Tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) - Chi nhánh Hà Nội: ... Ebook Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) - Chi nhánh Hà Nội
94 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1544 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DN: Doanh nghiệp
DNV&N: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
KT: Kinh tế
LĐ: Lao động
NĐ: Nghị định
NH: Ngân hàng
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TCTD: Tổ chức tín dụng
TD: Tín dụng
TDNH: Tín dụng ngân hàng
SX: Sản xuất
SXKD: Sản xuất kinh doanh
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng II.1: Tình hình tín dụng tại Ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Hà nội
Biểu đồ II.2: Cơ cấu cho vay trong năm 2008
Bảng II.3: Tín dụng phân loại theo thời gian tại chi nhánh ngân hàng Á Châu trong hai năm gần đây
Bảng II.4: Dư nợ DNV&N phân loại theo thời hạn cho vay trong hai năm tại chi nhánh Ngân hàng Á châu Hà Nội
Bảng II.5: Doanh số cho vay trung và dài hạn trong hai năm tại Ngân hàng Á Châu- chi nhánh Hà Nội
Bảng số II.6: Dư nợ DNV&N phân loại theo thành phần kinh tế trong hai năm tại chi Nhánh ngân hàng Á Châu Hà Nội
Bảng II.7: Vòng quay vốn tín dụng
Bảng II.8: Thu nhập lãi thuần của chi nhánh ngân hàng Á Châu Hà Nội
Bảng II.9: Nợ quá hạn trong năm 2009
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực được coi là năng động nhất thế giới. Việt Nam có các điều kiện thuận lợi để phát triển, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới; đồng thời đây cũng là cơ hội để chúng ta có thể tiếp thu những thành tựu tiên tiến cũng như những bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Để đưa Việt Nam tiến lên cùng với các nước khác, Đảng và nhà nước ta đã tiến hành các công cuộc đổi mới, trong đó vai trò, vị trí của các DNV&N là hết sức quan trọng cần phải tổ chức và sắp xếp lại cho phù hợp hơn, để cho các DNV&N có thể là nền tảng thúc đẩy nền công nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Theo số liệu thống kê của bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, cho đến nay ở Việt Nam đã có hơn 2 triệu DNV&N chiếm trên 90% trong tổng số các doanh nghiệp trong cả nước. Với số vốn kinh doanh chiếm 20% tổng số vốn kinh doanh của các doanh nghiệp, DNV&N đã đóng góp 30-36% GDP cho nền kinh tế quốc dân.
Với đặc điểm chung là không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, linh hoạt thích ứng nhanh với môi trường kinh doanh nhiều đầy biến động, bộ máy tổ chức gọn nhẹ, thích ứng với yêu cầu của thị trường, là phương tiện hiệu quả giải quyết công ăn việc làm. Loại hình doanh nghiệp này đang có những bước phát triển khá thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, hiện nay các DNV&N đang phải đối mặt với nhiều khó khăn mà nhất là khó khăn về vốn.
Để DNV&N phát huy được vai trò của mình, thì một yêu cầu được đặt ra đó là nguồn vốn để phát triển và nâng cao năng lực sản xuất... Và vai trò của ngân hàng là không thể thiếu được để đáp ứng nhu cầu vốn này. Nhưng đi đôi với việc ngân hàng cho các doanh nghiệp vay ngày càng nhiều là việc nâng cao chất lượng của công tác cho vay có hiệu quả hơn. Như vậy, chất lượng cho vay đối với các DNV&N không chỉ là quan tâm với các ngân hàng mà còn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Sau một thời gian thực tập ở chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Hà nội, em nhận thấy khách hàng là DNV&N là đối tượng mà ngân hàng quan tâm đến nhiều, và với những lý do trên em đã chọn đề tài: " Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại Ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Hà Nội ".
Do phạm vi đề tài rộng, thời gian thực tập có hạn, nhất là trình độ lý luận và sự hiểu biết còn chưa nhiều nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô giáo và các cán bộ ngân hàng.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS. Dương Thị Ngân , toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Thương mại-Kinh tế quốc tế, ban lãnh đạo, tập thể cán bộ phòng tín dụng của chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà nội đã tận tình hướng dẫn, cung cấp tài liệu và đóng góp ý kiến giúp em hoàn thành bài chuyên đề tốt nghiệp này.
Kết cấu của chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận (DNV&N- tín dụng Ngân hàng đối với các DNV&N)
Chương II: Thực trạng về chất lượng tín dụng đối với các DNV&N tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu- chi nhánh Hà nội.
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNV&N tại Ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Hà nội.
CHƯƠNG I:CƠ SỞ LÝ LUẬN DOANH NGHIỆP VÀ VÀ NHỎ- TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
I. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong một nền kinh tế, nếu chỉ dựa vào quy mô hoạt động có thể chia doanh nghiệp thành hai loại: doanh nghiệp lớn, DNV&N.Các DNV&N là loại hình doanh nghiệp phổ biến ở hầu hết các nước. Tuy nhiên, không có một tiêu chuẩn chung nào cho việc phân định ranh giới quy mô doanh nghiệp ở các nước. ở mỗi nước khác nhau, tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh phát triển kinh tế cụ thể mà có cách xác định quy mô doanh nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể.
Hầu hết các nước trên thế giới đếu xác định DNV&N theo hai tiêu thức: tổng số vốn kinh doanh, số lượng lao động của doanh nghiệp để phân biệt quy mô lớn, vừa và nhỏ.
Ở Việt Nam, theo quyết định của Chính Phủ tại NĐ 90/ 2001/NĐ- CP ra ngày 23/11/2001 về trợ giúp và phát triển DNV&N có định nghĩa sau: "DNV&N vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành. Có vốn đăng ký không quá 10 tỷ VNĐ hoặc số lao động hàng năm không quá 300 người". Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương trong quá trình thực hiện các biện pháp chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.
Với tiêu chí xác định DNV&N theo NĐ 90/ 2001/ NĐ- CP thì số lượng doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể. Theo số liệu thống kê đến hết năm 2001 có tổng cộng 77.784 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh: riêng trong năm 2000-2001 thực hiện luật doanh nghiệp mới tăng vượt bậc 35.481 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký kinh doanh là 41.882 tỷ đồng.
2. Đặc điểm và phân loại
2.1. Phân loại
Tuỳ theo các tiêu thức ta có thể phân loại DNV&N như sau:
-Theo hình thức sở hữu bao gồm:
+Doanh nghiệp nhà nước.
+ Doanh nghiệp tư nhân.
+Công ty TNHH.
+ Doanh nghiệp cổ phần.
-Phân loại theo mục tiêu SXKD:
+ Doanh nghiệp SXKD hàng hoá công cộng không vì mục tiêu lợi nhuận.
+ Doanh nghiệp SXKD vì mục tiêu lợi nhuận.
-Phân loại theo mục tiêu ngành nghề và lĩnh vực SXKD:
+ Doanh nghiệp công nghiệp.
+ Doanh nghiệp nông nghiệp.
+ Doanh nghiệp xây dựng.
+ Doanh nghiệp thương mại dịch vụ...
-Phân loại theo quy mô (về lao động,Vốn, sản lượng, doanh thu, mức lợi nhuận...)
+ Doanh nghiệp vừa.
+ Doanh nghiệp nhỏ.
Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh và thoả mãn hai tiêu thức: Vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng, lao động trung bình hàng năm không quá 300 người đều được coi là DNV&N.
2.2. Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thứ nhất, các doanh nghiệp này có quy mô hoạt động nhỏ bé.
Phần lớn các DNV&N có quy mô bé với số vốn dưới 1 tỷ đồng và lao động dưới 50 người. Chỉ xét riêng về DNV&N thì đến ngày 1/9/2008 có tới 65% DN có số vốn dưới 5 tỷ đồng, trong đó 1341 DN có số vốn dưới 1 tỷ đồng, chiếm 23% tổng số DNV&N. Do quy mô nhỏ dẫn tới nguồn vốn cũng hạn hẹp, kéo theo nhữmg khó khăn về mặt bằng SXKD, trình độ công nghệ và năng lực quản lý hạn chế, thiếu thông tin gây ra nhiều yếu kém trong sản xuất, trong đó thiếu vốn là đặc điểm nổi bật.
Thứ hai, Sức cạnh tranh của các DNV&N còn thấp
Do DNV&N là những DN có quy mô nhỏ, vốn đầu tư cho hoạt động SXKD còn ít làm cho hoạt động SXKD gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm như là: chất lượng chưa cao, sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ còn yếu do đó không mở rộng được thị trường, hàng hoá ngày càng khó tiêu thụ. Tất yếu dẫn đến lợi nhuận thấp, cản trở việc SXKD, dễ có những hành vi gian lận thương mại, kinh doanh trái với quy định của pháp luật.
Thứ ba, Quản lý và điều hành hoạt động SXKD của DNV&Nthấp.
Hầu hết các DNV&N được thành lập có nguồn vốn dựa vào tiền tích luỹ cá nhân cộng với tích luỹ của gia đình (đối với các DN ngoài quốc doanh). Do vậy, những người điều hành DN hầu hết có thế mạnh về vốn lớn hơn thế mạnh về năng lực quản lý. Các DNV&N nhà nước còn rất nhiều nhà quản lý yếu kém về trình độ điều hành. Nên chưa đáp ứng được nhu cầu kinh tế của thị trường, không đủ sức để DN đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt.
Bên cạnh đó số người của DNV&N có trình độ, được đào tạo còn ít, khó khăn đối với các DNV&N là không thu hút được cán bộ kỹ thuật giỏi và những công nhân có tay nghề cao. Từ đó, dẫn đến năng suất lao động thấp, hiệu quả sử dụng vốn kém ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả vốn vay và bảo toàn vốn thấp. Cho nên khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của các DNV&N bị hạn chế.
Thứ tư, Môi trường kinh doanh bên ngoài ảnh hưởng không nhỏ tới DNV&N
Thật vậy, những tác động từ bên ngoàitới DN cũng gây không ít khó khăncho DNV&N.Trước hết, là sự tác động quản lý của nhà nước về hoàn thiện luật DN, thực thi luật DN, các chính sách thuế, chính sách, thương mại, chính sách khoa học- công nghệ, cơ sở giáo dục đào tạo, lao động và việc làm...còn nhiều bất cập. Tác động quản lý của nhà nước đối với DNV&N trong khâu tổ chức còn nhiều bức xúc, nhất là tệ quan liêu, tham nhũng của một bộ phận cán bộ công chứng quản lý nhà nước. Sự thiếu hụt và rối loạn của thị trường như: thị trường vốn, thị trường thông tin, thị trường dịch vụ và nạn hàng giả, hàng lậu tràn lan gây nhiều khó khăn cho hoạt động SXKD của DNV&N.
3. Vai trò của DNV&N trong nền KT thị trường
Mặc dù còn có các quy định khác nhau về DNV&N nhưng sự phát triển của DNV&N ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước trên thế giới đã khiến cho các nhà KT và Chính Phủ các nước nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của DNV&N trong nền KT thị trường. Hiện nay ở hầu hết các nước, DNV&N đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển KT-XH của đất nước.
3.1. DNV&N cung cấp một khối lượng lớn sản phẩm, dịch vụ đa đạng, phong phú về chủng loại đáp ứng nhu cầu SX và tiêu dùng.
Các DNV&N hoạt động trong mọi lĩnh vực của nền KT quốc dân từ SX công nghiệp, xây dựng..., Thương mại đến dịch vụ có khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa đạng, phong phú của người tiêu dùng. Ngay ở các nước phát triển, sự phát triển mạnh mẽ của các siêu thị cũng không thể thay thế được các DN bán lẻ, những sản phẩm có tính chất lặt vặt, nhỏ không thích hợp với các DN lớn. Số liệu điều tra cho thấy DNV&N đem lại 78% doanh số bán lẻ trong thương nghiệp, 64% khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hoá, SX gần 100% sản lượng công nghiệp của nhiều mặt hàng tiêu dùng như: đồ mỹ nghệ, đồ mộc, mây tre...
3.2. DNV&N đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm phù hợp với nhiều đối tượng, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần ổn định xã hội.
Nhất là những nước đông dân lại sống chủ yếu bằng nghề nông, thu nhập thấp như nước ta. Hàng năm có thêm khoảng 1 triệu người gia nhập lực lượng lao động mà khả năng thu hút lao động mới này vào các DN lớn thuộc khối quốc doanh là rất hạn chế. Sự tồn tại và phát triển DNV&N là phương tiện có hiệu quả để giải quyết vấn đề thất nghiệp, là nguồn lực chủ yếu tạo ra việc làm. Lý do thật đơn giản là DNV&N thường được dễ dàng tạo lập với một khối lượng không lớn, thường xuyên đáp ứng được nhu cầu thay đổi của thị trường. Vì vậy, mặc dù số lao động làm việc trong một DNV&N không nhiều nhưng theo quy luật số đông, với số lượng lớn DNV&N đủ tạo ra phần lớn công ăn việc làm cho xã hội. Cho đến nay ở Việt Nam tổng số LĐ làm việc trong các DNV&N khoảng hơn 9 triệu người chiếm 26-27% lực lượng LĐ cả nước.
