Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở Giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam

Lời nói đầu Trong một vài năm gần đây, thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước khởi xướng và lãnh đạo, cùng với kinh tế Nhà nước, kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng khẳng định rõ vai trò quan trọng của mình trong sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và ngành ngân hàng nói riêng.Tuy nhiên, thành phần kinh tế này vẫn còn nhiều bất cập trong quá trình hoạt động. Đối với ngành Ngân hàng, sự phát triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần mở ra một thị trường mới cho việc mở rộng và

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở Giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng trưởng hoạt động tín dụng và kết quả kinh doanh của ngân hàng, góp phần tăng thế cạnh tranh của các ngân hàng trong xu thế hiện nay.Và ngược lại, tín dụng Ngân hàng có tác động tích cực trong việc hỗ trợ thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện liên tục, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Trong những năm qua, mặc dù hệ thống Ngân hàng Việt nam nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam đã nỗ lực tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế này nhưng đây là một lĩnh vực khá phức tạp nên khi thực hiện còn gặp nhiều khó khăn và bộc lộ nhiều hạn chế. Với tư cách là sinh viên được đào tạo chuyên ngành Ngân hàng-Tài chính taị trường đại học KTQD, xuất phát từ nhận thức trên, sau một thời gian thực tập tại Sở giao dịchI-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam em xin mạn phép được chọn đề tài " Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam" để bảo vệ luận văn tốt nghiệp với mong muốn góp phần tổng kết và khái quát lý luận từ thực tiễn, phục vụ cho việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng và công cuộc CNH-HĐH đất nước nói chung. Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu đề tài gồm: Chương 1:Vai trò của Tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt nam. Chương 2: Thực trạng tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Với thời gian và khả năng, trình độ còn nhiều hạn chế nên em không tránh khỏi những sơ xuất trong quá trình hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp này.Em kính mong các thầy cô giáo và các bạn đọc cùng thông cảm và đóng góp ý kiến giúp em có thêm những kinh nghiệm quý báu để em có thể thực hiện tốt hơn trong những lần viết tiếp sau. Chương 1 vai trò của Tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt nam 1.1. kinh tế ngoài quốc doanh và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở việt nam. Trước năm 1986, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất với hai hình thức chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Trên thực tế, kinh tế ngoài quốc doanh đã không được thừa nhận và làm cho nền kinh tế mất cân đối và rơi vào trạng thái trì trệ trong một thời gian dài. Từ Đại hội VI (1986), Đảng và Nhà nước đã khẳng định và nhất quán thực hiện chiến lược nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị thường có sự quản lý của Nhà nước định hướng XHCN. Theo đó sở hữu tư nhân được công nhận, kinh tế ngoài quốc doanh được tồn tại và phát triển bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Hiện nay, nhất là sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Quốc hội khoá X đã thông qua sửa đổi Hiến pháp thì kinh tế ngoài quốc doanh càng được tôn trọng và đối xử bình đẳng trong nền kinh tế. 1.1.1.Khái niệm và phân loại. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.Các đơn vị, doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công tyTNHH, công ty Cổ phần, công ty liên doanh và các đơn vị theo hình thức Hợp tác xã. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, kinh tế ngoài quốc doanh đã có sự phát triển nhanh chóng và đạt một số kết quả nhất định. Với chính sách khuyến khích và hỗ trợ hoạt động cho thành phần này, số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta đã tăng lên nhanh chóng. Năm 1991 mới chỉ có 123 doanh nghiệp với số vốn điều lệ là 63 tỷ đồng thì đến năm 1996 đã có 26.091 doanh nghiệp với số vốn điều lệ lên tới 8.257 tỷ đồng. Đến năm 1998, kinh tế ngoài quốc doanh đã có 2.990 hợp tác xã, 24.667 doanh nghiệp tư nhân và 1.217.300 hộ kinh tế cá thể.Và theo thống kê 2002,cả nước có 3.218 hợp tác xã, 32.985 doanh nghiệp tư nhân ,1.326 công ty cổ phần. ở nước ta hiện nay,xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp,thành phần kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể và cá nhân kinh doanh. Công ty là loại hình doanh nghiêp hoạt động theo luật công ty,là đơn vị kinh tế do các cá nhân bỏ vốn thành lập theo luật doanh nghiệp,trách nhiệm quyền hạn cũng như lợi nhuận được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.Công ty có hai loại: *Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm sau: - Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. - Cổ đông có thể là một tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế tối đa. - Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định pháp luật về chứng khoán. - Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty. *Công ty trách nhiệm hữu hạn là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần góp vốn được ghi trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được thực hiện tự do. Việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người không phải là thành viên phải được sự nhất trí của các thành viên đại diện với ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty. *Hợp tác xã là đơn vị kinh tế do nhiều lao động cùng nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh. Hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã và trên nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro với mọi thành viên nhằm kết hợp sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề sản xuất kinh doanh và đời sống. Cơ quan cao nhất là Đại hội xã viên, cơ quan quản lý các hoạt động của hợp tác xã là ban chủ nhiệm hợp tác xã được xã viên bầu theo luật hợp tác xã. *Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh. *Hộ kinh doanh cá thể là một thực thể kinh doanh do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không thường xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh. Bộ phận kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển và từng bước hoàn thịên đã và đang thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế.Tuy nhiên,sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh cần sự quan tâm rất nhiều của Đảng và Nhà nước và sự nỗ lực của mọi ngành, mọi cấp. 1.1.2.Đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. - Những đặc điểm về khả năng tài chính Do sự phát triển của thành phần kinh tế này mới được thừa nhận hơn 15 năm và hoạt động trong môi trường luật pháp đang được tạo dựng nên kinh tế ngoài quốc doanh còn nhiều vướng mắc trong quá trình phát triển. Mặc dù trong những năm gần đây được Đảng và Nhà nước khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng nhìn chung độ tập trung vốn của thành phần này chưa cao. Phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta đều có quy mô nhỏ và chủ yếu thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu như kinh tế Nhà nước vốn phần lớn được hỗ trợ từ ngân sách thì kinh tế ngoài quốc doanh thì không nhận được sự hỗ trợ này mà nguồn vốn kinh doanh chủ yếu được khai thác từ các nguồn: vốn tự có, vốn huy động trên thị trường bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các nguồn vốn đi vay. Do vậy, khả năng tài chính của kinh tế ngoài quốc doanh còn nghèo nàn, vốn tự có nhỏ bé không thể đáp ứng được cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Điều này thể hiên rõ do nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, sự tích luỹ tư bản không được nhiều do đó vốn tự có khi đưa vào sản xuất kinh doanh không đáp ứng đủ. Với cách giải quyết huy động trên thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải có quy mô lớn, có uy tín trên thị trường, hơn nữa cũng yêu cầu có một thị trường vốn hoàn chỉnh với một hệ thống các tổ chức trung gian đủ mạnh để có khả năng đảm đương việc bảo lãnh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty, nó còn phụ thuộc vào trình độ dân trí và sự sôi động của thị trường thứ cấp. ở nước ta, hình thức này vẫn chưa được áp dụng rộng rãi mà chỉ dừng ở việc phát hành cổ phiếu trong nội bộ công ty cổ phần. Kinh tế ngoài quốc doanh mới hình thành với quy mô còn nhỏ, uy tín còn hạn chế do đó chưa đáp ứng được các yêu cầu trên. Vì vậy chỉ còn cách là vay các Ngân hàng thương mại, đây là nguồn vốn dồi dào có thể đáp ứng được quá trình sản xuất kinh doanh của kinh tế ngoài quốc doanh. Mặc dù hạn chế ở khả năng tài chính song họ hoàn toàn có quyền tự chủ trong kinh doanh và với sự năng động và khả năng nhạy bén,thành phần kinh tế này lại sử dụng vốn hết sức hiệu quả, do đó có sức cạnh tranh lớn trên thị trường. - Đặc điểm về trình độ, công nghệ sản xuất. Do hạn chế về vốn nên năng lực sản xuất thấp kéo theo trình độ kỹ thuật công nghệ của kinh tế ngoài quốc doanh còn lạc hậu, chủ yếu vẫn là kỹ thuật công nghệ sử dụng nhiều lao động. Theo số liệu điều tra của Viện nghiên cứu kinh tế Trung ương năm 2000 thì chỉ có 26% doanh nghiệp và 21% số công ty sử dụng công nghệ tương đối hiện đại, 39,5% doanh nghiệp và 21,2% công ty sử dụng công nghệ cổ truyền, 36,5% doanh nghiệp và 61,3% công ty kết hợp cả công nghệ hiện đại và cổ truyền. Công nghệ lạc hậu là một trong những nguyên nhân chính làm cho các sản phẩm kém sức cạnh tranh và thị phần hàng hoá bị giới hạn trong khuôn khổ chật hẹp. Tuy nhiên đây cũng là đặc điểm chung của các doanh nghiệp nước ta, kể cả doanh nghiệp Nhà nước phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế còn kém phát triển,thiếu năng động,mang nặng tính thuần nông của nước ta. -Đặc điểm về trình độ quản lý, kinh doanh, kỹ năng người lao động. Thành phần xuất thân của các chủ doanh nghiệp thuộc kinh tế ngoài quốc doanh có từ nhiều nguồn khác nhau: nông dân, thợ thủ công, tầng lớp trí thức. Hơn nữa, kinh tế nước ta mới chuyển sang kinh tế thị trường nên những kiến thức về kinh tế, những hiểu biết về quy luật kinh doanh không phải ai cũng có thể nắm bắt được. Điều này trước hết gây khó khăn trong việc điều hành doanh nghiệp cho chính những người làm chủ. Họ gặp nhiều hạn chế, vướng mắc trong công tác tổ chức nhân sự, trong việc hoạch định kế hoạch cũng như phân tích dự án, các cơ hội đầu tư.Bên cạnh đó,đội ngũ người lao động phần lớn xuất thân từ dân nghèo, nông thôn, trình độ học vấn còn nhều hạn chế nên kĩ năng cũng như kỉ luật lao động còn thấp,chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho công việc. Việc thực hiện Pháp lệnh về tài chính và thống kê của Nhà nước trong các doanh nghiệp này chưa được thực hiện nghiêm túc. Phần lớn, các doanh nghiệp hạch toán kế toán chủ yếu bằng kinh nghiệm bản thân. Do đó, họ gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng vì không chứng thực được năng lực kinh doanh cũng như tình hình tài chính của bản thân một cách rõ ràng. -Đặc điểm về môi trường kinh doanh. Các chính sách chế độ của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ, chưa