Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Văn Bàn

LỜI NÓI ĐẦU V iệt Nam là nước nông nghiệp với gần 80% dân số sống ở địa bàn nông thôn.Trong vài năm gần đây nông nghiệp nước ta đã có sự chuyển biến vượt bậc cả về năng suất và chất lượng. Vị trí vài trò của kinh tế nông nghiệp nông thôn đã được khẳng định trong các giai đoạn phát triển lịch sử đất nước. Nghị Quyết 10 của Bộ chính trị 1986 đã khẳng định: Hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế đất nước. Và cũng từ đó đời sống của nhân dân không ngừ

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Văn Bàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng được nâng lên, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. Vị trí của hộ sản xuất trong việc phát triển kinh tế hàng hóa nông nghiệp là vô cùng quan trọng, nó là nguồn lực dồi dào cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Đồng thời nó là thị trường tiêu thụ sản phẩm của ngành công nghiệp, tạo công ăn việc làm, tận dụng nguồn lao động trong nông thôn thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển và góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội. Dự thảo văn kiện đại hội IX của Đảng về phương hướng phát triển nông nghiệp nông thôn 2001- 2010 và kế hoạch 5 năm đã xác định các mục tiêu chiến lược: Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng khoảng 4% trong 5 năm đầu và 4,5% trong 10 năm. Theo kinh nghiệm quốc tế để tăng sản lượng thu hoạch nếu bỏ vốn đầu tư với hệ số 3,3 đến 3,5 lần, thì nông nghiệp nông thôn sẽ tăng từ 15-20%/ năm. Việc tạo ra thị trường vốn đến tận tay người nông dân đáp ứng được nhu cầu sản xuất nông nghiệp cũng như tính chất mùa vụ, chính sách sản phẩm, lãi suất hợp lý là yêu cầu quan trọng và cần thiết. Cùng với việc đổi mới của nền kinh tế đất nước, hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và Chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Văn Bàn nói riêng đã xác định rõ một trong những khách hàng lớn của mình là các hộ sản xuất. Văn Bàn là một huyện miền núi còn nghèo nàn, lạc hậu, ở đây các hoạt động thương mại ít, phần lớn là các hộ sản xuất nông nghiệp trồng hoa mầu, số còn lại là buôn bán nhỏ lẻ, chính vì vậy, việc phát triển quan hệ tín dụng đối với hộ sản xuất là điều hết sức quan trọng và cần thiết đối với sự phát triển của Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn. Song hiện nay quan hệ tín dụng giữa Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn đối với các hộ sản xuất còn hạn chế nên việc mở rộng cho vay hộ sản xuất đang là một hướng ưu tiên và là nhiệm vụ quan trọng của đơn vị nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp theo Nghị quyết Trung ương Đảng lần VI. Do vậy việc nghiên cứu thực trạng tìm ra nguyên nhân và các giải pháp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để mở rộng cho vay hộ sản xuất là hết sức cần thiết, tuy nhiên bên cạnh việc mở rộng cho vay hộ sản xuất thì việc nâng cao chất lượng tín dụng, cũng là điều mà Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn cũng hết sức quan tâm và chú trọng. Nếu chất lượng tín dụng đạt ở mức cao sẽ tạo đà thúc đẩy hoạt động kinh doanh Ngân hàng, từ đó thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế nước ta đi lên. Nhận thức rõ về việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất là quan trọng đối với toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và NHNo&PTNT huyện Văn Bàn nói riêng, trong quá trình học tập và nghiên cứu cũng như thực tập tại đơn vị bằng những kiến thức mà em thu lượm được, em đã chọn đề tài: " Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Văn Bàn " Làm khoá luận của mình, với mong muốn rằng sẽ đóng góp một phần công sức để nâng nâng cao hiệu quả, chất lượng tín dụng đối với cho vay hộ sản xuất tại Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bài khoá luận sẽ không tránh khỏi những khuyến khuyết vì vậy em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, các bạn và tất cả những ai quan tâm đến lĩnh vực này. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của cô giáo Hà Thị Sáu cùng toàn thể các cán bộ của NHNo&PTNT huyện Văn Bàn đã tạo điều kiện và giúp em hoàn thành khoá luận. CHƯƠNG 1 TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT 1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT 1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng ngân hàng là vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như: Tín dụng Ngân hàng, tín dụng thương mại, tín dụng Nhà nước, tín dụng tiêu dùng. Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các Ngân hàng, tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân khác, được thực hiện dưới hình thức tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Điều 20: Luật các tổ chức tín dụng quy định: “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”. “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác.” Do đặc điểm riêng của mình tín dụng Ngân hàng đạt được ưu thế hơn các hình thức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm tín dụng bằng tiền, vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng đầu tư chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng Ngân hàng ngày càng trở thành hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có. Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ tín dụng “Hộ sản xuất ”. Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng Ngân hàng giữa một bên là Ngân hàng với một bên là hộ sản xuất hàng hoá.Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ xã hội, có thừa kế, có quyền sở hữu tài sản, có phương án kinh doanh hiệu quả, có tài sản thế chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín dụng với Ngân hàng đây cũng chính là điều kiện để hộ sản xuất đáp ứng được điều kiện vay vốn Ngân hàng. Đối với Ngân hàng, từ khi chuyển sang hệ thống Ngân hàng 2 cấp, hạch toán kinh tế và kinh doanh độc lập, các Ngân hàng phải tự tìm kiếm thị trường với mục tiêu an toàn và lợi nhuận. Thêm vào đó là Nghị định 14/CP ngày 2/3/1993 của thủ tướng Chính phủ, Thông tư 01/ TĐ-NH ngày 26/3/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn Nghị định 14/CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông lâm ngư nghiệp. Và gần đây là quy định số 67/ 1999/ QĐ - TTg của thủ tướng Chính phủ, văn bản số 320/ CV- NHNN của thống đốc NHNN hướng dẫn thực hiện quy định trên, văn bản số 791/NHNN- 06 của Tổng giám đốc NHNo Việt Nam về thực hiện một số chính sách Ngân hàng phục vụ phát triển nông thôn. Với các văn bản trên đã mở ra một thị trường mới trong hoạt động tín dụng. Trong khi đó hộ sản xuất đã cho thấy sản xuất có hiệu quả, nhưng còn thiếu vốn để mở rộng tiến hành sản xuất kinh doanh. Đứng trước tình trạng đó, việc tồn tại một hình thức tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là một tất yếu và phù hợp với cung cầu trên thị trường được môi trường xã hội, pháp luật cho phép. 1.1.