷ lệ này lớn là tốt hay nhỏ là tốt? Chúng ta chưa thể khẳng định được bởi: Nếu tiền gửi ít hơn tiền cho vay thì Ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn có chi phí cao hơn, còn nếu tiền gửi nhiều hơn tiền cho vay thì Ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng thừa vốn.
1.3.2.3. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ.
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này thể hiện chất lượng của những khoản vay. Khi tỉ lệ này vượt quá một giới hạn cho phép thì nó thể hiện sự yếu kém của hoạt động tín dụng( Mức giới hạn của mỗi nước là khác nhau, ở Việt Nam hiện nay chấp nhận tỷ lệ này là 5%).
1.3.2.4. Vòng quay vốn tín dụng.
Doanh số trả nợ
Vòng quay vốn tín dụng = ------------------------------------
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này cho biết có thu hồi nợ của khách hàng nhanh hay không? Chỉ tiêu này chứng tỏ Ngân hàng cho vay khách hàng thu hồi nợ nhanh, tạo ra được số lần giao dịch lớn hơn trên một lượng tiền, làm giảm được lượng tiền lưu thông trong xã hội.
Vòng quay vốn tín dụng của Ngân hàng cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của Ngân hàng cao.
1.3.2.5.Chỉ tiêu lợi nhuận .
Hiệu quả tín dụng ngân hàng không thể nói là cao nếu lợi nhuận do hoạt động này mang lại thấp. Cụ thể người ta thường dùng các chỉ tiêu sau để đánh giá hiệu quả tín dụng xét về mặt lợi nhuận :
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Chỉ tiêu lợi nhuận =
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng. Nó cho biết một đồng dư nợ cho vay mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ lợi nhuận do hoạt động tín dụng mang lại càng lớn, đó là một trong những nhân tố tạo nên hiệu quả tín dụng của Ngân hàng
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Chỉ tiêu lợi nhuận =
Tổng lợi nhuận ngân hàng
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá tầm quan trọng của hoạt động tín dụng trong mối quan hệ với toàn bộ hoạt động của Ngân hàng. Tỷ lệ này cao chứng tỏ hầu hết lợi nhuận của Ngân hàng có được từ hoạt động cho vay.
1.3.3. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng.
Đứng trên phương diện khách hàng:
Chúng ta hiểu: chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền ) trong quan hệ tín dụng. Đối với khách hàng khi gửi tiền hay vay tiền của Ngân hàng thì luôn yêu cầu số tiền gửi của mình phải được đảm bảo an toàn hay khi vay tiền của Ngân hàng không mất nhiều thời gian và thủ tục rườm rà. Với lãi suất hợp lý sẽ giúp cho các Doanh nghiệp có khả năng trả nợ đúng hạn và mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.
Do đó việc ngân hàng phải luôn nâng cao chất lượng tín dụng là rất cần thiết. Chất lượng tín dụng ngân hàng tốt thì giao dịch giữa Ngân hàng và khách hàng diễn ra nhanh, hiệu quả hơn, giảm được các chi phí giao dịch cho cả Ngân hàng và khách hàng.
Đứng về phương diện Ngân hàng:
Việt Nam trong điều kiện hiện nay với sự bung ra của cơ chế mới ngoài các Ngân hàng quốc doanh đã xuất hiện hàng loạt các loại hình Ngân hàng khác nhau như: Các ngân hàng liên doanh, các ngân hàng cổ phần, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Chính sự xuất hiện này đã làm cho mức độ cạnh tranh trên thị trường Ngân hàng ngày càng tăng. Điều này đòi hỏi các Ngân hàng phải luôn luôn tìm ra những giải pháp nhằm thắng trong cạnh tranh, nâng cao uy tín vị thế của mình trên thị trường. Một trong những biện pháp đó chính là phải nâng cao chất lượng tín dụng. Để có được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín. Hiểu đúng bản chất của tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn tại về chất lượng sẽ giúp cho Ngân hàng tìm được những biện pháp thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường.
Đối với nền kinh tế:
Theo như chúng ta thấy rằng với một chính sách tín dụng đúng đắn và được thực hiện có chất lượng không những hỗ trợ cho các ngành kém phát triển, thúc đẩy các ngành mũi nhọn mà còn góp phần vào việc tăng hiệu quả sản xuất kinh tế xã hội, đảm bảo sự cân đối giữa các vùng, giải quyết các vấn đề mang tính xã hội... tạo điều kiện đưa đất nước ta tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng.
Hiện nay vấn đề chất lượng tín dụng đang được các Ngân hàng rất quan tâm và đang tìm mọi cách để có thể nâng cao chất lượng tín dụng một cách tốt nhất. Để quản lý và đưa ra những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng một cách có hiệu quả đòi hỏi chúng ta phải có một sự hiểu biết sâu sắc các nhân tố tác động đến nó. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng nhưng chúng ta có thể phân thành các nhóm nhân tố như :
1.3.4.1 Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế.
ở đây chúng ta xét đến cả môi trường kinh tế trong nước và quốc tế:
Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân hàng phát triển, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp được tiến hành một cách bình thường, không bị ảnh hưởng bởi lạm phát, khủng hoảng tài chính dẫn đến khả năng cho vay và khả năng trả nợ vay không có biến động lớn. Tuy nhiên để xã hội phát triển đi lên đòi hỏi nền kinh tế phải có sự tăng trưởng mà tăng trưởng thì dẫn đến lạm phát. Nếu chúng ta không quản lý tốt để lạm phát ở con số cao thì các Ngân hàng sẽ là người chịu thiệt thòi nhất do đồng tiền mất giá và như vậy chất lượng tín dụng sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. Ngoài ra do chính sách vĩ mô của nhà nước ưu tiên hay hạn chế phát triển một số ngành nghề kinh tế đảm bảo cho sự ổn định phát triển chung cho nền kinh tế cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng ngân hàng.