3.3. DNV&N phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính
Sự ra đời và phát triển của DNV&N với nhiều loại hình như: DNNN, công ty tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần... đã khơi dậy và đưa vào hoạt động nhiều khoản vốn đang nằm phân tán trong dân cư, góp phần phát triênt SX. DNV&N góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn lực tại địa phương.
Thật vậy, Việc thành lập DNV&N không cần quá nhiều vốn. Điều đó đã tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư. Mặt khác, trong quá trình hoạt động các DNV&N có thể dễ dàng huy động vốn dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc.
Với quy mô nhỏ và vừa, lại được phân tán ở hầu khắp các địa phương, các vùng lãnh thổ nên DNV&N có khả năng tận dụng các tiềm năng về LĐ, về nguyên vật liệu với trữ lượng hạn chế không đáp ứng đủ nhu cầu quy mô lớn nhưng sẵn có ở địa phương, sử dụng các sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các DN lớn. Ngoài ra, những ngành mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh từ giá thành sức LĐ (như may mặc, chế biến lương thực, thuỷ hải sản, sản xuất đồ mỹ nghệ...) đều là những ngành không có lợi ích từ quy mô lớn.
3.4. DNV&N hỗ trợ cho các DN lớn trong SXKD
Các DNV&N có thể nhận gia công, sản xuất cung ứng nguyên liệu đầu vào, nhận làm đại lý phân phối tiêu thụ các sản phẩm đầu ra cho các DN lớn. Từ đó phát huy thế mạnh của từng loại hình DN, tăng tính chuyên môn hoá, nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm, thúc đẩy sự phát triển của các DN. Đặc biệt, trong quá trình đổi mới hội nhập của đất nước vai trò hỗ trợ cho các DN lớn của DNV&N sẽ ngày một khẳng định và phát huy thêm.
3.5. DNV&N góp phần thúc đẩy tăng trưởng KT
Toàn bộ khu vực DNV&N cả nước chỉ chiếm 20% vốn kinh doanh của tất cả các DN. Tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp vào GDP không nhỏ đạt xấp xỉ 36,6% (trong đó: DNV&N quốc doanh đóng góp 7%, DNV&N ngoài quốc doanh đóng góp 19,6% GDP). Nếu so với kết quả đánh giá của tổng cục quản lý vốn và tài sản của nhà nước, các tổng công ty nhà nước chiếm gần 80% về vốn nhưng doanh thu chỉ đạt 49,8% thì kết quả đạt được của khu vực DNV&N thật đáng quan tâm hơn nữa.
3.6. DNV&N góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ, những nhà kinh doanh, những nhà quản trị mới trong nền KT thị trường.
Thực tế cho thấy, có những DN giữ quy mô vừa và nhỏ vì đó là quy mô có hiệu quả nhất phù hợp với khả năng kinh doanh và tiềm năng của DN, nhưng cũng có nhiều DNV&N phát triển thành DN lớn. Với sự phát triển trong tất cả các lĩnh vực tài công nghiệp, xây dựng, đến nhà hàng, khách sạn... ở quy mô nào các DNV&N cũng vẫn là vườn ươm nhân tài cho công cuộc phát triển đất nước.
Ngoài những vai trò chủ yếu trên, DNV&N còn một số vai trò khác như là: DNV&N góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu KT; DNV&N đóng góp vào việc duy trì và phát triển các ngành thủ công nghiệp; DNV&N góp phần tăng nguồn hàng xuất khẩu và tăng thu cho ngân sách nhà nước.
4. Ưu điểm và hạn chế của các DNV&N trong nền KT thị trường
4.1. Ưu điểm:
-DNV&N năng động, nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường. Với quy mô vừa và nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ DNV&N dễ dàng và đáp những yêu cầu có hạn trong thị trường chuyên môn hoá. Mặt khác, DNV&N luôn có mối liên hệ trực tiếp với thị trườngvà người tiêu dùng nên có phản ứng nhanh nhạy với sự biến động của thị trường.
-DNV&N được tạo lập dễ dàng, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp. Với quy mô vốn đầu tư ban đầu không nhiều, mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp, quy mô nhà xưởng không lớn là có thể thành lập được một DNV&N. Các DNV&N rất linh hoạt trong việc học hỏi, phát triển và tránh những thiệt hại to lớn do môi trường khách quan tác động lên.
-DNV&N tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh. Khác với các DN lớn, cần thi trường hoạt động lớn, có sự bảo hộ của Chính Phủ, có sự độc quyền. Các DNV&N hoạt động với số lượng dông, không có tình trạng độc quyền, các DN ngày nay dễ dàng chấp nhận sự cạnh tranh tự do. So với các DN lớn, DNV&N có tính tự chủ cao hơn, các DNV&N không ỷ lại vào sự giúp đỡ của nhànước mà sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển không ngại rủi ro. Nói chung, DNV&N buộc phải duy trì sự phát triển nếu không sẽ bị phá sản.
-DNV&N có thể phát huy các tiềm lực trong nước. Thành công của các DNV&N là nắm bắt được các điều kiện cụ thể của đất nước về tài nguyên, lao động.
-DNV&N đóng góp một phần tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các vùng trong một quốc gia, DNV&N có thể phát triển rộng rãi khắp nơi, mội vùng lãnh thổ và tạo ra nhiều sản phẩm phong phú, đa dạng, đồng thời tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các vùng trong một đất nước.
Bên cạnh những ưu thế trên DNV&N cũng có nhiều hạn chế vốn có.
4.2. Hạn chế chủ yếu của các DNV&N
-Khả năng tài chính của DNV&N hạn chế. Với ưu thế tạo lập dễ dàng do chỉ cần một lượng vốn ít DNV&N gặp phải một hạn chế là năng lực tài chính thấp từ đó dẫn đến một loạt bất lợi cho DNV&N trong SXKD.
-Thiếu thông tin, trình độ quản lý thường bị hạn chế. Do khả năng tài chính hạn chế mà DNV&N khó khăn trongviệc tiếp cận thi trường, tiếp cận công nghệ SX và công nghệ quản lý tiên tiến.
-DNV&N ít có khả năng thu hút được những nhà quản lý và người LĐ giỏi. Với quy mô SX không lớn, sản phẩm tiêu thụ không nhiều, DNV&N khó có thể trả lương cao cho người LĐ.
-Hoạt động của DNV&N thiếu vững chắc. Mặc dù có ưu thế linh hoạt nhưng do khả năng tài chính hạn chế, khi có biến động lớn trên thị trường, DNV&N dễ rơi vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên, phần lớn các nước có số lượng phá sản lớn, nhưng đi đôi với việc phá sản lại có các DN mới được thành lập, và số lượng các DN mới được thành lập luôn lớn hơn số bị phá sản. Do vậy, đã không dẫn đến tình trạng xáo động nền KT- XH và cũng chính hiện tượng đó đã phản ánh sức sống mãnh liệt của các DNV&N nói chung trong nền kinh tế.
Cùng với những hạn chế nêu trên, trong quá trình hoạt động của các DNV&N còn có thể nảy sinh một số hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng không tốt tới đời sống KT- XH như trốn thuế, chạy theo lợi nhuận quá mức mà không chú ý đến hậu quả xã hội phải gánh chịu ( VD: làm hàng giả không đảm bảo chất lượng, gây ô nhiễm môi trường...) Một số DNV&N do chạy theo lợi nhuận quá mức đã tìm mọi cách để kiếm lời, kể cả các hành vi vi phạm pháp luật.
II. TDNH VÀ VAI TRÒ TDNH ĐỐI VỚI CÁC DNV&N
1. Đại cương về TDNH
1.1. Khái niệm:
Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên khi gắn với một chủ thể nhất định như ngân hàng (hoặc các trung gian khác), ví như TDNH thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Việc xác định như thế này là cần thiết để định lượng tín dụng trong các hoạt động KT.
TD là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM. Đây là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng sổ tài sản và tạo thu nhập từ lãi lớn. Tín dụng còn là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (được gọi là TDNH).
Quan hệ TD phần lớn được xác định thông qua hợp đồng TD với trọng tâm là xác định khả năng và ý muốn của người nhận TD trong việc thực hiện hợp đồng.
1.2. Các nguyên tắc TDNH
Hoạt động TD của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm bảo đảm tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định của ngân hàng nhà nước và các NHTM.
Nguyên tắc thứ nhất: Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc), lãi với thời gian xác định. Các khoản TDNH chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản vay mà ngân hàng đi vay. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu người nhận TD phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.
Nguyên tắc thứ hai: Khách hàng phải cam kết sử dụng TD theo đúng mục đích được thoả thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các ngân hàng. Bên cạnh đó mỗi ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồngTD đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái luật pháp và việc tài trợ đó không phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng.
Nguyên tắc thứ ba: Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ cho ngân hàng, các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay.
1.3. Phân loại TD (các hình thức TDNH)
TD là loại tài sản lớn nhất ở phần lớn các NHTM phản ánh hoạt động đậc trưng của ngân hàng. Loại tài sản này được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
1.3.1. Tín dụng phân loại theo thời gian (TD ngắn hạn, trung hạn, dài hạn)
TD ngắn hạn- thời hạn từ 12 tháng trở xuống, trung hạn- trên 1 năm đến 5 năm, dài hạn- trên 5 năm. Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Phân chia TD theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tài sản.
Tỷ trọng TD ngắn hạn tại các NHTM thường cao hơn TD trung và dài hạn: các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. TD trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn nhưng rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của ngân hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn...
1.3.2. Hình thức tài trợ TD được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê...
Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục TD. Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong kỳ. Dư nợ cuối kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Khi lập các báo cáo tài chính (thời điểm), cho vay được ghi dưới hình thức dư nợ. Một số ngân hàng thường ghi giảm dư nợ phần trích lập dự phòng tổn thất hoặc lãi được nhận trước. Các ngân hàng cũng ghi như vậy với chiết khấu. Cho thuê tài sản trung và dài hạn được ghi vào khoản mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền mà ngân hàng thu được (dư nợ cho thuê). Bảo lãnh được ghi vài tài sản ngoại bảng, đó là giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay cho khách hàng của mình. Phần bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào tài sản nội bảng (mục cho vay bắt buộc, tính vào nợ quá hạn).
1.3.3. TD được phân chia theo đảm bảo:
Không có đảm bảo, có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố. Về nguyên tắc mọi khoản TD của ngân hàng dều có đảm bảo. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng TD loại đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả được nợ. Do đó, các khoản tài trợ có đảm bảo trên quan điểm của khách hàng là các khoản tài trợ có nguồn thu nợ thứ hai từ đảm bảo. Các khoản tài trợ không gắn với hợp đồng đảm bảo được ngân hàng xếp vào tài trợ không đảm bảo. Việc phân chia này không nói lên tính an toàn của khoản tài trợ của ngân hàng, mà chỉ giúp ngân hàng theo dõi các hợp đồng về đảm bảo, đưa ra các biện pháp xử lý khi cần thiết.
1.3.4. TD phân loại theo rủi ro:
TD ngân hàng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Để phân loại tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để phân chia rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro TD, tức là xếp loại TD theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao. Cách phân loại này giúp cho ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục TD, dự trù quỹ cho các khoản TD rủi ro cao, đánh giá chất lượng TD...
1.3.5.TD theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp...) hoặc theo đối tượng tài trợ (hàng hoá, hoặc bất động sản...) hoặc theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng...).
2.Sự cần thiết và vai trò của TDNH đối với các DNV&N
2.1.Sự cần thiết- TDNH trong nền kinh tế thi trường
TD với đặc trưng cơ bản của nó tồn tại trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì các quan hệ này càng được mở rộng. Bên cạnh việc mở rộng các quan hệ TD thì các hoạt động TD cũng ngày càng phát triển đa dạng như TD thương mại, TDNH, TD Nhà nước. Tuy nhiên, Với những ưu việt của mình phục vụ cho SXKD thì TDNH đóng một vai trò quan trọng hơn hết.
Như ta đã biết, TDNH là quan hệ TD giữa các ngân hàng, các tổ chức TD khác với các DN và cá nhân. Trong nền kinh tế ngân hàng đóng vai trò tổ chức trung gian. Vì vậy trong mối quan hệ TD với các DN và cá nhân, ngân hàng vừa là người cho vay vừa là người đi vay. Đối tượng cho vay trong các quan hệ TD là tiền tệ. Cho nên, TDNH ra đời đã khắc phục được hạn chế của TD thương mại về quy mô, thời gian và phương thức vận động... Để có được điều này là do TDNH đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường đối với lĩnh vực SX, lưu thông hàng hoá cũng như lĩnh vực lưu thông tiền tệ.
