Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở Giao dịch Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải (MSB)

Lời nói đầu Cùng với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đang trong quá trình đổi mới, và đã đạt được những thành công nhất định. Xu thế hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra ngay gắt. Đặt hệ thống ngân hàng Việt Nam trước những vận hội mới cũng như những khó khăn phải đối mặt. Hoạt động của ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện rất lớn cho nền kinh tế phát triển và ngược lại ngân hàng hoạt động kém hiệu quả sẽ ảnh hưởng trầm trọng tới sự phát triển của cả n

doc53 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở Giao dịch Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải (MSB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền kinh tế, thẩm chí cả nền kinh tế thế giới. Xác định được tầm quan trọng của tín dụng và vai trò của ngân hàng, Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng cũng như chất lượng tín dụng trong toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do nợ tồn đọng từ các năm khác chưa xử lý hết và những khoản quá hạn mới phát sinh. Năm 2005, theo thống kê của NHNN Việt Nam thì nợ quá hạn của NHTM Việt Nam là 11%. Đây là trở ngại rất lớn cản trở sự phát triển của ngân hàng. Để phát triển ổn định và bền vững thì đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam cần tiếp tục đổi mới hơn nữa. Hoà vào nhịp đổi mới toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, Sở Giao dịch NHTMCP Hàng Hải cũng có sự đổi mới đáng khích lệ. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả hoạt động trong những năm gần đây có thể thấy có một số vấn đề cần phải khắc phục trong thời gian tới, đó là tình trạng dư nợ tín dụng ngắn hạn có tỷ trọng ngày càng giảm trong tổng dư nợ, mặc dù về số tuyệt đối thì có sự tăng lên trong các năm gần đây. Số nợ xấu tồn đọng từ các năm trước mặc dù đã tích cực xử lý nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu, nợ quá hạn mới còn phát sinh, tình trạng nợ khoanh vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nợ quá hạn. Để bắt kịp với sự đổi mới thì nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch NHTMCP Hàng Hải là điều hết sức cần thiết để để Sở giao dịch phát triển vững chắc. Xuất phát từ hoàn cảnh phát triển nền kinh tế và thực trạng hoạt động tín dụng của Sở giao dịch NHTMCP Hàng Hải, em đã nghiên cứu và tìm hiểu về tình hình hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch NHTMCP Hàng Hải với để tài “ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch NHTMCP Hàng Hải”. Bài viết tập trung nghiên cứu về các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn, tập trung vào những vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHTMCP Hàng Hải Trong khuôn khổ bài viết này, em chia thành 3 phần: ChươngI: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn. ChươngII: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHTMCP HàNG HảI. ChươngIII: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHTMCP Hàng Hải. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo phan thị hoàng yến đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Em cũng xin cảm ơn cán bộ công tác tại Sở giao dịch NHTMCP Hàng Hải đã tạo mọi điều kiện và tận tình giúp đỡ trong thời gian em thực tập và hoàn thành bài viết này. Chương I: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn 1. Lý luận chung về tín dụng 1.1. Khái niệm tín dụng Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả phần tài sản đã mượn cộng thêm một phần lợi tức theo thời hạn đã thoả thuận. Từ tín dụng xuất phát từ tiếng la tinh-credittum- có nghĩa là sự tín nhiệm. Trong giới tài chính, một người được xem là có uy tín khi người khác tin tưởng và sẳn sàng ký thác tài sản hoặc tiền bạc cho anh ta. Tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn thời gian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện mức độ tín nhiệm của người cho vay, yếu tố tín nhiệm là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh. Do nhu cầu phát triển và đi lên của xã hội loài người mà quan hệ tín dụng đã hình thành rất sớm. Quan hệ tín dụng đầu tiên trong lịch sử là tín dụng nặng lãi, quan hệ tín dụng này hình thành từ đầu chế độ nô lệ và thậm chí còn tồn tại đến ngày nay. Hình thức tín dụng này được coi là phương pháp tích luỹ nguyên thuỷ, là công cụ đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn, tạo điều kiện cho phương thức sản xuất mới ra đời ra đời. Quan hệ tín dụng phát triển hết sức đa dạng và phức tạp bắt đầu từ khi chế độ chủ nghĩa tư bản ra đời. Cho đến ngày nay các quan hệ tín dụng đã phát triển toàn diện. Trong thực tiễn thường có các chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng cụ thể, ví dụ: Quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các doanh nghiệp và công chúng thể hiện dưới hình thức nhà nước phát hành các giấy nợ như công trái, trái phiếu đô thị, tín phiếu kho bạc. Quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau hay còn gọi là tín dụng thương mại thể hiện dưới hình thức bán chịu hàng hoá. Quan hệ tín dụng giữa các công ty và công chúng thể hiện dưới hình thức các công ty phát hành các trái phiếu, hoặc bán hàng trả góp. Quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng với các doanh nghiệp và công chúng, thể hiện dưới hình thức nhận tiền gửi của khách hàng, cho khách hàng vay, tài trợ thuê mua... Quan hệ tín dụng giữa nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế, chính phủ các nước thể hiện dưới hình thức vay nợ. Với chức năng kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại tham gia vào quan hệ tín dụng với hai tư cách. Ngân hàng đóng vai trò thụ trái và hành vi này được gọi là đi vay bao gồm nhận tiền gửi của khách hàng, phát hành trái phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn của ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Ngân hàng đóng vai trò trái chủ, hành vi này được gọi là cho vay. Vì tính chất phức tạp của hoạt động cho vay vì thế khi nói đến tín dụng người ta thường đề cập đến hoạt động cho vay mà bỏ quên mặt thứ hai đó là đi vay. Quan hệ tín dụng mà ngân hàng đóng vai trò trái chủ gọi là tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản khi hình thành nên các ngân hàng thương mại và đây cũng là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng. Sự phù hợp về nhu cầu của hai nhà tư bản ngân hàng và nhà tư bản sản xuất kinh doanh hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời mối quan hệ tín dụng này. Do chuyên môn hoá trong kinh doanh và do đặc điểm của hàng hoá tiền tệ mà hình thức tín dụng này ngày càng phát triển và trở thành hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Tín dụng ngân hàng đã khắc phục được những hình thức tín dụng trước đó và thực sự trở thành một yếu tố quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy:Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn về vốn tiền tệ giữa ngân hàng và các đơn vị kinh tế, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các tầng lớp dân cư theo nguyên tắc có hoàn trả. 1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng 1.2.1. Căn cứ vào mục đích Dựa vào căn cứ này cho vay được chia ra làm các loại sau: Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Cho vay tiêu dùng là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng. Thuê mua và các loại khác. 1.2.2 . Căn cứ vào thời hạn tín dụng. Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với ngân hàng thương mại tín dụng ngân hàng chiếm tỉ trọng cao nhất. Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước Việt Nam, tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, còn đối với các ngân hàng thương mại trên thế giới loại tín dụng có thời hạn đến 7 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Tín dụng dài hạn: Theo quy định ở Việt Nam loại tín dụng có thời hạn trên 3 năm, còn trên thế giới loại tín dụng này có thời hạn trên 7 năm.Tín dụng dài hạn là loại tín dụng cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỉ trọng cho vay trung và dài . 1.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng. Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại: Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị tài chính hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có một nguồn thu thứ hai, bổ sung nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Đồng thời tài sản thế chấp này bảo đảm khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích cam kết. 1.2.4 . Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng. Theo căn cứ này tín dụng ngân hàng được chia làm hai loại: Tín dụng bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp bằng tiền. Đây là loại tín dụng chủ yếu của các ngân hàng và việc thực hiện bằng các kỷ thuật khác nhau như: Tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp... Tín dụng bằng tài sản là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng, riêng đối với các ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến đó là tài trợ thuê mua. Theo phương thức cho vay này ngân hàng hoặc các công ty thuê mua(công ty con của ngân hàng)cung cấp trực tiếp tài sản cho người đi vay được gọi là người đi thuê và theo định kỳ người đi thuê hoàn trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và lãi. 2. Phân loại tín dụng ngắn hạn. Nếu xét theo cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, thì đây là tín dụng tài trợ vốn lưu động. Nếu như vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp không đủ trang trải về loại vốn này, thì doanh nghiệp đó phải xin vay tín dụng ngân hàng. Nhu cầu về vốn lưu động cao hay thấp tuỳ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Nhưng dù nhu cầu cao hay thấp, doanh nghiệp luôn sử dụng tín dụng vốn lưu động với tư cách là các khoản vay ít hay nhiều thường xuyên theo cơ cấu tài chính của doanh nghiệp. Dưới góc độ kỹ thuật tín dụng, Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay ngắn hạn theo các loại hình phổ biến sau đây: 2.1. Tín dụng ứng trước. Tín dụng ứng trước bao gồm các loại sau đây: 2.1.1.Tín dụng thế chấp hoặc nghiệp vụ mở tín dụng khoản. 2.1.2.Thấu chi 2.1.3.Tín dụng vãng lai. 2.1.4.Tin dụng thời vụ. 2.2.Cho vay dựa trên việc chuyển nhương tráI quyền. 2.2.1.Chiết khấu thương phiếu. 2.3 Tín dụng bằng chữ ký của ngân hàng. 3. Chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHTM. 3.1.Khái niệm. Hoạt động tín dụng của ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến bản thân ngân hàng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến trạng thái của nền kinh tế. Bởi vì ngân hàng giống như một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, đó là một lĩnh vực rất nhạy cảm và rủi ro rất cao. Trong các nghiệp vụ của ngân hàng thì có lẽ tín dụng là một nghiệp vụ mang lại phần lớn doanh lợi cho ngân hàng nhưng cũng là nơi ẩn chứa nhiều rủi ro nhất. Ngay cả khi khoản vay có tài sản thế chấp, cầm cố thì rủi ro vẫn xảy ra với tỷ lệ cao khoảng 50%(theo uỷ ban Bale quốc tế). Sẽ là sai lầm nếu quan niệm cho vay có tài cầm cố thế chấp, nhưng không quá tỷ lệ quy định là an toàn nhất, trong khi đó kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng mới là quan trọng nhất đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng. Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể(thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán được), vừa trừu tượng(thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế..). Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan(khả năng quản lý, trình độ cán bộ, sự tuân thủ quy trình nghiệp vụ..)và khách quan(sự thay đổi của môi trường kinh tế, do chủ quan của khách hàng..) Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức cạnh tranh của một ngân hàng trong môi trường hoạt động. Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố như: Thu hút được nhiều khách hàng tốt, cho vay được nhiều, thủ tục đơn giản, mức độ an toàn của vốn tín dụng.. Chất lượng tín dụng không phải tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy trình kết hợp giữa các con người trong một tổ chức; giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung: An toàn, hiệu quả và khả năng cạnh tranh với các khoản tín dụng. Như vậy, chất lượng tín được hình thành và bảo đảm từ hai phía là ngân hàng và yếu tố bên ngoài. Để tránh rủi ro và thu được lợi nhuận trong hoạt động tín dụng, không có cách nào khác là ngân hàng phải nâng cao chất lượng tín dụng của mình. 3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. Xu hướng cho vay cho thấy rằng cơ hội cho vay của các ngân hàng đối với các khách hàng có rủi ro thấp đã giảm. Các giấy tờ thương mại, chứng khoán và cạnh tranh phi ngân hàng đã đẩy ngân hàng sang các loại khách hàng có độ rủi ro cao hơn thay thế những khách hàng truyền thống. Ví dụ: những người vay là doanh nghiệp lớn và ổn định đã từng có quan hệ trong danh mục cho vay của ngân hàng đã chuyển sang các nguồn thị trường mở như thị trường như thị giấy tờ thương mại và trái phiếu nhằm giảm chi phí giao dịch của họ. Các ngân hàng đã tìm cách thay thế đối tượng khách hàng này bằng những khách hàng vay nhỏ và kém ổn định hơn. Như vậy, do các khoản mục cho vay ngày càng có độ rủi ro cao hơn và không ổn định do tính chất cạnh tranh cao và không ổn định của nền kinh tế. Do vậy việc đánh giá chất lượng tín dụng đối với một ngân hàng là hết sức quan trọng. Bởi chất lượng tín dụng biểu hiện khả năng hoạt động của ngân hàng tốt hay xấu, làm cơ sở để để đánh giá ngân hàng. Mặt khác, việc đánh giá chất lượng tín dụng cũng giúp cho ngân hàng có những thay đổi hợp lý, điều chỉnh hoạt động để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Việc nâng cao chất lượng tín dụng không những làm cho ngân hàng tăng thu nhập mà còn giúp ngân hàng được an toàn. Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng mang tính khoa học, nó vừa cụ thể vừa trừu tượng nên để đánh giá chất lượng tín dụng người ta dựa vào 2 hệ thống chỉ tiêu: Chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính. 3.2.1. Nhóm chỉ tiêu định lượng - Chỉ tiêu nợ quá hạn: Nợ quá hạn là những khoản cho vay đến hạn mà khách hàng không trả được số tiền trong hợp đồng tín dụng và tiền lãi của số tiền đó và không được ngân hàng gia hạn. Số tiền này ngân hàng chuyển thành nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn đối với những khoản nợ này(cao hơn lãi suất thông thường). Đây là những khoản những khoản nợ có độ rủi ro cao và ngân hàng có khả năng mất vốn. Để đánh giá chất lượng tín dụng trên cơ sở nợ quá hạn, người ta người ta thường thông qua tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ đầu tư rủi ro: Tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn = Tổng dư nợ quá hạn ngắn hạn X 100% Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn Tỷ lệ đầu tư rủi ro = Tổng dư nợ món vay có phát sinh nợ quá hạn Tổng dư nợ cho vay Hai chỉ tiêu này càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao. Trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng là tất nhiên. Do đó nợ quá hạn của ngân hàng là tất yếu. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn, sinh lời và tăng khả năng cạnh tranh ngân hàng phải cố gắng giảm thiểu tỷ lệ nợ quá hạn. Hai chỉ tiêu trên rất quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn. Cả hai chỉ tiêu này đều giúp ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho vay. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai tỷ lệ là nợ quá hạn chỉ xem xét đến giá trị khoản nợ quá hạn, trong khi đó tỷ lệ đầu tư rủi ro xem xét món vay mà phát sinh nợ quá hạn. Hai chỉ tiêu này đều chịu ảnh hưởng của chính sách xoá nợ của ngân hàng, một ngân hàng có chính sách tốt là phải thiết lập quỹ dự phòng rủi ro đủ mạnh và thông báo định kỳ về những món vay không đủ khả năng thu hồi, để tránh tình trạng trong một lúc ngân hàng phải thông báo con số nợ không có khả năng thu hồi quá lớn và làm giảm tài sản của ngân hàng một cách nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu ngân hàng thực hiện xoá nợ quá nhanh thì hai tỷ lệ này sẽ ở mức thấp nhất nhưng không có ý nghĩa thực tiễn. Thông thường khi lập bảng theo dõi nợ quá hạn ngân hàng thường phân nợ quá hạn theo thời gian: 30, 60, 90, 120 ngày. Sự phân loại phân loại này có ý nghĩa đối với việc quản lý chất lượng tín dụng và đánh giá để thiết lập dự phòng mất vốn. Tỷ lệ mất vốn = Tổng dư nợ quá hạn được xoá nợ Dư nợ bình bình quân Tỷ lệ này lệ này càng nhỏ càng tốt. Những khoản nợ quá hạn, nếu khách hàng tiếp tục không trả được nợ thì ngân hàng thực hiện khoanh nợ và xoá nợ bằng quỹ dự phòng rủi ro. Khi món nợ được xoá thì các nỗ lực thu hồi vẫn tiếp tục nếu điều đó có ý nghĩa kinh tế. Xoá nợ đơn giản là một phương pháp quản lý tài chính của ngân hàng chứ không phải là sự thừa nhận về mặt pháp lý rằng người vay không còn nợ ngân hàng nữa. Dự phòng mất vốn - Tỷ lệ dự phòng = Tổng dư nợ Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt Tỷ lệ này được hình thành dựa trên tỷ lệ vỡ nợ trước đây, tỷ lệ chỉ ra % dư nợ được dự đoán là không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ dự phòng mất vốn liên quan đến tỷ lệ dự phòng mất vốn trích lập theo quy định và tỷ lệ mất vốn. Tỷ lệ dự phòng mất vốn trích lập theo quy định đại diện cho khoản trích lập mất vốn được xoá nợ một thời kỳ. Tỷ lệ mất vốn tính trên tổng giá trị các khoản nợ quá hạn được xoá trong một thời kỳ. - Chất lượng tín dụng ngắn hạn được đánh giá thông qua lợi nhuận thu được từ cho vay ngắn hạn. Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả của hoạt động tín dụng ngắn hạn. Lợi nhuận tín dụng ngắn hạn - Tỷ lệ sinh lời ngắn hạn = Dư nợ tín dụng ngắn hạn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản cho vay ngắn hạn. Tỷ lệ sinh lời cao chứng tỏ khoản cho vay đó có hiệu quả, có chất lượng cao. Để đạt tỷ lệ sinh lời cao thì việc thu nợ và giải quyết nợ quá hạn tốt. Tỷ lệ này cao một phần nói lên kết quả kinh doanh tốt của ngân hàng, điều này rất quan trọng vì doanh thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng. - Vòng quay vốn tín dụng: Doanh số thu nợ Vòng quay vốn tín dụng = Dư nợ bình quân Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ vòng quay của tín dụng ngân hàng càng nhanh, điều này cũng chứng tỏ việc thu hồi nợ nhanh và đúng hạn do đó tỷ lệ này cao cũng chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng rất tốt. Mặt khác vòng quay vốn tín dụng nhanh chứng tỏ tốc độ luân chuyển tiền tệ trong nền kinh tế nhanh, ngân hàng đã tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với một lượng vốn nhất định nhưng do tốc độ chu chuyển vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của doanh nghiệp trong phát triển kinh doanh. - Chỉ tiêu xử lý nợ: Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của KH = Số tiền thu nợ do bán tài sản của KH Tổng doanh số thu nợ Để thu hồi nguồn vốn của mình ngân hàng có hai nguồn để thu đó là, từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng nếu khách hàng làm ăn thua lỗ thì ngân hàng có nguồn thu thứ hai đó là tài sản thế chấp, cầm cố và bảo hiểm. Khi đến hạn nếu khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng có thể phát mãi tài sản. Như vậy nếu tỷ lệ này lớn thì không thể đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng cao được, kể cả trường hợp số tiền bán tài sản thu được nợ. 3.2.2. Nhóm chỉ tiêu định tính. Trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng ngoài những chỉ tiêu có thể lượng hoá được thì còn có rất nhiều yếu tố mà không thể lượng hoá được. Các chỉ tiêu định tính được qua quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng, qua độ thoả mãn của khách hàng đối với sản phẩm của khách hàng, độ tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng. 3.3. Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn của ngân hàng. Trên thế giới có nhiều cách đánh giá khác nhau về chất lượng tín dụng ngân hàng. Nhưng tại Việt Nam hiện việc quy định tiêu chuẩn cho các chỉ tiêu định lượng như đã trình bày rất khó, do đó chỉ mang tính tương đối. Các phương pháp sử dụng: Phương pháp định lượng: Đây là phương pháp sử dụng các chỉ tiêu định lượng như đã trình bày ở mục 2.2.1 như tỷ lệ nợ quá hạn, cơ cấu vốn đầu tư, tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay, chỉ tiêu quay vòng vốn tín dụng... Nghiên cứu cụ thể và đem ra được một tiêu chuẩn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là một điều cần thiết. Hiện tại sử dụng các chỉ tiêu này mới chỉ phần nào đánh giá chất lượng tín dụng trên những con số. Do đó ta cần đánh giá chất lượng tín dụng trên phương pháp khác. Phương pháp chuyên gia: Đây là phương pháp nhằm đánh giá những yếu tố trừu tượng như: trình độ cán bộ tín dụng, nghiệp vụ tín dụng, việc đánh giá này phải được căn cứ trên tiêu chuẩn nhất định để có được tính đồng nhất trong toàn hệ thống, thuận lợi khi so sánh chất lượng tín dụng các kỳ. Thông thường để đánh giá đúng đắn chất lượng tín dụng của một ngân hàng người ta sử dụng thang điểm cho từng chỉ tiêu đánh giá. Nếu sử dụng thang điểm 100 căn cứ vào mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu. cuối cùng ta tính tổng điểm cho chất lượng tín dụng như sau: CLTD = Dct1 + Dct2 + Dct3 + .. ..+Dctn Trong đó Dct1,2,3.. điểm cho chỉ tiêu 1,2,3... Nếu tổng điểm CLTD <= 35 điểm đạt loại C. Nếu tổng điểm CLTD từ 36 đến 65 điểm đạt loại B. Nếu tổng điểm CLTD từ 66 điểm trở lên đạt loại A. Rỏ ràng dùng hai phương pháp trên vẫn chưa đánh giá chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng. Do đó cần nghiên cứu ra những phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng hiệu quả hơn để đảm bảo đảm an toàn, hiệu quả cho ngân hàng cũng như nền kinh tế. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại sở giao dịch ngân hàng thương mại cổ phần hàng hải. 1. Khái quát về ngân hàng thương mại cổ phần hàng hải. 1.1. Nhiệm vụ, chức năng và bộ máy tổ chức. Ngân hàng tmcp Hàng Hải là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên ở việt nam.sau khi phap lênh về ngân hàng,htx tín dụng và công ty tài chính có hiệu lực.được thành lập giây phép số 0001/nh-gp ngay08/06/1991 của thống đốc NHNN viêt Nam,chính thức khai trương và đi vào hoạt đông từ 12/07/1991.ban đầu vốn điều lệ là 40 tỷ đồng.thời hạn hoạt động của ngân hàng là 99 năm.có mạng lưới rộng khắp cả 3 miền bắc ,trung,nam và có 19 Sở giao dịch.thiết lập quan hệ với hơn 200 ngân hàng.là thành viên của nhiều hiệp hội ngân hàng trong nước và thế giới như ngân hàng việt nam,hiệp hội ngân hàng châu á….nhiêm vụ chủ yếu của ngân hàng tmcp Hàng Hải là hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ,tín dụng và các dich vụ ngân hang.iên của nhiều hiệp hội ngân hàng trong nước và thế giới như ngân hàng vieetj nam Bộ máy tổ chức của nhtmcp Hàng Hải như sau: Phòng kinh doanh. Phòng kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế. Phòng kế toán. Phòng nguồn vốn. Phòng thông tin điện toán. Phòng hành chính tổ chức. Phòng kho quỹ. Phòng kiểm soát. 2 phòng giao dịch. Cửa hàng kinh doanh vàng bạc. 12 quỹ tiết kiệm. Với đội ngủ trên 334 cán bộ và trên 60% có trình độ đại học và trên đại học. Nằm trên địa bàn quận HBT là một quận tương đối rộng, đông dân cư và tập trung khối sản xuất công nghiệp Trung ương và địa phương nhất là khu công nghiệp Sợi – Dệt –May và công nghiệp cơ khí, công ty thương nghiệp và nhiều loại hình kinh doanh khác như doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và các loại hình hợp tác xã cùng các hộ tư thương buôn bán nhỏ. Nhưng trên địa bàn này tỷ lệ các doanh nghiệp kinh doanh thương nghiệp, XNK, dịch vụ du lịch và khách sạn không nhiều. Đây chính là điều kiện thuận lợi về mặt thị trường cho ngân hàng, với những đặc điểm trên địa bàn như vậy NHTMCP Hàng Hải có nhiều thuận lợi về huy động vốn chủ yếu là huy động tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu và nguồn gửi của các tổ chức doanh nghiệp. Song cũng có những yếu tố không thuận lợi như khả năng tăng trưởng đầu tư tín dụng là rất khó khăn vì tốc độ chững lại trong những năm gần đây của khu vực sản xuất công nghiệp nhất là công nghiệp dệt may và cơ khí. Cùng với sự thăng trầm của kinh tế nước ta NHTMCP Hàng Hải nhiều lúc cũng phải đối mặt với những khó khăn nhất định, hạn chế khả năng huy động tiền vốn cũng như cho vay đối với các tô chức kinh doanh ở một số lĩnh vực như khách sạn, cơ khí... với sự cố gắng không ngừng đến nay NHTMCP Hàng Hải đã khẳng định được vị trí và vai trò của mình đối với kinh tế thủ đô, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng các mặt kinh doanh dịch vụ tiền tệ –ngân hàng, thường xuyên tăng cường nguồn vốn một cách có hiệu quả, thay đổi cơ cấu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế nhiều thành phần, tăng cường vật chất kỹ thuật để từng bước đổi mới công nghệ, góp phần vào quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Không dừng lại ở đó, hoạt động của ngân hàng không chỉ bó hẹp trong địa bàn quận HBT mà còn vươn ra bình đẳng kinh doanh với các ngân hàng khác trên địa bàn Hà Nội, hoà nhập với sự nghiệp đổi mới kinh tế, đổi mới hoạt động của nghành. Tập thể lãnh đạo và cán bộ nhân viên Sở giao dịch NHTMCP Hàng Hảiđã phấn đấu thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ do cấp trên giao phó với mục tiêu: Vì sự thành đạt của mọi người, mọi nhà, mọi doanh nghiệp, sự thành đạt trong doanh nghiệp cũng chính là sự thành đạt của ngân hàng. 1.2. Khái quát tình hình hoạt động của NHTMCP Hàng Hải trong những năm qua. Cùng với quá trình đổi mới kinh tế của đất nước ta, trong hơn 10 năm qua NHTMCP Hàng Hảiđã vượt qua những khó khăn trở ngại bằng ý chí vươn lên, phát huy nội lực tranh thủ ngoại lực, thực hiện nghiêm túc ,sự chỉ đạo của NHNN Hà Nội. Phương châm phát triển là an toàn- hiệu quả - cạnh tranh. Sở giao dịch đã đạt được những thành công nhất định cũng như mở rộng được các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng. 1.2.1. Hoạt động huy động vốn. Sở giao dịch đã luôn chủ động tích cực và không ngừng mở rộng mạng lưới giao dịch thông qua các quỹ tiết kiệm, giải quyết nhanh chóng và thông thoáng các thủ tục, thái độ phục vụ văn minh lịch sự nhằm thu hút tối đa nguồn tiền gửi của dân cư. Công tác tiết kiệm được thực hiện đúng quy trình, đảm bảo an toàn, đã được sự yên tâm tin tưởng của người gửi tiền. Song song với việc huy động vốn trong dân cư, Sở giao dịch đã chú trọng đến việc thu hút tiền gửi của các doanh nghiệp, thông qua việc khẳng định uy tín của mình bằng chất lượng dịch vụ không ngừng hoàn thiện với tiêu chí là: nhanh chóng, chính xác, thuận tiện cho khách hàng. Trong công tác huy động vốn, mặc dù lãi suất huy động vốn không cao so với mặt bằng chung của các ngân hàng thương mại khác hệ thống trên địa bàn, đặc biệt là lãi suất huy động USD giảm mạnh, nhưng thường xuyên coi trọng chất lượng dịch vụ kết hợp tốt chính sách khách hàng nên nguồn vốn huy động của Sở giao dịch tăng đều, đảm bảo được cân đối vốn cung cầu và tạo thế chủ động cho hoạt động kinh doanh. Công tác quản lý tiền gửi dân cư được Sở giao dịch thực hiện nghiêm túc thông qua công tác kiểm tra với nhiều hình thức. Qua đó đã khắc phục những sai sót, đảm bảo an toàn tuyệt đối nguồn tiền gửi của dân cư và các giấy tờ quan trọng, nâng cao uy tín của ngân hàng với khách hàng. Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động. Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Số tiền (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (tỷ đồng) Tỷ trọng (%) 1. Tiền gửi của các TCKT. 527 33,4% 643 35% 695 34,5% 2. Tiền gửi dân cư. 1052 66,6% 1194 65% 1318 65,5% 3. Tiền gửi kỳ phiếu. 0 - - - - - 4.Theo nội và ngoại tệ: * Tiền gửi VNĐ * Tiền gửi ngoại tệ (quy đổi VNĐ) 1154 425 73,1% 26,9% 1366 471 74,4% 25,6% 1519 494 75,5% 24,5% Tổng cộng 1579 1837 2013 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của NHTMCP Hàng Hải 1.2.2. Hoạt động cho vay và đầu tư kinh doanh khác. Cũng như mọi ngân hàng khác, NHTMCP Hàng Hải cũng thực hiện chức năng chính của mình là đi huy động tiền gửi của nền kinh tế để cho vay. Điều này có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội đó là tái sản xuất xã hội, còn đối với ngân hàng hoạt động cho vay có ý nghĩa sống còn vì có cho vay thì mới tạo ra lợi nhuận đảm bảo khả năng tồn tại của ngân hàng trong nền kinh tế. Xác định được điều quan trọng đó NHTMCP Hàng Hảikh đang từng bước mở rộng thị phần và đối tượng cho vay, đang từng bước tăng tổng dư nợ. Trong công tác đầu tư cho vay, với bối cảnh môi trường đầu tư hết sức khó khăn, Sở giao dịch đặt ra quyết tâm đưa dư nợ tăng trưởng một cách lành mạnh vững chắc. Đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, chủ động bám sát các doanh nghiệp, phân tích kỹ những khó khăn, thuận lợi, dự đoán những vấn đề có thể nảy sinh để hạn chế rủi ro, những đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp được vay vốn ngân hàng. Quan trọng hơn là đồng vốn ngân hàng thực hiện đúng chức năng: Góp phần thúc đẩy nền kinh tế thủ đô phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chất lượng được xác định là mục tiêu hàng đầu, do vậy Sở giao dịch đã tích cực mở rộng thị phần, nâng cao chất lượng các khoản cho vay, không ngừng hoạn thiện việc thực hiện quy trình tín dụng kết hợp nâng cao trình độ chuyên môn và đề cao công tác thẩm định, bảo đảm hiệu quả các dự án cho vay nên vốn tín dụng của dự án có hệ số an toàn cao. Bên cạnh đó theo chỉ đạo của NHTMCP Hàng Hải Việt Nam, để khắc phục những tồn tại cũ, làm lành mạnh các khoản nợ. Ban xử lý nợ tồn đọng đã được thành lập. Dựa trên cơ chế mới như: Thông tư liên bộ 03/2005/TTLB/NHNN-BCA-BTC-TCTD và các văn bản quy định khác, ban xử lý tài sản nợ tồn đọng đã nghiên cứu từng khoản nợ và đề ra những bước xử lý thích hợp, với những động thái tích cực đã tác động đến các khách hàng có nợ khó đòi. Kết quả đã làm tốt chỉ tiêu kế hoạch NHTMCP Hàng Hải. Trong năm 2006 thu nợ được 5456 triệu đồng, trong đó xử lý nợ tồn đọng 4923 triệu đồng. Tỷ lệ nợ quá hạn chỉ chiếm 1.09% trong tổng dư nợ và đầu tư trong năm 2006. Ngoài cho vay chính là các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh thì NHTMCP Hàng Hải còn thực hiện cho vay đối với sinh viên. Việc cho vay sinh viê._.n được triển khai thường xuyên và kịp thời hỗ trợ sinh viên trong quá trình học tập. Tính đến 31/12/2006 đã có 2218 sinh viên của các trường đại học: Bách Khoa, Xây Dựng, Viên Mở đã thực hiện vay vốn với tổng dư nợ 4,6 tỷ đồng ,tăng 35,3% so với cuối năm 2005. Cho vay cán bộ công nhân viên không có bảo đảm tài sản. Được thực hiện bảo đảm chế độ, cán bộ công nhân viên vay vốn chủ yếu là mua sắm phương tiện đi lại, sữa chữa nhà...