Chương I
CƠ Sở Lý LUậN Về chất lượng Tín dụng ngân hàng
đối với hộ sản xuất
1.1. Hộ sản xuất và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ.
1.1.1. Hộ sản xuất và vai trò của hộ sản xuất .
1.1.1.1 Khái niệm về hộ sản xuất
Trong các văn bản pháp luật, hộ sản xuất được xem như một chủ thể trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được định nghĩa là một đơn vị mà các thành viên có hộ khẩu chung, tài sản chung và hoạt động kinh tế chung. “Hộ sản xuất” là một thuậ
53 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hữu Lũng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t ngữ được dùng trong hoạt động cung ứng vốn tín dụng cho hộ gia đình để làm kinh tế chung cho cả hộ. Hộ sản xuất được quan niệm là một đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động SXKD và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động SXKD của mình.
Phân loại hộ sản xuất gồm những đối tượng sau:
+ Hộ chuyên sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp có tính chất tự cung, tự cấp do cá nhân làm chủ hộ, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của mình.
+ Hộ cá thể, tư nhân làm kinh tế hộ gia đình theo nghị định 29 ngày 29/03/1998.
+ Hộ là thành viên nhận khoán của các tổ chức kinh tế hợp tác, các doanh nghiệp nhà nước.
+ Các cá nhân là nhóm kinh doanh theo nghị định 66/HĐBT ngày 02/03/1992.
Lĩnh vực hoạt động chủ yếu của hộ sản xuất nói trên là các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp ở nông thôn, thị trấn, thị xã ven đô và thường khi nói đến hộ sản xuất thì người ta thường nghĩ đến hộ nông dân là chủ yếu vì hộ nông dân chiếm phần lớn dân số cả nước và chiếm đa số lực lượng lao động trên toàn lãnh thổ.
1.1.1.2 Đặc điểm kinh tế hộ
Tại Việt Nam hiện nay, trên 80% dân số là sinh sống ở nông thôn và đại bộ phận còn sản xuất mang tính chất tự cấp, tự túc. Trong điều kiện đó hộ là đơn vị kinh tế cơ sở mà chính ở đó diễn ra quá trình phân công tổ chức lao động, chi phí cho sản xuất, tiêu thụ, thu nhập, phân phối và tiêu dùng.
Hộ được hình thành theo những đặc điểm tự nhiên, rất đa dạng. Tuỳ thuộc vào hình thức sinh hoạt ở mỗi vùng và địa phương mà hộ hình thành một kiểu cách sản xuất, cách tổ chức khác nhau. Trong mô hình sản xuất chủ hộ cũng là người lao động trực tiếp, làm việc có trách nhiệm và hoàn toàn tự giác. Sản xuất của hộ khá ổn định, vốn luân chuyển chậm so với các ngành khác.
Đối tượng sản xuất phát triển hết sức phức tạp và đa dạng, chi phí sản xuất thường là thấp, vốn đầu tư có thể rải đều trong quá trình sản xuất của hộ mang tính thời vụ, cùng một lúc có thể kinh doanh sản xuất nhiều loại cây trồng, vật nuôi và các ngành nghề khác. Vì vậy thu nhập cũng rải đều, đó là yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển toàn diện.
Trình độ sản xuất của hộ ở mức thấp chủ yếu là sản xuất thủ công, máy móc có ít, giản đơn, sản xuất mang tính tự phát, quy mô nhỏ. Hộ sản xuất nói chung vẫn hoạt động SXKD theo tính chất truyền thống thái độ lao động thường bị chi phối bởi tình cảm đạo đức gia đình nếp sinh hoạt theo phong tục tập quán của làng quê. Trình độ quản lý thấp, vốn ít quy mô hoạt động nhỏ chủ yếu trong phạm vi một gia đình hoặc lẻ tẻ vài ba hộ tập trung vốn để cùng sản xuất.