Với vai trò là trung gian tài chính, trong quá trình tập trung và phân phối vốn ngân hàng đã biến các nguồn vốn tạm thời dư thừa trong quá trình SXKD cũng như vốn nhàn rỗi trong dân cư thành nguồn vốn cho vay, góp phần điều hoà vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện cho các DN đầu tư vào tài sản cố định, mua sắm máy móc, trang thiết bị... Hoặc bổ sung vào nhu cầu vốn lưu động, giúp cho quá trình SXKD được thuận lợi hơn. Có thể nói, nhu cầu hoạt động TD cũng như mọi hoạt động của ngân hàng đều xuất phát từ nhu cầu của nền KT, nếu đáp ứng có hiệu quả thì ngân hàng mới có thể tồn tại và phát triển tốt hơn. Và đó cũng chính là sự cần thiết phải có TDNH.
2.2. Vai trò của TDNH đối với các DNV&N
2.2.1. TDNH góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho DN
Trong nền KT thị trường hiếm có DN nào chỉ sử dụng vốn tự có để hoạt động SXKD có hiệu quả. Việc này không những hạn chế khả năng mở rộng SXKD của DN mà còn làm tăng giá vốn của DN. Vậy nên, trong hoạt động SXKD hiện nay cơ cấu vốn của DN bao gồm hai nguồn cơ bản: vốn tự có và vốn đi vay. Nhưng không phải DN nào muốn vay bao nhiêu cũng được mà còn phụ thuộc vào điều kiện và theo yêu cầu luật định. Cơ cấu vốn ưu là sự kết hợp hợp lý nhất các nguồn tài trợ cho kinh doanh của một DN nhằm mục đích tối đa hoá giá trị thị trường của DN tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
Nếu vốn vay quá lớn thì chi phí tính vào giá thành sẽ tăng, đồng thời lợi nhuận giảm, và làm cho khả năng thanh toán của DN giảm, rủi ro dẫn tới nguy cơ phá sản tăng lên. Do vậy, tỷ lệ vốn vay càng lớn DN càng phải chịu sự kiểm soát sát sao và các điều kiện vay vốn chặt chẽ của ngân hàng. Trước tình hình này buộc các ngân hàng và các DN phải cân nhắc kỹ lưỡng trong việc quyết định tỷ trọng vay vốn trong tổng vốn hoạt động của DN, từ đó hình thành nên một cơ cấu vốn tối ưu cho kinh doanh.
2.2.2. TDNH tạo điều kiện cho DN mở rộng SXKD
TDNH mở rộng quy mô hoạt động của mình thông qua việc huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong toàn bộ nền KT để tài trợ cho các thành phần KT nói chung và DNV&N nói riêng. Để đảm bảo cho các DNV&N không chỉ duy trì sản xuất mà còn tái SX mở rộng, đặc biệt trong các ngành KT mũi nhọn của đất nước TDNH tài trợ vốn cho các DN không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung và dài hạn. Muốn mở rộng SXKD thì phải có thi trường. Ngoài thi trường tiềm năng trong nước các DN còn phải chú trọng tới thị trường nước ngoài,TDNH thông qua các nghiệp vụ như: bảo lãnh, tài trợ cho nghiệp vụ xuất nhập khẩu để giúp cho DN thực hiện tốt hoạt động này. Khi DN là người xuất khẩu, ngân hàng đóng vai trò là ngân hàng thông báo thu hồi vốn cho họ. Còn khi DN là người nhập khẩu máy móc thiết bị, thì ngân hàng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh thư tín dụng tạo điều kiện cho hoạt động SXKD của DN trong quá trình mở rộng thị phần cũng như mở rộng hoạt động SXKD của DNV&N.
2.2.3. TDNH giúp cho các DNV&N tổ chức SXKD
Đặc trưng của TDNH không phải chỉ là cấp phát vốn mà còn là nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi theo thời gian quy định. Do đó, không phải chỉ thu hồi vốn là đủ mà các DN còn phải tìm kiếm các biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất ngân hàng thì doanh nghiệp mới trả được nợ và kinh doanh có lãi, đảm bảo tiến trình hoạt động và có tích luỹ để mở rộng SXKD.
Theo nguyên tắc TDNH chỉ cấp tín dụng cho các DN có phương án SXKD có hiệu quả, như vậy DN muốn vay được vốn của ngân hàng thì phải tự khẳng định mình làm ăn có hiệu quả.
Hơn nữa, TDNH với quy trình kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, giám sát chặt chẽ tiến độ và mục đích sử dụng vốn của DN đi đúng hướng đã chọn nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận cao nhất. TDNH cũng góp phần buộc DN làm ăn đứng đắn thông qua việc kiểm tra định kỳ các báo cáo tài chính DN. Vì quá trình tạo ra lợi nhuận của ngân hàng liên quan chặt chẽ đến sự SXKD của DN, nên để đảm bảo lợi ích của mình cũng như của DN ngân hàng luôn cùng DN tháo gỡ những khó khăn trong phạm vi cho phép và tư vấn cho DN hoạt động hiệu quả hơn.
III. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNV&N
1. Chất lượng tín dụng
1.1. Khái niệm chất lượng TD:
Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng trong nền kinh tế thị trường nhưng cũng là nơi chứa đựng nhiều rủi ro nhất, ngay cả những khoản vay có thế chấp, cầm cố cũng được xác định là có hệ số rủi ro 50%. Trong thực tế, nhiều nhân viên ngân hàng quan niệm cho vay có tài sản thế chấp và không vượt quá tỷ lệ quy định là an toàn nhất. Thực ra quan niệm này là hết sức sai lầm, bởi vì khi cho vay chú ý đến tình hình hoạt động và khả năng tài chính của khách hàng mới là vấn đề quan trọng nhất, còn thế chấp chỉ là một trong những điều kiện cần phải có để đảm bảo khả năng thu hồi khi khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng.
Đối với các NHTM Việt Nam hoạt động TD đang là lĩnh vực chủ đạo chiếm tỷ trọng từ 85-95% doanh thu, nên việc đảm bảo chất lượng TD sẽ là vấn đề có tính quyết định đến kết quả kinh doanh của NHTM. Chínhvì vậy mà việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng TD luôn là mục, đồng thời là một nhân tố quan trọng nhất để cạnh tranh và phát triển của mỗi ngân hàng thương mại.
Trước tiên có thể hiêủ đơn giản chất lượng TD là hiệu quả của việc cho vay (đầu tư, bảo lãnh) mang lại, là khả năng thu hồi vốn đầy đủ cả gốc và lãi (hoặc phí) theo dự định. Chất lượng TD cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình hình hoạt động TDNH.
Một cách chung nhất, chất lượng TD được hiểu là sự đáp ứng các yêu cầu hợp lý của khách hàng có lựa chọn, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Cụ thể hơn, chất lượng TD là các món vay được đánh giá là có chất lượng tốt khi các khoản tiền đó sử dụng đúng mục đích phục vụ cho hoạt động SXKD đem lại hiệu quả KT để trả nợ đúng hạn, bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Cũng có nghĩa là vừa mamg lại hiệu quả KT vừa đem lại hiệu quả xã hội.
Nếu xét từ phía ngân hàng: chất lượng TD được phản ánh qua p._.hạm vi, mức độ giới hạn TD phải phù hợp với khả năng thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng, phải đảm bảo được sự cạnh tranh, tuân thủ quy tắc hoàn trả đúng hạn. Đó là sự gia tăng hợp lý của các chỉ tiêu như: chỉ tiêu lợi nhuận, mức dư nợ và chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn phải ở mức thấp đồng thời đảm bảo mức cân đối nguồn vốn ngắn hạn, trung và dài hạn.
Nếu xét trên quan điểm của khách hàng: Thì chất lượng TD là sự thoả mãn yêu cầu của họ về mức lãi suất hợp lý, thủ tục cho vay đơn giản, điều kiện cho vay thông thoáng...
Nếu xét trên giác độ KT- XH: Chất lượng TD phải tạo ra được các hiệu quả xã hội như phục vụ nhu cầu SXKD, thúc đẩy phát triển KT- XH, giải quyết một phần vấn đề việc làm, góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác các nguồn lực một cách tối ưu nhất.
Qua những phân tích trên đây ta thấy:
-Chất lượng TD là một trong những chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng đối với sự thay đổi của môi trường, thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong cạnh tranh.
-Chất lượng TD được xem qua nhiều yếu tố như khả năng thu hút khách hàng, mức độ an toàn vốn TD, doanh thu, cho phí, lợi nhuận...
-Chất lượng TD là kết quả của quá trình kết hợp hoạt động của các tổ chức vì mục đích chung. Do đó để có chất lượng tốt cần phải có sự quản lý khoa học chặt chẽ. Vậy hoạt động TD phải có hiệu quả và quan hệ TD phải được thiết lập dựa trên cơ sở tin cậy, uy tín.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng TDNH
Hiện nay ngân hàng đang áp dụng nhiều giải pháp cũng như biện pháp để đảm bảo chất lượng TD. Tổng thể được biểu hiện qua hai nhóm chỉ tiêu: nhóm chỉ tiêu định tính và nhóm chỉ tiêu định lượng.
1.2.1. Nhóm chỉ tiêu định tính:
Được thể hiện thông qua các quy chế, chế độ, thể lệ TD...
- Cho vay tuân thủ 3 nguyên tắc: vốn vay phải được đảm bảo bằng giá trị vật tư, hàng hoá tương đương; cho vay hoàn trả vốn và lãi đúng thời hạn; sử dụng vốn vay đúng mục đích.
- Cho vay phải tuân thủ các điều kiện như: lập hồ sơ cho vay, có phương án SXKD, có báo cáo tài chính, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có tài sản thế chấp hợp pháp... Kèm theo đó là việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Các chỉ tiêu này có mối quan hệ tương đồng lẫn nhau.
1.2.2. Nhóm chỉ tiêu định lượng:
Nhầm phân tán rủi ro, đảm bảo các thông số chuẩn đánh giá chất lượng TD.
- Xét về khả năng sinh lãi cho ngân hàng: gồm có các chỉ tiêu như vòng quay vốn, lợi nhuận, lãi treo.
+ Vòng quay vốn: là chỉ tiêu dánh giá tần suất sử dụng vốn (hiệu quả sử dụng vốn) của ngân hàng trong một thời kỳ.
Nếu vòng quay vốn càng lớn thì ngân hàng sẽ có một số tiền càng lớn. do vậy, lãi thu được từ vốn vay cao hơn tức là đồng vốn sử dụng cói hiệu quả hơn và ngược lại. Với một lượng vốn nhất định nhưng do vòng quay vốn TD nhanh nên ngân hàng đủ đáp ứng được nhu cầu cho các DN. Mặt khác, ngân hàng có nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho các DN khác thực hiện SXKD.
+ Chỉ tiêu về lợi nhuận (chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên tổng tài sản): Đây là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động ngân hàng nói chung. Nó đánh giá mức độ hiệu quả sử dụng tài sản của nhà quản lý.
Đây là lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ hoạt động cho vay đối với DNV&N. Trong kinh doanh TD phải thực hiện được lãi suất dương, có nghĩa lãi suất đầu ra phải cao hơn lãi suất đầu vào cộng với các chi phí nghiệp vụ ngân hàng. Nguồn thu từ hoạt động kinh doanh là nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại và phát triển. Ngân hàng có thể tuỳ thời gian điều kiện kinh doanh cụ thể để có chính sách khách hàng hợp lý, nhằm mở rộng đầu tư TD thu hút khách hàng nhưng vẫn đảm bảo cho hoạt động TD đạt hiệu quả cao nhất. Lợi nhuận do TD đem lại chứng tỏ các khoản vay không những thu hồi được gốc mà thu được cả lãi, đảm bảo được an toàn đồng vốn cho vay. Bằng việc so sánh các chỉ tiêu này giữa các ngân hàng cùng cấp ta có thể đánh giá xếp loại chất lượng TD của các ngân hàng.
+ Lãi treo: Đây là thuật ngữ chỉ số tiền lẽ ra là nguồn thu cho ngân hàng nhưng thực tế DN chưa trả, nó phản ánh mặt trái của chất lượng TD. Số lượng và tốc độ tăng của lãi treo là một trong những dấu hiệu tiềm ẩn sự giảm sút chất lượng TDNH.
- Xét về khả năng thu hồi và tổn thất ta có các chỉ tiêu như: hệ số nợ qúa hạn, tỷ lệ vốn có khả năng tổn thất, tỷ trọng dư nợ TD...
+ Hệ số nợ quá hạn: Đây là chỉ tiêu quan trọng nó cho biết chất lượng TD cũng như khả năng tìm kiếm của ngân hàng.
Hệ số dư nợ quỏ hạn = *100
Chỉ tiêu này dùng để phản ánh tình trạng khó đòi, nợ quá hạn để có các biện pháp xử lý kịp thời. Nếu tỷ trọng này quá cao thì sẽ ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của .ngân hàng
+ Tỷ lệ vốn có khả năng tổn thất:
CT: Tỷ lệ cho vay có khả năng tổn thất = *100
Tỷ lệ này phản ánh vốn có nguy cơ bị mất.