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất Với chức năng làm trung gian tín dụng Ngân hàng nhận các khoản tiền nhàn rỗi tạm thời tiến hành đầu tư cho những hộ có khả năng phát triển, mở rộng sản xuất nhưng thiếu vốn. Như vậy, tín dụng Ngân hàng đã đem lại khoản thu cho những người có vốn nhàn rỗi đồng thời tạo cơ hội cho các hộ hoạt động tốt mở rộng dây truyền sản xuất, mua sắm thiết bị máy móc đổi mới công nghệ và tiếp cận với thông tin môi trường sản xuất, quản lý, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, tạo cho hộ sự chủ động và đa dạng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó tạo công ăn việc làm, thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá, cải thiện đời sống nhân dân. Như vậy, tín dụng Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá. Tín dụng Ngân hàng còn góp phần vào việc hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn giúp kinh tế hộ sản xuất phát triển, làm ăn có hiệu quả.Thông qua vốn tín dụng ngân hàng, các hộ sản xuất đã thực sự được trợ giúp và có cơ hội tự khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Việc mở rộng kinh tế hộ sản xuất là hướng đi có tầm chiến lược đóng vai trò quan trọng đối với việc xây dựng một nền kinh tế toàn diện. Thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn sẽ tạo thế & lực mới cho sự phát triển của đất nước. - Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển kinh tế Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất cùng với sự chuyên môn hoá sản xuất khi chưa thu hoạch sản phẩm, chưa có hàng hoá để bán thì chưa có thu nhập, nhưng trong khi đó họ vẫn cần tiền để trang trải cho các khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị và rất nhiều khoản chi phí khác. Trong điều kiện như vậy, các hộ sản xuất cần có sự trợ giúp của tín dụng Ngân hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục. Nhờ có sự hỗ trợ về vốn, các hộ sản xuất có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có khác như lao động, tài nguyên để cải tạo tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy cho việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý từ đó nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho mọi người. Ở Việt Nam, vai trò tín dụng càng trở nên quan trọng vì nước ta là nước kinh tế đang phát triển do đó nhu cầu về vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, nhu cầu vốn để đổi mới trang thiết bị là rất lớn. Hơn thế, là nước có nền kinh tế với đa phần vẫn là sản xuất nông nghiệp thì tín dụng sẽ khai thác triệt để nguồn lực tại chỗ ( nguyên vật liệu, nhân công , địa bàn...). Cũng chính vì thế mà thị phần của hộ sản xuất trong dư nợ của Ngân hàng nông nghiệp ngày càng tăng một cách đáng kể. - Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn sản xuất của tín dụng Ngân hàng đã được thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp cũ. Hiệu quả kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các Ngân hàng phải đảm bảo được độ an toàn và có lợi nhuận, tránh rủi ro trong cho vay. Bằng cách tập trung vốn vào các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giúp cho các hộ sản xuất càng có điều kiện để sản xuất có hiệu quả hơn thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng thời Ngân hàng phải đảm bảo hạn chế được rủi ro tín dụng. Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, Ngân hàng phải quan tâm đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất vay. Vì vậy Ngân hàng sẽ thúc đẩy các hộ sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và cho lưu thông. Trên cơ sở đó hộ sản xuất phải biết tập trung vốn như thế nào để sản xuất, góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. - Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề truyền thống, ngành nghề mới, giải quyết việc làm cho người lao động Việt Nam là một nước có nhiều làng nghề truyền thống, nhưng chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức.Trong điều kiện hiện nay, bên cạnh việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo đúng hướng công nghiệp hoá, chúng ta cần phải quan tâm đến các ngành nghề truyền thống có khả năng đạt hiệu quả kinh tế đặc biệt trong quá trình thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Phát huy được làng nghề truyền thống, cũng chính là phát huy được nội lực kinh tế hộ. Và tín dụng Ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành nghề mới thu hút được đông đảo lực lượng lao động. Từ đó góp phần phát triển toàn diện, nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu khẩu mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Do đó, tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành nghề kinh tế trong hộ sản xuất phát triển, tạo tiền đề để lôi cuốn các nghành nghề này phát triển một cách nhịp nhàng đồng bộ. - Vai trò của tín dụng Ngân hàng về mặt chính trị xã hội Tín dụng Ngân hàng không những đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội.Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động đó là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay ở nước ta. Có việc làm, người lao động có thu nhập sẽ hạn chế những tiêu cực xã hội. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các ngành nghề phát triển, giải quyết việc làm cho lao động thừa ở nông thôn, hạn chế luồng di dân vào thành phố. Thực hiện các ngành nghề này là do các nghề phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho người nông dân, đời sống văn hoá, kinh tế, xã hội tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị càng nhích lại gần nhau, hạn chế bớt sự phân hoá bất hợp lý trong xã hội, giữ vững an ninh chính trị. Ngoài ra, tín dụng Ngân hàng góp phần thực hiện tốt các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, điển hình là chính sách xoá đói giảm nghèo. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, giúp cho hộ sử dụng có hiệu quả hơn đồng vốn của mình, nắm bắt được cơ hội và thời cơ kinh doanh, các hộ nghèo trở nên khá hơn, hộ khá trở nên giầu hơn. Do đó tệ nạn xã hội dần dần được xoá bỏ như : rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn của lực lượng lao động. Qua đây, chúng ta thấy được vai trò to lớn của tín dụng Ngân hàng trong việc củng cố lòng tin của nông dân nói chung và hộ sản xuất nói riêng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà Nước. 1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT 1.2.1. Những vấn đề cơ bản về hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường 1.2.1.1. Khái niệm và phân loại hộ sản xuất a/ Khái niệm hộ sản xuất : Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần thấy rằng hộ sản xuất không chỉ có nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xuất nông nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất đã tồn tại qua nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục phát triển. Chúng ta có thể xem xét một số quan niệm khác nhau về hộ sản xuất. Trong một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ hộ là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà. Nhóm người đó bao gồm những người cùng chung huyết tộc và những người làm công. Liên hợp quốc cho rằng : “Hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ”. Trên góc độ ngân hàng, “Hộ sản xuất” là một thuật ngữ được dùng trong hoạt động cung ứng vốn tín dụng cho hộ gia đình để làm kinh tế chung của cả hộ. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam, hộ được xem như một chủ thể trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được định nghĩa là một đơn vị mà các thành viên có hộ khẩu chung, tài sản chung và hoạt động kinh tế chung. Một số thuật ngữ khác được dùng để thay thế thuật ngữ “Hộ sản xuất” là “Hộ”, “Hộ gia đình”. Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong quá trình xây dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng XHCN. Để phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, NHNo & PTNT Việt Nam ban hành phụ lục số 1 kèm theo quyết định số 499 A ngày 2/9/1993, theo đó thì khái niệm hộ sản xuất được hiểu như sau: “Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của mình” Thành phần chủ yếu của hộ sản xuất bao gồm: Hộ nông dân, hộ tư nhân, cá thể, hộ gia đình xã viên, hộ nông, lâm trường viên. Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn. Hộ sản xuất trong nhiều ngành nghề hiện nay phần lớn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các hộ này tiến hành sản xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi và kinh doanh ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề mới trên đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta trong thời gian qua. b/ Phân loại hộ sản xuất : Hiện nay ở nước ta kinh tế hộ sản xuất được phân thành 3 loại như sau: Loại 1: Các loại hộ sản xuất có vốn kỹ thuật, có khả năng lao động, biết tiết kiệm với môi trường kinh doanh, có khả năng thích ứng hòa nhập vào thị trường, tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả, biết quản lý lao động sản xuất phù hợp với thời vụ để sản phẩm tạo ra có thể tiêu thụ nhanh trên thị trường. Vì vậy các hộ sản xuất kinh doanh này luôn có nhu cầu mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh là chính đáng và cần thiết. Loại 2: Các loại hộ có sức lao động, làm việc chăm chỉ cần mẫn. Nhưng trong tay họ không có hoặc ít về tư liệu sản xuất.Thiếu thốn hoặc chưa có môi trường sản xuất kinh doanh. Các loại này chiếm số đông trong xã hội. Loại 3: Là những hộ không có sức lao động, hoặc có sức lao động nhưng lười biếng, không tích cực lao động, gặp rủi ro trong sản xuất kinh doanh như : ốm đau, gặp tai nạn và những hộ gia đình chính sách còn đang tồn tại trong xã hội. 1.2.1.2. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường Hộ sản xuất có vai trò rất lớn trong nền kinh tế thị trường điều đó được thể hiện : - Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá Lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá đã trải qua giai đoạn đầu tiên là kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình, tiếp theo là giai đoạn chuyển biến từ kinh tế hàng hoá nhỏ lên kinh tế hàng hoá quy mô lớn, đó là nền kinh tế hoạt động mua bán trao đổi bằng trung gian tiền tệ. Bước chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa trải qua thì khó có thể phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển. - Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng lao động Lao động là một trong những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư, lao động góp phần làm tăng của cải vật chất cho mọi quốc gia. Việt Nam có 80% dân số ở nông thôn, nhưng việc khai thác và sử dụng nguồn nhân lực này còn đang ở mức thấp do trình độ thấp. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 12 triệu lao động chưa được sử dụng và quỹ thời gian ở người lao động ở nông thôn cũng chưa sử dụng hết. Các yếu tố sản xuất chỉ mang lại hiệu quả thấp do đó sử dụng hợp lý nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn, chúng ta cần phát triển kinh tế hộ sản xuất. Trên thực tế đã cho thấy trong những năm vừa qua hàng triệu cơ sở sản xuất được tạo ra bởi các hộ sản xuất trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. - Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản xuất hàng hoá Ngày nay, hộ sản xuất hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do cạnh tranh trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản xuất phải quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? để trực tiếp quan hệ với thị trường. Để đạt được điều này, các hộ sản xuất đều phải không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số biện pháp để kích thích cầu, từ đó mở rộng sản xuất đồng thời đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ dàng đáp ứng những thay đổi của nhu cầu thị trường, đồng thời cũng không gây tốn kém về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và Nhà nước có các chính sách khuyến khích tạo điều kiện để hộ sản xuất phát triển. Như vậy với khả năng nhạy bén trước nhu cầu của thị trường, hộ sản xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển cao hơn. 1.2.2. Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất 1.2.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường bất kỳ một loại sản phẩm nào sản xuất ra cũng phải là những sản phẩm mang tính cạnh tranh. Điều này có nghĩa là mọi sản phẩm sản xuất ra đều phải có chất lượng. Các nhà kinh tế đã nhận xét rằng: “chất lượng là sự phù hợp mục đích của người sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hoá nào đó ” hay “Chất lượng là một sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu của khách hàng”. Tín dụng là phạm trù kinh tế mang tính chất lịch sử, ra đời và tồn tại trong nền kinh tế sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nó là một trong những sản phẩm chính của Ngân hàng. Đây là hình thức sản phẩm mang hình thái phi vật chất là dịch vụ đặc biệt. Sản phẩm này chỉ có khả năng đánh giá được sau khi khách hàng đã sử dụng. Do vậy có thể quan niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng là việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển Ngân hàng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, chất lượng tín dụng Ngân hàng được thể hiện qua các điểm sau: - Đối với khách hàng: Tín dụng Ngân hàng đưa ra phải phù hợp với yêu cầu của khách hàng về lãi suất (giá cả sản phẩm), kỳ hạn, phương thức thanh toán, hình thức thanh toán, thủ tục đơn giản thuận tiện tuy nhiên vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng Ngân hàng. - Đối với Ngân hàng: Ngân hàng đưa ra các hình thức cho vay phù hợp với phạm vi mức độ, giới hạn với bản thân Ngân hàng để luôn đảm bảo tính cạnh tranh, an toàn, sinh lời theo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ và có lợi nhuận. 1.2.2.2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất Hiện nay, hầu hết các NHTM tín dụng vẫn chiếm khoảng 68%- 75% trong tổng tài sản có của Ngân hàng. Vì thế sự tồn tại và hưng thịnh của ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào tín dụng và chất lượng tín dụng. Ngân hàng thường đánh giá chất lượng tín dụng thông qua một số chỉ tiêu cơ bản sau: a/ chỉ tiêu định tính - Đảm bảo nguyên tắc cho vay: Mọi tổ chức kinh tế hoạt động đều được dựa trên một nguyên tắc nhất định. Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó có ảnh hướng sâu sắc đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, do vậy có các nguyên tắc khác nhau. Nguyên tắc cho vay là một nguyên tắc quan trọng đối với mỗi Ngân hàng. Để đánh giá chất lượng một khoản cho vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có bảo đảm nguyên tắc cho vay hay không. Theo quyết định 1627/QĐ ngày 15/01/2002, tại Điều 6 Nguyên tắc vay vốn ghi rõ: "Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo hai nguyên tắc cơ bản để cho vay là : - Thứ nhất: Sử dụng đúng mục đích theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. - Thứ hai: Hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Hai nguyên tắc cho vay trên là nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một khoản cho vay có chất lượng nào cũng phải đảm bảo. Cho vay đảm bảo có điều kiện Thông thường khi cho vay phải đảm bảo các điều kiện sau : + Có năng lực pháp luật dân sự , năng lực hành vi dân sự và chiụ trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với hộ sản xuất phải thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh NHNo đóng tại trụ sở có xác nhận hộ khẩu nơi thường trú và có xác nhận của uỷ ban nhân dân xã (Phường) nơi cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh. + Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Hộ sản xuất vay vốn phải có vốn tự có tham gia và dự án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Hộ sản xuất phải kinh doanh có hiệu quả, không có nợ quá hạn trên 6 tháng với Ngân hàng. + Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp : Không vi phạm pháp luật phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. + Hộ sản xuất có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả. + Hộ sản xuất thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay. Bất cứ một khoản cho vay hộ sản xuất nào đều phải xem xét đến năm điều kiện cho vay để đánh giá chất lượng khoản vay. - Quá trình thẩm định: Quá trình thẩm định là chỉ tiêu định tính quan trọng nhất quyết định tới chất lượng khoản cho vay. Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để Ngân hàng nắm được thông tin về khách hàng về năng lực pháp luật, đạo đức của khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng... Đây là khâu không thể thiếu được trong quá trình quyết định cho vay và theo dõi khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các quy định và nội dung thẩm định cho vay của từng Ngân hàng. Một khoản cho vay có chất lượng là khoản cho vay đã được thẩm định và phải đảm bảo các bước của quá trình thẩm định. Quá trình thẩm định một khoản cho vay hộ sản xuất rất phức tạp do đặc điểm sản xuất kinh doanh của hộ là sản xuất kinh doanh tổng hợp. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay là bắt buộc để một khoản vay đạt chất lượng. b/ chỉ tiêu định lượng Không giống chỉ tiêu định tính, chỉ tiêu định lượng giúp cho ngân hàng có cách đánh giá cụ thể hơn về chất lượng tín dụng, qua đó giúp ngân hàng có biện pháp xử lý kịp thời những khoản vay kém chất lượng. Các chỉ tiêu mà Ngân hàng thường dùng là: - Doanh số cho vay hộ sản xuất: Doanh số cho vay hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng thể số tiền Ngân hàng cho hộ sản xuất vay trong thời kỳ nhất định thường là một năm. Ngoài ra Ngân hàng còn dùng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng cho vay hộ sản xuất trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng trong một năm. Doanh số cho vay hộ sản xuất Tỷ trọng cho vay HSX = x100% Tổng doanh số cho vay - Doanh số thu nợ hộ sản xuất : Doanh số thu nợ hộ sản xuất chỉ là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng thu hồi được sau khi đã giải ngân cho hộ sản xuất trong một thời kỳ. Doanh số thu nợ HSX Tỷ lệ thu nợ HSX = x 100% Tổng dư nợ của HSX Để phản ánh tình hình thu nợ hộ sản xuất, Ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng thu hồi được trong tổng doanh số cho vay hộ sản xuất của Ngân hàng trong thời kỳ. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức Doanh số thu nợ hộ sản xuất x 100% Doanh số cho vay hộ sản xuất - Dư nợ quá hạn hộ sản xuất: Dư nợ quá hạn hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng thể số tiền Ngân hàng chưa thu hồi được sau một thời gian nhất định kể từ ngày khoản cho vay đến hạn thanh toán tại thời điểm đang xem xét. Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối, Ngân hàng thường xuyên sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất: Dư nợ quá hạn HSX Tỷ lệ nợ quá hạn HSX = x 100% Tổng dư nợ HSX Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả tín dụng HSX và chất lượng tín dụng đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất. Dư nợ quá hạn càng nhỏ, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, chất lượng tín dụng càng cao. Hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động TDNH nói riêng đều chứa đựng nhiều rủi ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn kinh doanh của Ngân hàng. Do vậy, việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho vay đúng hạn, thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý Ngân hàng liên quan đến sự sống còn của Ngân hàng. Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ khó đòi. Tổng nợ khó đòi Tỷ lệ khó đòi = x 100% Tổng nợ quá hạn Đây cũng là một chỉ tiêu tương đối. Tỷ lệ này ở mức cao là dấu hiệu cho thấy nguy cơ mất vốn cao do các khoản cho vay có vấn đề. - Vòng quay vốn tín dụng HSX: Doanh số thu nợ HSX Vòng quay vốn tín dụng HSX = Dư nợ bình quân HSX Trong đó, dư nợ bình quân HSX = ( Dư nợ đầu năm + Dư nợ cuối năm) / 2. Đây là một chỉ tiêu quan trọng xem xét chất lượng tín dụng HSX, phản ánh tần suất sử dụng vốn. Vòng quay càng lớn với số dư nợ luôn tăng, chứng tỏ đồng vốn Ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một cách hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn cho Ngân hàng. - Lợi nhuận của Ngân hàng: Lợi nhuận = Tổng thu - tổng chi Trong tổng thu, lãi thu từ cho vay là chủ yếu, mà đối tượng của NHNo hộ sản xuất là khách hàng chính của Ngân hàng, cho nên lợi nhuận Ngân hàng là thước đo hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng cũng như chất lượng cho vay HSX. c/ Một số chỉ tiêu khác : Doanh số cho vay HSX Chỉ tiêu 1: Tổng số lượt HSX vay vốn Chỉ tiêu này phản ánh số tiền vay mỗi lượt của HSX. Số tiền vay càng cao chứng tỏ hiệu quả cũng như chất lượng cho vay tăng lên. Điều đó thể hiện sức sản xuất cũng như quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của HSX tăng lên cao. Đồng thời thể hiện chất lượng cho vay có xu hướng tăng, bởi thế Ngân hàng cho một lượt HSX vay nhiều hơn mà vẫn đảm bảo khả năng thu hồi và có lãi. Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ cho vay Dư nợ cho vay HSX trung - dài hạn HSX trung - dài hạn HSX = x 100% Tổng số dư nợ HSX Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu vốn trung - dài hạn của HSX để mở rộng sản xuất kinh doanh. Cho vay trung - dài hạn hộ sản xuất phải đạt tỷ trọng cao hơn cho vay ngắn hạn thì hộ mới có đủ vốn để cải tạo, xây dựng cơ sở vật chất cho sản xuất, từ đó tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngắn hạn. Chỉ tiêu 3: Tốc độ tăng trưởng dư nợ HSX hàng năm Đây là dấu hiệu cho thấy kết quả hoạt động tín dụng. Sử dụng kết hợp với chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn có thể đánh giá được chất lượng cũng như hiệu quả của TDNH đối với hộ sản xuất. Từ chỉ tiêu này có thể tính tốc độ tăng trưởng bình quân một giai đoạn cho đánh giá toàn diện hơn chất lượng tín dụng một thời kỳ nào đó. Chỉ tiêu thứ 4: = Số hộ CBTD Tổng số hộ vay vốn quản lý Tổng số cán bộ tín dụng Do năng lực của mỗi con người có hạn, do địa bàn nông thôn rộng lớn và tính phức tạp trong cho vay nông nghiệp và nông thôn, nếu CBTD quản lý quá nhiều hộ vay vốn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. 1.2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất Việc nâng cao chất lượng TDNH đối với hộ sản xuất có ý nghĩa rất lớn với Ngân hàng, HSX và nền kinh tế, nó mang tính quyết định sự thành bại của Ngân hàng. Do vậy, yêu cầu phải nâng cao chất lượng tín dụng HSX là một yêu cầu thường xuyên đối với Ngân hàng. Để làm tốt điều đó, trước hết phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng HSX. a/ yếu tố môi trường Môi trường là nhóm yếu tố có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng HSX một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Đặc biệt trong điều kiện sản xuất của nước ta còn phụ thuộc vào thiên nhiên thì môi trường tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn. - Môi trường kinh tế xã hội : Môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng tín dụng HSX. Môi trường kinh tế ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện cho HSX làm ăn có hiệu quả, do vậy HSX vay nhiều hơn, các khoản vay đều được HSX sử dụng đúng mục đích mang lại hiệu quả kinh tế. Từ đó, các khoản vay được hoàn trả đúng thời hạn cả tiền gốc và lãi. Trên cơ sở đó chất lượng tín dụng HSX được nâng lên. - Môi trường chính trị - Pháp lý: Ngân hàng là một trong những ngành phải._. chịu sư giám sát chặt chẽ của cơ quan pháp luật và cơ quan chức năng. do vậy việc tạo ra môi trường pháp lý hoàn thiện sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng. Môi trường chính trị ổn định, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý để hoạt động tín dụng ngân hàng, cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của HSX