1.1.1.3. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
Từ khi Nghị quyết X- Bộ chính trị ban hành, hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ, năng động trong kinh tế nông thôn, nhờ đó người nông dân gắn bó với ruộng đất hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm canh, tăng vụ, khai phá thêm hàng ngàn héc ta đất mới, biết làm tăng thêm độ màu mỡ của đất bằng nhiều biện pháp. Họ đã mạnh dạn vận dụng tiến bộ KHKT vào trong sản xuất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, hộ sản xuất có thể dễ dàng đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn. Kinh tế hộ phát triển góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong cả nước nói chung, kinh tế nông thôn nói riêng và cũng từ đó tăng mọi nguồn thu cho ngân sách địa phương cũng như ngân sách nhà nước.
Không những thế hộ sản xuất còn là người bạn hàng tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của NHNo trên thị trường nông thôn. Vì vậy họ có mối quan hệ mật thiết với NHNo đó là thị trường rộng lớn có nhiều tiềm năng để mở rộng đầu tư tín dụng mở ra nhiều vùng chuyên canh cho năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Đồng thời kinh tế hộ phát triển gắn với việc tồn tại, phát triển của NHNo trong quá trình cạnh tranh phát triển.
1.1.1.4 Chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất
Nước ta là một nước nông nghiệp phần lớn dân số sống ở nông thôn, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội dựa trên nền sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức rõ vai trò của nông nghiệp trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước có những chính sách về nông nghịêp, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển làm nòng cốt để phát triển kinh tế nông thôn.
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI, với đường lối đổi mới nông nghiệp được xác định là "mặt trận hàng đầu" tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và nhà nước đã ban hành những chủ trương, chính sách để thực hiện định hướng nêu trên. Nhờ đó kinh tế hộ sản xuất cần được đặt vào đúng vị trí của nó. Tháng 4/1988 Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết 10 nhằm cụ thể hoá một bước quan điểm đổi mới của đại hội VI đối với lĩnh vực quản lý nông nghiệp, tạo điều kiện cho việc hình thành và thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất phát triển. Từ đây hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh và là đơn vị kinh tế cơ sở ở nông thôn.
Đại hội lần thứ VII của Đảng với chủ trương đúng đắn phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý vĩ mô của nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nước ta nói chung và đặc biệt đối với hộ kinh tế gia đình nói riêng. Khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một chủ thể kinh tế ở nông thôn được luật thừa nhận quyền sử dụng đất đai (5 quyền), quyền vay vốn tín dụng, quyền lựa chọn phương án SXKD có lợi nhất, quyền tự do lưu thông tiêu thụ sản phẩm.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII với chủ trương CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn nói chung, hộ sản xuất nói riêng đã được đặt lên vị trí quan trọng hàng đầu. NQTƯ 6 lần 1 với chủ trương " Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước nhất là CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn" Đã khẳng định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và về lâu dài làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Cùng với chính sách về các thành phần kinh tế, kinh tế hộ được khuyến khích phát triển hơn.
1.1.2. Vai trò của tín dụng NH và những yếu tố ảnh hưởng tới quan hệ tín dụng và hộ sản xuất.
1.1.2.1. Vai trò tín dụng ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế hàng hoá, nhu cầu đi vay của người thiếu vốn và vay của người thừa vốn tại cùng một thời điểm đã hình thành nên quan hệ vay mượn lẫn nhau, trên cơ sở đó hoạt động tín dụng ra đời. Cùng một lúc có chủ thể kinh tế tạm thời dư thừa một khoản vốn tiền tệ trong khi các chủ thể kinh tế khác lại có nhu cầu cần bổ sung vốn. Nếu tình trạng này không được giải quyết thì quá trình sản xuất có thể bị ngưng trệ ở chủ thể này trong khi vốn đang nằm im ở các chủ thể khác. Kết quả là nguồn lực của xã hội không được sử dụng một cách có hiệu quả nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục. Do đó, để giải quyết vấn đề này cần thiết phải có một trung gian đứng ra tập trung các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, cần đầu tư thu lãi để cho vay lại đối với những chủ thể cần vốn. Đó chính là các trung gian tài chính mà chủ yếu là các NHTM. Và việc NHTM tập trung vốn dưới hình thức cho vay gọi là tín dụng NH.