đều trả nợ đúng cam kết. Đã có 470 cán bộ vay vốn với dư nợ là 3,6 tỷ đồng tăng 27% so với cuối năm 2004. Cơ cấu dư nợ các năm qua được thực hiện ở bảng sau: Bảng 2: Cơ cấu dư nợ (2004-2006) tại Sở giao dịch NHTMCP HàNG HảI. Đơn vị: triệu đồng CHỉ TIÊU 2004 2005 2006 Số tiền (Triệu đồng) Tỷ Trọng (%) Số tiền (Triệu đồng) Tỷ Trọng (%) Số tiền (Triệu đồng) Tỷ Trọng (%) 1.Phân theo kỳ hạn chovay: Ngắn hạn Trung và dài hạn Cho vay sinh viên Cho vay đặc biệt 413019 186700 2236 645 60,5 31 0,37 0,1 517358 275430 3500 9901 64,2 34,2 0,43 1,17 569966 301742 4600 27668 63,05 33,4 0,51 3,04 2.Phân theo TPKT Kinh tế QD Kinh tế ngoài QD 553000 49600 91,7 9,3 749756 56433 93,1 6,9 636673 267303 70,43 29,57 3. Phân theo nội ngoại tệ: VNĐ Ngoại tệ(quy đổi) 279100 323500 46,3 53,7 575738 230451 71,4 28,6 678502 225474 75,05 24,95 Tổng cộng 602600 806189 903976 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của NHTMCP Hàng Hải (2004-2006) 1.2.3. Công tác kinh doanh đối ngoại. Ngoài kinh doanh đối nội, hoạt động kinh doanh đối ngoại cũng đạt kết quả đáng khích lệ, hổ trợ tích cực cho việc tăng trưởng dư nợ. Chất lượng dịch vụ, trình độ năng lực của cán bộ nhân viên nhiều tiến bộ, đáp ứng tốt yêu cầu trong việc thực hiện xử lý các nghiệp vụ, do vậy Sở giao dịch đã làm vừa lòng khách hàng, lượng khách hàng tới giao dịch ngày càng tăng. Tuy nhiên kết quả còn hết sức khiêm tốn: Mua bán ngoại tệ: Doanh số mua ngoại tệ đạt 36,7 triệu USD, tăng 55% so với năm 2005. Doanh số bán ngoại tệ đạt 38.7 triệu USD, tăng 75,7% so với năm 2005.Năm qua nguồn ngoại tệ rất căng thẳng do tỷ giá USD tăng, áp lực về nguồn vốn ngoại tệ rất lớn. Tuy nhiên Sở giao dịch đã cố gắng tìm mọi biện pháp để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của doanh nghiệp. Thanh toán quốc tế: Công tác thanh toán quốc tế không ngừng được nâng cao, kiểm tra các bộ chứng từ nhanh chóng, chính xác, thường xuyên tư vấn tạo điều kiện thuận cho khách hàng, phong cách giao dịch văn minh lịch sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. - L/C nhập: 337 món = 20,5 triệu USD thanh toán 400 món = 24,7 triệu USD - L/ C xuất: 311 món =9,7 triệu USD tăng 48% so với năm 2005 Dịch vụ trả kiều hối: Luôn đảm bảo cho khách hàng nhanh chóng, thuận tiện. 2. Thực trạng công tác tín dụng ngắn hạn tại sở giao dịch ngân hàng thương mại cổ phần hàng hải. Kinh doanh tín dụng vẫn là nghiệp vụ chính của ngân hàng. Với quyết tâm cao, bằng nhiều giải pháp tích cực, kịp thời cùng với chủ trương, chính sách đúng đắn của Nhà nước, của ngành nhằm thống nhất một mục tiêu chung là phục vụ khách hàng một cách tốt nhất. Trong suốt thời gian hoạt động của mình NHTMCP Hàng Hảiluôn cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ được giao đồng thời nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Ngân hàng luôn tập trung đầu tư cho khách hàng truyền thống, tích cực thực hiện tốt công tác tiếp thị mở rộng thị phần, chủ động tìm kiếm thu hút khách hàng mới và tăng cường tiếp cận các dự án khả thi, dư nợ lành mạnh tăng trưởng cao. 2.1. Tình hình huy động vốn: Huy động vốn và cho vay luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Có huy động được vốn mới có nguồn để cho vay và ngược lại mở rộng và nâng cao chất lượng sử dụng vốn thì huy động mới có hiệu quả. Trên cơ sở đó nhtmcp hàng hảiđã luôn chủ động tích cực quan tâm phát triển công tác huy động vốn dưới mọi hình thức, để đảm bảo quy mô nguồn vốn tiếp tục tăng trưởng theo kế hoạch xác định. Bằng những biện pháp đúng đắn thích hợp như: - Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn qua ngân hàng, thực hiện tốt những chính sách khuyến khích lợi ích khách hàng mở tài khoản và thanh toán. Ưu đãi lãi suất tiền gửi cho các đơn vị có số dư tài khoản tiền gửi lớn. - Bên cạnh đó là công tác huy động vốn tiền gửi dân cư được phát triển với mạng lưới các quỹ tiết kiệm hợp lý, thái độ phục vụ văn minh lịch sự. Thông qua công tác tự kiểm tra kiểm soát đảm bảo an toàn tiền gửi dân cư, đã tạo được truyền thống uy tín cao cho nhtmcp hàng hải. Đặc biệt đã triển khai thực hiện tốt quy trình giao dịch bằng máy vi tính cho 4 quỹ tiết kiệm và hướng tới mục tiêu vi tính hoá hệ thống quỹ tiết kiệm nhằm bảo đảm lợi ích của người gửi tiền, tạo thuận lợi cho khách hàng. Do vậy có thể thấy mặc dù lãi suất trong các năm qua liên tục giảm nhưng Sở giao dịch vẫn làm tốt công tác huy động vốn, nguồn vốn tăng liên tục và ổn định, đáp ứng thoả mãn nhu cầu hoạt động đầu tư tín dụng cua ngân hàng.Xem xét cơ cấu nguồn vốn trong 3 năm qua từ 2004 đến năm 2006 : Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn tại Sở giao dịch NHTMCP HàNG HảI Chỉ Tiêu 2004 2005 2006 Số tiền % tỷ trọng %thay đổi Số tiền % tỷ trọng %thay đổi Số tiền % tỷ trọng %thay đổi TG các TCKT 527 33,4 +32,7 643 34,9 +22,2 695 34,5 8,2 TG tiết kiệm 1052 66,6 +9 1195 65,1 +13,8 1318 65,5 10,2 TG kỳ phiếu 0 0 -100 0 0 0 0 0 Khác 0 0 0 0 0 0 0 0 (Theo nguồn báo cáo của NHTMCP Hàng Hải) Nhìn vào bảng ta có thể thấy rằng khu vực tiền gửi dân cư luôn tăng lên qua các năm tuy nhiên tốc độ tăng trưởng là không đều có thể là do lãi suất huy động tiền gửi của dân cư có xu hướng giảm dần do khách hàng muốn dùng tiền gửi của mình để đầu tư hoặc chi tiêu nhiều hơn. Tuy nhiên nguồn tiền gửi dân cư luôn chiếm tỷ trọng lớn 66,6%(năm 2004), 65,1%(năm 2005), 65,5%(năm 2006) của tổng nguồn huy động. điều này cho thấy ngân hàng đã có một vị trí đáng kể trong khu vực dân cư, nguồn tiền gửi của dân cư chủ yếu vào loại tiền gửi có kỳ hạn với tỷ trọng lên tới. Điều này giúp ngân hàng có sử dụng một lượng vốn lớn và tương đối ổn định, ngân hàng có thể lường trước được thời gian rút vốn của khách hàng, từ đó có kế hoạch sử dụng vốn hợp lý. Bên cạnh đó nguồn huy động từ khu vực tổ chức kinh tế ngày một tăng cao điều này tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng vì các doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ của ngân hàng nhiều hơn. Hơn nữa các khoản tiền gửi của các tổ chức này chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn với lãi suất huy động thấp, từ đây có thể giúp ngân hàng tăng thêm lợi nhuận cũng như tăng thêm sức cạnh tranh cho ngân hàng. 2.2. Tình hình sử dụng vốn của Sở giao dịch nhtmcp hàng hải. Bảng 4: Bảng theo dõi tình hình dư nợ của Sở giao dịch NHTMCP Hàng Hải năm (2001-2006). Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng dư nợ 350248 385342 413141 602600 806189 903976 Ngắn hạn 296687 302487 322389 415900 521623 569966 Trung dàI hạn 53597 82855 90725 186700 284566 334010 (nguồn: báo cáo dư nợ NHTMCP Hàng Hải2001-2006) Trong bảng cân đối kế toán của nhtmcp hàng hảithì hoạt động tín dụng và đầu tư đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng. Trong tổng dư nợ tín dụng thì tín dụng ngắn hạn lại chiếm tỷ trọng lớn. Như vậy tín dụng ngắn hạn có vai trò quan trọng đối với ngân hàng. Với đặc điểm của của tín dụng ngắn hạn đó là vòng quay của tiền nhanh, do đó trong điều kiện nền kinh tế của chúng ta đang trong giai đoạn phát triển và đang trong giai đoạn đổi mới nên có nhiều vấn đề mâu thuẫn và chưa bắt kịp với thế giới dẫn đến nền kinh tế phát triển chưa ổn định. Mặt khác NHTMCP Hàng Hải nằm trong một khu vực đông dân cư, nơi tập trung rất đông các doanh nghiệp sản xuất, thương mại đặc biệt các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, sản xuất mang tính thời vụ. Với những đặc điểm vĩ mô và vi mô như vậy thì tín dụng ngắn hạn không những đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng mà còn bảo đảm an toàn, khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. Đó là cơ sở để tín dụng ngắn hạn tại NHTMCP Hàng Hảiphát triển. Cơ cấu tín dụng ngắn hạn của Sở giao dịch nhtmcp hàng hải: Đặc điểm chung trong cơ cấu dư nợ cho vay nói chung và cho vay ngắn hạn nói riêng là doanh nghiệp quốc doanh hay thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn hơn thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Điều có thể giải thích là do lịch sử hình thành và nhóm khách hàng truyền thống của ngân hàng. Từ khi hình thành mục đích chính của Sở giao dịch NHtmcp Hàng Hảinóichung là tài trợ vốn tín dụng để phát triển khu vực công nghiệp và thương nghiệp của nền kinh tế bao cấp từ đó hình thành nhóm khách hàng truyền thống của ngân hàng là các doanh nghiệp nhà nước, mặt khách ngân hàng mở rộng cho vay đối với thành phần này vì đảm bảo an toàn hơn vì trong trường hợp làm ăn thua lỗ thì vẫn được nhà nước bù lỗ. Ngoài ra, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn làm ăn hiệu quả vẫn chưa cao, quy mô lại rất nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Để thấy rõ điều này chúng ta hãy xem bảng sau: Bảng 5: Báo cáo cho vay ngắn hạn theo khu vực kinh tế. CHỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 VNĐ USD VNĐ USD VNĐ USD 1. Doanh số cho vay 561783 364228 881178 248459 960432 181978 - Ngoài quốc doanh 13706 0 44422 0 58644 0 - Quốc doanh 548077 364228 836756 248459 901788 181978 2. Doanh số thu nợ 589764 249072 691188 332315 899028 192589 - Ngoài quốc doanh 11214 0 32063 0 55522 0 - Quốc doanh 578550 249072 659125 332315 843506 192589 3. Dư nợ ngắn hạn 240315 169247 435854 85769 493000 76966 - Ngoài quốc doanh 8727 0 9952 0 22850 0 - Quốc doanh 231588 169247 425902 85769 470150 76966 Nhìn bảng trên ta có thể thấy rằng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ ngắn hạn. Năm 2004 chiếm 2,1%, năm 2005 tỷ trọng này là 1,88% và năm 2006 tỷ trọng này là 4%. Theo tôi đây là hạn chế của Sở giao dịch nhtmcp hàng hải, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì khu vực này càng ngày càng năng động trong hạch toán kinh doanh của mình. Đây là một thị trường tiềm năng mà ngân hàng nên hướng tới. Mặt khác tỷ trọng dư nợ cho vay VNĐ lớn hơn ngoại tệ do nhu cầu thanh toán ngoại tệ trong khu vực thấp và chỉ tập trung ở khu vực kinh tế quốc doanh mà thôi. Tuy nhiên những năm gần đây ngân hàng mở rộng phạm vi đầu tư sang những lĩnh vực khác mà không chỉ tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, đây là chiến lược hợp lý của ban lãnh đạo ngân hàng. 3. Chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch NHtmcp hàng hải. Khi tham gia vào nền kinh tế thị trường mục tiêu lợi nhuận được đánh giá là mục tiêu hàng đầu. Các tổ chức tín dụng cũng không loại trừ điều này, trong đó hoạt động tín dụng là những hoạt động đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng, do đó để đánh giá chất lượng tín dụng người ta cũng dùng lợi nhuận như một thước đo chủ yếu. Bảng 6: Tình hình thu lãi trong hoạt động tín dụng tại Sở giao dịch Nhtmcp hàng hải. Đơn vị : đồng. Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Tổng doanh thu 93350907502 118894061509 128884820737 Thu lãi từ hoạt động cho vay 35452660037 46271883117 62814036012 Lãi cho vay ngắn hạn 27362435520 32397546214 39765384240 Lãi sau thuế 16923996472 3781079502 24132429060 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của NHTMCP Hàng Hải (2004-2006) Năm 2004 tổng doanh thu của ngân hàng là 93350907502 đồng trong đó lãi từ hoạt động cho vay là 35452660037 đồng, chiếm 38% trong tổng doanh thu. Năm 2005 lãi từ hoạt động cho vay là 46271883117 đồng chiếm khoảng 40% trong tổng doanh thu. Mặc dù lãi từ hoạt động cho vay năm 2005 tăng so với năm 2004 khoảng 30,5% nhưng về tỷ trọng thu lãi từ hoạt động cho vay so với tổng doanh thu tăng rất nhỏ khoảng hơn 2% bởi vì ngân hàng mở rộng đầu tư vào những lĩnh vực khác : liên doanh liên kết, đầu tư vào chứng khoán... Tình hình doanh thu của cho vay ngắn hạn cũng tăng lên nhưng cũng không đáng kể vì trong giai đoạn này ngân hàng mở rộng cho vay và đầu tư tín dụng dài hạn. Trong năm 2006 mặc dù tổng doanh thu chỉ tăng khoảng 8% so với năm 2005 nhưng doanh thu từ hoạt động cho vay lại tăng khoảng 35,7%, bởi vì trong giai đoạn này ngân hàng đã mở rộng cho vay, cho vay ngắn hạn cũng được mở rộng điều này thể hiện ở doanh thu từ lãi cho vay ngắn hạn năm 2006 tăng 22,7% so với năm 2006. điều này cho thấy rằng nguồn thu lãi chủ yếu là hoạt động cho vay xuất phát từ hoạt động thu lãi ngắn hạn, từ đó tạo niềm tin chất lượng tín dụng ngắn hạn của Sở giao dịch NHtmcp Hàng Hải là khá tốt và được nâng cao qua các năm. Bảng 7 Dư nợ quá hạn. Đơn vị: Triệu đồng Chỉ Tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Doanh số Tỷ trọng(%) Doanh số Tỷ trọng(%) Doanh số Tỷ trọng(%) < 6 tháng 251 0,65% 454 1,23% 5 0,016% 6 tháng- 12 tháng 592 1,54% 0 0% 0 0% > 12 tháng(khó đòi) 13970 36,35% 14910 40,5% 10528 33,037% Nợ chờ xử lý 3401 8,85% 3401 9,2% 2905 9,116% Nợ khoanh 20219 52,61% 18050 49% 18429 57,831% Nguồn: Báo cáo dư nợ của NHTMCP Hàng Hải (2004-2006) Nếu nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy rằng nợ quá hạn ngắn hạn tại NHTMCP Hàng Hải chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ quá hạn. Nếu năm 2004 dư nợ quá hạn dưới 12 tháng là 843 triệu đồng với tỷ trọng là 2,19% trong tổng dư nợ quá hạn ngắn hạn thì năm 2005 dư nợ quá hạn dưới 12 tháng chỉ còn 454 triệu đồng và tỷ trọng trong tổng nợ quá hạn chỉ còn 1,23%. Sang năm 2006 dư nợ quá hạn dưới 12 tháng là 5 triệu và tỷ trọng là 0,016% trong tổng dư nợ quá hạn ngắn hạn, đây là dấu hiệu đáng mừng đối với chi nhánh, cho thấy rằng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng ngày càng được nâng lên. Mặc dù vậy cũng không thể đánh giá chất lượng tín dụng tại ngân hàng là hoàn toàn tốt. Bởi vì, nhìn vào bảng ta thấy doanh số và tỷ trọng của nợ khó đòi vẫn còn cao. Nhưng hầu hết nợ khó đòi chỉ phát sinh ở những khoản cho vay trung và dài hạn. Một đặc điểm cũng cần phải xem xét đó là nợ khoanh. Nợ khoanh là những khoản nợ mà khi đến hạn khách hàng không trả được nợ và ngân hàng đồng ý khoanh nợ lại hoặc gia hạn nợ chờ khi doanh nghiệp có khả năng trả nợ thì mới đòi nợ. Nợ khoanh chủ yếu thực hiện đối với doanh nghiệp nhà nước và do chính sách nhà nước quy định. Nợ khoanh ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, việc thu hồi vốn chậm làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Để có thể đưa ra những giải pháp hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn, ta cần xem xét những nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn tại NHTMCP HàNG HảI năm 2006 vừa qua: Bảng 8: Nợ quá hạn ngắn hạn theo nguyên nhân, quý 4 năm 2006. Đơn vị: Triệu đồng Loại hình DN Nợ QH SX kinh doanh thua lỗ Giải thể ngừng sản xuất Thiên tai, địch hoạ Không có người nhận nợ Các nguyên nhân khác. Tổng số Nợ khó đòi TPKT nhà nước 4154 4154 0 0 0 0 4154 TPKT tập thể 2535 2535 2535 0 0 0 0 TPKT tư nhân 0 0 0 0 0 0 0 TPKT cá thể 14 4 0 0 0 0 4 TPKT hổn hợp 0 0 0 0 0 0 0 DN 100% vốn nước ngoài 0 0 0 0 0 0 0 DN liên doanh 0 0 0 0 0 0 0 KTNN đầu tư ra nước ngoài 0 0 0 0 0 0 0 Tổng số 6703 6693 2535 0 0 0 4158 Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của NHTMCP hàng hải Chúng ta có thể đánh giá khả quan về tình hình nợ quá hạn tại NH tmcp hàng hảI mặc dù nợ khó đòi vẫn chiếm tỷ lệ cao trong tổng nợ quá hạn, khách hàng không trả nợ đúng hạn chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp nhà nước. Do đó trong trường hợp xấu