+ Tỷ trọng dư nợ trên tổng tài sản có: Chỉ tiêu này phản ánh quy mô TD cũng như cơ cấu vốn của ngân hàng.
Ngoài ra, chất lượng TD còn được thể hiện qua các chỉ tiêu: Khả năng thu hút vốn của ngân hàng, mức độ an toàn TD (>=8%).
Về phía khách hàng (DN) nhận đồng vốn của ngân hàng: Người ta đánh giá hiệu quả cho vay thông qua: Việc DN giải quyết việc thiếu vốn để sản xuất kinh doanh, mức độ phát triển, mức độ cạnh tranh, khả năng mở rộng DN, mở rộng lĩnh vực ngành nghề kinh doanh... khi DN chưa nhận được vốn tài trợ của ngân hàng.
Về mặt xã hội: Người ta có thế đánh giá hiệu quả của công tắc cho vay thông qua các chỉ tiêu sau (thông qua các đơn vị tiếp nhận vốn của ngân hàng tác động tới nền kinh tế): Chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Sự gia tăng số hộ giàu, giảm số hộ nghèo; Góp phần giải quyết công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân; Sự đóng góp chung vào quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế đất nước; giảm bớt sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị tiến tới công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn...
2. Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng TD đối với DNV&N
Như ta đã biết, chất lượng TD là chỉ tiêu để đánh giá tình hình hoạt động TD của một ngân hàng có ý nghĩa lớn đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Để có thể thực hiện được mục tiêu hoạt động của mình là tìm kiếm lợi nhuận dựa trên chức năng nhiệm vụ của ngân hàng, cụ thể ở đây là hoạt động TD của mỗi ngân hàng phải làm sao để nâng cao được chất lượng TD. Để thực hiện được điều này ta cần nghiên cứu tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động TD, đó là 3 nhóm nhân tố sau đây:
2.1. Các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng
Bao gồm các nhân tố như: Chính sách tín dụng, công tác tổ chức, công tác tổ chức, chát lượng cán bộ, quy mô vốn của ngân hàng, thông tin TD, quy trình nghiệp vụ tín dụng...
* Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là một hệ thống biện pháp có liên quan đến việc khuyếch trương TD hoặc hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định của ngân hàng thương mại đó.
Do đó, việc hoạch định chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đén sự thành công hay thất bại của mỗi ngân hàng. Một chính sách TD đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của họat động tín dụng dựa trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ chấp hành đúng luật pháp và đường lối của ngân hàng nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội. Bất kỳ một ngân hàng nào muốn nâng cao hiệu quả hoạt động của mình thì phải có chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thi trường chứa đựng nhiều rủi ro. Khi ngân hàng gặp những rủi ro thì có thể đi đến phá sản hoặc bị thiệt hại lớn, mất uy tín với khách hàng và cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy khi hoạch định chính sách tín dụng, các nhà hoạch định luôn coi trọng việc đảm bảo mục tiêu phải đạt được, nên ta có thể nói rằng: Chất lượng TD của một ngân hàng có tốt hay không còn phù thuộc vào việc xây dựng một chính sách tín dụng ngân hàng có đúng đắn, phù hợp không.
* Công tác tổ chức ngân hàng
Để tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các nguồn vốn TD thì cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự thống nhất đoàn kết từ trên xuống, từ ban lãnh đạo đến cán bộ công nhân viên. Điều đó có ý nghĩa là công tác tổ chức ngân hàng được thực hiện tốt chính là cơ sở tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Hơn nữa thực hiện tốt công tác này, ngân hàng đã làm cho guồng máy của mình hoạt động một cách uyển chuyển linh hoạt. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động ngân hàng nên luôn chú trọng công tác này để ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.
* Thông tin tín dụng
Cho vay không phải là một vấn đề đơn giản. Trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng vốn vay có hiệu quả và đúng mục đích. Đó là chưa nói tới những kẻ mạo danh, mạo nhận là DN để cho vay trái phép, chiếm dụng vốn bất hợp pháp, gây rủi ro và tổn thất cho ngân hàng. Vì vậy, hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Nắm bắt kịp thời và chính xác luồng thông tin là điều kiện để xem xét, phân tích, nhằm tìm ra cơ hội tốt nhất trong kinh doanh cũng như đề phòng những rủi ro có thể xẩy ra trong các hoạt động của ngân hàng.
Trên thương trường có rất nhiều đối thủ cạnh tranh, nếu người nào nắm bắt được thông tin nhanh nhất, chính xác nhất nhất thì đã nắm được đa phần thắng. Rõ ràng, Việc xây dựng và hoàn chỉnh một hệ thống thông tin TD với nhiều kênh, nhiều nguồn cung cấp thông tin cùng với việc đào tạo cán bộ có đủ năng lực chọn lọc và xử lý thông tin kịp thời là một trong những điều kiện quyết định tới sự thành công trong công tác kinh doanh và thực hiện hoạt động tín dụng của ngân hàng.
* Quy trình cho vay
Quy trình cho vay bắt đầu từ khi tiếp nhận hồ sơ đến khi thu hồi nợ vay. Việc thực hiện quy trình này như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của việc cho vay. Quy trình cho vay gồm rất nhiều khâu, nếu không được chấp hành một cách đúng đắn, chính xác nhịp nhàng thì rất dễ xảy ra rủi ro gây thất thoát vốn của ngân hàng, mặt khác quy trình này phải đảm bảo được tính thuận tiện, gọn nhẹ không gây khó khăn, mất thời gian cho khách hàng thì mới thu hút được đông đảo khách hàng tới vay vốn.
Trong quy trình cho vay một khâu đặc biệt quan trọng quyết định tới hiệu quả công tác cho vay đó chính là khâu thẩm định. Công việc này cần tiến hành một chặt chẽ, xác thực và hoàn thiện. Cán bộ TD khi tiến hành thẩm định không chỉ thu thập thông tin phân tích mà phải đi vào thực tế để kiểm tra. Kết quả của công tác thẩm định để đưa ra quyết định có cho vay hay không, kết quả thẩm định càng chính xác bao nhiêu thì hiệu quả cho vay càng cao bấy nhiêu. Đi đôi với việc mở rộng cho vay ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng thẩm định.
* Chất lượng đào tạo cán bộ
Nhân tố con người là nhân tố trọng tâm trong mọi hoạt động, con người là yếu tố quyết định tới sự thành công hay thất bại trong quản lý vốn tín dụng cũng như trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thực tế cho thấy một trong những vấn đề có tính quyết định lới chất lượng TD cao hay thấp phụ thuộc khá nhiều từ việc hoạch định các chủ trương, chính sách tới việc thẩm định dự án, xét duyệt hồ sơ, kiểm tra việc sử dụng vốn, thu đòi nợ... của ngân hàng mà nhân tố con người là không thể thiếu được. Trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của những khoản vay ngân hàng, từ đó quyết định tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng được thể hiện qua khả năng hiểu biết về nghiệp vụ tín dụng, kỹ năng làm việc nhanh và có hiệu quả, khả năng phán đoán được các tình huống, kinh nghiệm làm việc... Ngoài ra cán bộ TD cần phải có kiến thức về quản trị kinh doanh, kinh tế học, kiến thức tài chính- kế toán... Một các bộ tín dụng có trình độ chuyên môn cao được thể hiện qua kết quả làm việc và đặc biệt là qua các quyết định chính xác khi tiếp cận với mỗi nghiệp vụ phát sinh.
Chất lượng cán bộ là "cơ sở vật chất " để thực hiện những kế hoạch kinh doanh trong cơ chế thị trường xuyên thay đổi và có nhiều biến động như hiên nay. Do vậy trong quá trình tuyển chọn cán bộ ngân hàng cần phải ưu đãi những người có tư cách đạo đức tốt, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, năng động sáng tạo. Trong quá trình hoạt động thường xuyên tiến hành đào tạo và đào tạo lại cán bộ để năng cao chất lượng cán bộ, đảm bảo quá trình thực thi nhiệm vụ được nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong xử lý những sai sót có thể xẩy ra.
Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ được đào tạo với chất lượng, trình độ chuyên môn giỏi thì việc quản lý thực hiện các nghiệp vụ TD ngân hàng nói riêng và các nghiệp vụ ngân hàng nói chung sẽ trở nên quy củ, có hệ thống và đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, nó còn giúp cho ngân hàng tránh được các rủi ro có thể xẩy ra.
* Những vấn đề thuộc về kiểm tra, thanh tra, kiểm soát
Mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, tăng cường cho vay mà không tính đến rủi ro, bất chắc có thể xẩy ra thì sẽ dễ dàng dẫn đến sự sụp đổ giải thể của mỗi ngân hàng.
Một trong những hoạt động có mục đích cho ngân hàng tránh được những rủi ro đó là công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát. Công tác này không chỉ được thực hiện đối với khách hàng (như kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay) mà còn được thực hiện đối với bản thân ngân hàng (như quy trình thực hiện cho vay, quá trình quản lý vốn vay, loại trừ cán bộ mất phẩm chất có hiện tượng tham ô, tham nhũng gây thất thoát tài sản làm mất uy tín của ngân hàng đối với khách hàng.
Cán bộ tín dụng không những thực hiện kiểm tra trước khi cho vay mà diễn ra trong suốt quá trình cho vay và thi nợ. Vì chỉ có thực hiện công tác kiểm tra này thì ngân hàng mới có thể nắm bắt được mình cho vay có đúng đối tượng không, khách hàng sử dụng vốn vay có đúng mục đích không và hiệu quả vốn vay như thế nào. Thông qua kiểm tra ngân hàng có thể đảm bảo được các khoản vay như mong muốn và đồng thời có những biện pháp kịp thời xử lý những sai sót bất hợp pháp, nhằm nâng cao hiệu quả cho vay của ngân hàng.
Nâng cao chất lượng TD cũng đồng thời là ngân hàng phải kịp phát hiện và ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động cuả ngân hàng. Muốn vậy, việc đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực trình độ và trách nhiệm thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát là một vấn đề mà không ngân hàng nào coi nhẹ.
2.2. Nhân tố thuộc về khách hàng
Khách hàng vừa là đại diện cho bên cung ứng vốn tín dụng, vừa là đại diện cho bên cầu vốn tín dụng. Với tư cách là người cung ứng vốn TD, họ mong muốn nhận được từ ngân hàng một khoản lãi vay từ tiền gửi hay các dịch vụ thanh toán tiện lợi, do đó sự tín nhiệm của ngân hàng đói với khách hàng sẽ tăng thêm tính ổn định của nguồn vốn huy động. Với tư cách là người vay, họ mong muốn được đáp ứng đầy đủ vốn phù hợp với yêu cầu kinh doanh có thời hạn vay và lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản nhanh chóng.
* Yếu tố con người
Nhân tố con người: bao gồm đạo đức của khách hàng, mục tiêu kinh doanh, nhiệm vụ, động cơ của người vay...
Những thông tin sai trái về người vay là một dấu hiệu nguy hiểm ảnh hưởng đến chất lượng TD, ảnhhưởng đến hiệu quả của người vay.
Một nhân tố khác không kém phần quan trọng là tính quyết tâm trong kinh doanh của khách hàng. Một người vay có tính quyết tâm cao sẽ là một điều kiện giúp cho phương án kinh doanh có thể thắng lợi từ đó có nguồn trả nợ cho ngân hàng đúng hạn và đầy đủ, chất lượng TD của ngân hàng sẽ được đảm bảo và uy tín của ngân hàng được nâng cao.
Năng lực quản lý kinh doanh của khách hàng cũng là một dấu hiệu cho khả năng đảm bảo chất lượng TD của ngân hàng. Một nhà quản trị kinh doanh tốt là một người quản lý tốt đồng tiền vào ra của DN, kiểm soát được các chi phí, nhận biết các cơ hội kiếm lời và đưa ra các quyết định kinh doanh chính xác, từ đó kiếm được lợi nhuận, có nguồn để trả nợ cho ngân hàng.
* Uy tín và khả năng tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng
Ngân hàng sẽ chỉ đồng ý cho vay nếu khách hàng chứng tỏ được khả năng tài chính và khả năng trả nợ của mình đối với ngân hàng. Ngân hàng không giám mạo hiểm cho vay đối với khách hàng nào mà uy tín bị giảm sút, khả năng tài chính đang có vấn đề. Vì vậy tài sản đảm bảo là một đòi hỏi của ngân hàng để đáp ứng cho nguồn trả nợ thứ hai bổ sung cho món vay. Giá trị tài sản ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền mà khách hàng được vay, vì ngân hàng căn cứ vào giá trị tài sản đảm bảo để xác định số tiền cho vay tối đa chỉ được 70% giá trị tài sản đảm bảo (nếu như không có quy định khác).