Vậy, Tín dụng NH là quan hệ tín dụng bằng tiền giữa một bên là NH - tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Trong đó NH giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay và hoạt động theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Trong hoạt động tín dụng của NHTM còn sử dụng thuật ngữ “tín dụng hộ sản xuất”. Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng NH giữa một bên là NH với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ xã hội, có thừa kế, có quyền sở hữu tài sản, có phương án sản xuất kinh doanh hiện tại, có tài sản thế chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia tín dụng với NH.
Sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của tín dụng NH đã chứng tỏ tính cần thiết và vai trò của nó trong nền KTXH. Nhờ vốn tín dụng các đơn vị kinh tế đảm bảo quá trình SXKD bình thường mà còn mở rộng sản xuất cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh. Đối với hộ sản xuất tín dụng NH có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ, thể hiện:
a) Đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất để duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Hiện tượng thừa, thiếu vốn tạm thời thường xảy ra đối với các tổ chức kinh tế nói chung và đối với hộ sản xuất nói riêng là tất yếu. Việc phân phối vốn tín dụng cho các hộ sản xuất đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục.
Ngoài ra, vốn tín dụng giúp các hộ sản xuất mở rộng được sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới, giảm giá thành là điều kiện để tăng cường sức cạnh tranh của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
b) Góp phần thúc đẩy tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn, tập trung sản xuất của tín dụng NH đã thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp cũ. Hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các ngân hàng phải đảm bảo được độ an toàn và có lợi nhuận, tránh rủi ro trong khi cho vay. Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, NH phải quan tâm đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất vay. Vì vậy NH sẽ thúc đẩy các hộ sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và lưu thông. Trên cơ sở đó hộ sản xuất biết phải tập trung vốn như thế nào để sản xuất góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
c) Tạo điều kiện phát huy các ngành nghề truyền thống ngành nghề mới giải quyết việc làm cho người lao động.
Việt nam là một nước có nhiều ngành nghề truyền thống nhưng chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Trong điều kiện hiện nay, bên cạnh việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá chúng ta cũng phải quan tâm đến ngành nghề truyền thống. Phát huy được làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy được nội lực của kinh tế hộ và tín dụng NH sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành nghề mới thu hút được số lao động nhàn rỗi, giải quyết việc làm cho người lao động. Từ đó góp phần làm phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp mở rộng thương nghiệp... Do đó tín dụng NH là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành nghề kinh tế trong hộ sản xuất phát triển.
Tín dụng NH góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, tăng tính hàng hoá của sản phẩm nông nghiệp. Ngoài ra nó còn góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân và góp phần đẩy lùi tệ nạn cho vay nặng lãi tại nông thôn
d) Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị xã hội
Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất tín dung NH đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, hạn chế được những tiêu cực xã hội.
Tín dụng NH góp phần thực hịên tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước, điển hình là chính sách xoá đói giảm nghèo. Tín dụng NH thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh làm thay đổi bộ mặt nông thôn, các hộ nghèo trở nên khá hơn và các hộ khá trở nên giàu hơn. Tệ nạn xã hội dần dần được xoá bỏ như: rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan... Qua đây chúng ta thấy được vai trò của tín dụng NH trong việc củng cố lòng tin của nông dân nói chung và của hộ sản xuất nói riêng và sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
1.1.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng tới quan hệ tín dụng giữa NH và hộ sản xuất.
- Chính sách của chính phủ: Trên 80% dân số nước ta sống chủ yếu ở nông thôn, hình thức sản xuất chủ yếu là làm kinh tế ở quy mô gia đình. Vì vậy, sự phát triển kinh tế hộ sản xuất có ảnh hưởng lớn tới mọi mặt đời sống kinh tế đất nước. Do đó, chính sách đối với hộ sản xuất có vị trí quan trọng trong chính sách kinh tế quốc gia, trong đó chính sách về đầu tư vốn có ý nghĩa quan trọng nhằm giải quyết những khó khăn về vốn SXKD của hầu hết các hộ sản xuất. Các chính sách của chính phủ sẽ tạo ra cơ sở để vốn tín dụng NH tiếp cận với hộ sản xuất.