tiến hành thuận lợi. Những quy định cụ thể của pháp luật về tín dụng và các lĩnh vực khác có liên quan đến hoạt động tín dụng là cơ sở để xử lý, giải quyết khi xảy ra các tranh chấp tín dụng một cách hữu hiệu nhất. Vì vậy môi trường chính trị - pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng HSX. - Môi trường tự nhiên: Môi trường tự nhiên tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của HSX. Nhất là những HSX nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự nhiên. Nếu “mưa thuận gió hoà ’’ họ sẽ bội thu, sản xuất kinh doanh suôn sẻ, thì HSX có khả năng tài chính dồi dào để trả nợ Ngân hàng. Ngược lại, nếu thiên tai bất ngờ xảy ra thì hộ sản xuất sẽ bị thiệt hại lớn về kinh tế, dẫn đến gặp khó khăn trong việc trả nợ Ngân hàng. Diễn biến tự nhiên là bất khả kháng, con người khó có thể đoán trước hay thay đổi được nó. Cho nên, môi trường tự nhiên là yếu tố ảnh hưởng rõ rệt đến chất lượng tín dụng HSX. b/ yếu tố thuộc về khách hàng : Ngoài yếu tố môi trường ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng HSX thì còn có rất nhiều yếu tố từ chính khách hàng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng. - Trình độ của khách hàng: Trình độ của khách hàng bao gồm cả trình độ sản xuất và trình độ quản lý của khách hàng. Với một trình độ sản xuất phù hợp và khả năng quản lý khoa học, khách hàng có thể đạt được kết quả sản xuất kinh doanh tốt, sẽ có khả năng tài chính để trả nợ Ngân hàng, nếu như trình độ sản xuất hạn chế, thì việc trả nợ Ngân hàng là rất khó khăn. Như vậy, trình độ của khách hàng rõ ràng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. - Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích: Đây là yếu tố phụ thuộc về chủ quan của khách hàng. Yếu tố này Ngân hàng rất khó kiểm soát từ đầu. Việc sử dụng vốn sai mục đích là ý định của khách hàng, ý định này có thể xuất hiện ngay từ khi vay hoặc sau khi đã vay được. Tuynhiên, việc sử dụng vốn sai mục đích đã vi phạm nguyên tắc cho vay, vì vậy đã ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. - Lừa đảo Ngân hàng : Đây là yếu tố thuộc phạm trù đạo đức, khách hàng có ý định lừa đảo Ngân hàng để lấy tiền. Đạo đức của khách hàng là yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản vay. Khoản vay có được sử dụng đúng mục đích hay không, khoản vay có được hoàn trả hay không là tuỳ thuộc vào hành vi đạo đức của khách hàng. c/ yếu tố thuộc về Ngân hàng : Quan hệ tín dụng ngân hàng hiện nay giữa Ngân hàng và khách hàng là vô cùng mật thiết, người ta ví quan hệ này như quan hệ "hôn nhân". Do đó, chất lượng tín dụng ngân hàng còn phụ thuộc nhiều vào bản thân Ngân hàng. - Chính sách tín dụng ngân hàng: Chính sách tín dụng ngân hàng: là một trong những chính sách sản phẩm quan trọng nhất của Ngân hàng. Có chính sách tín dụng đúng đắn sẽ đưa ra được hình thức cho vay phù hợp với nhu cầu, thu hút được khách hàng, đồng thời khuyến khích khách hàng trả nợ đúng hạn. Do đó chính sách TDNH ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. - Chấp hành quy định thể chế tín dụng : Việc chấp hành quy định thể chế tín dụng của cán bộ làm tín dụng tốt hay không tốt là nguyên nhân để các chỉ tiêu định tính đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng có thực hiện được hay không. Mỗi cán bộ tín dụng khi cho vay đều phải tuân theo Luật các tổ chức tín dụng và các quy định thể lệ tín dụng riêng của từng Ngân hàng. - Cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn khiến khách hàng khó có thể đủ khả năng tài chính để trả nợ Ngân hàng, đồng thời vi phạm điều kiện về đảm bảo tiền vay, làm cho chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng. - Trình độ cán bộ tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản cho vay. Chất lượng một khoản cho vay được xác định ngay từ khi khoản cho vay được quyết định qua các chỉ tiêu định tính. - Kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng chưa kịp thời, do đó không kịp thời nắm bắt được các thông tin về một khoản cho vay, không biết được các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng nào đã, đang và sẽ xảy ra để có biện pháp kịp thời không làm cho chất lượng tín dụng giảm sút. - Hệ thống thông tin Ngân hàng sẽ tạo điều kiện để Ngân hàng nắm bắt được các thông tin về khách hàng trước khi quyết định một khoản cho vay. Yếu tố này rất quan trọng bởi vì nó góp phần ngăn chặn những khoản cho vay chất lượng không tốt ngay từ khi chưa xảy ra. Tóm lại : Có thể khẳng định rằng tín dụng Ngân hàng có vai trò hết sức to lớn đối với hộ sản xuất cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Nó được coi là công cụ đắc lực của nhà nước, là đòn bẩy kinh tế, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển một cách toàn diện, từ đó phát huy hết được vai trò to lớn của mình đối với quá trình CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn cũng như đối với nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực tế cho thấy, chất lượng tín dụng ngân hàng đối với HSX còn nhiều vấn đề cần giải quyết và tháo gỡ. Do đó việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là điều rất quan trọng đối với Ngân hàng nói chung và NHNo nói riêng. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNO & PTNT HUYỆN VĂN BÀN 2.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHNO & PTNT HUYỆN VĂN BÀN 2.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội huyện Văn Bàn Văn Bàn là một huyện vùng cao gồm có 22 xã và một thị trấn trong đó có 15 xã vùng 3, 2 xã vùng 2 nằm trong diện các xã đặc biệt khó khăn, còn lại 5 xã vùng 2 và 1 thị trấn là vùng 1. Huyện Văn bàn có tổng diện tích tự nhiên là 143.927 ha. Trong đó: Đất nông nghiệp là : 7.815 ha chiếm 5,4%/ tổng diện tích tự nhiên ( đất trồng lúa mới có 2.133 ha ) Đất có rừng là : 72.623 ha chiếm 50,5% / tổng diện tích tự nhiên Đất trống đồi trọc là : 44.687 ha chiếm 31% / tổng diện tích tự nhiên Đất khác là : 18.841 ha chiếm 13,1% / tổng diện tích tự nhiên Huyện văn bàn là một huyện miền núi nằm ở phía tây bắc của tổ quốc, phía nam giáp vói tỉnh Yên Bái. Đến cuối năm 2004 dân số huyện Văn Bàn có 73.451 người tổng số hộ trên địa bàn là 12.729 hộ. Văn Bàn có 11 dân tộc anh em, cư trú ở vùng thấp chủ yếu là các dân tộc Kinh, Tày, Dáy, Mông,…sản xuất ruộng, nương là chủ yếu, chăn nuôi theo phương thức chăn dắt, đã có sản xuất hàng hoá ở trình độ thấp, có khả năng tiếp thu kinh tế thị trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá. Một số dân tộc ở vùng cao chủ yếu làm nương rẫy, ruộng nước rất ít, sản xuất chủ yếu là tự cung tự cấp, một số bộ phận có tập quán du canh du cư, phương thức canh tác còn lạc hậu, đời sống còn gặp nhiều khó khăn. Do đặc điểm của một huyện miền núi có đến 17/22 xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn được Nhà nước đầu tư chương trình 135, hơn nữa lại có nhiều dân tộc với phong tục tập quán lâu đời trong sản xuất và sinh hoạt, nên quá trình chuyển nền sản xuất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá còn gặp nhiều khó khăn. Song với tinh thần đoàn kết một lòng, nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ban hành phù hợp với ý Đảng lòng dân, 11 dân tộc anh em trên địa bàn huyện Văn Bàn đã quyết tâm vượt lên mọi khó khăn trước mắt để thoát khỏi đói nghèo. Trên cơ sở phát huy thế mạnh về nông lâm nghiệp : đẩy mạnh tiến độ chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi thích hợp với vùng sinh thái, dần hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật về giống, lấy thâm canh hiệu quả là chính, mở rộng diện tích cây đặc sản như : quế, thảo quả … nhằm không ngừng nâng cao mức thu nhập của nhân dân. Về cây lương thực : Tổng sản lượng cây