* Tính khả thi của dự án vay vốn
Khi dự án có khả thi thì các cán bộ sẽ dựa vào đó để quyết định cho vay, quy mô tín dụng sẽ được mở rộng. Đây còn là yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng món vay, ảnh hưởng tới chất lượng tín dung của ngân hàng.
Mặt khác, nếu khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích hoặc sử dụng vốn vay ngắn hạn cho đầu tư sản xuất cố định hoặc kinh doanh bất động sản thì sẽ không thu hồi kịp vốn để hoàn trả đúng hạn, ảnh hưởng nhiều đến hoạt động TD.
2.3. Những nhân tố khách quan
* Môi trường kinh tế
Để ngân hàng có thể huy động được nhiều vốn mở rộng hoạt động tín dụng phục vụ cho việc phát triển kinh tế thì cần có một nền kinh tế ổn định. Một nền kinh tế phát triển ổn định, sẽ giúp cho ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình, làm giá cả luôn giữ ở mức ổn định, tránh được tình trạng lạm phát hoặc giảm phát...
Môi trường kinh tế có thể chi phối đến hoạt động SXKD của tất cả các thành phần kinh tế. Ngay cả bản thân ngân hàng trong quá trình kinh doanh tiền tệ của mình mà không dự doán trước được sự biến động của thi trường tiền tệ, tỷ giá hối đoái, giá trị đồng tiền... cũng sẽ dẫn đến kinh doanh thua lỗ và sụp đổ. Môi trường kinh tế ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền, sự sút giảm của tiền tệ chính là hao mòn của đồng tiền. Nguyên tắc cho vay của ngân hàng là một lượng tiền cho vay thì sau một thời gian nhất định sẽ thu về một lượng tiền lớn hơn. Tuy nhiên sự chênh lệch giữa lượng giá trị mà ngân hàng thu về với lượng giá trị mà ngân hàng cấp ra lúc trước mới chỉ phản ánh sự lớn lên về mặt lượng, còn giá trị thực sự có tăng lên hay không lại phụ thuộc vào sự biến động của giá trị đồng tiền trong thời gian cấp tín dụng. Sự gia tăng giá trị nàythực sự tăng lên khi đồng tiền ổn định và tăng lên. Ngược lại, sự phát triển trên chỉ là danh nghĩa nếu sức mua của đồng tiền tại thời điểm cấp tín dụng lớn hơn nhiều so với sức mua của đồng tiền tại thời điểm hoàn trả thì sẽ gây tổn thất cho ngân hàng.
Ngân hàng sẽ khó tránh khỏi rủi ro nếu nền kinh tế không ổn định, chu kỳ KT có tác động không nhỏ đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Trong thời kỳ nền KT thị trường bị suy thoái, sản xuất bị đình trệ, kinh doanh bị thu hẹp thì nhu cầu vốn tín dụng giảm và nếu vốn TD đã được thực hiện thì cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hay khó có thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Ngược lại, thời kỳ nền kinh tế hưng thịnh SXKD được mở rộng dẫn đến nhu cầu về vốn tăng, từ đó chất lượng TD được nâng lên, giảm bớt rủi ro tín dụng. Như vậy, chu kỳ kinh tế ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả của các khoản vốn TDNH.
Ngoài ra, các chính sách và sự điều tiết của các cơ quan có thẩm quyền ở mỗi ngành, mỗi vùng đều có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
* Môi trường Xã hội- Chính trị
Khách hàng và ngân hàng thực hiện quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tín nhiệm giữa hai bên. Vì vậy sự tín nhiệm là cầu nối mỗi quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Uy tín của ngân hàng trên thị trường ngày càng cao thì sẽ thu hút được lượng khách hàng ngày càng đông. Mối quan hệ xã hội thể hiện cụ thể giữa ngân hàng và khách hàng là nhân tố không kém phần quan trọng quyết định tới quy mô, phạm vi hoạt động của mỗi ngân hàng, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng.
Nhân tố chính trị cũng có ảnh hưởng khá nhiều tới hoạt động TD. Thật vậy, một quốc gia không có sự biến động về chính trị hay không xẩy ra chiến tranh là điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài bởi các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn chú trọng tới an toàn của vốn đầu tư. Tình hình kinh tế chính trị ổn định là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế đất nước. Riêng đối với ngân hàng, nó có ảnh hưởng tới việc huy động, cho vay và đầu tư vốn của ngân hàng. Điều đó có ý nghĩa là nhân tố này ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
* Môi trường pháp lý
Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng TD nói riêng.
Pháp luật là bộ phận không thể thiếu được ở bất kỳ một nền kinh tế nào. Không có pháp luật hoặc các chính sách ban hành không phù hợp sẽ khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, nếu hệ thống pháp luật ban hành không đầy đủ, không đồng bộ, các văn bản dưới luật còn nhiều mâu thuẫn trong khi thực hiện và chưa thật phù hợp với các ban ngành, các đơn vị có liên quan đến hoạt động tín dụng thì có ảnh hưởng tới chất lượng TD.
Pháp luật sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh cho mọi hoạt động SXKD của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao. Nó còn là cơ sở pháp lý để giải quyết mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế. Các DN cũng như ngân hàng phải tuân thủ những quy định nghiêm chỉnh của pháp luật thì hiệu quả và lợi ích sẽ được đảm bảo. Môi trường pháp luật này luôn được điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện hơn để nó ngày càng phù hợp hơn với sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có hệ thống ngân hàng.
* Các nhân tố khác:
Ngoài những nhân tố nêu trên, hiệu quả của công tác cho vay của ngân hàng còn chịu ảnh hưởng nhiều của nhân tố chủ quan, khách quan khác như: Thái độ phục vụ khách hàng, đạo đức xã hội, trang thiết bị phục vụ hoạt động hay những yếu tố môi trường như thời tiết, bệnh dịch..., và các biện pháp trong bảo vệ môi trường sinh thái.
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU- CHI NHÁNH HÀ NỘI
I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC DNV&N Ở VIỆT NAM (TRÊN ĐỊA BÀN)
1.Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của DNV&N
1.1. Khái quát hoạt động SXKD cua DNV&N
Sau khi các chính sách "đổi mới" được đưa ra, khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam phát triển rất mạnh, góp phần không nhỏ trong việc hoàn thiện bộ mặt của khối DNV&N trong nền kinh tế.
Tính tới thời điểm này, ở Việt Nam có khá nhiều DNV&N (khoảng hơn 2 triệu DN), các DNV&N ở Việt Nam phát triển nhanh về số lượng nhưng quy mô khá nhỏ. Theo tính toán, toàn bộ khu vực DNV&N chiếm khoảng 20% tổng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp (trong đó, DNV&N quốc doanh: 13,4%, DNV&N ngoài quốc doanh: 6,6% tổng vốn kinh doanh).
Theo số liệu thống kê, trong 4 tháng đầu năm 2008, riêng T.P Hồ Chí Minh có 2.027 DNV&N được thành lập với tổng số vốn đăng ký là 2.981 tỷ đồng. Tăng trên 20% về số lượng và hơn 14% về vốn so với cùng kỳ năm 2007. ở Hà nội, đến hết tháng 3/2008 đã có 812 DNV&N được thành lập với tổng số vốn 1.405 tỷ đồng. Trong 4 tháng đầu năm 2008, cả nước có gần 6000 doanh nghiệp tư nhân thuộc loại DNV&N được thành với tổng số vốn đăng ký là 8.767 tỷ đồng. Cũng trong tháng 3 qua có 820 DN đăng ký bổ sung vốn với số tiền 2.350 tỷ đồng. Như vậy, đến hết tháng 3/2008 đã có 81.584 DNV&N được thành lập và đăng ký hoạt động với tổng số vốn trên 70.000 tỷ đồng.
Các số liệu trên cho thấy, vốn đăng ký kinh doanh của một DN bình quân dưới 1 tỷ đồng. Vậy có thể thấy số lượng DNV&N được thành lập trong 2 năm qua chiếm tỷ trọng lớn. Theo kết quả điều tra gần đây của chương trình hỗ trợ DNV&N của ngân hàng thế giới thì trong số doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh sau khi áp dụng luật doanh nghiệp có tới 98% là DNV&N.
Về ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh: Hiện nay, ngoài một số lĩnh vực ngành nghề mà nhà nước độc quyền thì các DNV&N tham gia hầu hết trong tất cả khu vực sản xuất công nghiệp, kinh doanh, thương mại. Dịch vụ...Trong đó, có một số lĩnh vực mà các DN chiếm tỷ trọng rất lớn (như sản xuất chế biến lương thực, thực phẩm, nuôi trồng hải sản, những ngành nghề truyền thống, hàng tiêu dùng, dệt may, giầy dép, sành sứ, mây tre đan...) là những ngành sử dụng vật liệu đã có sẵn và lấy giá thành lao động rẻ là lợi thế cạnhh tranh. Trong số các DNV&N thì có khoảng 46,2% số hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ; 18% trong các ngành công nghiệp và xây dựng; 10% trong các ngành du lịch vận tải, kho bãi... Số DN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất chưa nhiều, 55% số DN sản xuất công nghiệp là các doanh nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống và hàng tiêu dùng. Có thể thấy DN Việt Nam có xu hướng tập trung kinh doanh vào những lĩnh vực cần ít vốn, tỷ suất lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh...
Từ đây có thể nhận xét rằng đại bộ phận các DN Việt Nam là DNV&N. Các DNV&N đã đóng góp vào khoảng 30-36% GPD, khu vực này đang có những bước phát triển khá nhất là sau khi luật doanh nghiệp được ban hành. Ngoài những ưu điểm chung là không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, quản lý đơn giản, linh hoạt, khả năng thích ứng với môi trường kinh doanh biến động cao... DNV&N nước ta còn có tác dụng hết sức quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho người lao động, đang là sức ép cho nền kinh tế. Hiện nay, các DNV&N thu hút khoảng 26% lực lượng lao động trong cả nước.
Sự phát triển về số lượng các DNV&N trong các năm qua và đặc biệt ttrong năm 2008 là kết quả của các chính sách hợp lý, của môi trường kinh tế nói chung có những bước tăng trưởng khá, và nhất là do hiệu quả kinh tế có được từ quy mô vừa và nhỏ.
1.2.Những khó khăn mà DNV&N thường gặp trong quá trình hoạt động SXKD
Do đặc thù riêng của DNV&N và xét trong hoàn cảnh chung của nền kinh tế, hiện tại các DNV&N đang đứng trước những khó khăn cần tháo gỡ và quá trình phát triển DNV&N đã và đang bộc lộ một số khó khăn, hạn chế. Thực tế trong nhiều năm qua, các DNV&N ở Việt Nam đã đạt được những thành quả nhất định, điều đó khẳng định rõ DNV&N có nhiều vai trò tích cực trong nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên bên cạnh đó, các DNV&N vẫn đang phải đương đầu với nhiều vấn đề trong qúa trình đổi mới, hội nhập phát triển của đất nước. Các vấn đề đó là: thông tin, khả năng tiếp cận thị trường, môi trường pháp lý, khả năng quản lý, công nghệ và đặc biệt là các khó khăn về vốn.
1.2.1. Thông tin và khả năng tiếp cận thị trường (đặc biệt là thi trường xuất khẩu):
Các DNV&N rất thiếu thông tin về thị trường, do đó họ tham gia các hoạt động thị trường không mang tính định hướng chiến lược.Trong số các DNV&N hiện nay, chỉ có một số ít các DNV&N quốc doanh có cơ hội tiếp cận với thông tin thực sự giá trị từ bộ chủ quản, còn phần lớn các DNV&N ngoài quốc doanh ít có điều kiện nắm bắt những thông tin cụ thể về ngành nghề, thị trường và giá cả hàng hoá... Các doanh nghiệp hầu như mới chỉ hoạt động ở một vài địa bàn nhất định cấp địa phương, các thông tin về thị trường nước ngoài chưa được khai thác, cả thị trường nguyên vật liệu đầu vào và thị trường sản phẩm đầu ra. Bên cạnh đó, phần lớn các DNV&N chưa chủ động tham gia vào các tổ chức, hiệp hội để nắm bắt thêm các nguồn thông tin cần thiết cho chiến lược kinh doanh lâu dài. Một số đại diện của các DNV&N phải thừa nhận rằng họ hầu như có rất ít thông tin về thị trường liên quan đến họ, nếu có thì nguồn thông tin đó cũng khó đảm bảo độ chính xác và kịp thời. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới quyết định sản xuất kinh doanh của DN. Đặc biệt là thị trường xuất khẩu đối với các DNV&N, những vấn đề như yêu cầu cấp giấy phép xuất khẩu, hạn ngạch xuất khẩu và các thủ tục xuất khẩu rườm rà tạo nên một trở ngại, trên thực tế buộc các DNV&N phải xuất khẩu hàng của mình thông qua các tổng công ty ngoại thương của nhà nước hoặc các DN nhà nước (mặc dù gần đây đã có quyết định cho phép các DNV&N trực tiếp xuất khẩu hàng hoá của mình). Chế độ tài trợ dành cho xuất khẩu đối với các DNV&N còn chưa rõ ràng cộng với thông tin về thị trường quốc tế còn không cập nhật đã gây nên khó khăn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay, Internet là một công cụ tiềm năng đối với các doang nghiệp Việt Nam trong việc tìm ra thông tin hữu ích và cho phép các DN trưng bày sản phẩm khắp nơi trên thế giới với chi phí thấp. Tuy nhiên, việc sử dụng Iternet ở Việt Nam vẫn chưa được phổ biến rộng rãi, các trang web phù hợp và tiện ích bằng tiếng việt chưa nhiều.