- Chính sách của ngân hàng: Trong SXKD, mục tiêu hàng đầu là đạt được lợi nhuận và an toàn vốn trong kinh doanh. Mức độ rủi ro đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn cao do đó hạn chế nhiều trong việc mở rộng cho vay và giảm hiệu quả tín dụng NH đối với hộ sản xuất. Đối với NHNo, hộ gia đình là khách hàng truyền thống và là đối tượng phục vụ chính, do vậy chính sách cho vay của NH có ảnh hưởng khối lượng cho vay các hộ sản xuất.
- Sự phát triển của hộ sản xuất: Hiện nay phần lớn hộ gia đình năng lực sản xuất kinh doanh thấp kém do trình độ kinh nghiệm còn hạn chế, kinh tế hộ còn trong giai đoạn tự cung tự cấp, sản xuất hàng hoá còn chưa phát triển. Cho nên, việc cho vay của ngân hàng đối với hộ sản xuất còn gặp nhiều khó khăn.
1.2. Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất.
1.2.1 Khái niệm chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất.
Tín dụng là một trong những sản phẩm chính của NH. Đây là hình thức sản phẩm mang hình thái phi vật chất, là dịch vụ đặc biệt. Sản phẩm này chỉ có khả năng đánh giá được chất lượng sau khi khách hàng đã sử dụng. Do vậy, có thể hiểu chất lượng tín dụng NH là việc đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn hoặc hạn chế rủi ro về vốn, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
+ Xét trên góc độ hoạt động kinh doanh của NH thì chất lượng tín dụng là khoản tín dụng được đảm bảo an toàn, sử dụng đúng mục đích, phù hợp với chính sách tín dụng của NH, hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn đem lại lợi nhuận cho NH với chi phí nghiệp vụ thấp, tăng khả năng cạnh tranh của NH trên thị trường.
+ Xét trên góc độ lợi ích của khách hàng thì chất lượng tín dụng là khoản tín dụng được cho vay phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục tín dụng đơn giản và quan trọng hơn khoản đi vay đó phải mang lại lợi ích kỳ vọng cho khách hàng.
+ Đối với nền kinh tế: Tín dụng có chất lượng là phải góp phần phục vụ sản xuất, tạo công ăn việc làm thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng mong muốn.
Chất lượng tín dụng NH đối với hộ sản xuất cũng không nằm ngoài chất lượng tín dụng nói chung. Có thể hiểu chất lượng tín dụng NH đối với hộ sản xuất là vốn cho vay của NH được hộ sản xuất đưa vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ...tạo ra được một số tiền lớn đủ để hoàn trả cả gốc và lãi, trang trải chi phí khác và có lợi nhuận, phù hợp với các điều kiện của NH và của nền KTXH.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng NH đối với hộ sản xuất.
Chất lượng tín dụng là chỉ tiêu quan trọng trong hoạt động cho vay của NH. Nó phản ánh lợi ích do vốn tín dụng mang lại cho khách hàng và NH về mặt kinh tế. Việc đánh giá này phải thông qua các chỉ tiêu sau:.
1.2.2.1 Chỉ tiêu định tính
- Bảo đảm nguyên tắc cho vay: NH là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Do vậy các nguyên tắc hoạt động của NH rất chặt chẽ. Với mỗi NH lại có những nguyên tắc khác nhau. Để đánh giá chất lượng một khoản cho vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có đảm bảo 2 nguyên tắc cơ bản của cho vay là cho vay đúng mục đích và cho vay phải hoàn trả đúng hạn và có lãi hay không. Đây là 2 nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một khoản cho vay có chất lượng nào cũng phải đảm bảo.
- Cho vay bảo đảm có điều kiện:
Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với hộ sản xuất phải thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh NHNo & PTNT đóng trụ sở. Có xác nhận hộ khẩu nơi thường trú và có xác nhận của UBND xã (phường) nơi cho phép hoạt động SXKD.
Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, phù hợp với mục tiêu phát triển KTXH.
Hộ sản xuất có dự án, phương án SXKD có hiệu quả.
Hộ sản xuất thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay: Đối với hộ vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản, đối với hộ trên 10 triệu đồng phải thực hiện biện pháp đảm bảo tiền vay bằng tài sản.