lượng thực đạt 27.810 tấn đạt 105,2 % so với kế hoạch Trong đó : Lúa đạt sản lượng là 21.387 tấn đạt 106,6% kế hoạch Ngô đạt 6.423 tấn đạt 109% kế hoạch Đậu tương đạt 570 tấn đạt 129% kế hoạch Cây ăn quả đã trồng được 14,5 ha Về chăn nuôi : đẩy mạnh chăn nuôi đưa chăn nuôi lên thành ngành sản xuất chính, phát triển nhanh các loại gia súc như trâu , bò, dê, phát triển đàn lợn giống thuần chủng, hướng hộ gia đình chăn nuôi đàn gia súc, gia cầm nhìn chung ổn định, phát triển tốt : Tổng đàn trâu cuối năm 2004 là 19.027 con tăng 7,2% so với năm 2002 Đàn bò cuối năm là 3.870 con tăng 12% so với năm 2002 Đàn lợn cuối năm 2004 là 47.171 con tăng 10,4 % so với năm 2002 Đàn ngựa cuối năm 2004 là 295 con tăng 6.7% so với năm 2002 Đạt được những thành tựu đáng kể như vậy nhưng nhìn chung kinh tế ở huyện Văn Bàn mới thoát khỏi ngưỡng cửa tự cấp, tự túc chưa xa. Trong 12.729 hộ có tới 1.453 hộ đói nghèo phần lớn số hộ còn lại là hộ có mức sống trung bình. Trong số những hộ này một số hộ sản xuất gặp điều kiện thuận lợi thì vươn lên thành những hộ giầu. Vấn đề đặt ra cho các hộ sản xuất là vốn, để phát triển mở rộng sản xuất với khối lượng lớn và thời hạn dài. Ngày 02/03/1993 chính phủ ban hành nghị định 14/CP về chính sách tín dụng đối với hộ sản xuát. Đây là một bước ngoặt đối với các NHNo & PTNT nói chung và NHNo & PTNT huyện Văn Bàn nói riêng và nhất là sau khi Chính phủ ban hành quyết định 67/1999/QĐ-TTG ngày 30/03/1999 “ về một số chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn ” và cũng là nền tảng, cơ sở cho các hộ sản xuất có điều kiện phát triển và mở rộng sản xuất. Với nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước cũng như của ngành giao cho, NHNo&PTNT huyện Văn Bàn gồm có 2 chi nhánh : Ngân hàng cấp 1 huyện và 1 chi nhánh Ngân hàng cấp 3 Võ Lao sẽ nỗ lực cố gắng hoàn thành . 2.1.2. Sự ra đời và phát triển của NHNo&PTNT huyện Văn Bàn Từ ngân hàng Nhà nước huyện Văn Bàn hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn và tách thành ngân hàng nông nghiệp huyện Văn Bàn từ năm 1988 .Theo QĐ số 280/QĐ -NHNo- 02 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Trong suốt thời gian hoạt động từ cơ chế hạch toán tập trung chuyển sang cơ chế tự hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm và đối mặt với nền kinh tế thị trường sôi động cạnh tranh, chi nhánh đã không trách khỏi những khó khăn trở ngại trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ ngân hàng theo cơ chế mới. Không chịu bó tay với bất cứ khó khăn nào, bằng ý trí vươn lên từ nội lực của trên 30 CBCNV, có sự chỉ đạo chặt chẽ của NHNo Việt Nam, NHNo tỉnh Lào Cai. NHNo huyện Văn Bàn đã từng bước lập lại thế chủ động, hoà nhập với cơ chế thị trường, nâng cao năng lực trong kinh doanh và ngày càng phát triển ổn định trong kinh doanh dịch vụ tiền tệ - ngân hàng góp phần trong công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đã đạt được những kết quả đáng khích lệ từ công tác đào tạo cán bộ đến kết quả kinh doanh, cụ thể: Vê kết quả kinh doanh, nếu đến cuối năm 1991 tổng nguồn vốn huy động là 2,98 tỷ đồng thì đến cuối năm 2004 là 26,5 tỷ đồng tăng 8,8 lần. Tổng dư nợ đến cuối năm 1991 là 3,48 tỷ thì đến cuối năm 2004 là 62,68 tỷ tăng 18 lần. Để đảm bảo hiệu quả kinh doanh gắn với an toàn vốn, NHNo huyện Văn Bàn đã rất quan tâm đến công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ ( đặc biệt tổ chức đối chiếu dư nợ nhằm tránh tình trạng vay hộ, vay ké, lợi dụng của cán bộ ngân hàng …) với tinh thần kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại, thiếu sót, ngăn chặn những sai sót tiềm ẩn, nâng cao chất lượng công tác trong mọi nghiệp vụ ngân hàng, nhất là công tác tín dụng, chi tiêu nội bộ và an toàn kho quỹ. Trong công tác tín dụng dễ phát sinh rủi ro do môi trường pháp lý, môi trường kinh tế không ổn định, ngoài ra khách hàng của NHNo huyện Văn Bàn chủ yếu là hộ gia đình sản suất trong lĩnh vực nông nghiệp, hiệu quả kinh tế phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Với đặc thù như vậy, trong quá trình hoạt động NHNo huyện Văn Bàn luôn thường xuyên phối kết hợp với chính quyền điạ phương, các cơ quan đoàn thể như hội nông dân, hội phụ nữ, phòng khuyến nông để hướng dẫn hộ nông dân chủ động phòng chống thiên tai, dịch bệnh… chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp nhằm hạn chế thiệt hại cho hộ cũng như vốn ngân hàng đầu tư. Bên cạnh đó chi nhánh NHNo huyện Văn Bàn còn rất chú trọng trong việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ đặc biệt là cán bộ tín dụng, bằng nhiều hình thức đào tạo như theo học đại học tại chức, tập huấn nghiệp vụ do ngành tổ chức … và coi đây cũng là nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao năng suất lao động, đạt hiệu quả cao. Luôn coi trọng vai trò lãnh đạo của Đảng uỷ, phối hợp với công đoàn, đoàn thanh niên để đưa phong trào thi đua trong cơ quan sôi nổi, liên tục tạo động lực cho toàn thể CBCNV hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Tuy nhiên không tự bằng lòng với kết quả đạt được, NHNo huyện Văn Bàn sẽ tiếp tục phát huy phấn đấu cao hơn nữa chất lượng hoạt động kinh doanh, đặc biệt chú ý đến chất lượng tín dụng góp phần xây dựng, phát triển kinh tế của huyện nhà nói riêng và đất nước nói chung với mục tiêu '' Hiệu quả, an toàn và phát triển " 2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của NHNo&PTNT huyện Văn Bàn Sơ đồ : cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn Một Ngân hàng cấp 3 xã Võ Lao Giám Đốc Phó Giám Đốc phụ trách kinh tế tài chính và công tác đoàn thể Phó Giám Đốc phụ trách tín dụng Phòng Kế toán Tài vụ Phòng tín dụng Phòng Vi tính Văn Phòng Phòng giao dịch kinh doanh tổng hợp 2.2. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHNO&PTNT HUYỆN VĂN BÀN 2.2.1. Công tác huy động vốn Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn, bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với Ngân hàng vốn là nguồn để đảm bảo hoạt đông và luôn chiếm giữ một vị trí quan trọng đặc biệt trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, nó là tiền đề cho các hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng, cũng như việc mở rộng quy mô hoạt động. Nắm bắt được tầm quan trọng đó tuy nhiên với điều kiện kinh tế của huyện Văn Bàn thì việc huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn. Các số liệu sau cho ta thấy được tình hình huy động vốn của NHNo&PTNT huyện Văn Bàn, qua đó để xem xét và phân tích vấn đề này. Bảng 2.1 : Tình hình huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn Đơn vị : Triệu đồng , % Hình thức huy động 2002 2003 2004 Số tiền (Triệu đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (Triệu đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (Triệu đồng) Tỷ trọng (%) Tổng huy động 23.861 100 26.635 100 27.050 100 1. Tiết kiệm 3.482 14,6 5.704 21,4 7.025 25,9 - Không kỳ hạn 225 0,9 285 1,1 300 1,1 - Có kỳ hạn 3.257 13,7 5.419 20,3 6.725 24,8 2. Tiền gửi TCKT 5.571 23,3 1.023 26,4 7.808 28,8 3.Tiền gửi KBNN 14.630 61,3 13.658 51,3 11.617 42,9 4. Tiền gửi TCTD 178 0,8 250 0,9 600 2,4 Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn Tổng nguồn vốn tính đến cuối năm 2003 tăng so với năm 2002 là 2.774 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 11,63 % . Đến cuối năm 2004 tăng so với năm 2003 là 415 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 1,56 %. Qua biểu trên ta thấy nguồn vốn luôn tăng trưởng qua các năm tuy nhiên tỷ lệ tăng còn rất thấp và chưa đều còn có xu hướng giảm xuống điều này ảnh hưởng lớn đến tài chính của đơn vị đặc biệt là đơn vị luôn bị thiếu nguồn. Nguyên nhân là do tiền gửi của KBNN chiếm tỷ lệ cao (Bình quân là 51,8%/tổng nguồn vốn ) mà nguồn này thường xuyên biến động và không ổn định nên đã gây khó khăn cho đơn vị về cân đối nguồn vốn. Trong nghiệp vụ tiền gửi tiết kiệm : Văn Bàn là một huyện miền núi dân còn nghèo nên việc huy động vốn bằng tiền gửi gặp nhiều khó khăn vì vậy mà tỷ trọng huy động vốn bằng tiền gửi là rất thấp. Năm 2002 đạt 14,6 %/tổng nguồn vốn Năm 2003 đạt 21,4 % /tổng nguồn vốn Năm 2004 đạt 25,9 % /tổng nguồn vốn Tuy tăng ở mức thấp và chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng nguồn vốn này góp một phần vào tổng nguồn vốn huy động được của Ngân hàng và nguồn vốn này là rất ổn định vì chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế và KBNN chiếm tỷ trọng cao và đây là nguồn vốn có lãi suất rất thấp vì thế mà NHNo huyện Văn Bàn đã tìm mọi biện pháp để thu hút từ nguồn vốn này và đã đạt được kết quả như sau : Năm 2002 đạt 20.201 triệu đồng chiếm 84,7%/tổng nguồn vốn huy động Năm 2003 đạt 20.681 triệu đồng chiếm 77,6% /tổng nguồn vốn huy động Năm 2004 đạt 19.425 triệu đồng chiếm 71,8% /tổng nguồn vốn huy động Qua đây ta thấy đây là nguồn vốn chủ yếu của NHNo huyện Văn Bàn nên Ngân hàng phải nỗ lực hơn nữa để thu hút được vốn từ nguồn này. 2.2.2. Hoạt động cho vay Trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước nói chung và địa phương nói riêng, NHNo&PTNT huyện Văn Bàn luôn năng động đổi mới tập trung vốn đầu tư với các đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình làm ăn có hiệu quả, phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với đặc thù địa bàn chủ yếu là hộ nông dân và đó là khách hàng chính của NHNo huyện Văn Bàn với đặc thù rủi do cao, kết quả kinh doanh của họ phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Nên luôn phải bám sát vào chương trình kinh tế của tỉnh, của huyện để có các giải pháp đầu tư hợp lý có hiệu qủa và hạn chế được rủi do. Ta có thể xem xét tình hình hoạt động tín dụng qua bảng sau: Bảng 2.2 : Công tác sử dụng vốn tại NHNo&PTNT huyện Văn Bàn từ năm 2002-2004 Đơn vị : Triệu đồng,% Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng +Tổng dư nợ 36.583 100 48.374 100 62.680 100 Trong đó: Nợ quá hạn 137 0,37 282 0,58 391 0,62 +Dư nợ theo thời hạn vay 36.583 100 48.374 100 62.680 100 1. Dư nợ ngắn hạn 8.398 22,9 9.134 18,9 11.090 17,7 2. Dư nợ trung –dài hạn 28.185 77,1 39.240 81,1 51.590 82,3 +Dư nợ theo TP kinh tế 36.583 100 48.374 100 62.680 100 1. Doanh nghiệp NN 589 1,6 309 0,7 550 0,88 2. Doanh nghiệp NQD 1.445 3,95 1.554 3,2 3.405 5,52 3. Hợp tác xã 5 0,05 4. Cho vay Hộ Sản xuất 34.544 94,4 46.511 96,1 58.725 93,6 Nguồn : Báo cáo tổng kết công tác tín dụng và hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Văn Bàn các năm 2002-2004 Qua bảng số liệu trên ta thấy trong 3 năm qua NHNo huyện Văn Bàn luôn chú trọng việc mở rộng cho vay và kết quả cụ thể là tổng dư nợ đã tăng nhanh qua các năm . năm 2003 đã tăng so với năm 2002 là 11.791 triệu đồng tương ứng là đã tăng 32,2% và năm 2004 đã tăng so với năm 2003 là 14.306 triệu đồng tương ứng là đã tăng 29,6%. Hộ sản xuất có điểm xuất phát rất thấp, thoát ra từ những hợp tác xã hoạt động yếu kém. Qua những năm đổi mới đến nay hộ sản xuất đã có bước phát triển về quy mô sản xuất thu nhập và mức sống góp phần ổn định và tăng tích luỹ xã hội. Nhưng để sản xuất và phát triển rất cần có sự hỗ trợ của Ngân hàng về cho vay vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Thực trạng về sản xuất nông nghiệp ở huyện Văn Bàn có đặc điểm riêng so với các vùng sản xuất nông nghiệp trong nước, như việc trồng lúa thời gian trồng và thu hoạch kéo dài hàng 6 tháng mới cho thu trong khi đó ở nhiều nơi chỉ có 3 tháng đã cho thu, đây là vấn đề khó khăn còn tồn tại phổ biến ở một huyện miền núi. Tiếp theo việc trồng ngô, đậu tương mỗi năm cũng chỉ trồng được một vụ , đồng thời đây là một huyện miền núi nên thế mạnh là kinh tế đồi rừng và chăn nuôi đại gia súc do đó vốn trung và dài hạn là chính qua hoạt động nhiều năm và thực tế qua số liệu trên. Tổng dư nợ năm 2002 là 36.583 triệu đồng trong đó dư nợ vốn trung và dài hạn là 28.185 triệu đồng chiếm 77.1% /tổng dư nợ và dư nợ ngắn hạn là 8.398 triệu đồng chiếm 22,9% /tổng dư nợ . Năm 2003 dư nợ là 48.374 triệu đồng trong đó dư nợ vốn trung và dài hạn là 39.240 triệu đồng chiếm 81,1% /tổng dư nợ , dư nợ ngắn hạn là 9.134 triệu đồng chiếm 18,9%/tổng dư nợ. Năm 2004 dư nợ là 62.680 triệu đồng trong đó dư nợ trung và dài hạn là 51.590 triệu đồng chiếm 82,3% /tổng dư nợ, dư nợ ngắn hạn là 11.090 triệu đồng chiếm 17,7% /tổng dư nợ. Văn Bàn là môt huyện miền núi các thành phần kinh tế còn nhỏ lẻ mà đối tượng chủ yếu là hộ nông dân cho nên dư nợ đối với các ngành kinh tế là rất thấp mà chủ yếu là cho vay hộ sản xuất cụ thể là năm 2002 dư nợ hộ sản xuất là 34.544 triệu đồng chiếm 94,4% trong tổng dư nợ theo các thành phần kinh tế còn dư nợ với các thành phần kinh tế khác là rất thấp chỉ đạt 2.039 triệu dồng chiếm 5,6% /tổng dư nợ . Năm 2003 dư nợ hộ sản xuất là 46.511 triệu đồng chiếm 96,1%/tổng dư nợ, các thành phần kinh tế khác là 1.863 triệu đồng chiếm 3,9% /tổng dư nợ . Năm 2004 dư nợ hộ sản xuất là 58.725 triệu đồng chiếm 93,6% /tổng dư nợ, dư nợ các thành phần kinh tế khác là 3.955 triệu đồng chiếm 6,4% /tổng dư nợ . 2.2.3. Các hoạt động kinh doanh khác Ngoài hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn, trong những năm gần đây trong xu thế mới chi nhánh NHNo huyện Văn Bàn cũng rất chú trọng việc mở rộng các dịch vụ ngân hàng như dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, thu đổi ngoại tệ tuy nhiên với một huyện miền núi thì đây còn là những hoạt động rất mới mẻ cho nên việc phát triển còn hạn chế nên doanh thu từ hoạt động này là không đáng kể nhưng trong tương lai chi nhánh phấn đấu tăng thu từ hoạt động này góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng. 2.2.4. Kết quả kinh doanh Bảng 2.3 : Kết quả kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Văn Bàn Đơn vị : Triệu đồng Kết quả kinh doanh 2002 2003 2004 Tổng thu 4.842 5.657 6.722 Tổng chi 3.093 3.419 3.795 Thu - Chi 1.749 2.238 2.927 Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Văn Bàn các năm 2002- 2004 Đây là một chỉ tiêu phản ánh một cách toàn diện hiệu quả của các hoạt động Ngân hàng. Qua bảng số liệu trên ta thấy lợi nhuận của Ngân hàng liên tục tăng qua các năm cụ thể là năm 2003 đạt 2.238 triệu đồng tăng 489 triệu đồng tương ứng tăng 27,9% so với năm 2002, năm 2004 tiếp tục tăng 689 triệu đồng tương ứng tăng 30,8 % so với năm 2003. Đạt được kết quả như trên chứng tỏ những định hướng, chính sách của Ngân hàng là phù hợp. Điều này làm cho uy tín của Ngân hàng ngày một nâng cao , tạo khả năng duy trì được hoạt động trước mắt và tạo đà phát triển cho những năm sau. 2.3. THỰC TRẠNG TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT HUYỆN VĂN BÀN. 2.3.1. Thực trạng hoạt động tín dụng hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn. 2.3.1.1. Tình hình cho vay hộ sản xuất. Chủ thể quan hệ tín dụng tại Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn chủ yếu là hộ sản xuất. Hoạt động trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi phải xác lập mối quan hệ tín dụng sao cho vừa phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, vừa đảm bảo tính pháp lý và nhất là các mối quan hệ tín dụng. Các mối quan hệ này có sự đan xen và ràng buộc lẫn nhau cả về chủ thể cũng như cơ cấu ngành nghề. Hộ sản xuất là thành phần kinh tế tương đối phức tạp nó đòi hỏi trong quá trình hoạt động phải có sự linh hoạt và mềm dẻo trong tất cả các khâu của quá trình thực hiện. Để đạt được điều đó là cả một vấn đề còn nhiều khó khăn và