có quy định rõ ràng để các doanh nghiệp có thể yên tâm hơn khi đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh và giảm bớt rủi ro trong hoạt động. Các văn kiện của Đảng các chủ trương của Nhà nước và Chính phủ đã nêu rõ và công nhận vai trò quan trọng của kinh tế ngoài quốc doanh trong cơ chế thị trường nhưng việc cụ thể hoá thành quy định và hướng dẫn chi tiết thi hành để tạo môi trường thuận lợi đối với kinh tế ngoài quốc doanh đến nay vẫn còn nhiều hạn chế. Tính ổn định của chính sách kinh tế- tài chính còn thấp, thiếu tính kích thích mà chủ yếu là chính sách thuế và pháp luật còn nặng tính ràng buộc về nguyên tắc, chế độ. Chính sách thuế còn nhiều ưu đãi, chiếu cố cho thành phần kinh tế Nhà nước, chưa đảm bảo công bằng, bình đẳng và sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Tình trạng còn nhiều đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh phải ngụy trang núp bóng dưới danh nghĩa kinh tế Nhà nước hòng mong thu được lợi nhuận cao là bằng chứng rõ ràng về sự bất bình đẳng trong cư xử ,thể hiện ở việc ưu đãi quá mức đối với kinh tế Nhà nước. Các chính sách Nhà nước chưa thực sự khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh tăng cường sử dụng công nghệ mới, đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật. Thiếu chính sách bảo hộ quyền lợi chính đáng của người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân về các chế độ người lao động BHXH, BHYT trong thời gian làm việc, khi về già. Thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà, nhũng nhiễu.Tình trạng quan liêu, cửa quyền trong quản lý kinh tế nói chung và đối với kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng vẫn đang là nhân tố cản trở không nhỏ đối với sản xuất kinnh doanh.Mặt khác, môi trường sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm cũng gặp nhiều khó khăn do sức cạnh tranh còn kém. Tóm lại, các đặc điểm nói chung và môi trường kinh doanh của thành phần kinh tế này nói riêng còn nhiều bất cập, ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế này.Do đó, cần có sự quan tâm đúng mực của các ngành các cấp và đặc biệt là của ngành ngân hàng tạo để điều kiện cho họ trong việc tiếp cận vốn ngân hàng phục vụ nhu cầu chính đáng cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.1.3.Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam. Trong xu thế mở cửa hội nhập khu vực và quốc tế, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được thừa nhận và tạo điều kiện để phát triển. Kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế nước ta hiện nay.Điều này được thể hiện ở: 1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo điều kiện khai thác tối đa nguồn lực của đất nước. Sau hơn 15 năm đổi mới, mặc dù đạt được nhiều thành tựu nhưng trình độ nền kinh tế nước ta vẫn còn thấp trong khi tiềm năng phát triển của nền kinh tế còn rất lớn, kinh tế Nhà nước không thể khai thác và tận dụng hết được những tiềm năng này. Vì vậy cần phải phát triển kinh tế ngoài quốc doanh mới có thể khai thác tốt các nguồn lực của đất nước. Việc khuyến khích thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển sẽ huy động được một lượng vốn lớn đang nằm trong dân, tạo điều kiện cho năng lực con người được giải phóng và phát huy mạnh mẽ. Mọi cá nhân, tổ chức đều cố gắng phát huy tối đa khả năng của mình, tìm kiếm, khai thác các nguồn lực vì lợi ích của chính bản thân. Đó là động lực kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển. 1.1.3.2. Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội. Việt nam là một nước có dân số trẻ, lực lượng lao động đông đảo, kinh tế Nhà nước không thể tạo ra đầy đủ công ăn việc làm cho tất cả. Hơn nữa trải qua một giai đoạn nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung, bao cấp đã bộc lộ rõ những mặt non kém của công tác quản lý và sử dụng lao động cho nên với chủ trương giảm biên chế, kinh tế ngoài quốc doanh là đối trọng để thu hút lao động dôi ra từ các đơn vị, cơ quan Nhà nước và hành chính sự nghiệp. Bên cạnh đó, do tính đa dạng trong loại hình của kinh tế ngoài quốc doanh, nó có mặt trong tất cả mọi nghành nghề lĩnh vực, có mặt ở cả nông thôn và thành thị, có thể dễ dàng thành lập bởi một cá nhân, một gia đình, hay một số cổ đông liên kết lại dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần cùng với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương đối nhiều lao động. Do vậy, kinh tế ngoài quốc doanh là nơi tạo việc làm nhanh nhất, dễ dàng hơn so với kinh tế Nhà nước. 1.1.3.3. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển nhanh chóng, đóng góp ngày càng lớn vào tỷ trọng GDP của quốc gia . Mặc dù còn lép vế hơn so với kinh tế Nhà nước song sự đóng góp vào GDP của kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua đã chứng tỏ được vai trò cần thiết của thành phần kinh tế này đối với sự phát triển của đất nước.Điều này được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Tổng sản phẩm trong nước phân theo ngành kinh tế Đơnvị:tỷđồng Thành phần kinh tế Năm2000 % Năm2001 % Năm2002 % 1. Kinh tế Nhà nước 2.Kinh tế ngoài quốc doanh 117.818 176.727 40 60 120.840 224.416 35 65 124.732 267.865 32 68 Tổng số 294.545 100 345.256 100 392.597 100 Nguồn:Niên giám thống kê 2002 Với tỷ trọng GDP tăng dần qua các năm: 60% năm 2000, 65% năm 2001 và 68% năm 2002, hoạt động của kinh tế ngoài quốc doanh đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ,khác với kinh tế Nhà nước, thành phần kinh này phải tự thân vận dộng để vươn lên mà không hề có một sự ưu đãi nào từ phía Nhà nước, do đó, họ đã cố gắng phát huy mọi nhân tài vật lực nhằm khẳng định vị trí của mình trên thị trường.Trong mấy năm qua, sự phát triển mạnh mẽ loại hình kinh tế này đã góp phần làm tăng GDP, tăng ngân sách Nhà nước, qua đó thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. 1.1.3.4 Kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra sự cạnh tranh, góp phần tạo ra sự phát triển sôi động của nền kinh tế. Thực tế cho thấy sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh đã làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Bởi vì, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề làm cho thị trường hàng hoá trở nên phong phú, đa dạng, sôi động, tạo ra sự thu hút. Trước sự tồn tại và phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp Nhà nước buộc phải phân tích, hoạch định chiến lược kinh doanh cho phù hợp hơn nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Điều này càng khẳng định rằng việc phát triển kinh tế ngoài quốc doanh không những không làm suy yếu kinh tế Nhà nước mà còn thúc đẩy thành phần này phát triển mạnh mẽ hơn. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đóng vai trò hỗ trợ cho kinh tế Nhà nước phát triển, giải quyết những yêu cầu của nền kinh tế đặt ra mà kinh tế quốc doanh không đảm nhận hết. Kinh tế ngoài quốc doanh vừa là đối thủ cạnh tranh quyết liệt vừa là đối tác làm ăn trong quá trình cung cấp sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm, cung cấp đầu vào cho kinh tế Nhà nước. Sự kết hợp sản xuất- tiêu thụ giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra một dây chuyền sản xuất mới của xã hội, giúp cho thời gian sản xuất tiêu thụ được rút ngắn và sản phẩm sản xuất ra được hoàn thiện với chất lượng ngày càng tốt hơn. Như vậy, sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã thúc đẩy và tăng cường các mối quan hệ trong nước, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế buộc các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể nói riêng phải luôn đổi mới hoàn thiện để tồn tại và phát triển. Kinh tế ngoài quốc doanh còn là môi trường thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài. Trong nền kinh tế mở cửa hiện nay, giao lưu kinh tế giữa các nước phát triển mạnh, nếu không có một chính sách đúng đắn thì chúng ta sẽ không thể khai thác hết được tiềm năng của thành phần kinh tế này. 1.1.3.5 Sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh góp phần vào quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đưa ra mục tiêu đến năm 2010, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Bên cạnh đó cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2005 có khoảng 60% doanh nghiệp Nhà nước sẽ cổ phần hoá. Như vậy với vai trò của mình, trong những năm tới kinh tế ngoài quốc doanh sẽ được mở rộng và là nơi tập trung vốn, nhân lực vào các ngành kinh tế đòi hỏi nhiều hàm lượng tri thức như công nghệ thông tin, điện tử... cũng như có thể lấp đầy những khoảng trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần nhiều vốn, có mức lợi nhuận không cao mà các nhà đầu tư lớn ít quan tâm tới. Đây cũng là quan điểm của Đảng ta trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. 1.2.Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế ngoài quốc doanh. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng của ngân hàng được sử dụng như là công cụ khai thác và động viên có hiệu quả nhất lượng tiền nhàn rỗi vào quá trình sản xuất xã hội,phù hợp với quá trình vận động liên tục của vốn. ở nước ta, tín dụng ngân hàng không chỉ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển các thành phần kinh tế nói chung mà còn phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng, góp phần vào sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. 1.2.1 Khái niệm Tín dụng ngân hàng Tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá. Nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, ngày nay tín dụng được hiểu theo ngôn ngữ thông thường là quan hệ vay mượn dựa trên những nguyên tắc: - Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản... - Người đi vay chỉ sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay. - Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lãi vay. Trong quá trình phát triển lâu dài của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển thông qua các hình thức: tín dụng Nhà nước, tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng. Tín dụng Ngân hàng là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển quyền sử dụng tạm thời một lượng vốn giữa Ngân hàng với khách hàng trong một thời gian nhất định và sau thời gian đó lượng vốn được hoàn trả cộng thêm phần lãi trên lượng vốn theo một lãi suất nhất định. Tín dụng Ngân hàng được biểu hiện qua các quan hệ sau: quan hệ tín dụng Ngân hàng với kinh tế Nhà nước, giữa Ngân hàng với kinh tế NQD, với các cá nhân, quan hệ tín dụng giữa các nước trên thế giới. Trong nền kinh tế, Ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, Ngân hàng đồng thời vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động trong xã hội. Trái lại với tư cách là người cho vay, Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và các cá nhân. Khác với tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức hàng hóa, còn tín dụng Ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ bao gồm tiền mặt và bút tệ - chủ yếu là bút tệ. 1.2.2 Phân loại tín dụng ngân hàng Có nhiều cách phân loại tín dụng theo những tiêu thức khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lí của ngân hàng, sau đây là một số cách phân loại phổ biến hiện nay: Căn cứ vào thời gian cho vay, tín dụng gồm có: + Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay dưới 12 tháng, tín dụng ngắn hạn bao gồm các loại: cho vay bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ; chiết khấu chứng từ có giá; cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống với hộ tư nhân, cá thể. + Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay từ 12 tháng đến 60 tháng. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án có quy mô vừa và nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh. + Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn như: xây dựng nhà ở, các máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, đầu tư xây dựng các nhà máy, xí nghiệp. Căn cứ vào mục đích sử dụng, tín dụng bao gồm: + Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá. + Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cung cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại, các hàng hoá tiêu dùng... Tín dụng tiêu dùng được cấp phát dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hoá. Căn cứ vào sự bảo đảm cho vay, tín dụng bao gồm: + Tín dụng không có bảo đảm (tín chấp): là loại tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba để đảm bảo cho khả năng hoàn trả của khoản vay. Việc đi vay chỉ dựa vào uy tín của người vay hoặc bảo lãnh bằng uy tín của một bên thứ ba là các doanh nghiệp hay các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. + Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng mà khi Ngân hàng cấp tín dụng đòi hỏi người vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba (có thể bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba hoặc bảo lãnh của tổ chức tín dụng khác) để đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay. Đây là loại tín dụng được tất cả các Ngân hàng áp dụng trong việc cấp tín dụng cho khách hàng, đặc biệt là khoản vay lớn, các khoản đầu tư trung, dài hạn. Căn cứ vào đối tượng, tín dụng bao gồm: + Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cấp để bổ sung vốn lưu động cho các tổ chức kinh tế, tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh như mua nguyên vật liệu, hàng hoá dự trữ, chi cho các chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tín dụng vốn lưu động thường được sử dụng để bù đắp mức vốn lưu động tạm thời thiếu hụt. Thời gian cho vay vốn ngắn hạn thường dưới 12 tháng. + Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp để hình thành vốn cố định. Loại tín dụng này thường dùng để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. Thời hạn cho vay đối với loại tín dụng này trên 12 tháng. Căn cứ vào hình thức ,tín dụng bao gồm: +Chiết khấu:Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đên hạn(hoặc một giấy nợ).Đay chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. +Cho vay:Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian nhất định. Có nhiều loại cho vay: Cho vay thấu chi Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định.Giới hạn naỳ được gọi là hạn mức thấu chi. Cho vay trực tiếp từng lần. Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên,không có điều kiện để được cấp hạn mức thâu chi.Mỗi lần vay,khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay.Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay,xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân,thời hạn trả nợ,lãi suất và yeu cầu đảm bảo nếu cần.Mỗi món vay được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau. Cho vay theo hạn mức Là nghiệp vụ tín dụng mà theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng.Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kỳ.Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Cho vay luân chuyển Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa.Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng.Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ.hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một hoặc vài năm. Cho vay trả góp Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho taì sản cố định hoặc hàng lâu bền.Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. Cho vay gián tiếp Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp.Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp-là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. +Bảo lãnh:là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình thông qua uy tín của ngân hàng,qua đó để thu lợi. +Cho thuê:Là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định.Sau thời gian nhất định, khác hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn.Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ(hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi.Hết hạn thuê,khách hàng có thể mua lạo tài sản đó. 1.2.3. Quy trình tín dụng Quy trình tín dụng là tập hợp nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, các bước phải tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một món vay. Thông thường, để đảm bảo hiệu quả tín dụng thì quy trình tín dụng phải tuân theo các bước sau: 1. Khai thác khách hàng cũ, tìm kiếm dự án, khách hàng mới. 2. Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn. 3. Phân tích thẩm định khách hàng và phương án vay vốn. 4. Ra quyết định cho vay, thông báo đến khách hàng. 5. Kiểm tra, hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. 6. Kiểm soát trong khi cho vay, phát tiền vay. 7. Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay, theo dõi hoạt động của dự án. 8. Thu hồi vốn và xử lý nợ. 9. Thanh lý hợp đồng tín dụng. Quy trình tín dụng là bước quan trọng để thực thi chính sách tín dụng. Thực vậy, tuân theo các bước của quy trình tín dụng, Ngân hàng sẽ tìm kiếm, lựa chọn được khách hàng phù hợp, có uy tín, đạo đức. Khi áp dụng quy trình tín dụng cần phải sáng tạo mở rộng, nâng cao nghiệp vụ để trở thành kỹ năng, nghệ thuật cho vay của Ngân hàng và năng lực của từng cán bộ, phù hợp với yêu cầu đa dạng của thị trường. 1.2.4. Vai trò của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường nói chung và đối với sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt nam nói riêng. 1.2.4.1. Vai t._.rò của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng của Ngân hàng được sử dụng như là công cụ khai thác và động viên có hiệu quả nhất lượng tiền nhàn rỗi vào quá trình tái sản xuất xã hội, phù hợp với quá trình vận động liên tục của vốn. ở mỗi nước, do trình độ phát triển kinh tế và chiến lược kinh tế - xã hội khác nhau cho nên vai trò tín dụng Ngân hàng được thể hiện và có những định hướng khác nhau. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nhiệm vụ được đặt ra là tín dụng Ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nói chung và hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng. -Tín dụng Ngân hàng thực hiện quá trình huy động các nguồn vốn nhàn rỗi đưa vào đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và góp phần tái sản xuất mở rộng nền kinh tế. Vốn là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh, kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh cũng như khi một loại hình sản xuất kinh doanh mới ra đời. Trong bất kỳ nền kinh tế hàng hoá nào cũng có nguồn tiền nhàn rỗi và chưa sử dụng trong mọi tổ chức, thành phần kinh tế. Tín dụng Ngân hàng đã tập trung các nguồn tiền đó thông qua hoạt động huy động vốn của mình theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, các tổ chức kinh tế có thể mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng để phục vụ cho hoạt động giao dịch với các tổ chức khác và tiền gửi trong tài khoản của các đơn vị luôn phải có số dư nhất định. Nhờ vậy mà Ngân hàng có thể huy động những nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế - xã hội và nguồn dự trữ chưa dùng đến của ngân sách Nhà nước, hình thành nên nguồn vốn. Từ đó, ngân hàng tiến hành phân phối các nguồn đó một cách có kế hoạch, đáp ứng nhu cầu của quá trình tái sản xuất mở rộng. - Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất, là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế mũi nhọn. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường thông qua các công cụ tài chính tín dụng để sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên và sức lao động. Muốn phát huy thế mạnh về tài nguyên để chuyển hướng cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội thì không thể thiếu vai trò của tài chính tiền tệ. Trong đó, tín dụng Ngân hàng tạo nguồn vốn bằng cách huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt và phù hợp với chỉ số trượt giá của đồng tiền để đầu tư vào các ngành, các công trình trọng điểm... Bên cạnh đó, Ngân hàng còn tập trung tín dụng tài trợ cho những ngành kinh tế mũi nhọn mà sự phát triển của các ngành này sẽ tạo cơ hội, cơ sở thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí, xây dựng cơ sở hạ tầng... - Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ. Bằng việc nhận và trả tiền gửi, mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng với quy mô ngày càng lớn và có tính chất thường xuyên, liên tục. Hoạt động thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế diễn ra qua hệ thống NHTM đã làm tăng tốc độ luân chuyển hàng hoá và luân chuyển tiền tệ. Ngoài ra, sự phát triển của các nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng đi đôi với việc thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông góp phần ổn định lưu thông tiền tệ. Đây cũng là một trong những phương thức để kiềm chế lạm phát. - Tín dụng Ngân hàng thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế. Sự vận động của tín dụng Ngân hàng cũng như việc quản lý tập trung thống nhất công tác tín dụng đã tạo tiền đề khách quan cho tín dụng Ngân hàng thực hiện chức năng trên. Thông qua việc thực hiện phân phối lại tiền tệ trên nguyên tắc hoàn trả, phục vụ tái sản xuất mở rộng. Tín dụng Ngân hàng phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén mối quan hệ giữa quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp với tình hình hoạt động của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, Nhà nước có biện pháp kịp thời phát huy những nhân tố tích cực và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Quá trình phản ánh và kiểm soát của tín dụng Ngân hàng là không thể tách rời nhau trong chức năng này. Do đó, nó được sử dụng như một đòn bẩy kinh tế không thể thiếu được trong công tác quản lý tài chính, kiểm soát các quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội thực hiện và củng cố chế độ hạch toán kinh tế. - Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá, việc phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền với nền kinh tế thế giới. Trong mối quan hệ kinh tế đó, sự hợp tác bình đẳng hai bên cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang được phát triển đa dạng cả về nội dung và hình thức, về chiều sâu lẫn chiều rộng. Đó là nhân tố hết sức quan trọng tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế mỗi nước, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt nam. Tín dụng Ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện liên kết kinh tế các nước với nhau bởi ngân hàng là tổ chức đặc thù trong kinh doanh tiền tệ ,là trợ thủ đắc lực trong đầu tư vốn và kinh doanh xuất nhập khẩu. ở nước ta, trong thời gian qua, tín dụng Ngân hàng đã góp phần đáng kể vào quá trình hợp tác kinh tế với nhiều nước trên thế giới. 1.2.4.2.Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam. Trong lịch sử phát triển của mình, để khai thác được vốn, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã dựa vào ba nguồn chủ yếu: vốn tự có, thông qua thị trường tài chính và thông qua tín dụng Ngân hàng. Thực tế đã chứng minh rằng, với số vốn tự có nhỏ bé của mình, kinh tế ngoài quốc doanh không thể tự mình đổi mới công nghệ thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư vào những lĩnh vực ngành nghề đang được ưa chuộng. Còn thông qua thị trường tài chính thì rủi ro lại rất lớn và điều kiện tham gia rất khó khăn. Vậy muốn phát triển kinh tế ngoài quốc doanh chỉ có thể dựa vào nguồn vốn Ngân hàng. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn dồi dào và an toàn nhất. Vì vậy, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh. - Tín dụng Ngân hàng là kênh cung cấp vốn chủ yếu đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Tại thị trường tín dụng chính thức, hoạt động của các HTX tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân chủ yếu là để hỗ trợ, giải quyết nhu cầu sinh hoạt và vốn phát triển kinh tế gia đình. Mặt khác, thị trường vốn dài hạn, thị trường chứng khoán ở nước ta mới trong giai đoạn sơ khai. Điều kiện tham gia thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không phải là dễ dàng. Vì vậy, kênh cung cấp vốn chủ yếu và hết sức quan trọng để các thành phần kinh tế này phát triển là vốn tín dụng của các NHTM. Do đó, để kinh tế ngoài quốc doanh phát triển nhất thiết phải có sự hỗ trợ vốn từ các NHTM. - Tín dụng Ngân hàng góp phần tăng cường quy mô vốn lưu động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thúc đẩy việc sản xuất phát triển. Do đặc điểm của loại hình kinh tế ngoài quốc doanh thường có chu kỳ sản xuất và quay vòng vốn nhanh, đòi hỏi thường xuyên bổ sung vốn lưu động vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó, sự có mặt của vốn vay dưới hình thức tín dụng ngắn hạn là nguồn vốn bổ sung vốn lưu động rất quan trọng đối với thành phần này. Trong nền kinh tế thị trường, hàng hoá của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất ra không phải lúc nào cũng bán được hết và không phải lúc nào cũng thanh toán được tiền ngay, trong khi sản xuất không thể dừng lại. Để việc kinh doanh tiến hành bình thường, liên tục và có hiệu quả, tự doanh nghiệp khó có thể giải quyết được, cần thiết phải thông qua tín dụng Ngân hàng để bổ sung vốn lưu động cho chính mình. - Tín dụng Ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị. Các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng đều có đặc điểm chung là trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu, tuổi thọ tài sản cố định khá cao và được tân trang lại. Do đó sản phẩm làm ra có giá thành cao, chất lượng hạn chế, khó cạnh tranh được với các hàng ngoại nhập, dẫn đến kinh doanh bị thua lỗ, phá sản. Do vậy, nhu cầu đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp ngày càng trở nên bức xúc. Với khả năng của mình, Ngân hàng hoàn toàn có thể hỗ trợ vốn, giúp các doanh nghiệp từng bước tháo gỡ khó khăn, thích nghi với thị trường thông qua hoạt động cho vay trung và dài hạn. Ngoài ra, Ngân hàng cũng có thể giúp các doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ thông qua hình thức thuê mua. Đây là hình thức cho thuê máy móc, thiết bị để phục vụ sản xuất, được ngân hàng mua theo yêu cầu của bên thuê (các doanh nghiệp). Hình thức này thực hiện theo thể lệ tín dụng thuê mua được Ngân hàng Nhà nước Việt nam ban hành kèm theo quyết định số 149/QĐ- NH5 ngày 27/5/1995. Bên thuê có quyền tự chọn bên cung ứng hàng, thương lượng thoả thuận chủng loại, giá cả, việc bảo hiểm, cách thức và hình thức giao hàng, việc lắp đặt, bảo lãnh và những vấn đề khác liên quan đến tài sản thuê. Nhờ đó, các doanh nghiệp có nhiều điều kiện hơn trong việc đầu tư trang thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. - Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả hơn. Vai trò này bắt nguồn từ chức năng giám sát của Ngân hàng với tư cách là người chủ sở hữu cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn. Ngân hàng căn cứ vào các nguyên tắc tín dụng, hướng các doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, đồng thời đôn đốc các chủ doanh nghiệp vay vốn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Trong quá trình giám sát, kiểm tra, Ngân hàng phát hiện những nhược điểm cần khắc phục, giúp các doanh nghiệp xác định đúng phương hướng sản xuất kinh doanh, nhằm hạn chế khả năng rủi ro có thể xả ra. Nhờ đó, đồng vốn của doanh nghiệp được sử dụng hiệu quả, lợi nhuận thu được cao hơn, quy mô vốn tự có tăng lên, tạo điều kiện mở rộng và hiện đại hóa công nghệ. Tóm lại, tín dụng ngân hàng có một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh. Với định hướng của Đảng và Nhà nước, các NHTM đang xây dựng một chiến lược về thị trường nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh, phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. 1.3.Chất lượng tín dụng ngân hàng. 1.3.1.Quan điểm về chất lượng tín dụng. Một cách chung nhất, chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng các yêu cầu hợp lí của khách hàng có lựa chọn,đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.Nói cách khác, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng đối với sự phát triển của môi trường bên ngoài,thể hịên sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Cụ thể hơn, chất lượng tín dụng chính là chất lượng các món vay,được đánh giá là có chất lượng tốt khi vốn vay được khách hàng sử dụng có mục đích,phục vụ cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo trả nợ ngân hàng đúng hạn,bù đắp được chi phí và có lợi nhuận, có nghĩa là ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế,vừa đem laị hiệu quả xã hội. Dựa vào lợi ích các bên tham gia trong quan hệ tín dụng,có thể xem xét khái niệm chất lượng tín dụng trên ba khía cạnh: Thứ nhất, xét từ góc độ khách hàng (người gửi tiền,người vay vốn), chất lượng tín dụng là sự thỏa mãn yêu cầu hợp lí của họ với lãi suất,giá cả hợp lí,thủ tục đơn giản đảm bảo thu hút khách hàng nhưng vẫn tuân thủ những quy định tín dụng, phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế xã hội,góp phần lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp và cải thiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ hai, xét từ giác độ ngân hàng, chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi mức độ giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng, phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường,tuân thủ nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.Đó chính là sự gia tăng hợp lí của chỉ tiêu lợi nhuận,mức dư nợ và tỉ lệ nợ quá hạn phải ở mức chấp nhận được đồng thời đảm bảo sự cân đối về cơ cấu giữa nguồn vốn ngắn,trung và dài hạn trong nền kinh tế. Thứ ba, xét từ giác độ kinh tế xã hội, tín dụng phải phục vụ sản xuất kinh doanh,tạo việc làm cho người lao động thêm sẩn phẩm cho xã hội,góp phần tăng trưởng kinh tế,huy động và khai thác có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế,thu hút tối đa nguồn vốn nhần rỗi trong nước,tranh thủ vốn vay nước ngoài phục vụ cho sự phát triển.Vì vậy, chất lượng tín dụng cũng phải được xem xét một cách tổng thể bằng nhiều chỉ tiêu như:tốc độ tăng trưởng kinh té,tỉ lệ thất nghiệp. 1.3.2.Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. 1.3.2.1.Nhóm các chỉ tiêu có thể định lượng. a)Tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản Có(Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu) Tỷ lệ này được đo bởi công thức: Vốn tự có Tỷ lệ vốn tự có trên = -------------------------- tổng tài sản Có Tổng tài sản Có -Vốn tự có ở đây xác định gồm có hai phần: Vốn điều lệ của ngân hàng và quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng. -Tổng tài sản Có: Là các loại tài sản Có của ngân hàng đã được điều chỉnh theo mức độ rủi ro của từng loại tài sản(bao gồm cả các cam kết ngoại bảng của ngân hàng).Việc quy định mức độ rủi ro đối với từng loại tài sản Có tùy thuộc vào đặc điểm riêng cụ thể của từng nước và từng thời kỳ khác nhau, phản ánh tỷ lệ rủi ro dự đoán đối với tài sản có của ngân hàng. -.Về cơ bản,một ngân hàng có hai sự lựa chọn khi xác dịnh quy mô vốn tự có.Ngân hàng có thể tăng vốn tự có khi các rủi ro dự đoán gia tăng hoặc có thể đầu tư vào các tài sản tương đối ít rủi ro.Việc quyết định quy mô vốn của ngân hàng không dễ dàng nhưng rất quan trọng,một ngân hàng muốn phát triển phải mở rộng cơ sở vốn của nó nhưng đồng thời phải giữ được mức rủi ro nhất định. b)Tình hình cho vay , dư nợ và thu nợ NQD. Chỉ tiêu này được phản ánh qua các con số về doanh số cho vay, doanh số dư nợ và doanh số thu nợ đối với kinh tế ngoài quốc doanh-Doanh số cho vay NQD là số tiền cho vay của ngân hàng đối với khách hàng thuộc kinh tế ngoài quốc doanh trong một thời kỳ. -Dư nợ tín dụng NQD là số tiền mà khách hàng thuộc kinh tế ngoài quốc doanh còn nợ ngân hàng tại một thời điểm. DN tín dụng NQD = DN tín dụng NQD + DS cho vay NQD kỳ trước trong kỳ -Doanh số thu nợ tín dụng NQD là số tiền ngân hàng thu nợ khách hàng thuộc kinh tế ngoài quốc doanh trong một thời kỳ. Thông qua đó, đánh giá được chất lượng tín dụng của ngân hàng đối với thành phần này thông qua sự tăng trưởng hay giảm sút của các con số. c)Tỷ lệ Nợ quá hạn NQD Nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng là khi đến thời hạn thanh toán khoản nợ, người đi vay không có khả năng thực hiện ngay nghĩa vụ của mình đối với người cho vay.Nợ quá hạn là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo, trước hết, nó vi phạm đặc trưng của tín dụng về tính thời hạn,tính hoàn trả và lòng tin của người cấp tín dụng với người nhận tín dụng. Tỷ lệ Nợ quá hạn NQD được đo bởi công thức sau: Tổng số dư nợ quá hạn NQD Tỷ lệ Nợ quá hạn NQD = ------------------------------ ------ *100% Tổng dư nợ cho vay NQD Về cơ bản, Tỷ lệ Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh các khoản tín dụng có vấn đề - những khoản cho vay quá hạn mà ngân hàng không thu hồi được.Mặc dù các khoản tín dụng có vấn đề là kết quả của nhiều yêú tố nhưng cơ bản là kết quả của sự không sẵn lòng chi trả của khách hàng vay vốn, hoặc không có khả năng thực hiện hợp đồng để giảm bớt dư nợ hay toàn bộ khoản vay như đã thỏa thuận, cá biệt có âm mưu chiếm dụng vốn. d)Tỷ lệ Nợ khó đòi NQD. Tỷ lệ này được đo bởi công thức sau: Nợ quá hạn khó đòi NQD Tỷ lệ Nợ khó đòi NQD = ---------------------------------- *100% Tổng dư nợ NQD Chỉ tiêu này phản ánh các khoản nợ đã quá thời hạn gia hạn nợ quá hạn mà khách hàng còn nợ ngân hàng.Cùng với chỉ tiêu nợ quá hạn, chỉ tiêu này thể hiện chất lượng tín dụng tốt hay xấu.Tỷ lệ này càng cao biểu hiện cho dấu hiệu của một khoản tín dụng xấu và ngược lại.Tốt nhất, nên hạn chế tỷ lệ này ở mức dưới 1%. Chỉ tiêu này được đo bởi công thức: Lợi nhuận từ tín dụng NQD Tỷ lệ LN từ cho vay NQD = Tổng dư nợ tín dụng NQD Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường chất lượng tín dụng của ngân hàng.Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng NQD. Tỷ lệ này càng cao nghĩa là lợi nhuận thu được từ tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp vào thu nhập của ngân hàng càng lớn, thể hiện chất lượng tín dụng đối với thành phần này càng cao. 1.3.2.2.Nhóm các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng không thể định lượng. Bên cạnh những chỉ tiêu đánh gía chất lượng có thể tính toán như trên, còn có những tiêu chí khác để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng không thể đo lường và tính toán cụ thể: -Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù hợp với thực tế hoạt động kinh doanh của ngan hàng trong từng giai đoạn. -Hệ thống tranh thiết bị, công nghệ hiện đại hỗ trợ cho công tác nghiệp vụ một cách thuân lợi, hiệu quả. -Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có trình độ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp,đây là yếu tố cuối cùng và quan trọng nhất trong mọi hoạt động của ngân hàng. -Quy trình nghiệp vụ tín dụng khoa học, phù hợp với thực tế, đảm bảo quản lý chặt chẽ quá trình cấp tín dụng,vừa thuận tiẹn với khách hàng,vừa đảm bảo tín dụng cho ngân hàng. -Uy tín mà ngân hàng đã tạo dựng được trong nền kinh tế và các mối quan hệ với các khách hàng truyền thống. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam. 1.3.3.1. Các nhân tố chủ quan. Việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài quốc doanh chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các nhân tố chủ quan từ phía Ngân hàng và các chủ thể kinh tế như: chính sách và thể lệ tín dụng, chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị của Ngân hàng, thông tin tín dụng, tình hình huy động vốn và chính hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. * Về phía Ngân hàng Thứ nhất, về thông tin,chính sách tín dụng Thông tin tín dụng đó là thông tin về khách hàng, về môi trường kinh doanh của khách hàng, rủi ro mà khách hàng gặp phải. Thông tin đầy đủ, kịp thời chính xác sẽ nâng cao chất lượng tín dụng cho Ngân hàng, tạo uy tín cho Ngân hàng, hơn nữa nhằm mục đích ngày càng đẩy mạnh mở rộng tín dụng Ngân hàng. Chính sách tín dụng là những quy định của mối ngân hàng khi cho khách hàng vay,được lập ra nhằm nhiều mục đích khác nhau,đem lại cho cán bộ tín dụng sự hướng dẫn cần thiết để hình thành nên sự thống nhất trong hoạt động cho vay. Chính sách tín dụng quyết định tới sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Một ngân hàng muốn có chất lượng tín dụng tốt phải có chính sách tín dụng phù hợp nghĩa là, chính sách và thể lệ tín dụng phải đúng đắn, phù hợp với đối tượng trong quá trình thực thi nghiệp vụ, đảm bảo phù hợp với xu thế phát triển xã hội, của Chính phủ, đồng thời đảm bảo kết hợp hài hoà quyền lợi của người gửi, người đi vay và chính bản thân Ngân hàng. Chính sách tín dụng đúng đắn sẽ đảm bảo cho khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng và ngày càng thu hút được nhiều khách hàng tới Ngân hàng mình. Thứ hai, về chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Chiến lược kinh doanh là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Chiến lược kinh doanh sẽ giúp cho ngân hàng hoạt động có mục đích và đúng đắn. Thứ ba, về chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị Chất lượng nhân sự đó chính là trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, marketing, trình độ ngoại ngữ, vi tính, sự nhiệt tình trong công việc của người cán bộ. Còn cơ sở vật chất thiết bị chính là nhữnh máy móc thiết bị, phương tiện làm việc của con người. Cả hai điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ tới nguồn tin của khách hàng và Ngân hàng. Nếu như khách hàng giao tiếp với cán bộ mà thấy yên tâm, thoả mãn về trình độ nghiệp vụ, sự tận tình, chu đáo của cán bộ thì chắc chắn sẽ tìm đến Ngân hàng đó để quan hệ. * Về phía kinh tế ngoài quốc doanh Nếu kinh tế ngoài quốc doanh làm ăn có hiệu quả, có uy tín thì chắc chắn nhu cầu vay vốn Ngân hàng ngày càng tăng và sẽ được Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn đó. Ngược lại nếu làm ăn thua lỗ, phá sản, khó khăn về tài chính, mất uy tín với Ngân hàng, cạnh tranh không lành mạnh thì bản thân Ngân hàng cũng không thể cấp tín dụng cho các thành phần kinh tế này và như vậy mục tiêu mở rộng tín dụng không thể thực hiện được. Mặt khác việc cho vay của Ngân hàng cần phải có tín chấp hoặc thế chấp bằng tài sản. Kinh tế ngoài quốc doanh với uy tín chưa cao do vậy việc vay vốn bằng tín chấp là rất khó khăn. Vì vậy, thành phần này cần phải hoàn thiện các thủ tục pháp lý về các tài sản thế chấp, cầm cố để được vay vốn Ngân hàng. Tóm lại, do nhiều nguyên nhân mà nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp tới việc hoàn trả nợ vay, qua đó quyết định khá lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. 1.3.3.2.Các nhân tố khách quan. Nhân tố khách quan là các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội,..nhiều khi không thể hiện rõ sự hiện diện của nó nhưng trong một số điều kiện nhất định,đây lại là những nhân tố quan trọng có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng. + Môi trường kinh tế Thực tế cho thấy rằng môi trường kinh tế có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh cuả tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế ở trạng thái hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội để mở rộng, phát triển hoạt động sản xuất của mình. Khi đó nhu cầu vốn của họ tăng lên và hoạt động tín dụng Ngân hàng có thể mở rộng theo. Điều ngược lại sẽ xảy ra với hoạt động tín dụng của Ngân hàng nếu như các doanh nghiệp không thể phát triển được trong môi trường kinh tế có nhiều biến động. Trong quá trình hoạt động của mình các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế khi họ gặp phải môi trường kinh tế không ổn định. Ví dụ như sự sụt giảm các mặt hàng nông sản trên thế giới như: gạo, cà phê, thuỷ sản... Khi đó, các biện pháp trợ giúp của Nhà nước như việc thu mua lương thực, hỗ trợ giá, các quy định về lãi suất ưu đãi sẽ giúp các doanh nghiệp tạm thời vượt qua được khó khăn, đứng vững được trên thị trường. + Môi trường pháp lý Trong nền kinh tế, mọi chủ thể đều có quyền tự chủ về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trong phạm vi, khuôn khổ pháp luật cho phép. Trước hết, đứng trên góc độ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, kể từ khi có Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân (năm 1990) và năm 2000 Luật Doanh nghiệp được chính thức áp dụng, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có một hành lang pháp lý tương đối an toàn để hoạt động.Cùng với việc quy định, hướng dẫn cụ thể của các văn bản dưới luật, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể nắm được phương thức tổ chức, cách thức hoạt động cũng như ngành nghề được phép kinh doanh. Trên cơ sở đó, họ có thể xây dựng được kế hoạch mở rộng, phát triển chính bản thân mình và có thể yêu cầu sự hỗ trợ từ phía Ngân hàng trong những trường hợp cần thiết. Chương II Thực trạng hoạt động tín dụng và chất lượngđối với kinh tế ngoài quốc doanh tại sở giao dịch I - ngân hàng Đầu tư & PHáT TRIểN Việt Nam 2.1. Khái quát về SGDI - nhđt&ptvn 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển . Sở Giao dịch được thành lập theo Quyết định số 572 TCCB/ ĐT ngày 26/12/1990 của Vụ Tổ chức cán bộ Ngân hàng Nhà nước về tổ chức bộ máy của NHĐT&PTVN và Quyết Định số 76 QĐ/TCCB ngày 28/03/1991 của Tổng Giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN. Theo các Quyết định này, Sở Giao dịch là đơn vị trực thuộc, thực hiện hạch toán nội bộ, có bảng cân đối tài khoản riêng, có con dấu riêng và trực tiếp giao dịch với khách hàng. Trụ sở đặt tại 53 Quang Trung- Hai Bà Trưng- Hà nội . Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Sở Giao dịch trải qua hai thời kỳ: - Thời kỳ từ 1991 - 1995: nhiệm vụ chính trong thời kỳ này là cấp phát vốn ngân sách cho đầu tư XDCB. - Thời kỳ từ 1995 đến nay: thực hiện kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ thanh toán, tự cân đối nguồn, tìm dự án cho vay. 2.1.2.Cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức của Sở Giao dịch được trình bày qua sơ đồ sau ban giám đốc Phòng nguồn vốn kinh doanh Phòng quản lý khách hàng Phòng tín dụng 1;2 Phòng thanh toán quốc tế Phòng điện toán Phòng Giao dịch 1,2 Phòng kế toán tài chính Phòng t.chức hành chính k.quỹ Chi nhánh gia lâm Quỹ tiết kiệm 3 Quỹ tiết kiệm 4 Quỹ tiết kiệm 5 Quỹ tiết kiệm 6 66666 Quỹ tiết kiệm 2 Quỹ tiết kiệm số1 Quỹ tiết kiệm 7 77 6 Phòng kiểm soát nội bộ Phòng giao dịch trung tâ Quỹ tiết kiệm 8,9 Ban Giám đốc gồm 1 Giám đốc và 3 Phó Giám đốc. Đội ngũ cán bộ tăng nhanh về số lượng, đến 31/12/2002 lên tới trên 230 người, tăng 2% so với cuối năm trước, đa số là cán bộ trẻ, có trình độ, nhiệt tình phấn đấu vì sự phát triển của hệ thống NHĐT&PT VN. SGD có 11 phòng, được tổ chức và sắp xếp theo Quyết định số 210 QĐ/TCCT ngày 18/12/1998 của Tổng Giám đốc NHĐT&PTVN, về việc thành lập bộ máy của Sở Giao dịch như sơ đồ trên. Sự phân chia rõ chức năng, nhiệm vụ của từng phòng có tác dụng giới hạn nghĩa vụ, quyền hạn trên cơ sở đó thực hiện chuyên môn hoá sâu trong một lĩnh vực hoạt động của SGD.Tuy nhiên, sự phân chia chỉ có tích chất tương đối các phòng đều có quan hệ hữu cơ với nhau trong một tổng thể chung, phụ trợ và tăng cường cho nhau. Nói tóm lại, mỗi phòng trong SGD là độc lập tương đối, chuyên môn hoá trong lĩnh vực của mình để thực hiện tham mưu cho ban Giám đốc các hoạch và chính sách kinh doanh của từng lĩnh vực, nghiệp vụ. Các phòng thống nhất với nhau qua mục đích chung đó là cùng đóng góp vào quá trình tối đa hoá lợi nhuận cho Sở giao dịch và hoàn thành tốt các nhiệm vụ NHĐT&PT VN giao. 2.1.3. Các hoạt động kinh doanh cơ bản và tình hình hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch NHĐT&PTVN trong thời gian qua. 2.1.3.1 Môi trường hoạt động Trong giai đoạn 1997-2002, nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế khu vực Châu á nói riêng có nhiều biến động, gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Nam á năm 1997 đã lan toả và trở thành cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính Châu á trong năm 1998. Mặc dù đã có những biện pháp hạn chế ảnh hưởng tiêu cực và ngăn chặn sự lan truyền cuộc khủng hoảng này đối với nền kinh tế Việt Nam, nhưng trong những tháng đầu năm 1999, kinh tế Việt Nam vẫn bị bao trùm một khung cảnh trì trệ. Tổng sản phẩm trong nước tăng 4,8% so với năm 1998. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam chịu một sức ép lớn trước sự phục hồi của các nền kinh tế Châu á với một đồng bản tệ bị mất giá mạnh, sau thời gian khủng hoảng đến nay đã phát huy tác dụng trong xã hội. Năm 2002 nền kinh tế Việt Nam khá ổn định, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,8%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 17,2%, giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,7%. Sự phát triển của các ngành sản xuất cùng với sự khôi phục của nền kinh tế đều có tác động đến hoạt động của ngành Ngân hàng nói chung và Sở giao dịch nói riêng. 