Chu kỳ phát triển kinh tế cũng có tác động không nhỏ tới chất lượng tín dụng. Trong thời kỳ sản xuất kinh doanh đình trệ, nhu cầu vốn tín dụng giảm gây nên tình trạng ứ đọng vốn và các khoản tín dụng đã được thực hiện cũng khó hoàn trả. Ngược lại trong thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế, các Doanh nghiệp đua nhau mở rộng sản xuất kinh doanh dẫn đến nhu cầu vay vốn ngày càng lớn.
1.3.4.2 Nhóm nhân tố thuộc về môi trường pháp lý.
Hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng cũng như hoạt động của nền kinh tế nói chung muốn hoạt động có hiệu quả thì cần phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, đầy đủ đi kèm hỗ trợ. Pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không có pháp luật hoặc một hệ thống pháp luật không đầy đủ, không phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ trở nên hỗn độn, không thể tiến hành trôi chảy. Pháp luật đã tạo lập hành lang pháp lý giúp cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao. Chỉ trong trường hợp các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng chấp hành luật pháp một cách nghiêm minh thì quan hệ tín dụng mới đạt kết quả mong muốn đem lại chất lượng cho hoạt động tín dụng ngân hàng.
1.3.4.3. Nhóm nhân tố về phía Ngân hàng .
Đây là những nhân tố thuộc về bản thân nội tại của Ngân hàng có liên quan, ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng bao gồm:
Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng có một ý nghĩa to lớn quyết định đến sự thành công hay thất bại của cả hệ thống ngân hàng. Do vậy khi xây dựng chính sách tín dụng cần phải đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của người gửi tiền, của Ngân hàng và của người sử dụng vốn vay. Đồng thời chính sách tín dụng phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và cần được dựa trên những cơ sở thực tiễn và khoa học n._.hất định.
Công tác tổ chức của Ngân hàng:
Tổ chức của Ngân hàng cần được cụ thể hoá và sắp xếp một cách có khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã được quy định cả về huy động vốn cũng như cho vay, quản lý được cơ cấu tài sản nợ, tài sản có của Ngân hàng. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do hoạt động tín dụng là loại hình kinh doanh tiền tệ có rủi ro rất lớn nên cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, bộ phận trong từng ngân hàng trong toàn hệ thống ngân hàng, giữa Ngân hàng với các cơ quan khác như tài chính, pháp lý...
- Chất lượng nhân sự:
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và trong hoạt động của Ngân hàng nói chung. Hiện nay khi nghiệp vụ hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển thì đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại, phù hợp với sự phát triển nghiệp vụ không ngừng. Do vậy việc tuyển chọn nhân sự cần phải được tiến hành kỹ lưỡng, cán bộ tín dụng phải là người có trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp tốt, phải có chuyên môn giỏi thì mới có thể ngăn ngừa những sai phạm khi thực hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng mình trên thị trường và đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu đa dạng của một xã hội ngày càng phát triển.
Quy trình tín dụng:
Đây là những giai đoạn, công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay, thu nợ bắt đầu từ việc xét đơn xin vay của khách hàng cho đến khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc lập ra một quy trình tín dụng có đảm bảo tính khoa học không và việc thực hiện các giai đoạn trong quy trình tín dụng cũng như sự phối hợp nhịp nhàng giữa các giai đoạn như thế nào?
Thông tin tín dụng:
Thông tin tín dụng có tác động trực tiếp đến quyết định cho vay, giúp cho
các cán bộ tín dụng có câu trả lời đúng: Cho vay hay không cho vay? Xét trên tầm vĩ mô thông tin tín dụng là cơ sở đánh giá chất lượng tín dụng và đưa ra các dự báo phát triển kinh tế. Thông tin càng đầy đủ, chính xác, kịp thời thì khả năng ngăn ngừa rủi ro càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao.
Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng:
Trang thiết bị góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức quản lý ngân hàng, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay và thực hiện nghiệp vụ giao dịch với khách hàng. Đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện nay, các trang thiết bị tin học đã giúp cho Ngân hàng cập nhật được thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Trên cơ sở đó đưa ra quyết định tín dụng đúng đắn, không bỏ lỡ thời cơ trong kinh doanh, giúp cho quá trình quản lý tiền vay và thanh toán được thuận tiện, nhanh chóng và chính xác.
1.3.4.4. Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng.
Để đảm bảo khoản tín dụng được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, mang lại lợi ích cho Ngân hàng góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội thì khách hàng có vai trò hết sức quan trọng. Một khách hàng có tư cách đạo đức tốt, có tình hình tài chính vững vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng hoàn trả đầy đủ những khoản vay vốn của Ngân hàng khi đến hạn qua đó đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng.
1.3.4.5. Các yếu tố tự nhiên .
Đây là những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh...Khi xẩy ra thường gây ra hậu quả lớn tác động đến cả ngân hàng và khách hàng, ngân hàng khó có khả năng thu hồi được vốn điều đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Trước sự tác động của các yếu tố này ngân hàng khi tiến hành đầu tư cần phải cân nhắc, báo cáo một cách cụ thể, chủ động phòng ngừa nhằm giảm thiểu rủi ro.