nhất những khách hàng này không trả đúng nợ thì vẫn được nhà nước bù lỗ. Mặt khác nguyên nhân chủ yếu gây ra nợ quá hạn không phải là sản xuất kinh doanh thua lỗ. Tổng số nợ quá hạn năm 2006 là 13443 triệu đồng chiếm khoảng 3,1% trong tổng dư nợ. Về tình hình xử lý nợ quá hạn của NHtmcp hàng hảI có thể tổng kết như sau: - Đối với các đơn vị có khả năng thu hồi ngân hàng đều có hướng xử lý đúng đắn, thường xuyên tác động bằng văn bản, đôn đốc các doanh nghiệp trả nợ theo cam kết, cụ thể là: Công ty Hồng Hà đang cho thuê nhà để thu nợ dần. Tư nhân Vân Hồng đang tìm khách hàng để bán tài sản mà ngân hàng đã thu giữ. Đối với các đơn vị kinh doanh thua lỗ không có khả năng thanh toán. Ngân hàng tiếp tục xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ và tiến hành xiết nợ đối với một số doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên những tài sản thế chấp vẫn không thu hồi được đầy đủ nợ vì do sự biến động giá của thị trường. Như vậy, nhìn chung trong những năm qua, bên cạnh việc mở rộng tăng trưởng dư nợ NHtmcp hàng hải đã chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên nợ quá hạn vẫn là một vấn đề đáng quan tâm, gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng ngắn hạn của ngân hàng. Để giảm nợ quá hạn, tăng hiệu quả sử dụng vốn, NHtmcp hàng hải cần tìm biện pháp thích hợp trong thời gian tới. Bảng 9: Vòng quay vốn tín dụng của NHTMCP Hàng Hải Chỉ tiờu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Doanh số thu nợ 589764 691188 899028 Dư nợ bình quân 507870 704394 855082 Vòng quay vốn tín dụng 1,16 0,98 1.,05 Nguồn:báo cáo kết quả kinh doanh củaNHTMCPHàng hải Nhìn vào bảng trên liệu ta có thể thấy vòng quay vốn tín dụng là không dều. Mdù doanh số thu nợ cac năm đều tăng nhưng do dư nợ bình quân năm sau còn cao hơn năm trước.điều đó dẫn đến vòng quay vốn tín dụng thấp. Đây cũng là một yếu tố tác động đến chất lượng hoạt động tín dụng nhưng không chỉ đánh giá chất lượng tín dụng qua chỉ tiêu nay. 4. Đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn của Sở giao dịch NHtmcp hàng hải 4.1. Những kết quả đạt được Trong suốt quá trình hoạt động, các khoản vay ngắn hạn của Sở giao dịch NHTMCP Hàng Hảiđều được thực hiện một cách có hiệu quả. Điều này không chỉ đem lại lợi nhuận cho khách hàng mà còn giúp khách hàng hoạt động có hiệu quả. Chính vì vậy, ngân hàng đã xây dựng được một đội ngũ khách hàng vững mạnh, có quan hệ tin tưởng nhau. Doanh số cho vay ngắn hạn liên tục tăng lên qua các năm, nhưng tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn của khu vực này luôn ở mức thấp, đảm bảo được an toàn cho ngân hàng, giúp ngân hàng có một thế đứng vững mạnh trên thị trường ngân hàng. Việc mở rộng cho vay ngắn hạn nhằm sử dụng tốt nguồn vốn huy động nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng. Hiện nay ngân hàng nhà nước chủ trương trích 20% số vốn huy động ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, do đó việc ngân hàng liên tục tăng doanh số cho vay ngắn hạn trong những năm qua cho thấy đường lối đúng đắn trong quản lý ngân hàng. 4.2. Những nguyên nhân và hạn chế trong công tác tín dụng ngắn hạn của Sở giao dịch NHTMCP HàNG HảI. 4.2.1. Hạn chế từ phía ngân hàng Chất lượng tín dụng chưa cao, còn nhiều khoản vay phải gia hạn: Mặc dù hiện nay tỷ lệ nợ quá hạn của các khoản vay ngắn hạn ở mức trung bình nhưng hầu hết các khoản vay ngắn hạn đều phải gia hạn nợ, thậm chí có những khoản vay phải gia hạn nhiều lần. Điều này gây ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của Sở giao dịch NHTMCP Hàng Hải và lảm giảm vòng quay của vốn. Tình trạng thiếu thông tin. Trước nhu cầu ngày một cao nhằm giảm rủi ro tới mức thấp nhất. Ngân Hàng Nhà Nước đã thành lập trung tâm rủi ro tín dụng để cung cấp hồ sơ khách hàng. Do đó các doanh nghiệp nói chung đều có quan hệ với một tổ chức tín dụng nào đó, nên khi vay họ bắt buộc phải cung câp hồ sơ của mình như báo cáo tài chính, kết quả kinh doanh, khả năng thanh toán, tình hình vay nợ... theo yêu cầu của ngân hàng cho vay, sau đó ngân hàng cho vay phải cung cấp những thông tin cho trung tâm rủi ro tín dụng của NHNN. Khi NHTM có khách hàng mới thì thông qua trung tâm rủi ro tín dụng sẽ biết được khách hàng rõ hơn. Nếu doanh doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, có tình hình tài chính tồi tệ không tiếp tục ở ngân hàng đã sàng ngân hàng khác thì qua trung tâm này ngân hàng sẽ có hồ sơ của họ, như vậy sẽ tránh được rủi ro cho ngân hàng mới. Đây là sự chuyển biến tích cực, phần nào đáp ứng nhu cầu hiện nay trong nền kinh tế thị trường, giúp cho việc nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro. Tuy vậy, những thông tin đó chưa thể đủ trong quá trình xét duyệt món vay. Thông tin mà trung tâm tín dụng đưa ra các số liệu mang tính chất tĩnh, chưa có sự phân tích đánh giá mang tính chất động về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó, NHTMCP Hàng Hảilại chưa có bộ phận chuyên nghiên cứu vấn đề này. Các cán bộ trực tiếp đảm nhận nhiệm vụ liên quan đến thu thập xử lý thông tin thì chưa được huấn luyện nghiệp vụ đó để có thể tra cứu từ các nguồn khác, mới chỉ thực hiện việc truyền nhận thông tin trong hệ thống theo chương trình đã cài sẳn, chưa đủ khả năng nắm bắt, khai thác, sử dụng các thông tin có ích trên thị trường. Do thiếu thông tin cần thiết nên việc xét duyệt cho vay nhiều khi chưa chính xác như: không biết rỏ tình hình thực tế của doanh nghiệp, sản xuất kinh doanh thua lỗ nhưng vẫn cho vay, hoặc vay để trả nợ ngân hàng theo hình thức đảo nợ. Và do thiếu thông tin thương mại về tình hình giá cả, cung cầu biến động của thị trường nên không lường trước các rủi ro. Như vậy trong điều kiện không nắm bắt được đầy đủ, chính xác các thông tin về khách hàng cũng như không nắm bắt đầy đủ các thông tin có liên quan thì rủi ro xảy ra là điều kho tránh khỏi. Quy trình nghiệp vụ tín dụng phụ thuộc quá nhiều vào đánh giá chủ quan của cán bộ tín dụng. Thực tế hiện nay để thực hiện một món vay thì cán bộ tín dụng là người thực hiện tất cả các công đoạn từ A đến Z. Cán bộ tín dụng phải thu thập thông tin về khách hàng vay vốn, phân tích đánh giá khách hàng, kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp các tài liệu khách hàng cung cấp, phân tích tính khả thi, khả năng trả nợ của phương án, kiểm tra, phân tích về biện pháp bảo đảm tiền vay,về tính pháp lý, giá trị và khả năng xử lý tài sản bảo đảm này khi cần thiết. Sau khi thẩm định về khách hàng vay vốn và các vấn đề liên quan đến phương án dự án vay vốn, cán bộ tín dụng lập tờ trình thẩm định và đề nghị giải quyết cho vay và là người chịu trách nhiệm về kết quả phân tích trong tờ trình, có ý kiến đề xuất về việc cho vay hay không, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ kèm theo tờ trình cho lãnh đạo phòng nghiệp vụ tín dụng. Khi nhận được hồ sơ, cán bộ tín dụng thẩm định lại hồ sơ và đưa ra quyết định, nếu cho vay thì trình giám đốc và giám đốc là người cuối cùng xét duyệt cho vay. Trường hợp được vay, cán bộ tín dụng sẽ thông báo cho khách hàng để soạn thảo hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, theo dõi phát tiền vay, theo dõi kiểm tra việc sử dụng vốn vay, xử lý nợ khi cần thiết. Với quy trình thẩm định như trên thì trách nhiệm của cán bộ tín dụng là quá lớn và họ sẽ không thực hiện cho vay mà không tránh được mọi khiếm khuyết. Bởi vì một dự án, một hợp đồng vay vốn liên quan đến rất nhiều lĩnh vực nên cán bộ tín dụng không phải lúc nào cũng am hiểu hết. Chất lượng công tác thẩm định chưa cao, trình độ cán bộ còn nhiều thiếu sót, chưa đáp ứng được những nhu cầu hiện tại: Tại ngân hàng cán bộ tín