2.1.3.2. Các hoạt động nghiệp vụ của Sở giao dịch trong thời gian qua. Trong bối cảnh kinh tế đầy biến động, Sở giao dịch không ngừng vươn lên trong nỗ lực chung của hệ thống NHĐT&PTVN.Tính đến 31/12/2002, tổng tài sản của Sở giao dịch tăng gần 1.248.275 triệu VNĐ so với cuối năm 2001, tăng 18%. Đặc biệt, tỷ trọng tài sản Có sinh lời (Không tính khoản mục ngân quỹ và các tài sản Có khác) trên tổng tài sản tăng từ 89% lên 95% tính bình quân trong 5 tháng cuối năm, góp phần tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. *Công tác huy động vốn Tính tới 31/12/2002 tổng Tài sản của SGDI đạt 10.564 tỷ VND, tăng 1.871tỷ so với cùng kỳ năm 2001 tương đương 21,51% , thị phần huy động vốn trên địa bàn vẫn giữ vững ở mức 7% trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng trên địa bàn. SGDI có 3 phòng giao dịch với 9 quỹ tiết kiệm , kết quả huy động vốn như sau: Đơnvị:triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng NV huy động 4.660.780 6.555.883 8.515.541 1.Huy động dân cư 3.340.785 4.844.536 5.876.027 * VND 1.450.462 1.518.232 2.218.209 * USD 1.890.323 3.326.304 3.657.818 2.Tiền gửi các TCKT 1.319.995 2.030.847 2.638.513 * VND 970.324 1.726.523 2.365.513 * USD 349.671 241.626 273.005 Nguồn : Tài liệu Báo cáo của SGD . - Tổng nguồn vốn huy động từ các loại tiền gửi đạt 8.515.541 tỷ đồng tăng 1.459.658 tỷ đồng so với năm 2001( 20,81%) trong đó huy động tiền dân cư tăng 1.031.491 tỷ, tiền gửi các TCKT tăng 607.666 tỷ, tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng hơn 100 tỷ. - Nguồn vốn huy động từ dân cư và các TCKT tại SGDI ngoài việc tự đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên ( gần 100 tỷ ) còn gửi có kỳ hạn dài tại TW tiền VND ( hơn 200 tỷ ) tăng 190 tỷ so với năm 2001, nguồn USD gửi có kỳ hạn tại NHĐT TW là 68.600.000USD. - Công tác huy động vốn: cân đối và sử dụng vốn hàng ngày linh hoạt, chặt chẽ, tiết kiêm đảm bảo tốt khả năng thanh toán thương xuyên. Công tác thanh toán, chi trả lãi trái phiếu đảm báo an toàn, chính xác, kịp thời. - SGDI đã mở thêm 3 điểm huy động vốn mới và triển khai nhiều hình thức huy động vốn mới, huy động tiền gửi tiết kiệm tích luỹ nhằm thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trên mọi kênh huy động, phat tờ rơi quảng cáo nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác huy động vốn đối vơí từng cán bộ của SGDI . - Hàng tháng duy trì công tác phân tích tài sản Nợ - Có, phân tích tình hình huy động vốn tại SGDI, theo dõi thường xuyên lãi suất trên thị trường...để đưa ra các giải pháp phù hợp kịp thời với diễn biến của thị trường. Tình hình cơ cấu lại tài sản Nợ -Có đã có những chuyển biến tích cực, sử dụng nguồn huy động ngắn hạn để cho vay trung - dài hạn đã giảm, hiệu suất sử dụng nguồn USD đã tăng lên, cơ cấu về sử dụng loại tiền đã được thay đổi theo chiều hướng tốt hơn tuy nhiên cơ cấu về kỳ hạn cho vay chưa có thay đổi. *Hoạt động tín dụng -Tổng dư nợ tín dụng liên tục tăng trong các năm từ 2000 đến 2._.ệm vụ cho mỗi cán bộ tín dụng trong 6 tháng phải có một khách hàng mới. Trước đây, SGD chưa coi họ là đối tượng khách hàng chính nhưng hiện tại và tương lai SGD sẽ coi kinh tế ngoài quốc doanh là đối tượng khách hàng chủ yếu của mình và thông qua tín dụng Ngân hàng sẽ thúc đẩy thành phần kinh tế này ngày càng phát triển. 3.2 .giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại sgdi-nhđt&ptvn. Trong điều kiện nền kinh tế còn đang trong giai đoạn sắp xếp lại, hành lang pháp lý còn chưa đồng bộ, sự cạnh tranh gay gắt của các NHTM trên địa bàn v.v... thì tình trạng giành giật khách hàng là không tránh khỏi ,việc cố tình hạ thấp điều kiện tín dụng làm nguy cơ rủi ro hoạt động tín dụng sẽ rất cao.Kinh tế ngoài quốc doanh cũng không nằm ngoài quy luật ấy.Để củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng đôí với thành phần này tại SGD, em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp chính sau: 3.2.1.Nâng cao năng lực tài chính, huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Nguồn vốn điều lệ hiện nay của SGDI là quá nhỏ so với yêu cầu đòi hỏi.để đảm bảo có đủ khả năng tài chính đứng vững trong cạnh tranh,SGD cần nâng cao năng lực tài chính bằng việc nâng cao nguồn vốn tự có bằng nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ và NHNN. Cụ thể là đề nghị Nhà nước,Chính phủ,NHNN,BTC cấp bổ xung vốn điều lệ. Vì phục vụ chủ yếu cho qúa trình CNH-HĐH đất nước nên phải luôn coi tạo vốn là khâu mở đường, tạo mặt bằng vốn vững chắc ngày càng tăng trưởng,việc đa dạng hoá các hình thức,các biện pháp,các kênh huy động vốn từ mọi nguồn trong và ngoài nước.Vì vậy cần phát huy lợi thế hoạt động ngân hàng để huy động vốn. 3.2.2. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ vốn vay và quá trình trả nợ vay, xử lí nợ quá hạn, nợ khó đòi đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Cán bộ tín dụng của SGD phải có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. Trong quá trình luân chuyển của đồng vốn sẽ có rất nhiều yếu tố tác động gây ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của SGD. Nó bao hàm các nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan. Vì vậy, để SGD có biện pháp xử lý kịp thời khi gặp những nhân tố bất lợi đối với hoạt động tín dụng thì công việc kiểm tra, giám sát khách hàng cần tập trung vào những yếu tố sau: - Hồ sơ vay vốn và kế hoạch trả nợ của khách hàng. - Tìm hiểu các thông tin về khách hàng để từ đó đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng. - Mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng. - Mức độ chiếm lĩnh sản phẩm của khách hàng trên thị trường. - Khả năng quản trị kinh doanh của khách hàng vay vốn. Để kiểm tra, giám sát các khoản vay đạt kết quả cao thì tuỳ thuộc vào đặc thù sản xuất kinh doanh, mức độ quan hệ, sự tín nhiệm của khách hàng với SGD mà có thể áp dụng các hình thức kiểm tra, hiám sát khác nhau. Đặc điểm riêng của SGD là khách hàng vay vốn chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh những mặt hàng phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng hàng ngày.Vì vậy, cần phải kiểm tra, giám sát thường xuyên thường tiền vay theo từng mặt hàng cũng như sự biến động của thị trường đối với những mặt hàng đó. Đây là biện pháp quan trọng giúp cho cán bộ tín dụng nắm bắt được thông tin về các đối tác liên quan, tính thực tế của sản phẩm, xác định thời gian phát tiền vay, thời hạn cho vay, mức tiền cho vay đối với sản phẩm, khả năng thu hồi vốn để trả nợ cho SGD của từng mặt hàng. Đặc biệt phát hiện ra những khoản vay vốn của Ngân hàng mà khách hàng sử dụng lãng phí hoặc không đúng mục đích từ đó đưa ra biện pháp xử lý thích hợp. Nợ quá hạn, nợ khó đòi là một vấn đề bức xúc đối với một ngân hàng,đặc biệt là đối với kinh tế ngoài quốc doanh.Nó có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân,nhưng dù bắt nguồn từ bất cứ nguyên nhân nào thì vấn đề quan trọng là tìm mọi cách thu hồi và xử lí nó. Với khoản nợ có vấn đề mới phát sinh:Ngân hàng cần phải xem xét nguyên nhân,nếu có sai lệch về chu kì kinh doanh hoặc về vấn đề các khoản phải thu chưa thu thì ngân hàng cần có các biện pháp nhã nhặn nhắc nhở khách hàng nhanh chóng trả nợ cho ngân hàng .Ngân hàng cần đánh giá chính xác nguyên nhân từ phía khách hàng hay từ phía các đối tượng khác để có biện pháp xử lí thích hợp.Trong trường hợp khách hàng chỉ rơi vào tình trạng khó khăn tạm thời thì nên gia hạn cho khách hàng để tìm cách khắc phục, không nên quá nguyên tắc trong trường hợp này. Với những khoản nợ đã gia hạn mà vẫn tiếp tục nợ quá hạn, trở thành nợ khó đòi thì ngân hàng nên tiến hành thu hồi tạm thời những khoản thanh toán có thể của khách hàng, đồng thời xem xét tình hình thực tế của khách hàng để đưa ra quyết định xiết nợ kịp thời trước khi khách hàng hoàn toàn không có khả năng hoàn trả.Trong tình huống xấu, ngân hàng cần kien quyết xử lí, không để khách hàng lợi dụng sự quen biết làm ảnh hưởng.Trong trường hợp cần thiết, nên kết hợp với cơ quan pháp luật để xử lí tién hành thuận lợi hơn. Trong trường hợp nguồn thu nợ thứ nhất không đủ để trả nợ, ngân hàng buộc phải sử dụng đến nguồn thu nợ thứ hai, đó là tài sản bảo đảm tiền vay.Tài sản bảo đảm tiền vay phải dược xử lí trên cơ sở giá tri thị trường của nó. 3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định khi cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh Việc nâng cao chất lượng tín dụng là cần thiết để phát triển hoạt động kinh doanh của SGD bởi vấn đề chất lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của SGD. Nếu SGD gia tăng khối lượng tín dụng mà không quan tâm đến chất lượng tín dụng thì chẳng khác nào cho vay mà không thu hồi nợ. Chất lượng tín dụng là kết quả các khoản tín dụng được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng các cam kết vay tiền, SGD thu được gốc và lãi đúng hạn. Trên thực tế trong quan hệ tín dụng thì quyền cho vay thực tế là ở SGD, quyền trả nợ thực tế là ở người vay. Do đó, khi SGD đã quyết định và khoản vay đã được thực hiện thì việc thu hồi vốn lại phụ thuộc vào người vay hay nói đúng hơn là phụ thuộc vào chính kết quả sử dụng vốn vay. Như vậy, trong quan hệ tín dụng, việc cho vay hoàn toàn đơn giản vì nó phụ thuộc vào quyền quyết định của SGD còn việc thu hồi nợ sẽ là khó khăn vì nó phụ thuộc vào thái độ và khả năng thực hiện các cam kết nghĩa vụ trả nợ của người vay. Vì vậy, thẩm định khi cho vay là rất quan trọng, đòi hỏi cán bộ SGD phải tuân thủ các nguyên tắc, nội dung cơ bản của việc phân tích thẩm định khi cho vay. -Thẩm định tư cách pháp lý và khả năng tài chính của khách hàng -Thẩm định dự án, phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng Phân tích tính cách và uy tín của khách hàng 3.2.4.Đổi mới chính sách tín dụng 3.2.4.1 Đa dạng hoá các hình thức về lãi suất SGD cũng như các NHTM khác, cho vay dựa vào huy động vốn, do đó không thể tăng quy mô tín dụng cho nền kinh tế nếu công tác huy động vốn của Ngân hàng không được cải thiện. Với cơ chế lãi suất hợp lý sẽ là một cơ hội để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Sử dụng tốt công cụ lãi suất trên cơ sở SGD hạn chế tối đa các chi phí không cần thiết để hạ thấp lãi suất đầu vào nhằm tăng trưởng tín dụng. Bên cạnh đó, cần có các công cụ huy động vốn hiệu quả hơn như tăng lãi suất đầu vào, nghiệp vụ hoán đổi lãi suất SWAP - Chính sách lãi suất phải linh hoạt theo đối tượng vay vốn. Trên thực tế, lãi suất mà SGD áp dụng cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường cao hơn các Doanh nghiệp Nhà nước. Do đó, tạo sự không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế . Vì vậy, với các khách hàng quen thuộc, có uy tín vay trả sòng phẳng thì có thể được hưởng một mức lãi suất ưu đãi thấp hơn, điều đó sẽ góp phần củng cố mối quan hệ lâu dài với khách hàng, vừa khuyến khích khách hàng tăng cường mối quan hệ với SGD, vừa tích cực làm ăn có hiệu quả, trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng. - Đa dạng hoá các hình thức lãi suất để tạo điều kiện phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Dựa vào từng loại lãi suất và từng kỳ hạn, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn những khoản vay thích hợp đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của họ đạt hiệu quả cao, đảm bảo trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn. 3.2.4.2. Thay đổi phương pháp tính hạn mức tín dụng. Theo quyết định số 1627/2001 QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNNVN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng có quy định"các tổ chức tín dụng có thể áp dụng các phương thức cho vay phù hợp với từng khách hàng". Nhu cầu vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất lớn, với vị thế của mình thành