1.2.2. Môi trường pháp lý:
Hệ thống chính sách, văn bản, các quy định của pháp luật và nhà nước còn chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập và không được thông tin rộng rãi cũng gây ra nhiều khó khăn cho các DNV&N. Theo các DNV&N, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh, có rất nhiều quy định liên quan đến các mặt hoạt động kinh doanh của họ song nội dung không rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều cách, thường xuyên thay đổi và không được thông báo đầy đủ. Những quy định về tài sản thế chấp, tài sản cầm cố gây ra nhiều rắc rối nhất. Các nghị định, định hướng của nhà nước có ý nghĩa rất tích cực đối với sự phát triển của DNV&N nhưng hiếm khi được cụ thể hoá đầy đủ để có hiệu lực thực thi ở cấp địa phương. Về vấn đề này, cho đến thời điểm cuối năm 2002, một loạt các văn bản quan trọng được đưa ra nhằm tạo moi trường kinh doanh tốt hơn cho các DNV&N. Đó là: NĐ 90/ 2001/ NĐ- CP ra ngày 23/11/2001 của chính phủ "về trợ giúp phát triển các DNV&N"; quyết định của thủ tướng chính phủ, này 20/12/2001 về ban hành quy chế thành lập. Tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNV&N; chỉ thị số 28/2001/CT- Ttg ngày 28/11/2001 của thủ tướng chính phủ về tiếp tục tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp.
1.2.3. Khả năng quản lý
Trong môi trường kinh doanh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, ký năng quản lý hiện đại là một khách thức mà các DN phải đối mặt. Thực tế cho thấy, một số chủ DN chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức cơ bản về hoạt động sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm về thị trường và quản lý chưa nhiều... là những yếu tố tác động không nhỏ tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN. Để trợ giúp vấn đề này, NĐ 90/2001 cũng đã đề cập đến việc thành lập các "vườn ươm doanh nghiệp" nhằm cung cấp cho các doanh nhân các kiến thức ban đầu về thành lập DN, tư vấn lựa chọn các phương án sản xuất, công nghệ, máy móc thiết bị, kỹ năng quản lý DN... Ngoài ra, để tăng cường trang bị kiến thức cho mình, các chủ DN có thể tham gia vào các khoá học đào tạo, các hội thảo, các chương trình thông tin do Dự án phát triểnDNV&N thuộc phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cung cấp.
1.2.4. Khó khăn về vốn
Theo đánh giá của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, thì tình trạng thiếu vốn đang là khó khăn ._.h hàng trong quá trình hoàn thành thủ tục hồ sơ trong điều kiện cho phép.
Tạo sự đơn giản dễ hiểu trong hồ sơ tín dụng, phù hợp với mọi trình độ của khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo những điều kiện trong hoạt động cho vay.
Vướng mắc trong hoạt động tín dụng của ngân hàng hiện nay là rườm rà nhiều thủ tục, do phải đáp ứng chính xác quy chế cứng nhắc của ngân hàng đối với các khách hàng vay vốn nhằm tránh rủi ro tín dụng. Đây cũng là hậu quả của hệ thống văn bản pháp luật không đồng bộ. Trách nhiệm này không chỉ thuộc về phía ngân hàng mà còn của cả hệ thống cấp quản lý vĩ mô.
2.2. Thời hạn cho vay
Ngân hàng nên xác định và điều chỉnh thời hạn cho vay cho phù hợp hơn với các DNV&N. Thời hạn phải căn cứ vào chu kỳ XSKD thực tế của DN, dựa vào mục đích vay vốn (để đầu tư tài sản cố định, mua máy móc, thiết bị hay đáp ứng nhu cầu vốn lưu động), kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và các hợp đồng mua bán...
Cho vay ngắn hạn là khoản vay tối đa đến 12 tháng được xác định phù hợp với chu kỳ SXKD và khả năng trả nợ của ngân hàng. Cho vay dài hạn đối với DNV&N cũng được thực hiện với một số thời hạn nhất định, vẫn chưa bám sát vào thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàngvà tính chất nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng. Vấn đề ở đây là chi nhánh cần phải tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn đối với DNV&N có tình hình SXKD tốt. Và khi các định thời hạn cho vay cần phù hợp với khả năng sinh lời và tuổi thọ của máy móc thiết bị.
2.3. Lãi suất cho vay
Đây là vấn đề không chỉ có các ngân hàng quan tâm mà cả các DN luôn chú ý vì nó liên quan đến lợi ích vật chất của các bên. Thực tế cho thấy, các khoản tín dụng của DNV&N thường là tín dụng ngắn hạn do đặc điểm sử dụng vốn vay, ngân hàng có thể áp dụng các lãi suất linh hoạt đối với từng thời hạn vay, từng khách hàng, từng khoản vay cụ thể.
Còn đối với tín dụng trung và dài hạn, DN đang có một khoản vay ngân hàng và đang phải trả lãi suất ghi trên khế ước. Trong từng thời kỳ nhất định, ngân hàng có sự điều chỉnh lãi suất khác nhau và có những lúc thấp hơn lãi suất ghi trong khế ước. Lúc đó, nên chăng ngân hàng áp dụng một chính sách lãi suất điều chỉnh đối với khách hàng, tạo điều kiện giúp DNV&N giảm bớt chi phí vốn, hạ giá thành sản xuất, tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm...
3. Đa dạng hoá các phương thức cho vay
Hiện nay, chi nhánh chủ yếu áp dụng hình thức cho vay theo từng món, phương thức cho vay này được tiến hành căn cứ vào kế hoạch, phương án hoặc từng khâu, từng đối tượng cụ thể để xác định số tiền cho từng lần vay. Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay trả không thường xuyên, kế hoạch SXKD không ổn định mà theo từng thời vụ. Đặc điểm của phương thức cho vay này là việc cho vay và thu nợ phân định ranh giới một cách rõ ràng, dễ nhận biết được lúc nào cho vay, thu nợ được thực hiện thông qua tài khoản cho vay thông thường. Phương thức này đảm bảo an toàn vốn. Tuy nhiên, nhược điểm của phương thức cho vay này là không tạo điệu kiện thuận lợi cho những khách hàng có vòng quay vốn nhanh.
Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng còn áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. Ngược lại với điều kiện có thể cho vay một lần, phươnng thức cho vay theo hạn mức tín dụng được áp dụng với khách hàng có điều kiện SXKD ổn định, có nhu cầu vay trả vốn thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng. Điều này khẳng định mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa khách hàng với ngân hàng.
Một trong những phương thức cho vay khác có thể sử dụng là hình thức cho vay luân chuyển vậy tư hàng hoá. Có thể thấy hình thức này đặc biệt phù hợp với những khách hàng là các DNV&N, do các DN này chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng... có khả năng thu hồi vốn nhanh, các khoản tín dụng thường là ngắn hạn. Phương thức này cho phép khách hàng được rút vốn trong một giới hạn nào đó (gọi là mức vay hay mức dư nợ tối đa) quy định trong thời gian hiệu lực của hợp đồng tín dụng. Ngân hàng sẽ ký với khách hàng một hợp đồng tín dụng thoả thuận về hạn mứcc tín dụng, cách thức giải ngân, thu nợ, thu lãi, phương thức thanh lý hợp đồng và các biện pháp bảo đảm khác... Trong phạm vi tín dụng, khách hàng có thể rút vốn trên tài khoản vay theo nhu cầu thực tế. Mỗi lần rút phải lập giấy tờ nhận nợ kèm theo các chứng từ mua hàng phù hợp. Việc xác định thời hạn vay vốn, trả nợ dựa trên kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của DN. Có thể thấy phương thức cho vay luân chuyển hàng hoá là phương thưc cho vay hiệu quẩ cho một số DNV&N tại chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà Nội.
4. Nâng cao chất lượng tín dụng
Cho vay là hoạt động mang lại lợi nhuận cao nhưng đồng thời là hoạt động hàm chứa nhiều rủi ro nhất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn vốn vay và hạn chế rủi ro tín dụng luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của ngân hàng. Thực tế tại chi nhánh như đã phân tích ở chương II, tỷ lệ nợ quá hạn tuy dã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao. Chi nhánh nên áp dụng những biện pháp sau để nâng cao chất lượng các khoản vay đối với DNV&N:
4.1. Nâng cao hiệu quả khâu thẩm định.
Đây là khâu đầu tiên trong cả qủa trình cho vay. Chất lượng thẩm định ảnh hưởng tới hiệu qủa cho vay sau này. Việc phân tích, đánh giá, lựa chọn khách hàng là rất quan trọng vì nó hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Do vậy, cần chú trọng trong thẩm định các điều kiện vay vốn, tư cách người đi vay, thẩm định tính khả thi của dự án, nhất là về phương diện thị trường, về khả năng tiêu thụ sản phẩm... Đảm bảo cho vay vốn được thu hồi đầy đủ, đúng hạn và có lãi, góp phần nâng cao hiệu quả cho vay của ngân hàng.
Đặc biệt là cán bộ tín dụng ngân hàng cần chú ý lựa chọn khách hàng có hoạt động kinh doanh có hiệu quả, làm ăn có uy tín và sẵn sàng trả nợ đúng hạn. Ngân hàng có thể xem xét quan hệ kinh doanh của khách hàng và các tổ chức kinh tế khác qua nhiều năm để có cơ sở đánh giá mức độ uy tín của khách hàng.
Việc lựa chọn khách hàng phải áp dụng cho mọi khách hàng, không phân biệt thành phần kinh tế, quy mô, tránh tình trạng ưu tiên cho DN quốc doanh, các DN lớn mà không chú ý đến các DN ngoài quốc doanh, DNV&N.
4.2.Việc phân cấp tín dụng phải chặt chẽ
Trong hoạt động cho vay, vấn đề trách nhiệm được quy định rõ ràng, cụ thể sẽ góp phần nâng cao hiệu quả cho vay. Các bộ phận trong ngân hàng phải giám sát vốn vay theo đúng trách nhiệm của mình, khi phát hiện có vấn đề thì có biện pháp kịp thời tác động, hạn chế thấp nhất thiệt hại có thể xẩy ra.
Đối với từng khoản vay, trách nhiệm được phân công như sau: cán bộ tín dụng trực tiếp thẩm định và cho khách hàng vay, trưởng (phó) phòng tín dụng, Giám đốc (phó giám đốc) chi nhánh xét duyệt cho vay và quản lý chung. Ở đây nên chỉ áp dụng trách nhiệm hành chính và xử lý tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, trong điều kiện cụ thể.
4.3. Nâng cao chất lượng thông tin phòng ngừa rủi ro
Chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà Nội thu thập thông tin thông qua khách hàng đến phỏng vấn vay, báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh, cử cán bộ đi kiểm tra thực tế SXKD của khách hàng. Tuy nhiên, nếu chỉ thu thập nguồn tin từ phía khách hàng thì chưa đủ độ tin cậy. Ngân hàng cần chú ý đến những vẫn đề sau:
- Chú trọng tới việc cử cán bộ có kiến thức nghiệp vụ ngân hàng và kiến thức chuyên môn của ngành nghề, lĩnh vực mà khách hàng đang kinh doanh, đến tận địa bàn SX của DN, kết hợp với thông tin do khách hàng cung cấp để thẩm định.
- Ngân hàng phải thường xuyên theo dõi các thông tin được cung cấp từ hệ thống thông tin tín dụng bao gồm: trung tâm tín dụng của NHNN Việt Nam và phòng TTTD của Ngân hàng Á Châu. Hệ thống thông tin này được đánh giá là đáng tin cậy vì do Nhà nước quản lý.
- Ngân hàng cần có một bộ phận riêng để quản lý các hồ sơ, giấy tờ của khách hàng, kể cả với những khách hàng tạm thời không hoặc chưa có quan hệ tín dụng với ngân hàng.
- Chú trọng thông tin đại chúng vì đây là nguồn khách quan nhất. Cần có sự hợo tác và trao đổi thường xuyên với những tổ chức tín dụng khác... và giữ mối quan hệ tốt với khách hàng vì họ có thể cung cấp cho ngân hàng những thông tin chính xác.
4.4. Tăng cường kiểm tra, giám sát khách hàng vay vốn.
Nâng cao vai trò công tác thanh tra, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay là công việc quan trọng để đảm bảo chất lượng cho vay. Do đó cần tăng cường tiến hành cùng với việc mở rộng tín dụng đối với DNV&N.