Như vậy việc nắm vững các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng và biết tận dụng các nhân tố này trong hoàn cảnh thực tế của Ngân hàng mình sẽ tạo ra một chất lượng tín dụng tốt, góp phần vào sự phát triển vững mạnh của Ngân hàng và của nền kinh tế quốc dân.
Chương II :
thực trạng chất lượng tín dụng
tại nhnO&ptnt CHI NHáNH NAM Hà NộI
2.1. Giới thiệu chung về nhno&ptnt chi nhánh nam hà nội.
2.1.1. Khái quát về NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế Thế Giới nói chung, nền kinh tế Việt Nam nói riêng thì mọi ngành kinh tế cũng phải có các chiến lược chính sách kinh doanh riêng của mình cho phù hợp và hiệu quả nhất nhằm mang lại lợi nhuận cao cho mình và cũng là góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước.
Không ngoài quy luật đó, NHNo&PTNT Việt Nam không ngừng nâng cao công nghệ và trình độ của các cán bộ, đồng thời mở rộng thị trtrường trên toàn quốc. Ban lãnh đạo ngân hàng nhận thấy rằng khu vực phía nam Hà Nội có một tiềm năng lớn đồng thời cũng là nơi có nhu cầu vay vốn rất cao.Cho nên ban lãnh đạo NHNo&PTNT Việt Nam đã ra quyết định 48/QĐ-HĐQT ngày 12/3/2001 về việc thành lập chi nhánh Nam Hà Nội, và được chính thức khai trương đi vào hoạt động ngày 08 tháng 05 năm 2001 với đội ngũ cán bộ công nhân viên ban đầu là 36 người và đến nay là 95 cán bộ. Chi nhánh có trụ sở tại toà nhà C3, phường Phương Liệt,quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, phạm vi hoạt động chủ yếu là trên địa bàn quận Thanh Xuân và các quận nội thành Hà Nội.
Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà Nước về công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn, trong những năm qua NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội luôn đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động đầu tư tín dụng. Vượt qua khó khăn thách thức thủa ban đầu, đóng góp của NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội trong thời gian qua thật đáng trân trọng. Trong năm tới, ngân hàng tiếp tục đổi mới và phục vụ ngày càng tốt hơn cho phát triển nông thôn và hội nhập quốc tế.
2.1.1.1. Tổ chức bộ máy NHNo&PT NT Chi nhánh Nam Hà Nội.
Ngân hàng No&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội
Hội Sở
Phòng giao dịch số 3
Phòng giao dịch số 4
Phòng giao dịch số 5
Phòng giao dịch số 2
Chi nhánh Tây Đô
Chi nhánh Giảng Võ
Ban lãnh đạo
Phòng kế hoạch kinh doanh
Phòng thẩm định
Phòng kế toán
ngân quỹ
Phòng thanh toán quốc tế
Phòng hành chính nhân sự
Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ
Trong những năm qua với sự chỉ đạo sáng suốt của Ban giám đốc và sự phối hợp nhịp nhàng có hiệu quả giữa các phòng ban, NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng hoá các mặt kinh doanh dịch vụ tiền tệ ngân hàng, thường xuyên tăng cường vật chất kỹ thuật, từng bước đổi mới công nghệ, hiện đại hoá ngân hàng.
2.1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội.
Cũng như các Ngân hàng thương mại khác, NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đảm nhiệm 3 chức năng cơ bản sau:
Là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
Tạo phương tiện thanh toán: khi Ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ.
Trung gian thanh toán: thay mặt khách hàng, Ngân hàng thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Bên cạnh đó còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán
Nhiệm vụ của ngân hàng là khai thác thị trường khu vực phía Nam Hà Nội và thực hiện những chương trình của NHNo&PTNT Việt Nam
2.1.2. Kết quả đạt được năm 2003 tại NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội.
Trong công tác đổi mới nền kinh tế Việt Nam thời gian qua đã thu được kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong dân chúng cũng như các nhà đầu tư. Năm 2003 nền kinh tế nước ta đã chuyển sang giai đoạn phát triển chiều sâu theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế các nước ASEAN và quốc tế. Là một lĩnh vực đóng vai trò xương sống của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng nói chung và chi nhánh nam Hà Nội nói riêng cần phải có những bước tiên phong trong quá trình đổi mới vừa phải khắc phục những tồn tại cũ vừa phải vươn lên để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong tình hình mới. Trong năm 2003 chi nhánh đã đạt được kết quả trên các mặt hoạt động như:
2.1.2.1. Nguồn vốn huy động .
Ngay từ khi thành lập, chi nhánh đã xác định công tác huy động vốn là hoạt động trọng tâm, với nhiều thuận lợi của Ngân hàng là đóng trên địa bàn thành phố Hà Nội, chi nhánh đã tăng cường tuyên truyền quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng quanh địa bàn, áp dụng khuyến mãi, tặng quà…để huy động tiền gửi dân cư. Do vậy trong thời gian ngắn qua chi nhánh đã huy động được số tiền đã đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán.
Tổng nguồn vốn đến thời điểm 31/12/2003 đạt 2.552 tỷđ tăng so với năm 2002 là 1414000 triệu đồng tương đương với tăng 124% so với năm 2002.