phần này không thể đáp ứng được nguồn vốn cho mình mà phải dựa phần lớn vào Ngân hàng. Chính vì lý do đó, Ngân hàng quy định cho vay từng lần và hạn mức cho vay đối với đơn vị kinh tế này tối đa không vượt quá 1,5 lần vốn tự có (thấp hơn nhiều so với khu vực kinh tế quốc doanh), trong khi đó vốn tự có của kinh tế ngoài quốc doanh so với kinh tế quốc doanh lại quá nhỏ bé sẽ gây ra những thủ tục phiền hà cho cả khách hàng và cán bộ tín dụng và nhiều thiệt thòi cho kinh tế ngoài quốc doanh. Ngoài ra, để cải thiện tình hình cho vay thì SGD ngoài việc chú trọng đến khả năng tài chính và tài sản đảm bảo cũng nên xem xét đánh giá đúng các phương án kinh doanh của khối doanh nghiệp này để quyết định cho vay một lượng vốn phù hợp hơn, thực hiện điều này cũng là tạo cơ hội phát triển cho các thành phần kinh tế phát triển cân đối hơn. 3.2.4.3 Đa dạng hoá hình thức bảo đảm tiền vay. Thông thường từ trước đến nay, đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, SGD vẫn yêu cầu có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, không phải vấn đề này lúc nào cũng thực hiện được. Do đó, bên cạnh việc cho vay theo hình thức này, SGD có thể nghiên cứu cho vay theo các hình thức khác như kết hợp linh hoạt linh hoạt các hình thức bảo đảm bằng tín chấp, tín chấp và thế chấp, tín chấp, thế chấp và bảo lãnh. Với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay thì việc cho vay bằng tín chấp có những khả năng phát triển. Mặc dù không phải cho vay bằng tín chấp là Ngân hàng có thể bỏ qua những thủ tục cần thiết. Khách hàng cũng cần phải có số liệu chứng minh tình hình tài chính lành mạnh, phải có tài sản cố định và tài sản lưu động lớn, đối tượng cho vay là những sản phẩm có hiệu quả và ổn định trên thị trường. Các biện pháp bảo đảm tiền vay đều phải lập thành văn bản, nhưng lập chung với hợp đồng tín dụng hay lập thành văn bản riêng là do các bên thoả thuận phù hợp với tính chất của của tài sản, không bắt buộc phải có hợp đồng riêng như trước đây. Như vậy sẽ đơn giản hoá thủ tục cho các hộ gia đình vay món nhỏ, hoặc khi khách hàng cầm cố các chứng từ có giá, vàng bạc thì chỉ cần ghi vào hợp đồng chính là hợp đồng tín dụng mà không nhất thiết phải có hợp đồng riêng về thế chấp, cầm cố. Đối với các loại thế chấp bất động sản hoặc cầm cố các loại tài sản lớn, phức tạp thì các bên có thể thoả thuận lập hợp đồng riêng để thuận cho việc quản lý và xử lý sau này. 3.2.5. Đổi mới chính sách khách hàng. Một thực tế cho thấy hiện nay các NHTM nói chung và SGD nói riêng mới bắt đầu chú trọng tới công tác Marketing, hoạt động của phòng quản lý khách hàng chưa mang tính nghiệp vụ cao và hiệu quả rõ nét. Vì vậy cần tăng cường hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng để SGD tự giới thiệu mình với khách hàng.Cụ thể: -Tăng cường công tác tìm kiếm khách hàng, chủ động đặt qua hệ với khác hàng, dùng các chính sách ưu đãi thu hút khách hàng. -SGD cần tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo các chính sách chế, thể lệ cho vay tới tới kinh tế ngoài quốc doanh. -SGD cũng cần tiến hành phân loại khách hàng để cho vay. SGD cần phải phân loại khách hàng theo những tiêu thức nhất định nhằm chọn ra những khách hàng tốt nhất để có chính sách riêng đối với họ. Có thể phân loại đơn vị kinh tế theo các mức sau: Đơn vị xếp loại A: là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định có lãi trong hai năm liên tiếp gần nhất, đang kinh doanh những mặt hàng được thị trường ưa chuộng hoặc trong tương lai được thị trương ưa chuộng, thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước, không có nợ quá hạn đối với Sở giao dịch. Nếu doanh nghiệp loại này có phương án khả thi thì có thể cho vay ưu tiên về thủ tục, lãi suất, trong chừng mực nào đó thì có thể cho vay bằng tín chấp. Đơn vị xếp loại B: là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định, uy tín trên thị trường chưa cao, lãnh đạo doanh nghiệp là những người có năng lực, coi trọng chữ tín. Đối với đơn vị này thì cho vay trên trên cơ sở tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của bên thứ ba. Đơn vị xếp loại C: là những đơn vị kinh doanh thua lỗ không có biện pháp khắc phục, quan hệ với Ngân hàng và bạn hàng không sòng phẳng, thường xuyên có nợ quá hạn thì SGD phải tìm cách từ chối hợp lý, nhanh chóng thu hồi vốn. Tuy nhiên đây chỉ là cách phân loại tạm thời, không phải là khuôn mẫu để quyết định cho vay đối với khách hàng mà điều cốt yếu là phương án sản xuất kinh doanh nếu tỏ ra thực sự có hiệu quả thì Sở giao dịch có thể nới rộng ở mức độ nào đó nhưng trong điều kiện cho phép. Khi môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng và cơ hội phát triển cho các thành phần kinh tế thì vấn đề đặt ra là SGD cần phải nắm bắt được thông tin khách hàng một cách chính xác, nhanh chóng, kịp thời, tư vấn, chăm sóc khách hàng và phát hiện những biểu hiện không bình thường của khách hàng để kịp thời xử lý. Nghiên cứu và khai thác đối tượng khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh bởi vì đây vẫn còn đang một thị trường tiềm năng cho SGD hướng tới. Hơn nữa Hội nghị khách hàng cần lấy phiếu thăm dò ý kiến khác hàng ngoài quốc doanh để cung cấp đầy đủ các dịch vụ mà đối tượng khách hàng này mong muốn, tạo cơ chế thông thoáng và khuyến khích cho đối tượng này, tạo cái nhìn mới về SGD trong con mắt của đối tượng khách hàng này. 3.2.6.Tăng cường đội ngũ cán bộ có tay nghề và trình độ nghiệp vụ cao. Thực tế có thể đưa món nợ vay thành nợ khó đòi ngay từ khâu xét duyệt và thẩm định dự án sản xuất kinh doanh. Do cán bộ xử lý thẩm định dự án chỉ hiểu một cách mơ hồ về nghành nghề dự định đầu tư, điều này tất yếu có sự sai lệch trong việc thẩm định hồ sơ vay vốn đối với khách hàng. Một vai trò của rất quan trọng đó là Sở giao dịch không chỉ đơn thuần là nhà đầu tư mà còn là nhà tư vấn cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó không thể đưa mục tiêu mở rộng tín dụng nếu không bổ sung nâng cao trình độ tay nghề của đội ngũ cán bộ tín dụng của Sở giao dịch về năng lực thẩm định và am hiểu về lĩnh vực đầu tư, trau dồi, rèn luyện để có thái độ phục vụ tốt, nêu cao tinh thần trách nhiệm" Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm", đồng thời cần hợp lý hoá quy trình nghiệp vụ khách hàng ngoài quốc doanh qua một đầu mối chính (1 cửa), đơn giản hoá thủ tục, giải quyết nhanh gọn, phục vụ thông suốt. Ngoài ra, Sở giao dịch nên phối hợp với trung tâm điều hành, các NHTM khác và các cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức các cuộc hội thảo về phương pháp đánh giá tài sản thế chấp vay vốn Ngân hàng, các thông số thẩm định kết quả tài chính, kết quả hoạt động của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vấn đề về thông tin phòng chống rủi ro và cán bộ tín dụng phải đủ năng lực để chọn lọc xử lý thông tin có hiệu quả trong việc thẩm định dự án cho vay. Thường xuyên tổ chức cuộc thi cán bộ tín dụng giỏi nhằm khuyến khích cán bộ tín dụng học hỏi kinh nghiệm từ các Ngân hàng bạn đồng thời cập nhật những thông tin mới từ phía Chính phủ. Bên cạnh đó, Sở giao dịch cũng cần có chế độ khen thưởng thích đáng cùng với chế lý nghiêm minh trong việc khoán công tác tín dụng cho từng cán bộ. Với những cán bộ vượt kế hoạch trong công tác tín dụng, cho vay an toàn cần có khen thưởng cả về vật chất cũng như tinh thần nhằm khuyến khích động viên sự nhiệt tình trong công tác, đồng thời nâng cao trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ. Mặt khác, Sở giao dịch cần tiếp tục hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm phục vụ tốt hơn nữa nghiệp vụ kinh doanh như đầu tư thêm máy tính, các phần mềm ứng dụng cũng như máy móc chuyên dụng khác để tăng chất lượng các dịch vụ chuyển tiền, gửi tiền và rút tiền tự động. 3.2.7.Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ Kiểm tra, kiểm soát nội bộ là công việc đóng vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của SGD. Nó là một trong những yếu tố đem lại sự an toàn, hiệu quả cho hoạt động tín dụng của SGD. Vì vậy, SGD cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện những vi phạm, sai sót để có biện pháp xử lý kịp thời. Nhưng SGD cần phải xây dựng chính sách kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng phù hợp với thực tế hoạt động của SGD và sự thay đổi của thị trường. - Củng cố kiện toàn hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại SGD và các đơn vị thành viên. Hệ thống kiểm tra nội bộ chuyên trách và các cán bộ kiểm tra hoạt động độc lập với các bộ phận nghiệp vụ và được độc lập đánh giá, kết luận, kiến nghị trong hoạt động kiểm tra kiểm toán. - Xây dựng hoàn chỉnh các quy chế, quy trình kiểm tra. Xây dựng chương trình kiểm tra định kỳ (kể cả hệ thống giám sát từ xa) để giám sát phòng ngừa ngăn chặn mọi sai sót, mọi hành vi vi phạm pháp luật để bảo đảm an toàn hoạt động kinh doanh toàn hệ thống và từng đơn vị thàn viên. Chủ động kiểm tra kiến nghị xử lý các trường hợp sai phạm. Đảm bảo mọi hoạt động của SGD được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ. - Hệ thống kiểm tra phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc về việc kiểm tra giám sát bảo đảm thông suốt, an toàn và đúng luật pháp mọi hoạt động của SGD. - Thực hiện việc kiểm tra, giám sát bằng các biện pháp xây dựng chương trình tin học về quản lý khai thác thông tin giữa Ban kiểm tra, kiểm toán nội bộ với các phòng, ban tại SGD và các đơn vị, chi nhánh trực thuộc trong toàn hệ thống. Coi trọng việc kiểm tra giám sát từ xa nhằm thu thập các thông tin cảnh báo để ngăn chặn các sai sót có thể ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Sở giao dịch. - Trên cơ sở xây dựng các hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chung của SGD; xây dựng và phát triển hệ thống thu thập, quản lý và cung cấp thông tin qua quản lý rủi ro trên tất cả các mặt hoạt động phục vụ cho việc kiểm tra, kiểm soát đạt hiệu quả hơn. Công tác thanh tra, kiểm soát được đề cập ở đây không chỉ nằm vào phía đơn thuần là kiểm tra khách hàng mà còn quan trọng ở chỗ phải kiểm tra thanh lọc những cán bộ tín dụng mất phẩm chất, tiêu cực, gây thất thoát tài sản xã hội chủ nhĩa và làm mất uy tín Sở giao dịch. 3.3. Một số đề xuất và kiến nghị. 3.3.1 Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước * Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và ban hành các nghị định về chính sách, luật doanh nghiệp, sở hữu tài sản, thế chấp tài sản. - Luật doanh nghiệp đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2000, Chính phủ khẩn trương yêu cầu các bộ chức năng xây dựng xong các dự thảo Nghị định triển khai luật này, trình Chính phủ ban hành tạo môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp tư nhân, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển đúng pháp luật, ổn định, vững chắc sớm cho ra đời luật cạnh tranh... - Bộ Tư pháp, Bộ tài chính sớm ban hành các nghị định về cho vay bằng tín chấp; tín chấp và thế chấp; tín chấp, thế chấp và bảo lãnh để các NHTM có thể mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh dễ dàng hơn. - Chính phủ cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả, được vay vốn Ngân hàng đến mức 100 triệu, hoặc 200 triệu đồng không phải thế chấp tài sản, miễn là đảm bảo được ba điều kiện: dự án có hiệu quả, doanh