Trong quá trình sử dụng vốn vay, phải sau một thời gian nhất định khách hàng mới bộc lộ những nhược điểm, do vậy, thường xuyên đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng trong quá trình kiểm tra, giám sát vốn vay là rất cần thiết, nhằm theo dõi kịp thời khả năng rủi ro có thể xẩy ra để có những biện pháp đối phó thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng.
5. Những biện pháp làm giảm rủi ro tín dụng
5.1. Công tác dự phòng rủi ro
Hoạt động tín dụng của ngân hàng hàm chứa nhiều rủi ro. Đặc biệt cho vay đối với khu vực DNV&N ngoài quốc doanh do những nguyên nhân từ phái khách hàng là chủ yếu.
Để có thể hạn chế được những rủi ro tiềm ẩn này, chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà Nội có thể áp dụng những biện pháp sau:
- Thực hiện nghiêm túc khâu thẩm định khách hàng và phương án vay vốn.
- Thực hiện kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay.
- Áp dụng các hình thức bảo đảm tiền vay như tài sản thế chấp, cầm cố...
- Lập quỹ dự phòng rủi ro
- Tham gia bảo hiểm tín dụng.
- Thiết lập hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng trong khu vực với các thành viên là các tổ chức tín dụng trên địa bàn hoạt động.
...
5.2. Chủ động giải quyết nợ có vấn đề
Xử lý nợ qúa hạn, nợ khó đòi nhằm lành mạnhh hoá hệ thống NHTM, chi nhánh nên có những biện pháp phát hiện những khoản vay có vấn đề và có biện pháp ngăn ngừa kịp thời. Điều này có ý nghĩa hơn là để nợ có vấn đề phát sinh rồi mới tìm cách giải quyết.
- Đối với những khoản vay có thể dẫn tới nợ quá hạn
Một số dấu hiệu của cá khoản cho vay có vấn đề có thể gặp rủi ro:
+ Sự gia tăng của các khoản phải thu.
+ Sự suy giảm của tài khoản tiền gửi.
+ Hoàn trả nợ vay chậm hoặc quá hạn.
+ Sự giá tăng của tài khoản cố định...
...
Khi đó, ngân hàng cần phải có những biện pháp tích cực, giải pháp cho các DN tháo gỡ những khõ khăn.
- Đối với việc xử lý các khoản nợ quá hạn
Việc xử lý các khoản cho vay có vấn đề là một nghệ thuật hơn là một công việc mang tính cứng nhắc. Cần tiến hành đánh giá, phân loại, phân tích nợ quá hạn đồng thời phân tích hiệu quả của từng món vay và tình hình tài chính của khách hàng có nợ quá hạn ngân hàng, trên cơ sở đó có những biện pháp thu hồi vốn thích hợp.
+ Tổ chức khai thác.
+ Biện pháp thanh lý tài sản.
Ngoài ra, các cán bộ tín dụng cần nâng cao trách nhiệm trong công tác cho vay.
6. Giải pháp về tài sản đảm bảo tiền vay
Thực tế cho thấy nhiều ngân hàng, trong đó có chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà Nội, khi xét đến cho vay thì hầu như chỉ chú ý đến khách hàng có tài sản thế chấp hay không (và một loạt các vấn đề kèm theo tài sản thế chấp như giấy tờ có đầy đủ và hợp lệ hay không). Trong khi đó cán bộ tín dụng nào cũng hiểu rằng tài sản đảm bảo tiền vay chỉ là nguồn thu thứ hai để thu nợ tiền vay (nguồn thu thứ nhất là doanh thu, lợi nhuận hoặc khấu hao tài sản cố định, tuỳ vào mục đích sử dụng vốn vay). Một số khoản vay cho dù có tài sản thế chấp nhưng khi DN làm ăn không có hiệu quả thì cũng dẫn đến ngân hàng mất vốn, ứ đọng vì việc xử lý tài sản thế chấp ở nước ta không đơn giản và dễ dàng một chút nào.
Ngoài ra, nhiều khách hàng có tài sản đảm bảo tiền vay rất lớn nhưng chính họ cũng không vay được vốn của ngân hàng vì hồ sơ pháp lý chưa đảm bảo theo quy định của pháp luật, mà việc hoàn chỉnh hồ sơ cho tài sản lại nằm ngoài khả năng của khách hàng.
Ta biết rằng, tài sản thế chấp là tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhưng cũng cần nhận thức rõ, đây không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất hay nói cách khác nó không phải là nguyên tắc bắt buộc. Khi xem xét cho vay, thì điều kiện quan trọng nhất chính là kết quả SXKD của DN có được do vốn vay đem lại, là uy tín trong làm ăn và sự sẵn sàng trả nợ.
Có thể thấy, hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành rtừ vốn của ngân hàng là một hình thức có nhiều ưu điểm, đặc biệt với các DNV&N trong điều kiện hiện nay. Ngân hàng sẽ linh hoạt hơn trong việc đặt quan hệ với khách hàng, không quá e dè, chặt chẽ dẫn đến "co cụm" tín dụng.Và các DNV&N ngoài quốc doanh có vốn ít. Giá trị tài sản thấp mới có điều kiện vay vốn để phát triển mở rộng SXKD.
7. Coi trọng công tác tổ chức và bồi dưỡng cán bộ
Trong giai đoạn hiện nay với sự đa dạng hoá của ngành nghệ kinh doanh, tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau với xu hướng giao lưu thông suốt giữa các vùng, địa phương tạo nên sự phát triển vững chắc của nền kinh tế nhưng đã gây không ít khó khăn cho cán bộ tín dụng trong quá trình quản lý khách hàng, quản lý các khoản vốn vay. Do vậy yếu tố con người là yếu tố được quan tâm hàng đầu ở bất kỳ ngân hàng nào trong quá trình phát triển. Riêng đối với Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu- Chi nhánh Hà Nội có những bước chuyển biến trong quá trình tuyển dụng cán bộ, đại đa số các cán bộ có trình độ đại học và sau đại học đã được đào tạo qua các lớp nghiệp vụ về Ngân hàng. Đội ngũ cán bộ của Ngân hàng còn trẻ về tuổi đời cũng như tuổi nghề nên để nâng cao trình độ hiểu biết, nắm bắt kịp thời các quy định, các phương thức mới thì ngân hàng đã tiến hành đào tạo lại bằng cách gửi các cán bộ có năng lực đi học các lớp tập huấn mở rộng nghiệp vụ. Trong thực tế chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà Nội có cán bộ phụ trách công việc xét duyệt, thẩm định, kiểm tra và thu hồi vốn... Chi nhánh cần đào tạo cán bộ tín dụng theo từng lĩnh vực chuyên sâu về nghiệp vụ Ngân hàng hơn nữa. Khi mà ngân hàng chuyên môn hoá được công việc của cán bộ tín dụng thì họ sẽ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm hơn và hiệu quả công việc sẽ cao hơn. Ngoài việc sắp xếp lại cán bộ một cách hợp lý, bố trí cán bộ đúng việc, đúng chuyên môn sẽ làm tăng hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế DNV&N. Bên cạnh đó, Ngân hàng nên áp dụng các hình thức khen thưởng vật chất xứng đáng cho các cán bộ tín dụng đầu tư có hiệu quả, khen thưởng cho cán bộ nào luôn giữ không nợ quá hạn, cắt giảm lương đối với cán bộ tín dụng nào để phát sinh nợ quá hạn nhiều và thường xuyên. Ngân hàng nên tăng lương cho các cán bộ tín dụng vì bộ phận này đóng góp phần lớn cho lợi nhuận của Ngân hàng.
Ngân hàng thường xuyên tổ chức các cuộc tập kết trao đổi kinh nghiệm, cùng bàn bạc giữa các cán bộ nhân viên để bổ sung cho nhau những thành công cũng như những hạn chế yếu kém.
Tóm lại công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ đã trở thành của Nhà nước cũng như của chính Ngân hàng.
8. Chiến lược về khách hàng và thông tin về khách hàng
Ngân hàng có tồn tại và phát triển được là nhờ vào khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng. Do vậy, Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu nên có những biện pháp khuyếch trương Ngân hàng (quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng, tham gia các hoạt động xã hội...).Nâng cao hình ảnh của ngân hàng trên địa bàn Hà Nội.
Đối với các DNV&N, đặc biệt là các DN ngoài quốc doanhkhó tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng (do tài sản thế chấp, không có phương án, dự án SXKD có hiệu quả...) thì Ngân hàng có thể hỗ trợ tư vấn cho khách hàng làm sao có thể sử dụng đồng vốn có hiệu quả, linh hoạt hơn với tài sản thế chấp, xây dựng được phương án khả thi.
Bên cạnh đó, Ngân hàng cần phải chú ý đến cách nguồn thông tin về khách hàng, thông tin phải dược cập nhật nhanh chóng, để giúp cho cán bộ tín dụng có những quyết định cấp tín dụng một cách đúng đắn. Ngân hàng nên lập phòng ban chuyên trách riêng tăng cường đội ngũ nhân viên, đào tạo những chuyên gia trên thị trường và chuyên gia phân tích để từ đó tiếp cận đượcvới khả năng trả nợ của khách hàng, tổng hợp mọi điều kiện vay vốn của khách hàng. Phải có sự liên kết chặt chẽ với trung tâm tín dụng phòng ngừa rủi ro của NHNN. Mặt khác tổ chức mạng lưới khách hàng tạo điều kiện cho chi nhánh mở ra một lĩnh vực kinh doanh mới: thông tin và dịch vụ tư vấn.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Những trở ngại của việc nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM không được giải quyết trong phạm vi ngành Ngân hàng, mà nó còn chịu ảnh hưởng của nền kinh tế vi mô khác, chính sách cải cách DN. Vì vậy trong chương này em xin đưa ra một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện nâng cao hoạt động tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh Ngân hàng Á Châu- Hà nội.
1. Đối với Chính phủ
1.1. Hệ thống pháp luật và công tác thực thi pháp luật
- Hệ thống pháp luật cần được nghiên cứu bổ sungvà hoàn chỉnh đồng bộ, công tác quản lý cán bộ phải được nâng cao trách nhiệm hơn nữa và đặc biệt là trong phối hợp cùng các tổ chức tín dụng thu nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ có tài sản liên quan đến vụ án...
- Luật DN đã có hiệu lực thực thi từ ngày 1/1/2000, Chính phủ khẩn trương yêu cầu các bộ, ngành có liên quan xây dựng các bản dự thảo, nghị định triển khai luật này, tạo điều kiện cho các DNV&N phát triển ổn định, vững chắc, đúng pháp luật. Đặc biệt càn cải cách hành chính, bãi bỏ các quy định cấp phép rườm rà, trái pháp luật.
1.2. Đối với công tác kiểm tra, kiểm soát
- Tiếp tục hoàn thiện công tác hạch toán, kế toán trong các DNV&N. Thực hiện việc kiểm tra, kiểm toán bắt buộc với 100% DN tạo môi trường thông tin chính xác cho các nhà đầu tư nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định trong giai đoạn đầu tư cho vay của các tổ chức tín dụng. Cần kiểm tra nghiêm túc, không chồng chéo và phải có hiệu quả.
- Các cơ quan của Nhà nước tăng cường kiểm tra các hoạt động của các DNV&N, đảm báo các cơ quan này hoạt động đúng pháp luật, yêu cần các DN có số vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng hoặc 10 tỷ đồng trở lên hàng năm phải dứt khoát thực hiện kiểm toán. Nhưng tránh tình trạng thanh tra quá nhiều gây mất khó khăn cho DN.
1.3. Một số chính sách trợ giúp của Chính phủ
- Chính phủ có chính sách và cơ chế xử lý rủi ro với các Ngân hàng cho vay vốn DNV&N ngoài quốc doanh bình đẳng như đối với DN Nhà nước (như: khoanh nợ, giảm nợ, xoá nợ, ưu đãi lãi suất).
- Chính phủ có văn bản cho phép các DNV&N hoạt động có hiệu quả vay vốn của ngân hàng đến mức 100-200 triệu đồng mà không cần có tài sản thế chấp, miễm là phải đảm bảo được 3 điều kiện: phương án cho vay có hiệu quả, DN trong 3 năm liền kề phải có lãi, tình hình tài chính lành mạnh và phải có uy tín trong quan hệ vay vốn với Ngân hàng.
- Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng DNV&N. Đây là quỹ bảo lãnh cho các DNV&N khi không có đủ tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn của Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Và nhanh chóng đưa quỹ bảo lãnh tín dụng DNV&N đi vào hoạt động một cách có hiệu quả, hình thành quỹ hỗ trợ xuất khẩu, tách riêng hoạt động tín dụng ưu đãi, tín dụng chính sách ra khỏi NHTM, thành lập Ngân hàng chính sách, công ty mua bán nợ của Ngân hàng. Đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại các NHTM, kết hợp với tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng lành mạnh về hoạt động Ngân hàng.