Cơ cấu nguồn vốn như sau:
Phân theo thời hạn huy động:
+ Nguồn vốn không kỳ hạn là 314 tỷ đồng chiếm 12% tổng nguồn vốn
+ Nguồn vốn kỳ hạn dưới 12 tháng là 640 tỷ đồng chiếm 25% tổng nguồn vốn
+ Nguồn vốn kỳ hạn trên 12 tháng là 596 tỷ đồng chiếm 24% tổng nguồn vốn
+ Huy động hộ trung ương: 486 tỷ đồng chiếm 19% tổng nguồn vốn
+ Nguồn ủy thác đầu tư: 516 tỷ đồng chiếm 20% tổng nguồn vốn
Phân theo tính chất nguồn huy động:
+ Tiền gửi dân cư: 488 tỷ đồng chiếm 17,6% tổng nguồn vốn
+ Tiền gửi tổ chức kinh tế: 272 tỷ đồng chiếm 10,7% tổng nguồn vốn
+ Tiền gửi, tiền vay tổ chức tín dụng: 830 tỷ đồng 32,5% tổng nguồn vốn
+ Huy động hộ trung ương: 486 tỷ đồng chiếm 19% tổng nguồn vốn
+ Nguồn vốn ủy thác đầu tư: 516 tỷ đồng chiếm 20,2% tổng nguồn vốn
Trong tiền gửi, tiền vay của các tổ chức tín dụng, tiền gửi của kho bạc nhà nước và tiền vay của quỹ hỗ trợ phát triển, bảo hiểm xã hội chiếm tỷ trọng khá lớn tại thời điểm đầu năm: 429 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 37,68% tổng nguồn vốn của toàn chi nhánh. Đến thời điểm 31/12/2003 là 1881 tỷ đồng, với tỷ trọng 75% cho thấy xu hướng đa dạng hóa các nguồn vốn huy động, nâng hệ số an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
2.1.2.2. Tình hình sử dụng vốn tín dụng năm 2003.
Doanh số cho vay 12 tháng là 2823 tỷ đồng tăng so với 2002 là 177 tỷ đồng tương đương với 169%.
Doanh số thu nợ12 tháng là 1966 tỷ đồng tăng so với 2002 là 354 tỷ đồng tương đương với 22%.
Tổng dư nợ đến 31/12/2003 là 1278 tỷ đồng tăng so với thời điểm đầu năm 810 tỷ đồng với tốc độ tăng 269%; Băng 167% so với kế hoạch cả năm. Trong cơ cấu tổng dư nợ, có 164 tỷ là dư nợ cho vay ủy thác đầu tư chiếm tỷ trọng 15,3%; Dư nợ cho vay thông thường chiếm 84,7%.
Cơ cấu đầu tư như sau:
Phân theo thời gian cho vay:
+ Dư nợ ngắn hạn: 418 tỷ đồng chiếm 32,7% tổng dư nợ
+ Dư nợ trung hạn: 31 tỷ đồng chiếm 2,4% tổng dư nợ
+ Dư nợ dài hạn: 829 tỷ đồng chiếm 64,8% tổng dư nợ
Xét về giá trị tuyệt đối thì dư nợ ở cả ngắn hạn và trung hạn đều tăng (loại trừ dư nợ chỉ định của Trung ương về cho vay dài hạn Công ty chứng khoán NHNo và Công ty dịch vụ thương mại ngân hàng), đưa tỷ trọng dư nợ trung dài hạn chiếm 34,75%.
Phân theo thành phần kinh tế:
+ Cho vay doanh nghiệp nhà nước: 541 tỷ chiếm 43% tổng dư nợ
+ Cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh: 708 tỷ chiếm 55% tổng dư nợ
+ Cho vay hộ gia đình cá thể: 30 tỷ chiếm 2% tổng dư nợ
Hiện nay chi nhánh đang có 546 khách hàng còn dư nợ vay; trong đó 62 khách hàng là doanh nghiệp (41 doanh nghiệp nhà nước và công ty cổ phần, còn lại là doanh nghiệp ngoài quốc doanh) và 484 hộ gia đình cá nhân. So với thời điểm đầu năm tăng 17 doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 109 hộ gia đình (chủ yếu là vay cầm cố sổ tiết kiệm và vay tiêu dùng đối với CBCNV trong các doanh nghiệp nhà nước).
Dư nợ theo ngành kinh tế:
+ Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: 275 tỷ chiếm 25,7% tổng dư nợ
+ Thương nghiệp dịch vụ: 839 tỷ chiếm 58,9% tổng dư nợ
+ Dự án đầu tư: 164 tỷ chiếm 15,4% tổng dư nợ
Trong năm chi nhánh đã được hội đồng tín dụng phê duyệt cho vay vượt hạn mức tín dụng đối với công ty Thực phẩm miền bắc số tiền 150 tỷ đồng. Thẩm định trình TW phê duyệt cho vay đồng tài trợ nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng và đã được tổng giám đốc phê duyệt đầu tư số tiền 250 tỷ đồng, dự kiến giải ngân trong 2 năm 2004, 2005.
Tóm lại công tác tín dụng năm 2003 của chi nhánh đã có nhiều cố gắng và thực sự đi vào chất lượng: Đối với những món vay mới thực hiện nghiêm túc thể lệ chế độ quy trình nghiệp vụ tín dụng, đảm bảo tất cả các món vay đều được kiểm tra trước, trong và sau khi phát tiền vay, thực hiện quy chế thế chấp tài sản, không tạo kẽ hở cho khách hàng lợi dụng, chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng vốn sai mục đích. Tiến hành phân loại khách hàng, chọn lựa các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, sản xuất kinh doanh đúng hướng, có tín nhiệm để tạo ra một đội ngũ khách hàng tin cậy và mang tính chiến lược lâu dài.
2.1.2.3. Các sản phẩm dịch vụ mới cung cấp.
Như trên đã đề cập, trong năm 2003 chi nhánh đã triển khai, ứng dụng 1 số sản phẩm, dịch vụ ngân hàng như sau:
Thực hiện thành công chương trình giao dịch 1 cửa (Ngân hàng bán lẻ) theo chủ trương của Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc. Tiếp cận chuẩn bị triển khai chương trình WB ở Hội sở và chương trình ngân hàng bán lẻ tới 100% chi nhánh, phòng giao dịch của chi nhánh.