dụng chưa phân công một cách chuyên sâu, một cán bộ được phân công quản lý một số khách hàng. Đây là những khách hàng thuộc nhiều loại hình cũng như nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Do đó, sự phân chia như vậy chưa hợp lý vì không phát huy được hiệu quả của công tác thẩm định. Nếu mỗi cán bộ tín dụng quản lý một loại hình kinh doanh sẽ giúp họ có thời gian tìm hiểu về loại hình này cũng như có điều kiện thuận lợi để so sánh tình hình hoạt động của các đơn vị cùng nghành nghề sản xuất kinh doanh. Hơn nữa công tác thẩm định chưa theo một quy trình cụ thể. Ngân hàng chưa có một văn bản pháp lý cụ thể về các quy trình này dẫn đến việc cán bộ tín dụng phải thực hiện theo kinh nghiệm của mình. điều này đôi khi dẫn đến nhiều bước trong quá trình thẩm định bị bỏ qua làm ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tín dụng tại ngân hàng. Trong quá trình phân tích các thông tin tài chính, công tác thẩm định mới chỉ dừng lại đơn thuần ở việc đánh giá, so sánh các chỉ tiêu, hệ số kỳ này với kỳ trước. Chứ chưa có được hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, hay rất khó có được tình hình hoạt động của một đơn vị khác cùng loại hình để tiến hành so sánh. Nguyên của thực trạng này là chúng ta chưa có một cơ quan hay văn bản pháp luật nào quy định về vấn đề này. Trong nhiều trường hợp do hạn chế về thời gian nên nhiều chỉ tiêu cần thiết không được tính toán. Mặc dù ngân hàng tmcp Hàng Hải đã đưa ra một số các định mức để cán bộ tín dụng tiến hành đánh giá trong quá trình phân tích các hệ số tài chính song các định mức này được thực hiện với mọi nghành nghề kinh doanh gây nên sự bất cập trong quá trình đánh giá. Trong quá trình thẩm định cán bộ tín dụng phải cáng đáng luôn cả việc đánh giá giá trị tài sản thế chấp. Điều này sẽ làm tăng rủi ro cho ngân hàng trong trường hợp phát mại tài sản vì cán bộ tín dụng chưa có những hiểu biết chuyên môn để có thể đánh giá chính xác giá trị của tài sản dẫn đến ngân hàng có thể cho vay quá tỷ lệ an toàn. hơn nữa do bối cảnh môi trường cạnh tranh gay gắt, ngân hàng chỉ có thể tiến hành thẩm định trong một thời gian ngắn. Sau khi cán bộ tín dụng thẩm định còn phải qua sự thẩm định của trưởng phòng kinh doanh và giám đốc, vì vậy cán bộ thẩm định phải đưa ra kết luận trong một thời gian từ 2 đến 3 ngày, quá ít ỏi và đòi hỏi một trình độ chuyên môn cao. đây là một hạn chế bất cập của ngân hàng. Việc chấp hành quy trình tín dụng chưa nghiêm, kiểm soát không thường xuyên. Việc áp dụng các văn bản về cơ chế, chính sách chưa sát thực tế, chưa đúng với chỉ đạo của cơ quan ban hành văn bản. Khi thực thực hiện các văn bản còn khó khăn vướng mắc, chưa được xử lý kịp thời hiệu quả. Vẫn còn tình trạng cán bộ tín dụng xét duyệt vốn đã bỏ qua các nguyên tắc tín dụng, thực hiện không đúng quy trình nghiệp vụ cho vay. Có cán bộ tín dụng muốn cho vay được nhiều nên đã không kiểm tra kỹ lưỡng trước, trong và giám sát tốt khi cho vay nên để khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. Khi phát hiện ra khách hàng có khó khăn trong việc hoàn trả nợ thì cán bộ tín dụng đã không có ngay các biện pháp phù hợp để kịp thời xử lý và trong nhiều trường hợp đã gia hạn sai chế độ. Bên cạnh đó việc kiểm tra kiểm soát lại không thường xuyên, nhiều khi chỉ mang tính hình thức nên không phát hiện kịp thời các sai phạm hoặc có phát hiện nhưng lại không có biện pháp xử lý hữu hiệu. Chiến lược khách hàng còn hạn chế, chưa sử dụng tốt chiến lược Marketing trong ngân hàng. Các cán bộ tín dụng còn chưa có tính chủ động, sáng tạo cùng khách hàng tìm kiếm phương án kinh doanh có hiệu quả mà còn thụ động trong quá trình phục vụ khách hàng. Khi các điều kiện vay chưa đáp ứng đủ, các cán bộ tín dụng chưa chủ động cùng khách hàng tìm kiếm cách tháo gỡ mà còn trông chờ kế hoạch khách hàng tự đề xuất. Phong cách thái độ ứng xử mỗi khi tiếp cận còn thiếu ân cần, tận tụy đồng thời không chủ động tìm kiếm khách hàng mới. 4.2.2. Hạn chế từ phía doanh nghiệp. Hạn chế về vốn: Nước ta là một nước đang phát triển, nên nhu cầu về vốn để phát triển nền kinh tế là rất lớn, các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh rất cần vốn để phát triển, tham gia vào các phương án sản xuất kinh doanh, cũng như các dự án đầu tư. Muốn phát triển thì các doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt các doanh nghiệp nhà nước không chỉ ngồi trông chờ vào nguồn ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, vốn tài trợ cho các dự án phần lớn là vốn vay ngân hàng. Nếu ngân hàng đặt lợi ích của toàn xã hội lên trên lợi ích của ngành sẽ phải đáp ứng vốn tín dụng quá khả năng nội tại của doanh nghiệp, vì thế sẽ làm mất bản chất vốn có của tín dụng là vốn bổ sung. Trong một chừng mực nhất định ngân hàng sẽ phải hạ thấp điều kiện vay vốn, khi đó vốn vay chiếm tỷ lệ cao đặt ngân hàng vào thế không an toàn, bởi vì các khoản vay có được hoàn trả hay không phụ thuộc vào khả năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, khi doanh nghiệp gặp rủi ro sẽ tác động trực tiếp tới hoạt động của ngân hàng, nếu tình hình xấu hơn, doanh nghiệp bị phá sản, ngân hàng có nguy cơ mất vốn. Năng lực quản lý còn hạn chế: Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều cơ hội kinh doanh cũng như có rất nhiều rủi ro luôn luôn rình rập, môi trường kinh doanh luôn đầy tính cạnh tranh. Điều này đỏi hỏi năng lực quản lý của các doanh nghiệp phải cao, nhưng đây cũng là một hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung khi tham gia vào nền kinh tế thị trường, dẫn đến các doanh nghiệp hoạt động không hiêu quả thậm chí còn thua lỗ. Điều này làm ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng. Khả năng sử dụng vốn kém hiệu quả sẽ ảnh tới chất lượng khoản vay. 4.2.3 . Các nhân tố khách quan khác. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường ngân hàng: Hiện nay nước ta có nhiều ngân hàng cùng hoạt động: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh... Tại khu Hai Bà Trưng Sở giao dịch NHTMCP Hàng Hải có các đối thủ cạnh tranh như: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn HBT. Ngân hàng cổ phần kỹ thương. Sở giao dịch cổ phần Sài gòn – Thương tín. Ngân hàng cổ phần Sài gòn – Công thương. Ngân hàng cổ phần á châu. Phòng giao dịch ngân hàng Ngoại thương. Quỹ tín dụng TW. Phòng giao dịch ngân hàng Đầu tư và Phát triển. Ngoài ra còn nhiều đối thủ khác nữa trong hệ thống và ngoài hệ thống. Mặc dù tín dụng ngắn hạn của Sở giao dịch nhtmcp Hàng Hải lớn mạnh hơn các ngân hàng cùng hệ thống nhưng không vì thế mà ngân hàng lơ là trong hoạt động kinh doanh của mình. Đặc biệt hiện nay các ngân hàng nước ngoài có ưu thế lớn hơn hẳn ngân hàng ở trình độ quản lý cũng như quy mô về vốn, uy tín trên thị trường thế giới, và sức mạnh cạnh tranh rất cạo những điều này làm ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của ngân hàng. Môi trường pháp lý không thuận lợi: Hệ thống văn bản ban hành liên quan đến hoạt động ngân hàng chưa đồng bộ và chưa phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Hệ thống pháp luật ở nước ta tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa thực sự khoa học, vừa thiếu lại không đồng bộ, thậm chí còn nhiều điểm chồng chéo, mâu thuẫn với nhau giữa các văn bản luật và dưới luật, việc ban hành về cấp độ thì chưa phù hợp, gây khó khăn trong việc tổ chức và thực hiện, cụ thể là : - Thể lệ tín dụng ngắn hạn là văn bản cốt lõi do Thống đốc NHNN ban hành dưới dạng quyết định trong khi đó, thể lệ cho vay đối với hộ sản xuất chỉ là một bộ phận của tín dụng trung và dài h._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36686.doc