- Quá trình thẩm định: Đây là một chỉ tiêu định tính mang tính quan trọng nhất quyết định tới chất lượng khoản cho vay và là một cách tốt nhất để NH nắm được thông tin về khách hàng, về năng lực pháp luật của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng… Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình quyết định cho vay và theo dõi khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các các quy định về quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay của từng NH. Một khoản vay có chất lượng là một khoản vay đã được thẩm định và đảm bảo các bước của quá trình thẩm định. Quá trình thẩm định một khoản cho vay hộ sản xuất rất phức tạp do đặc điểm sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất kinh doanh tổng hợp. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay là bắt buộc để một khoản cho vay đạt chất lượng.
1.2.2.2 Chỉ tiêu định lượng
- Khả năng thu nợ cho vay hộ sản xuất (HSX): Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng thu hồi được giữa tổng doanh số thu nợ và tổng doanh số cho vay hộ sản xuất của NH trong một thời kỳ. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
- Chỉ tiêu về nợ quá hạn (NQH) hộ sản xuất : Đây là chỉ tiêu được sử dụng chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng NH đối với hộ sản xuất. Hoạt động NH nói chung và hoạt động tín dụng NH ở hộ sản xuất nói riêng đều chứa đựng nhiều rủi ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn kinh doanh của NH. Do vậy, việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho vay đúng hạn, thể hiện qua tỷ lệ NQH thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý NH. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức sau:
Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ khó đòi và tỷ lệ nợ không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ này ở mức cao là dấu hiệu cho thấy nguy cơ mất vốn cao do các khoản cho vay có vấn đề.
- Vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất (HSX): Đây là một chỉ tiêu xem xét chất lượng tín dụng hộ sản xuất, phản ánh tốc độ luân chuyển vốn trong năm. Chỉ tiêu này càng lớn thì chất lượng tín dụng càng cao và ngược lại.
- Chỉ tiêu về khả năng sinh lời của Ngân hàng trong cho vay hộ sản xuất.
Lợi nhuận = Tổng thu - tổng chi - thuế.
Trong tổng thu, lãi thu được từ cho vay là chủ yếu, mà đối với NHNO hộ sản xuất là khách hàng chính của NH, cho nên lợi nhuận NH là thước đo hiệu quả sử dụng vốn của NH cũng như chất lượng cho vay hộ sản xuất.
- Một số chỉ tiêu khác:
+ Doanh số cho vay bình quân 1 hộ sản xuất: Chỉ tiêu này phản ánh số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất. Số tiền vay càng cao chứng tỏ hiệu quả cũng như chất lượng cho vay tăng lên, thể hiện sức sản xuất cũng như quy mô hoạt động SXKD của hộ sản xuất tăng lên.
+ Tỷ lệ cho vay trung dài hạn : Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn của hộ sản xuất để mở rộng sản xuất kinh doanh theo đánh giá tỷ lệ tối thiểu là 30% tổng dư nợ (mục tiêu của NHNo & PTNT Việt Nam).
+ Tốc độ tăng trưởng dư nợ hộ sản xuất trong năm: Chỉ tiêu này cho thấy kết quả hoạt động tín dụng. Sử dụng kết hợp với chỉ tiêu tỷ lệ NQH có thể biết được chất lượng cũng như hiệu quả của tín dụng NH đối với hộ sản xuất. Từ chỉ tiêu này có thể tính ra tốc độ tăng trưởng bình quân một giai đoạn và cho phép đánh giá toàn diện hơn chất lượng tín dụng một thời kỳ nào đó.
1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng NH đối với hộ sản xuất.
1.2.3.1 Yếu tố môi trường:
- Điều kiện tự nhiên xã hội: Tác động trực tiếp đến quá trình SXKD của hộ sản xuất. Nhất là những hộ sản xuất nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự nhiên. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, ít bị ảnh hưởng của thiên tai như thời tiết khí hậu, SXKD suôn sẻ thì hộ sản xuất có khả năng tài chính để trả nợ NH. Nhưng nếu thiên tai bất ngờ xảy ra thì hộ sản xuất sẽ bị thiệt hại lớn về kinh tế, việc trả nợ NH sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Diễn biến của tự nhiên là không để đoán trước và khó có thể tránh được khi thiên tai xẩy ra. Cho nên môi trường tự nhiên là yếu tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
- Môi trường kinh tế xã hội: Nền kinh tế ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá, làm cho hoạt động NH và hộ sản xuất phát triển thuận lợi làm ăn có hiệu quả và mang lại hiệu quả kinh tế. Từ đó các khoản vay được hoàn trả đúng thời hạn cả tiền gốc và lãi. Trên cơ sở đó chất lượng tín dụng hộ sản xuất được nâng lên.