áp dụng thí điểm hình thức huy động tiết kiệm gửi góp để huy động nguồn tiên gửi nhàn rỗi của dân cư,
Thực hiện thí điểm hợp đồng huy động vốn và cho vay đối với các tổ chức tài chính trên địa bàn.
Tiếp tục thực hiện mô hình cho vay tiêu dùng đối với CBCNV thông qua tổ chức công đoàn tại các DNNN;
Cung ứng dịch vụ giải ngân phục vụ các dự án đầu tư nước ngoài; Làm đầu mối triển khai tới các tỉnh trong phạm vi của dự án.
2.1.2.4. Kinh doanh đối ngoại.
Năm 2003 cùng với đà tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc của mình hoạt động đối ngoại của NHNo&PTNT chi nhánh nam Hà Nội cũng đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu đề ra. Theo kế hoạch đề ra thì tốc độ tăng trưởng của 2003 là tăng 30% so với năm 2002, kế hoạch đặt ra đã được hoàn thành vượt mức. Đạt được thành quả này, trước hết phải kể đến sự chỉ đạo sát sao của ban lãnh đạo và sự nỗ lực, cố gắng của toàn thể cán bộ trong chi nhánh.
Doanh số thanh toán hàng nhập khẩu đạt 34,912,701.64 USD, tăng hơn 17 triệu USD với tỷ lệ 98% so với năm 2002; vượt kế hoạch 9 triệu USD, tăng 36%.
Doanh số hàng xuất khẩu đạt 32,019,552 USD, tăng hơn 22,8 triệu USD, 250% so với năm 2002; vượt mức kế hoạch 18,7 triệu USD, 141%.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ tiếp tục mức tăng trưởng cao. Doanh số mua đạt hơn 47,8 triệu USD, trong đó kết hối đạt hơn 32,3 triệu USD, chiếm tỷ lệ 68%; tăng hơn 24,7 triệu USD, 107% so với năm 2002; tăng 14,3 triệu USD, 43% so với kế hoạch. Doanh số bán ngoại tệ đạt hơn 49,5 triệu USD, tăng 26,5 triệu USD, tăng 115% so với năm 2002; tăng 16,2 triệu USD, 49% so với kế hoạch. Ngoài việc đảm bảo sự cân đối nguồn vốn ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán quốc tế còn bán cho Sở giao dịch hơn 19 triệu USD.
Duy trì tốt mức ngoại tệ dự trữ bình quân trong ngày 150,000.00 USD.
Đẩy mạnh công tác đào tạo và tự đào tạo cán bộ nhân viên trong hoạt động đối ngoại.
2.1.2.5. Kết quả tài chính.
Tổng thu 946: 120.440 triệuđ, tăng so với năm 2002 là: 83.239 triệuđ, dạt 189% kế hoạch giao. Trong đó thu từ hoạt động tín dụng 46.667 triệuđ, 39% tổng thu 946 và 88% thu nội bảng; thu dịch vụ và thu khác chiếm 12% tổng thu nội bảng.
Tổng chi 946: 89.599 triệuđ
Chênh lệch thu nhập – chi phí: cả năm 2003 đạt là 30.841 triệu, tăng so kế hoạch giao năm 2003 là 20.034 triệu đ.
Chênh lệch lãi suất bình quân: 0,335%/tháng
Hệ số tiền lương cả năm là 2,06.
Như vậy với rất nhiều hoạt động đa dạng NHNo&PTNT chi nhánh nam Hà Nội đã đáp ứng hầu hết các nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tự khẳng định mình trên thị trường trong nước cũng như quốc tế, góp phần tăng trưởng và phát triển đất nước.
2.2. thực trạng chất lượng tín dụng tại nhno&ptnt chi nhánh nam hà nội trong những năm gần đây.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong những năm qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đã có những bước tiến mới từ hệ thống ngân hàng một cấp với hình thức cấp phát tín dụng sang hệ thống ngân hàng hai cấp: Quản lý nhà nước và kinh doanh đầu tư tín dụng theo đúng nghĩa của nó, đáp ứng được nhu cầu lớn về vốn phát triển cho nền kinh tế, đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu đạt được các ngân hàng thương mại hiện nay cũng đang gặp một số khó khăn cần được khắc phục như : Chất lượng, hiệu quả đầu tư tín dụng còn thấp, tỷ lệ quá hạn đang ở mức cao. Các ngân hàng thương mại đang tiếp nhận và quản lý một khối lượng lớn tài sản gán nợ, xiết nợ và việc sử lý vô cùng khó khăn phức tạp... Vấn đề này sẽ được cụ thể hoá thông qua thực trạng chất lượng tín dụng tại nhno&ptnt chi nhánh Nam Hà Nội.
2.2.1. Tình hình hoạt động huy động vốn.
Để đảm bảo đáp ứng vốn đầy đủ kịp thời cho nhu cầu thị trường và chủ động trong hoạt động kinh doanh thì công tác huy động vốn tại chỗ của NHNo&PTNT Nam Hà Nội cũng rất cần được coi trọng. Với địa bàn nằm trong thành phố, dân cư phát triển tình hình kinh tế chính trị xã hội những năm qua cơ bản là ổn định nên có thể nói vấn đề huy động vốn tại đây không gặp mấy kho khăn. Tuy nhiên do NHNN Việt Nam thay đổi cơ chế lãi suất đối với nền kinh tế từ chế độ lãi suất cơ bản sang cơ chế lãi suất thoả thuận mặt khác cạnh tranh lãi suất của các tổ chức tín dụng trên địa bàn, đặc biệt là tăng lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp lớn.