nghiệp 3 năm liền có lãi, tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín trong quan hệ vay vốn Ngân hàng. - Cho phép người Việt nam ở nước ngoài, Việt kiều, người nước ngoài làm việc ở Việt nam, tự do mua bán đất đai nhà ở, bất động sản...khi không cần sử dụng được phép bán lại, thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển. - Cho phép kinh tế tư nhân tham gia hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế mà lâu nay thuộc độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế. - Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế - dân sự trong quan hệ vay vốn giữa Ngân hàng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi xảy ra các tranh chấp khi doanh nghiệp không trả nợ được cho Ngân hàng . - Chính phủ có chính sách xử lý rủi ro đối với các Ngân hàng cho vay vốn doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bình đẳng đối với doanh nghiệp Nhà nước như: khoanh nợ, giảm nợ, ân hạn, ưu đãi lãi suất... - Học tập kinh nghiệm của Trung Quốc nên nghiên cứu, xem xét tách các doanh nghiệp của Bộ công an, Quân đội, cơ quan của Đảng ra khỏi tổ chức đó, hoạt động bình đẳng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo đúng luật doanh nghiệp. Đối với Trung Quốc, phát triển kinh tế Tư nhân là động lực cho sự phát triển nền kinh tế và thực tế chứng minh khu vực kinh tế tư nhân của họ cũng phát triển rất nhanh trong giai đoạn hiện nay. Chính phủ cũng cần có cách nhìn tích cực hơn về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh . * Quản lý chặt chẽ và chấp hành pháp lệnh thống kê đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Các cơ quan nhà Nhà nước tăng cường kiểm tra các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đảm bảo các doanh nghiệp này hoạt động đúng pháp luật, thực hiện đúng pháp lệnh kế toán thống kê. Yêu cầu các doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng hoặc 10 tỷ đồng trở lên, hàng năm phải thực hiện kiểm toán. Song cũng tránh tình trạng thanh tra, kiểm tra quá nhiều, chồng chéo,...gây khó khăn cho doanh nghiệp. * Đẩy nhanh tiến độ Cổ phần hoá - Chính phủ mạnh dạn cổ phần hoá các doanh nghiệp của Nhà nước có quy mô vốn lớn, đang hoạt động có hiệu quả, mà không phải thuộc lĩnh vực quan trọng như, công ty bia Sài Gòn, Công ty Sữa Việt nam, một số công ty Xi măng, nhà máy mía đường, may mặc... tạo sự đột phá tăng tốc đẩy nhanh thực sự quá trình cổ phẩn hoá doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. - Chính phủ cam kết thực hiện đúng cam kết với IMF, ADB, WB, WTO, AFTA... về cải tổ doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh. * Hình thành các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp ngoài quốc doanh - Hình thành Quỹ hỗ trợ xuất nhập khẩu. Tách riêng tín dụng ưu đãi, tín dụng chính sách ra khỏi hoạt động NHTM, thành lập Ngân hàng chính sách. - Hình thành Quỹ bảo lãnh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, Chính phủ nên xây dựng dự án, đàm phán thu hút dự án nước ngoài, các tổ chức quốc tế về: đào tạo nâng cao trình độ quản lý kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp Việt nam; xây dựng và cung cấp thông tin thị trường thế giới cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; giúp đỡ về công nghệ, hợp tác kinh doanh, tài trợ vốn ban đầu thành lập doanh nghiệp . - Có chính sách đáp ứng nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như các doanh nghiệp Nhà nước. 3.2.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước - Thu hút dự án, chương trình của quốc tế, các nước khác, hỗ trợ nghành Ngân hàng Việt nam về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản trị, điều hành hoạt động Ngân hàng theo trình độ quốc tế, đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ thẩm định dự án, đánh giá dự án, phân tích và đánh giá rủi ro cho cán bộ Ngân hàng, trang bị công nghệ Ngân hàng hiện đại. - Sửa đổi về cơ chế, chính sách cho vay, bảo lãnh theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu của các Ngân hàng, tăng thu nhập, tăng lương cho chủ Ngân hàng và cán bộ Ngân hàng. Tuyển chọn cán bộ vào làm việc tại Ngân hàng theo quy trình và tiêu chuẩn của Ngân hàng nước ngoài - Nghiên cứu, xem xét trong vài năm tới cổ phần hoá 1-2 NHTM quốc doanh nhưng Nhà nước vẫn nắm giữ trên 50% vốn cổ phần, trong tổng số 6 NHTM quốc doanh hiện có. Tất nhiên cũng cần xem xét các yếu tố khác là trong cơ cấu hiện tại, thì số lượng NHTM cổ phần quá đông trong khi thị phần còn nhỏ. - Thực hiện đúng lộ trình mở cửa hoạt động Ngân hàng nước ngoài, bãi bỏ các quy định hạn chế hoạt động các Ngân hàng ở Việt nam theo cam kết với hiệp địng thương mại Việt- Mỹ, AFTA. Cho phép các Ngân hàng của Nhật, Mỹ, khối EU mở chi nhánh hoạt động ở Việt nam, tạo môi trường cạnh tranh thông thoáng cho hoạt động Ngân hàng, thúc đẩy thị trường vốn phát triển. -Sớm ban hành nghị định và thông tư hướng dẫn thực hiện pháp lệnh thương phiếu, thúc đẩy hoạt động tín dụng thương mại phát triển. 3.2.3.Kiến nghị đối với Ngân hàng ĐT &PT Việt Nam Ngân hàng DDT &PTVN là cơ quan quản lí trực tiếp mọi hoạt động của SGD.Vì vậy, cần có những sự quan tâm, hướng dẫn cụ thể mọi hoạt động của SGD: -Hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng, tạo hành lang pháp lí thuận lợi đối với kinh tế ngoài quốc doanh thông qua việc chỉ đạo hướng dẫn cụ thể, kịp thời các chủ trương, chính sách của ngành và của Chính phủ. -Cần xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh cụ thể cho từng giai đoạn. -Quan tâm giải quyết các khoản nợ làm trong sạch hệ thống. 3.2.4. Kiến nghị đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Trong nền kinh tế thị trường, mọi quyết định đưa ra của doanh nghiệp đều có tác động quan trọng và ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Do vậy, để đứng vững trên thị trường, mỗi doanh nghiệp nói chung và các cá thể nói riêng phải tạo cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp với khả năng và đáp ứng nhu cầu thị trường. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn luôn phàn nàn về sự bất bình đẳng nhưng cũng phải tự nhìn nhận lại chính bản thân hoạt động của mình, để khi các quan điểm của Ngân hàng và của doanh nghiệp gặp gỡ nhau, đó là: doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng, có hiệu quả, đáp ứng được những điều kiện tối thiểu của Ngân hàng và Ngân hàng có thể yên tâm khi cho vay. Bởi Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp dạng đặc biệt, cũng hoạt động kinh doanh để sinh lời và đảm bảo an toàn cho mình. Vì vậy, đứng trên một góc độ nào đấy cả Ngân hàng và doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần phải "hiểu rõ" nhau hơn khi đó Ngân hàng vừa có thể cho vay để tăng dư nợ và có hiệu quả đồng thời doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng có đủ vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp, Ngân hàng cùng phát triển. Cho nên, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần đạt một số chỉ tiêu sau: - Có khả năng ổn định và phát triển lâu dài - Có đội ngũ quản lý giỏi, có khả năng thích ứng với môi trường kinh doanh - Không có biểu hiện làm ăn nhất thời, chụp giật, lừa đảo - Có cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ tốt. Có sản phẩm uy tín ổn định trên thị trường (cả trong nước và quốc tế) - Có triển vọng chiếm lĩnh thị trường trên quy mô lớn Do đó: -Thứ nhất, kinh tế ngoài quốc doanh phải tự nâng cao trình độ của mình trong kinh doanh, chú trọng tới việc xây dựng và hoạch định phương án sản xuất kinh doanh, kể cả mời chuyên gia tư vấn. -Thứ hai, trung thực trong việc sử dụng vốn cũng như các điều kiện liên quan đến cho vay, tránh tình trạng làm ẩu, gây thất thoát vốn khiến cho trả nợ Ngân hàng gặp khó khăn. -Thứ ba, cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời cho khách hàng. Thực hiện việc hạch toán kế toán theo đúng chế độ hiện hành. kết luận Trong công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế, cùng với các thành phần kinh tế khác, kinh tế ngoài quốc doanh ngày cang được phục hồi, phát triển và khẳng định vai trò của nó trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh dưới tác động của cơ chế chung, bên cạnh việc tự huy động vốn của bản thân vốn tín dụng Ngân hàng đầu tư cho thành phần này đóng vai trò rất quan trọng. Hoạt động tín dụng này chẳng những thúc đẩy sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh mà chính thông qua đó tác động trở lại, thúc đẩy đối với hệ thống Ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ, hoàn thiện các cơ chế, chính sách tín dụng... Mặc dù đã đạt được những kết quả ban đầu nhưng hoạt động nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh còn nhiều tồn tại và những vấn đề phát sinh cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Qua bản luận văn này, em đã hệ thống hoá vị trí, vai trò, và sự cần thiết trong việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh với những đặc thù vốn có của thành phần kinh tế này.Thông qua thực trạng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh với những kết quả ban đầu và những tồn tại cần xem xét , em xin mạnh dạn đưa ra các giải pháp và kiến nghị với mong muốn góp phần vào việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại SGD trong thời gian tới. Với trình độ hiểu biết và thời gian thực tập có hạn,nên em không thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình hoàn thành bản luận văn. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và chỉ bảo của thầy cô và các bạn để em có thêm những kinh nghiệm qúy báu trong các quá trình nghiên cứu tiếp sau. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tổng kết kinh doanh năm, 2000, 2001,2002 của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam. 2. Tạp chí Ngân hàng các số năm 2000, 2001,2002. 3. Quy định 284, 324, 1627 của Thống đốc Ngân hàng về quy chế cho vay. 4. Tạp chí Thi trường Tài chính Tiền tệ các số năm 2001. 5. Tạp chí Kinh tế phát triển các số năm 2000, 2001. 6. Các văn bản hướng dẫn của NHĐT&PTVN về thẩm định, quy trình tín dụng. 7. Kinh tế chính trị cao cấp tập 1 (Nhà xuất bản chính trị quốc gia) 8. Ngân hàng thương mại (Edward W.reed& Edward K.gill). (Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh 1995). 9. Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính (Frederic S Mishkin). 10. Niêm giám thống kê 2002 (Tổng cục thống kê). 11. Niên giám thống kê Hà nội 2001(Cục thống kê thành phố Hà nội) lời cảm ơn Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong trường ĐH KTQD nói chung và các thầy, cô giáo khoa Ngân hàng-Tài chính nói riêng đã góp nhiều công sức dạy dỗ,bảo ban và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập tại trường để em có được những kiến thức như ngày hôm nay. Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn cô giáo-Thạc sĩ Phạm Hồng Vân đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực tập và hoàn thành bản luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị công tác tại SGD-NH ĐT&PTVN, đặc biệt là các cô chú, anh chị phòng Tín dụng II đã tạo mọi điều kiện cũng như nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập tai đây cũng như trong quá trình thực hiện bản luận văn tốt nghiệp này. Mục lục Lời cám ơn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37105.doc
Tài liệu liên quan