- Có chính sách đáp ứng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu cho các DNV&N. Mặt khác, Nhà nước cũng nên quan tâm khẩn trương nghiên cứu và sớm ban hành các quy định riêng cho DNV&N (luật và nghị định) như: Xác định đối tượng các DN cần hỗ trợ, tiêu chí phân loại, xác định ngành nghề, lĩnh vực ưu đãi, đơn giản hoá các thủ tục hành chính... Khi khung pháp lý có DNV&N ra đời khẳng định rõ ràng hơn về chủ trương khuyến khích phát triển các DNV&N ở nước ta.
1.4. Khuyến khích đầu tư
Khu vực DNV&N tiềm lực tài chính nhỏ, kỹ thuật công nghệ chưa cao, các điều kiện vay vốn của Ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn trở ngại. Nhằm hỗ trợ cho khu vực kinh tế này phát triển, chính phủ trợ giúp thông qua các biện pháp về tài chính tín dụng, áp dụng trong một thời gian nhất định đối với các DNV&N; đầu tư vào một số ngành nghề, bao gồm các ngành nghề truyền thống tại các đại bàn cần khuyến khích.
Chính phủ khuyến khích các tổ chức tài chính, các DN và thể nhân góp vốn đầu tư vào các DNV&N.
1.5. Công tác quản lý sắp xếp lại DN, trao quyền sở hữu, sử dụng đầy đủ
- Thực hiện sắp xếp lại DN theo nghị định 103/ CP. Sau một thời gian thực hiện sắp xếp đổi mới DN quy mô nhỏ thua lỗ hoặc nhà nước không cần nắm giữ theo hình thức giao bán khoán cho thuê tiến hành rất chậm mà vướng mắc chủ yếu lại là tình hình vốn và tài chính. Vì vậy nhà nước cần phải có biện pháp tháo gỡ đảm bảo tiến trình sắp xếp lại DN được nhanh chóng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
NHNN Việt Nam là cơ quan quản lý của các NHTM, là cơ quan ban hành các văn bản, nội quy, quy chế hướng dẫn hoạt động của các NHTM, trong đó có Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu và chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà nội, em xin đưa ra một số kiến nghị thuộc thẩm quyền của NHNN Việt Nam như sau:
2.1. Ban hành cơ chế cho vay riêng, phù hợp với các DNV&N
Từ thực trạng hoạt động của các DNV&N cũng như tiềm năng phát triển của các DN này ở Việt Nam. Đặc biệt là trong điều kiện có rất nhiều chính sách, chỉ thị của Nhà nước ra đời nhằm hỗ trợ cho các DNV&N thì NHNN cũng cần nghiên cứu, đưa ra một văn bản chỉ đạo về cơ chế cho vay riêng, phù hợp với loại hình DNV&N ở Việt Nam.
Cụ thể là điều chỉnh bổ sung, hoàn chỉnh những điều kiện cho vay phù hợp với thực tế của hoạt động SXKD theo cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích, tài sản của ngân hàng nhưng cũng đồng thời giải quyết những khó khăn tạo điều kiện cho khách hàng.
Thực tế hiện nay, các DNV&N thiếu vốn chầm trọng trong khi các NHTM lại không thể cho vay được, điều này gây khó khăn cho hoạt động SXKD của các DN, đồng thời cũng làm mất đi một lượng khách khá lớn của NH, làm mất đi cơ hội tăng thêm thu nhập, hạn chế sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Về vấn đề này, chỉ thị số 28/2001/CT-Ttg của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho DNV&N cũng đã nêu rõ; “NHNN Việt Nam tiếp tục nghiên cứu cơ chế đơn giản hoá thủ tục cho vay đối với DN dân doanh, nhất là đối với DN sản xuất hàng xuất khẩu, để loại hình này tiếp cận được với các nguồn vốn tín dụng”.
Vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc cho vay cơ bản nhưng NHNN nên đưa ra các điều kiện cho vay linh hoạt, uyển chuyển hơn trong việc cấp vốn tín dụng cho DNV&N, tạo điều kiện hơn cho các DNV&N ngoài quốc doanh vay được vốn của Ngân hàng, phục vụ sản xuất kinh doanh.
Các văn bản về cơ chế cho vay của NHNN nên có sự định hướng rõ ràng là việc cho vay phải dựa vào việc xem xét khả năng tài chính của DN, dựa vào phương án hiệu quả chứ không chỉ dựa vào tài sản thế chấp.
2.2. Các quy định liên quan đến tài sản thế chấp
Một trong những khó khăn mà cả DNV&N và ngân hàng gặp phải khi thực hiện một khoản vay là vấn đề về tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp.
Để tháo gỡ khó khăn cho các DN, NHNN nên mở rộng phạm vi dạnh mục tài sản mà DN có thể dùng thế chấp, cầm cố... giúp cho các DNV&N dùng tài sản của mình làm bảo đảm, tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân hàng nhiều hơn. Ngoài ra vấn đề định giá tài sản thế chấp cũng cần được quan tâm, chỉ đạo giải quyết sao cho giá trị tài sản được xác định một cách phù hợp, sát với thực tế thị trường. Tránh tình trạng định giá quá thấp hoặc quá cao gây ảnh hưởng đến các DN.
Đối với ngân hàng, khi khách hàng không trả được vốn vay thì việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay của NH đang gặp nhiều khó khăn do NHNN chưa có quy định cụ thể. NHNN nên thành lập ra một trung tâm, tổ chức phát mại tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, có chuyên môn trong lĩnh vực định giá, đấu giá, đảm bảo cho các tài sản đó sẽ là nguồn thu nợ thứ hai chứ không phải là gánh nặng cho ngân hàng như hiện nay, giúp ngân hàng thu lại một phần vốn, đảm bảo hoạt động kinh doanh.
2.3. Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng
Để hỗ trợ cho các NHTM tong việc thu thập, tìm kiếm thông tin, NHNN cần hoàn thiện hệ thống thông tin của mình, mà cụ thể và trước tiên là chấn chỉnh hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng(CIC) từ khâu cập nhật dữ liệu, cung cấp số liệu, đảm bảo kịp thời, chính xác tin cậy; giúp ngân hàng thẩm định tốt hơn khách hàng. Kết hợp với các TCTD, đảm bảo thông tin hai chiều giữa trung tâm và các TCTD.
3. Đối với Ngân hàng Á Châu
Là cơ quan chỉ đạo, điều hành trực tiếp hoạt động của chi nhánh ACB Hà Nội, ngân hàng Á Châu cần dành sự quan tâm nhất định tới việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N trong chính sách khách hàng trong thời gian tới. Cụ thể là:
- Đưa ra định hướng về thị trường, về khách hàng là DNV&N.
- Dành một khoản vốn nhất định để cấp tín dụng cho các DNV&N.
- Tổ chức hội thảo chuyên đề tín dụng với các DNV&N.
- Tổ chức thường xuyên các đợt thanh tra, kiểm tra.
- Tăng cường thực hiện công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng.
Đặc biệt là, NH Á Châu cần nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện quy trình cho vay, quy chế cho vay phù hợp với điều kiện kinh tế- Xã hội, phù hợp với đối tượng cho vay có tính đặc thù như DNV&N. Cụ thể như: yêu cầu về vốn tự có của DN khi tham gia vào dự án SXKD cần nghiên cứu để có thể giảm xuống để phù hợp hơn với điều kiện thực tế của các DNV&N.
4. Kiến nghị đối với DNV&N
4.1.Tăng cường quản lý và khả năng tiếp cận thị trường
Nâng cao kỹ năng quản lý DN trong môi trường kinh doanh đầy biến động tong nền kinh tế thị trường là một yêu cầu cấp thiết. Các chủ DN cần trang bị cho mình kiến thức, kinh nghiệm về thị trường, về hoạt động SXKD, về đối thủ cạnh tranh. Đặc biệt, trong thời gian tới các DNV&N nên chú ý đến các chương trình trợ giúp tổng hợp của nhà nước đã và đang được triển khai tại các tỉnh, thành phố được đề cập đến trong nghị định 90/2001 củâ Chính phủ.
4.2.Xây dựng kế hoạch sản xuất hàng năm
Các DN phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng, sự cần thiết của việc lập phương án SXKD và kế hoạch SXKD định kỳ, việc này có thể giúp DN chủ động trong kinh doanh, không bị bất ngờ trước những biến động của thị trường. Đây cũng là điều kiện giúp DN có thể tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng.
4.3.Sổ sách kế toán phải đầy đủ theo đúng quy định của Nhà nước
Các DN cần thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán kế toán theo pháp lệnh HTKT, đảm bảo tình hình tài chính minh bạch, báo cáo tài chính đầy đủ thông tin... giúp cán bộ ngân hàng trong việc thẩm định, tạo sự tin tưởng cho ngân trong việc xét duyệt cho vay vốn.
4.4.Hoàn thành thủ tục pháp lý cho bất động sản
Hiện nay, tài sản thế chấp để vay vốn của NH chủ yếu là đất đai và bất động sản gắn liền với đất. Thực tế, nhiều tài sản đất đai, nhnà xưởng, kho bãi... của DNV&N dân doanh không được chấp nhận là tài sản tài chính do tính chất pháp lý của những tài sản đó chưa đầy đủ theo quy định. DN nên khẩn tương làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sự dụng đất (sổ đỏ) để có thêm điều kiện vay vốn của ngân hàng.
4.5.Tạo mối quan hệ tốt với khách hàng
Các DNV&N có thể bắt đầu bằng các hợp đồng đơn lẻ với các DN lớn, duy trì thường xuyên các mối quan hệ kinh tế và ngày một trở thành những người bạn đáng tin cậy, làm DN vệ tinh cho các DN lớn, là người cung cấp nguyên vật liệu đầu vào hoặc làm đại lý tiêu thụ, phân phối các sản phẩm đầu ra. Đây cũng là một lợi thế chứng tỏ khả năng của các DNV&N khi ngân hàng xét cho vay hoặc DN có thể nhận được sự bảo lãnh của chính các DN lớn trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.
KẾT LUẬN
Không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước khác trên thế giới, các DNV&N thường gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động SXKD đặc biệt là khó khăn về tài chính. Vốn tự có thực tế của các DN thường rất ít chỉ chiếm khoảng 10-20% tổng vốn huy động của các DN trong quá trình SXKD, phần còn lại dựa vào các nguồn tài trợ khác mà chủ yếu là nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Do vậy, TDNH có một ý nghĩa rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các DN.
Trong những năm gần đây, sự phát triển của DNV&N đã chứng tỏ vai trò tích cực và hứa hẹn nhiều tiềm năng. DNV&N đóng góp vào sự phát triển của nền knh tế trong thời gian tới. Tuy nhiên, để cho các DNV&N chứng tỏ được vai trò và tiềm năng phát triển của mình thì vấn đề được đặt ra trước mắt là phải giải quyết được khó khăn về vốn đối với DNV&N. Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Hà Nội, em nhận thấy tín dụng đối với DNV&N còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với vị thế của chi nhánh trong hệ thống Ngân hàng Á Châu cũng như tên địa bàn Hà Nội. Cho dù chi nhánh đã có nhiều quan tâm đến đối tượng DNV&N này.
Xuất phát từ những lý do trên, em đã chọn đề tài:”Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu- Chi nhánh Hà Nội làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Trong khi nghiên cứu em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị đối với chính phủ, NHNN, NH Á châu, chi nhánh và DNV&N góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh.
Do trình độ lý luận cũng như kiến thức thực tế có hạn, thời gian thực tập không nhiều nên chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các thầy, cô giáo và các cán bộ ngân hàng.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS. Dương Thị Ngân, toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế (Đại học Kinh tế Quốc Dân); ban lãnh đạo, tập thể cán bộ phòng tín dụng của chi nhánh Ngân hàng Á Châu Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, cung cấp số liệu và đóng góp ý kiến giúp em hoàn thành bài chuyên đề tốt nghiệp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM THẢO
1.Sách Ngân hàng thương mại - NXB Thống Kê(ĐH KTQD).
2.Nghị định số 90/2001/NĐ - CP Về trợ giúp DNV&N.
3.Quyết định số 193/2001/QĐ - Ttg về việc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNV&N.
4.Báo cáo thường niên của Ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Hà Nội năm 2007, 2008.
5.Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Á châu Hà Nội.
6.Bài viết về Đổi mới chính sách tài chính hỗ trợ phát triển DNV&N của T.S Đô Minh Tuấn- Viện Khoa học Tài Chính.
7.Sách một số nghiệp vụ NHTM – NXB Thống Kê.
8.Quyết định số 284/2001/QĐ - NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
9.Tạp chí Ngân hàng: số3/2001; 17/2007; 6/2008…
10.Tạp chí tài chính: số 3/2001; 1/2007; 8/2008; 7/2008.
11.Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ: số 12/2008; 1/2009.
12.Tạp chí Châu Á - TBD: số 1/2007; 4/2007.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22289.doc