Do đó chi nhánh đòi hỏi phải huy động được nguồn đầu vào với chi phí thấp nhất có thể được. Gần ba năm qua NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã tích cực tìm mọi biện pháp khai thác các nguồn vốn như tuyên truyền hoạt động của mình , mở rộng các dịch vụ thanh toán, mở những bàn tiết kiệm di động để phục vụ khách hàng và đã đạt được một số kết quả sau:
Bảng kết quả huy động vốn qua các năm :
Đơn vị :Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2002
31/12/2003
So sánh
a
b
b-a
(b-a)/a
Tiền gửi dân cư
435
449
14
103%
Tiền gửi TCKT
147
272
125
185%
TG, TV TCTD
539
830
291
154%
Huy động hộ TW
0
486
486
100%
Nguồn vốn UTĐT
16
515
499
3.218%
Tổng cộng
1.138
2.552
1.414
224%
Nhìn vào số liệu nêu trên thì tính chất nguồn vốn ở thời điểm 31/12/2003 đã có những xu hướng biến động mạnh mẽ theo chiều hướng khá tích cực. Tỷ trọng tiền gửi dân cư đã tăng lên và đưa dần vào thế ổn định nguồn vốn. Bên cạnh đó, nguồn vốn tiền gửi của các TCKT cũng đã dần tăng lên cùng với tiền gửi của dân cư đã chiếm một tỷ trọng khá ưu thế trong cơ cấu nguồn của chi nhánh. Đạt được kết quả là do sự nỗ lực của tập thể lãnh đạo, các phòng chức năng và toàn thể CBNV của chi nhánh, chỉ đạo định hướng kinh doanh mở rộng mạng lưới hoạt động, hăng hái thu hút khách hàng, đổi mới phong cách phục vụ, không ngừng hoàn thiện và nâng cao các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng cung ưng cho các khách hàng .
Trong tiền gửi, tiền vay của các TCTD, tiền gửi của KBNN và tiền vay của quỹ hỗ trợ phát triển, bảo hiểm xã hội chiếm tỷ trọng khá lớn tại thời điểm đầu năm : 429tỷ chiếm tỷ trọng 37.68% tổng nguồn vốn của toàn chi nhánh. Thực hiện đến thời điểm 31/12/2003 là 1.881tỷ đồng, với tỷ trọng 75% cho thấy xu hướng đa dạng hóa các nguồn vốn huy động, nâng hệ số an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
2.2.2. Tình hình hoạt động cho vay.
Để đứng vững và phát triển trong nền kinh tế đầy cạnh tranh như hiện nay các Ngân hàng buộc phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh một cách hợp lý và NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội cũng vậy. Với hoạt động đa dạng của mình đặc biệt là hoạt động tín dụng vì vậy chi nhánh luôn luôn quan tâm tới vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được chi nhánh tiến hành phân phối sử dụng vốn sao cho có hiệu quả bởi cho vay là khâu tiếp nối của hoạt động tạo vốn và là khâu cuối cùng quyết định chất lượng hiệu quả tín dụng.
Đối tượng cho vay tại chi nhánh rất đa dạng: doanh nghiệp nhà nước, các công ty cổ phần, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cả hộ gia đình, cá nhân… Điều này đã có tác dụng tích cực giúp cho các doanh nghiệp phát triển được sản xuất kinh doanh, tăng thu ngân sách góp phần đấu tranh hạn chế cho vay nặng lãi. Ngoài ra chi nhánh rất coi trọng tới việc thẩm định trước khi cho vay, tổ chức tín dụng xem xét, đánh giá khả thi hiệu quả dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống và khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng để quyết định cho vay. Với phương thức cho vay đa dạng như: cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư…
Chi nhánh chủ động trong việc sử dụng vốn vay có tính đến nhu cầu và khả năng thực tế của từng cá nhân, đơn vị, phân loại doanh nghiệp, cho vay có chọn lọc và thường xuyên quan tâm tới công tác thu nợ nhằm tăng nhanh vòng quay vốn tín dụng.
Thực chất vấn đề cho vay vốn của ngân hàng được đánh giá tốt hay xấu không phải căn cứ vào số dư nợ cho vay có tăng hay không mà phải xem xét chất lượng tín dụng như thế nào có nghĩa là phải xem xét vốn mà chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội cho vay có mục đích hay không, khách hàng có trả được nợ hay không và trả nợ có đúng hạn không. Vì vậy việc đánh giá tình hình vốn vay của Ngân hàng phải được xem xét các chỉ tiêu như: tình hình cho vay, thu nợ, nợ quá hạn… và các biện pháp nhằm mở rộng tín dụng tại chi nhánh.
Sau đây là số liệu cụ thể về tình hình tín dụng tại NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội:
(Nguồn: báo cáo tổng kết năm 2001, 2002, 2003)
Biểu đồ so sánh các chỉ tiêu sử dụng vốn qua các năm
Số tiền cho vay tại chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội qua các năm 2001, 2002, 2003 có tăng lên đáng kể.
Năm 2002 doanh số cho vay là 1050 tỷ đồng tăng so với 2001 là 700 tỷ đồng tương đương với 200%.
Năm 2003 doanh số cho vay là 2823 tỷ đồng tăng so với 2002 là 1773 tỷ đồng tương đương với 169%.