- Môi trường chính trị pháp lý: Môi trường chính trị pháp luật ổn định tạo điều kiện và cơ sở pháp lý để hoạt động tín dụng NH cũng như hoạt động SXKD của hộ sản xuất tiến hành thuận lợi. Những quy định cụ thể của pháp luật về tín dụng và các lĩnh vực khác có liên quan đến hoạt động tín dụng là cơ sở để xử lý, giải quyết khi xảy ra các tranh chấp tín dụng. Vì vậy môi trường chính trị pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
1.2.3.2 Yếu tố thuộc về khách hàng:
Yếu tố này liên quan đến khả năng trả nợ cả gốc và lãi của khách hàng cho NH bao gồm một số nhân tố cơ bản sau:
- Uy tín của khách hàng: Thể hiện dưới nhiều khía cạnh đa dạng như chất lượng, giá cả hàng hoá, các quan hệ tài chính…Uy tín khẳng định và kiểm nghiệm bằng kết quả thực tế trên thị trường. Nhân tố này còn ảnh hưởng đến khả năng rủi ro do chủ quan của khách hàng gây nên: rủi ro về đạo đức, thiếu năng lực, trình độ, kinh nghiệm…ảnh hưởng đến khả năng SXKD của hộ sản xuất, do đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng NH.
- Năng lực tài chính của khách hàng
- Phương án vay vốn
- Đảm bảo cho khoản vay: Có 3 loại thường được dùng là cầm cố & chiết khấu thương phiếu, bảo đảm bằng thế chấp tài sản, bảo đảm bằng sự bảo lãnh
1.2.3.3 Yếu tố thuộc về Ngân hàng:
- Chính sách tín dụng của NH: Là một trong những chính sách quan trọng nhất của NH. Có chính sách tín dụng đúng đắn sẽ đưa ra được hình thức cho vay phù hợp với nhu cầu, thu hút được khách hàng, đồng thời khuyến khích khách hàng trả nợ đúng hạn. Do đó nó ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng.
- Hệ thống thông tin NH sẽ tạo điều kiện để NH nắm bắt được các thông tin về NH trước khi quyết định một khoản cho vay, yếu tố này rất quan trọng vì nó góp phần ngăn chặn những khoản cho vay chất lượng không tốt ngay từ đầu.
- Quy trình tín dụng: Được bắt đầu từ khi chuẩn bị cho vay, kiểm tra quá trình cho vay đến khi thu được nợ. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quá trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển theo đúng kế hoạch đã định từ đó đảm bảo được chất lượng tín dụng.
- Cán bộ NH: Trong quá trình cho vay, cán bộ tín dụng có vai trò quan trọng nhất. Họ kiểm tra tính cách, thẩm định dự án xin vay vốn của khách hàng.
- Công tác tổ chức của NH: Được sắp xếp một cách có kế hoạch, là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và quản lý hiệu quả vốn tín dụng. Trên cơ sở đó có tín dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng.
- Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng: NH cần có trang thiết bị tiên tiến phù hợp với khả năng tài chính và quy mô hoạt động của NH. Qua đó NH có thể đáp ứng các yêu cầu dịch vụ của khách hàng và giúp các cấp quản lý co thông tin nhanh, đầy đủ, chính xác để ra quyết định kịp thời.
1.2.4. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng NH đối với hộ sản xuất.
Tín dụng NH có vai trò hết sức to lớn đối với hộ sản xuất cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Nó được coi là công cụ đắc lực của Nhà nước, là đòn bẩy kinh tế, là động lực thúc đẩy hộ sản xuất phát triển một cách toàn diện, từ đó phát huy hết được vai trò to lớn của mình đối với quá trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn cũng như đối với hộ sản xuất còn nhiều vấn đề giải quyết và tháo gỡ. Do đó việc nâng cao chất lượng tín dụng NH đối với hộ sản xuất là điều rất quan trọng đối với NH nói chung và NHNO & PTNT Việt Nam nói riêng.
chương II
Thực trạng cho vay hộ sản xuất và chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo & PTNT Hữu Lũng.