vướng mắc, nó cần có sự hợp tác của nhiều cơ quan, ban ngành khác nhau, trước hết phải tạo ra sự chuyển biến về nhận thức của bà con nông dân đối với quan hệ tín dụng, đồng thời phải hoàn thiện các chính sách, tạo điều kiện để chủ thể kinh tế ( hộ sản xuất ) có quan hệ tín dụng với Ngân hàng thuận tiện hơn, trên cơ sở nguyên tắc vay trả sòng phẳng, đúng hạn trả gốc và lãi. Do vậy trong những năm qua tại Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn đã rất coi trọng chất lượng tín dụng và đã thực hiện cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất, Văn Bàn có địa hình là đồi núi có rất nhiều xã vùng cao đi lại khó khăn người dân không thể tới được trụ sở để vay vốn nhưng không vì khó khăn đó các cán bộ tín dụng đã mang vốn tới từng hộ giúp họ có vốn làm ăn, giúp họ sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất. Ngoài ra còn thực hiện khoán cho từng cán bộ tín dụng chỉ tiêu cho vay - thu nợ - dư nợ và tỷ lệ nợ quá hạn, có chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Từ đó khuyến khích được cán bộ tín dụng phải tự nâng cao nghiệp vụ chuyên môn trình độ giao tiếp, thận trọng trong khi thẩm định, lựa chọn khách hàng và quyết định cho vay. Để thu hút được khách hàng và đầu tư có hiệu quả, Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn luôn cố gắng phấn đấu khẳng định uy tín của mình, kết cấu cho vay hợp lý. Kết quả cho vay đạt được trong những năm qua, đặc biệt năm 2002-2004 của Chi nhánh được thể hiện qua bảng số liệu sau. Bảng 2.4: Tình hình cho vay hộ sản xuất tại Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn ( 2002 -2004 ) Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Tổng số Tổng số hộ vay ( hộ ) 2.470 2.560 2.790 7.820 Cho vay ngắn hạn (triệu đồng) 10.097 7.861 12.828 30.786 Cho vay trung - dài hạn (triệu đồng) 14.436 23.519 31.280 69.235 Tổng số cho vay 24.533 31.380 44.008 99.921 Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Văn Bàn các năm 2002 -2004 Biểu đồ 2 : Tình hình cho vay hộ sản xuất trong 3 năm Với tính chất sản xuất ở quy mô gia đình nhỏ bé, việc mở rộng tín dụng đối với khu vực hộ sản xuất rất khó khăn. Văn Bàn là huyện miềm núi, kinh tế nông nghiệp là trọng tâm. NHNo&PTNT huyện Văn Bàn xác định khách hàng thuộc thành phần kinh tế hộ là chủ yếu vì vậy trong mấy năm qua doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ hộ sản xuất không ngừng được tăng lên. Qua bảng số liệu cho ta thấy: Năm 2002 có 2.470 hộ vay vốn nhưng số hộ đã tăng lên thêm 90 hộ vào năm 2003 và 230 hộ vào năm 2004 đưa tổng số hộ vay vốn lên 7.820 hộ. Đây là một kết quả tốt do trong thời gian vừa qua Ngân hàng đã tạo điều kiện mở rộng quy mô cho vay HSX, tạo lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa HSX và Ngân hàng . Uy tín của đôi bên tăng cao, do vậy doanh số cho vay của Ngân hàng đạt 99.921 triệu đồng cụ thể qua các năm. Năm 2002 là 24.533 triệu đồng trong đó cho vay ngắn hạn là 10.097 triệu đồng, cho vay trung và dài hạn là 14.436 triệu đồng, con số này đã tăng qua các năm tiếp theo cụ thể là năm 2003 doanh số cho vay là 31.380 triệu đồng tăng 6.847 triệu đồng so với năm 2002, doanh số năm 2004 là 44.008 triệu đồng tăng 13.628 triệu đồng so với năm 2003. doanh số cho vay đối với từng hộ tăng đều qua các năm cụ thể là năm 2003 một hộ vay số tiền là 12,2 triệu đồng tăng 2,3 triệu đồng so với năm 2002 tương ứng tăng 23,3% , năm 2004 một hộ được vay là 15,8 triệu đồng tăng 3,6 triệu đồng so với năm 2003 tương ứng tăng 29,5% . Những con số này có ý nghĩa rất lớn đối với Ngân hàng và khách hàng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã phát huy hiệu quả gần như là tối đa trên tổng nguồn vốn. Ngân hàng luôn chủ động tạo điều kiện cho HSX kinh doanh thuận lợi nên dư nợ quá hạn không cao, tránh được rủi ro về nguồn vốn. Cán bộ tín dụng của Ngân hàng luôn giám sát chặt chẽ nguồn vốn của mình nên HSX phải đầu tư có hiệu quả và họ đã phát huy sức mạnh của mình trong sản xuất, và cũng thấy được hiệu quả từ nguồn vốn Ngân hàng mang lại. Do những chính sách như lãi suất cho vay hợp lý, ưu đãi, thủ tục gọn gàng nhanh chóng nên Ngân hàng đã đạt được những thành quả như chỉ tiêu và kế hoạch đề ra. Như vậy doanh số cho vay năm sau cao hơn năm trước có được kết quả như vậy là do Ngân hàng đã áp dụng các biện pháp mở rộng cho vay bám sát mục tiêu phát triển kinh tế của Huyện ủy, UBND huyện để đầu tư đúng hướng chỉ đạo đề ra. Có được kết quả trên là do NHNo&PTNT Văn Bàn đã áp dụng một cách uyển chuyển Quyết định 67/1999/QĐ.TTg , Quyết định 148 của Chính phủ cải tiến về thủ tục cũng như điều kiện tài sản thế chấp khi cho vay tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ sản xuất vay vốn được thuận tiện. 2.3.1.2. Tình hình thu nợ hộ sản xuất. Đây là hoạt động quan trọng đuyết định đến sự tồn tại của Ngân hàng. Thấy được tầm quan trọng của công tác này, cán bộ tín dụng của Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn tích cực trong thu hồi nợ. Được thể hiện qua bảng số liệu thu nợ dưới đây: Bảng 2.5 : Tình hình thu nợ HSX tại Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn từ năm 2002 -2004 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Thu nợ ngắn hạn 5.980 5.650 10.230 Thu nợ trung - dài hạn 11.457 17.933 21.472 Tổng số tiền 17.437 23.583 31.702 ( Nguồn số liệu báo cáo tổng kết 2002 - 2004 Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn) Năm 2002 thu nợ của Ngân hàng là 17.437 triệu đồng, một kết quả tốt trong giai đoạn kinh tế trên địa bàn có nhiều biến động. Sang năm 2003 thu nợ là 23.583 triệu đồng tăng so với năm 2002 là 6.146 triệu đồng tương ứng tăng 26,1%, năm 2004 thu nợ là 31.702 triệu đồng tăng so với năm 2003 là 8.119 triệu đồng tương ứng tăng 34,4% qua số liệu trên cho ta thấy tình hình thu nợ trên địa bàn thực hiện tương đối tốt tỷ lệ tăng nhanh qua các năm trong đó tỷ lệ thu nợ trung, dài hạn chiếm tỷ lệ lớn hơn. tỷ lệ này rất khả quan về đảm bảo an toàn nguồn vốn cho Ngân hàng, giúp cho Ngân hàng tránh được những rủi ro về tín dụng và nó cũng nói lên sự ăn nên làm ra của Ngân hàng. Nguồn vốn của Ngân hàng được giải ngân đều trên các loại hình vay, do đó kết quả cho vay của tín dụng đã đem lại cho HSX uy tín trước Ngân hàng khi đến kỳ trả nợ đúng, đủ và số hộ đến trả nợ nhiều. Tổng số thu nợ tăng đều qua các năm, khối lượng thu nợ rất lớn, thu nợ của Ngân hàng phản ánh nguồn vốn Ngân hàng đem lại hiệu quả cao cho HSX , biết đầu tư đúng hướng, biết tuân thủ những điều kiện của Ngân hàng đưa ra nên họ đã tạo được uy tín với Ngân hàng và từ điều kiện này sẽ giúp cho HSX có lợi hơn khi vay vốn ở những lần tiếp theo. 2.3.1.3. Tình hình dư nợ hộ sản xuất Bảng 2.6 : Tình hình dư nợ HSX tại Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn từ năm 2002 -2004 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Dư nợ ngắn hạn 6.489 7.521 12.261 Dư nợ trung - dài hạn 28.055 38.990 46.464 Tổng số 34.544 46.511 58.725 Nguồn: Báo cáo tổng kết 2002 - 2004, Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn Bàn Cũng như doanh số cho vay và doanh số thu nợ, dư nợ HSX không ngừng tăng lên. Nó thể hiện công tác cho vay của Ngân hàng rất tích cực và liên tục qua các thời điểm. Năm 2002 tổng dư nợ HSX là 34.544 triệu đồng trong đó dư nợ trung, dài hạn chiếm 81,2% dư nợ ngắn hạn chiếm 18,8%.Năm 2003 tổng dư nợ HSX là 46.511 triệu đồng tăng 11.967 triệu đồng so với năm 2002 tương ứng tăng 34,6% và đến năm 2004 thì dư nợ HSX tiếp tục tăng cao tổng dư nợ HSX đạt 58.725 triệu đồng tăng 12.214 triệu đồng so với năm 2003 tương ứng tăng 26,3% . Nhìn chung, giải ngân ng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34296.doc
Tài liệu liên quan