Như vậy ta thấy rằng khách hàng đến giao dịch tại chi nhánh ngày càng
tăng lên chứng tỏ bằng sự cố gắng của ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên trong thời gian qua chi nhánh đã thu hút được nhiều khách hàng, bằng phương pháp nghiệp vụ và thái độ làm việc của mình chi nhánh đã tạo được uy tín trên thị trường đầy cạnh tranh như hiện nay.
Về công tác thu nợ:
Năm 2001 doanh số thu nợ là190 tỷ đồng bằng 54% doanh số cho vay
Năm 2002 doanh số thu nợ là 1612 tỷ đồng bằng 154% doanh số cho vay
Năm 2003 doanh số thu nợ là 1966 tỷ đồng bằng 72% doanh số cho vay
Doanh số thu nợ năm 2001 chưa cao nhưng sang năm 2002 đã tăng lên
đáng kể với sự làm việc hết mình của cán bộ nhân viên trong công tác kiểm tra, đôn đốc tình hình thu nợ và sự lãnh đạo sáng suốt của Ban giám đốc của chi nhánh. Sang năm 2003 doanh số thu nợ có tăng so với năm 2002 nhưng tỷ lệ thu nợ trên doanh số cho vay giảm.
Đối với dư nợ có tăng lên so với các năm:
Năm 2002 tổng dư nợ là 488 tỷ đồng tăng 328 tỷ so với 2001 tương đương với 205%
Năm 2003 tổng dư nợ là 1278 tỷ đồ tăng so với 2002 là 790 tỷ tương đương với 161%
Trong cơ cấu tổng dư nợ, có 164 tỷ là dư nợ cho vay ủy thác đầu tư chiếm tỷ trọng 15,3%, dư nợ cho vay thông thường chiếm 84,7%
Trên cơ sở số liệu về huy động vốn và cho vay chúng ta nhận thấy rằng vốn huy động của NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã được sử dụng để cho vay một cách có hiệu quả. Năm 2003 chi nhánh huy động được 2552 tỷ và tổng doanh số cho vay được 2823 tỷ đồng, chứng tỏ chi nhánh đã sử dụng được triệt để số vốn huy động của mình.
2.2.2.1. Dư nợ theo thời gian cho vay.
Bảng 2: Phân tích dư nợ theo thời gian cho vay
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Tuyệt đối 2002-2001
Tương đối 2002-2001
Tuyệt đối 2003-2002
Tương đối 2003-2002
Ngắn hạn
156.759
300.000
418.000
143.241
91%
118.000
39%
Trung hạn
3.269
17.000
31.000
13.731
420%
14.000
82%
Dài hạn
0
161.000
829.000
161.000
100%
668.000
415%
Tổng cộng
160.028
478.000
1.278.000
317.972
199%
800.000
167%
Qua bảng số liệu ta thấy dư nợ qua các năm đều tăng.
Năm 2002: Xét về giá trị tuyệt đối thì dư nợ ở cả ngắn hạn và trung hạn đều tăng; nhưng xét về tỷ trọng thì dư nợ ngắn hạn có xu hướng giảm dần và tỷ trọng nợ trung hạn đã tăng lên một cách nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng đạt 58 lần. Đưa tỷ trọng nợ trung dài hạn chiếm 37,08% tổng dư nợ; vượt xa kế hoạch năm đặt ra là 10% và đã gần đạt tới mục tiêu của toàn ngành là 40% tổng dư nợ.
Năm 2003: dư nợ ngắn hạn và trung hạn tăng (loại trừ dư nợ chỉ định của trung ương về cho vay dài hạn Công ty chứng khoán NHNo và Công ty dịch vụ thương mại ngân hàng); Đưa tỷ trọng dư nợ trung dài hạn chiếm 34,75%.
2.2.2.2. Dư nợ theo thành phần kinh tế.
Bảng 3: Phân tích dư nợ theo thành phần kinh tế
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Tuyệt đối 2002-2001
Tương đối 2002-2001
Tuyệt đối 2003-2002
Tương đối 2003-2002
DNNN
132.060
389.000
541.000
265.940
201%
143.000
36%
DNNQD
23.791
66.000
708.000
42.209
177%
642.000
973%
Hộ gđ cá thể
4.177
14.000
30.000
9.823
43%
16.000
114%
Tổng cộng
160.028
478.000
1.278.000
317.972
199%
800.000
167%
Năm 2001- 2002: khách hàng là doanh nghiệp nhà nước tăng nhanh cả về số lượng khách hàng cũng như về dư nợ- tăng 10 doanh nghiệp, mức dư nợ tăng với tốc độ khá nhanh là 297.940 triệu đồng tương đương với 326%.
Sang năm 2003 tăng thêm 17 doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hóa, mức dư nợ tăng 142 tỷ đồng với tốc độ tăng 35%.
Về cơ cấu thì tập trung chủ yếu là dư nợ của các doanh nghiệp nhà nước, trong đó các khách hàng có dư nợ lớn nhất là:
Công ty dịch vụ kỹ thuật dầu khí
Công ty thực phẩm miền bắc
Tổng công ty Sông Đà
Công ty xuất nhập khẩu với Lào
Công ty Ginexim Hà Nội
Tổng công ty máy và thiết bị công nghiệp
Tổng công ty xuất nhập khẩu máy…
Bên cạnh đó, dư nợ của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như dư nợ hộ tư nhân cá thể cũng tăng nhanh; Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng chủ yếu của công ty chứng khoán NHNo Việt Nam (tăng ở dư nợ cho vay dài hạn, số dư đến 31/12/2003 là 668 tỷ đồng) kết quả này cũng khẳng định một cách chắc chắn đường lối chiến lược là phát triển theo xu hướng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; tăng cường, tập trung phát triển khu vực khách hàng là những Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2.2.2.3. Dư nợ theo ngành kinh tế.