2.1. Khái quát chung về chi nhánh nhno & ptnt hữu lũng.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Trước những khó khăn chung của nền kinh tế những năm đầu của thập kỷ 90 NHNo & PTNT Việt Nam ra đời theo nghị định 53 ngày 26/03/1988 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ), NHNo & PTNT Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt, tổ chức theo mô hình tổng công ty Nhà nước, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn đầu tư. Chi nhánh NHNo & PTNT Hữu Lũng là đơn vị thành viên của NHNo & PTNT Việt Nam được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 1988.
Buổi ban đầu thành lập, Chi nhánh NHNo & PTNT Hữu Lũng phải đối mặt không ít khó khăn, do nền sản xuất trong huyện đình đốn, tiền mặt căng thẳng, thu không đủ chi, bộ máy cồng kềnh, biên chế đến hơn 70 người trong khi đó nguồn vốn và dư nợ quá nhỏ bé chỉ có vài trăm triệu đồng, tỷ trọng nợ quá hạn chiếm đến 75% trên tổng dư nợ. Xuất phát từ những điểm đó cho thấy nếu có chuyển hướng đầu tư, không cách mạng ngay bản thân chính nội bộ NH khó có thể tồn tại được.
Trong khi vừa thực hiện chủ trương đổi mới theo cơ chế, vừa tiếp tục nhận bàn giao những khó khăn vốn có do lịch sử để lại, có thể nói giai đoạn này cái cũ còn tồn tại chưa mất đi, cái mới chưa hình thành, thêm vào đó xã hội có nhiều diễn biến phức tạp. Để khắc phục tình trạng ấy hướng tồn tại và phát triển duy nhất là chủ động sắp xếp bộ máy, tinh giảm biên chế đồng thời phải mở rộng kinh doanh thực hiện phương châm “đi vay để cho vay”.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHNo & PTNT Hữu Lũng
Để phù hợp với sự biến động của nền kinh tế cũng như thoả mãn nhu cầu tối đa của khách hàng, cơ cấu tổ chức bộ máy của Chi nhánh như sau:
Ban lãnh đạo Chi nhánh gồm 1 Giám đốc và 2 phó Giám đốc. Giám đốc NH chịu trách nhiệm tổ chức điều hành hoạt động của NH theo đúng chức năng và nhiệm vụ. 1 phó Giám đốc phụ trách điều hành công tác tín dụng và 1 phó giám đốc phụ trách điều hành công tác kế toán, ngân quỹ, hành chính.
Phòng tín dụng: Thực hiện các hoạt động tác nghiệp, thẩm định, cho vay, thu nợ và quản lý dư nợ.
Phòng kế toán: Chủ yếu thực hiện công việc giao dịch với khách hàng.
Phòng hành chính: Đảm nhận việc sắp xếp nhân sự, quản lý tất cả những vấn đề liên quan đến nhân sự của tổ chức như: lương, chế độ khen thưởng, kỷ luật…
Phòng ngân quỹ: Chịu trách nhiệm toàn bộ những việc có liên quan đến việc nhập, xuất, bảo quản tiền mặt, ngân phiếu thanh toán.
2.1.3. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNo & PTNT Hữu Lũng.
Là một NHTM hoạt động ở huyện miền núi khi chuyển sang kinh doanh gặp không ít những khó khăn. Nhưng Chi nhánh vẫn kiên trì đi theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Được sự chỉ đạo của NHNo & PTNT Tỉnh Lạng Sơn , sự lãnh đạo của cấp uỷ chính quyền địa phương cũng như sự ủng hộ của các ngành các cấp cùng với sự cố gắng nỗ lực của tập thể lãnh đạo, CBCNV chi nhánh đã từng bước khắc phục những khó khăn, đến nay đã đạt được một số kết quả lệ sau:
2.1.3.1. Công tác nguồn vốn
Là nghiệp vụ được Chi nhánh luôn coi trọng bởi nó quyết định khả năng kinh doanh của NH cơ sở trong việc mở rộng tín dụng hoặc thu hẹp tín dụng, đồng thời tạo tiền đề để tăng lợi nhuận và các lợi thế khác về tài chính. Nguồn vốn của Chi nhánh được hình thành cụ thể như sau:
- Nguồn vốn huy động tại địa phương bao gồm: Tiền gửi thanh toán của kho bạc nhà nước, của các đơn vị trong huyện như bưu điện, bảo hiểm, cửa hàng xăng dầu ... là nguồn tiền gửi không kỳ hạn thường không ổn định tăng giảm thất thường, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm dưới 12 tháng có chia ra các kỳ hạn 9 tháng, 6 tháng, 3 tháng. Với mỗi kỳ hạn có từng loại lãi suất khác nhau. Hiện nay lãi suất huy động cao nhất là 0.73%, lãi suất thấp nhất có kỳ hạn 3 tháng là 0.62%.
Nguồn vốn đi vay NH cấp trên chủ yếu là NHNo & PTNT Tỉnh Lạng sơn.
Bảng 1. Tình hình nguồn vốn của NHNo & PTNT Hữu Lũng
Đơn vị: Triệu đồng
T
T
Năm
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
So sánh năm 2005 với
(+/-)
%
2003
2004
2003
2004
I
Nguồn vốn huy động tại chỗ
24.018
34.500
43.214
19.196
8.714
179,9
125,3
1
Tiền gửi KKH TCKT
4.460
11.325
8.511
4.051
- 2.814
190,8
75,2
2
Tiền gửi TKKKH
2.604
1.000
1.997
- 607
997
76,7
199,7
3
Tiền gửi TK dưới 12 tháng
10.131
7.450
10.321
190
2.871
101,9
138,5
4
Tiền gửi TK trên 12 tháng
6.823
14.725
22.385
15.562
7.660
328,1
150,0
II
Nguồn vốn vay NH cấp trên
79.723
82.718
81.749
2.026
- 969
102,5
98,8
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của NHNo Hữu Lũng)
Qua bảng 1, ta thấy rõ nguồn vốn huy động tại chỗ tăng khá nhanh, năm 2005 so với năm 2003 tăng 19.196 triệu đồng. Trong đó nguồn tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế tăng so với năm 2003 là 4.051 triệu đồng. Điều đó chứng tỏ đơn vị đã làm tốt công tác tuyên truyền mở tài khoản tại NH và làm tốt việc thanh toán và cung ứng tiền mặt. Tiền gửi tiết kiệm trên 12 tháng cũng tăng khá nhanh so sánh từ năm 2003 đến năm 2005 tăng 15.562 triệu đồng, bình quân mỗi năm tăng 7.78 triệu đồng, tạo điều kiện cho NH mở rộng đầu tư cho vay trung dài hạn, đáp ứng nhu cầu vay vốn của các hộ sản xuất hiện nay.
2.1.3.2. Tình hình sử dụng vốn
Là hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM, thực hiện việc cấp tín dụng cho khách hàng. Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu quản lý chủ yếu của NH là lợi nhuận, trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế. Do làm tốt công tác hoạt động tín dụng là an toàn, bền vững và co hiệu quả. Trong năm qua tuy có nhiều khó khăn, song được sự quan tâm của NHNo Việt Nam, cùng với sự quyết tâm cao của đội ngũ cán bộ nên Chi nhánh đã đạt được kết quả:
Bảng 2. Tình hình dư nợ qua các năm
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
So sánh năm 2005 với
(+/-)
(%)
2003
2004
2003
2004
NHNo
103.302
113.722
121.104
17.802
7.382
117,2
106,4
NH N.nghèo
18.065
18.517
21.032
2.967
2.515
116,4
113,6
Tổng dư nợ
121.367
132.239
142.136
20.769
9.897
117,1
107,4
(Nguồn: Báo cáo tín dụng hàng năm của NHNo Hữu Lũng)
Năm 2005 tổng dư nợ so với năm 2003 tăng 20.769 triệu đồng. Chủ yếu là t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32745.doc