Bảng 4: Phân tích dư nợ theo ngành kinh tế
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Tuyệt đối 2002-2001
Tương đối 2002-2001
Tuyệt đối 2003-2002
Tương đối 2003-2002
CN và tiểu thủ CN
29.782
106.000
275.000
76.218
256%
169.000
160%
Thương nghiệp DV
104.890
208.000
839.000
103.110
98%
631.000
303%
Dự án đầu tư
25.357
164.000
164.000
138.643
547%
0
0
Tổng cộng
160.028
478.000
1.278.000
317.972
199%
800.000
167%
Căn cứ cơ cấu ngành kinh tế cho thấy toàn chi nhánh đầu tư chủ yếu vào khu vực thương nghiệp và dịch vụ- với tỷ trọng khá cao:
Sang năm 2002 tăng 98% so với năm 2001
Năm 2003 tăng 303% so với năm 2002
Tuy nhiên, dư nợ ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp lại tăng nhanh cả về số tuyệt đối cũng như về tốc độ; đặc biệt là tốc độ tăng trưởng:
Năm 2002 tăng 256% so với 2001
Năm 2003 tăng 160% so với 2002
Phấn đấu thực hiện mục tiêu hiện đại hoá ngân hàng và cung ứng các sản phẩm dịch vụ của một ngân hàng hiện đại; chi nhánh đã thực hiện thành công mô hình giao dịch một cửa, tạo sự thông thoáng trong giao dịch đối với khách hàng. Ngoài ra, nó cũng đòi hỏi các thanh toán viên phải không ngừng hoàn thiện tất cả các nghiệp vụ: kế toán, thanh toán, ngân quỹ, … để đáp ứng được yêu cầu hoạt động, là động lực thúc đẩy mạnh mẽ trình độ của cán bộ ngân hàng.
2.2.2.4. Tình hình nợ quá hạn tại NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội.
Do chi nhánh mới đi vào hoạt động nên chi nhánh chưa phát sinh nhiều nợ quá hạn.
Năm 2001 chi nhánh chưa phát sinh nợ quá hạn.
Sau đây là tình hình nợ quá hạn tại chi nhánh năm 2002, 2003:
Bảng 5: Tình hình nợ quá hạn của chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
Tổng dư nợ
478.000
1.278.000
Doanh số phát sinh
793.000
46.787
Doanh số thu nợ
793.000
44.523
Dư nợ quá hạn
0
2.263
Tỷ trọng NQH/Tổng dư nợ
0
0,17%
Số liệu bảng 5 thể hiện nợ quá hạn tại chi nhánh trong 2 năm 2002, 2003; cụ thể như sau:
Tính đến thời điểm cuối năm 2002 toàn chi nhánh NHNo&PTNT Nam Hà Nội không có nợ quá hạn. Nếu xét trong cả năm 2002 tổng doanh số phát sinh nợ quá hạn là 793 triệu đồng và thu hồi được hết số nợ quá hạn.
Năm 2003 có doanh số phát sinh nợ quá hạn là 46.787 triệu đồng
Doanh số thu nợ quá hạn là 44.523 triệu đồng. Đến 31/12/2003 toàn chi nhánh có số dư nợ quá hạn là 2.263 triệu đồng; chiếm 0,17% tổng dư nợ. Đây là con số có thể chấp nhận được đối tình hình nợ quá hạn của một ngân hàng.
Nợ quá hạn phân theo thời gian cho vay: Năm 2002 chi nhánh không có nợ quá hạn, số nợ quá hạn phát sinh trong cả năm là 793 triệu đồng tập trung chủ yếu là nợ quá hạn trung hạn ( cho vay hộ tiêu dùng).
Tính đến 31/12/2003 nợ quá hạn được phân theo thời gian cho vay như sau:
Bảng 6: Nợ quá hạn phân theo thời gian cho vay tại chi nhánh năm 2003:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2003
Tỷ trọng (%)
Ngắn hạn
992
44%
Trung hạn
1.271
56%
Dài hạn
0
0
Tổng cộng
2.263
100%
Năm 2003 doanh số phát sinh nợ quá hạn là 46.787 triệu đồng; doanh số thu hồi nợ quá hạn là 44.523 triệu đồng chứng tỏ công tác thu hồi nợ quá hạn của chi nhánh khá hiệu quả. Chi nhánh vẫn chưa phát sinh nợ quá hạn dài hạn do mới đi vào hoạt động được 3 năm.
Nợ quá hạn phân theo thành phần kinh tế:
Năm 2002 số nợ quá hạn phát sinh trong năm chủ yếu là nợ quá hạn của các hộ vay tiêu dùng.
Năm 2003 nợ quá hạn được phân theo thành phần kinh tế như sau:
Bảng 7: Nợ quá hạn phân theo thành phần kinh tế tại chi nhánh năm 2003:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2003
Tỷ trọng (%)
Doanh nghiệp nhà nước
0
0
Doanh nghiệp ngoài QD
992
44%
Hộ gia đình, cá thể
1.271
56%
Tổng cộng
2.263
100%
Ta thấy nợ quá hạn năm 2003 có 992 triệu là nợ quá hạn của khách hàng các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh do chưa thu hồi kịp tiền hàng; còn lại là cho vay hộ tiêu dùng.
Nợ quá hạn phân theo ngành kinh tế:
Năm 2003 nợ quá hạn được phân theo các ngành kinh tế như sau:
Bảng 8: Nợ qu._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34077.doc