LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay sự tồn tại nhiều hình thức tổ chức SX-KD, nhiều loại hình doanh nghiệp với những quy mô, trình độ khác nhau là tất yếu. Trong đó các DNV&N có phần đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Trong hơn 21 năm qua kể từ khi đổi mới năm 1986 đến nay các DNV&N đã đóng góp rất đáng kể vào sự phát triển kinh tế của đất nước và giải quyết được nhiều vấn đề lớn cho xã hội như: tạo thêm nhiều việc làm,
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến tới làm giàu ngay tại địa phương, góp phần nâng cao dân trí và kỹ năng SX-KD, góp phần phòng tránh các tệ nạn xã hội và đưa các chính sách xã hội vào cuộc sống.
Tuy nhiên, các DNV&N thường gặp phải một số khó khăn về trình độ công nghệ, thiết bị quá lạc hậu, lao động thủ công nên sản phẩm khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn , trình độ quản lý còn hạn chế, SX-KD mang tính tự phát, hoạt động kinh doanh chủ yếu theo thương vụ chạy theo phong trào mà không có chiến lược phát triển nên dễ bị đổ bế đặc biệt về vốn. Các DNV&N hoạt động chủ yếu dựa vào vốn chủ sở hữu rất nhỏ bé nhưng nhu cầu sử dụng vốn lại lớn. Để các DNV&N có thể phát huy hết được năng lực của mình thì Nhà nước và các tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế… cần phải có những biện pháp cụ thể nhằm giúp đỡ DNV&N vượt qua những những khó khăn ấy. Các NHTM và các tổ chức tín dụng là kênh huy động vốn quan trọng đối với DNV&N. Với quy mô lớn chiếm tới 96% tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam thì các ngân hàng ngày càng chú trọng và đặt mối quan tâm đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N. Qua một thời gian thực tập tại NHNo & PTNT Hà Nội thì em đã nhận thấy rằng việc nghiên cứu về thực trạng chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N là cần thiết. Vì vậy em chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội ”.
Cơ cấu của bài viết bao gồm 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng đối với DNV&N của NHTM .
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG
TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong tổng số các doanh nghiệp, ở những nước phát triển cũng như các nước đang phát triển số lượng các DNV&N chiếm một tỷ lệ khá cao và là lực lượng sản xuất kinh doanh quan trọng cung cấp một lượng lớn hàng hoá và dịch vụ cho xã hội. Hiện nay trên thế giới chưa có một chuẩn mực thống nhất giữa các nước về việc xác định đâu là DNV&N, đâu là doanh nghiệp lớn nhưng ở nhiều nước DNV&N được dùng với một khái niệm tương đối để chỉ những doanh nghiệp có quy mô về vốn, về số lượng lao động không lớn. Điểm chung ở các nước là không có nước nào quy định các yếu tố về công nghệ, về quản lý và chất lượng sản phẩm. Mặc dù có những khác biệt nhất định giữa các nước về quy định các tiêu thức phân loại DNV&N song khái niệm chung nhất về các DNV&N được định nghĩa như sau: “ Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ theo quy định của mỗi quốc gia”.
Một DNV&N là doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. DNV&N được chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó là: Doanh nghiệp siêu nhỏ( micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Từ khái niệm DNV&N “ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình không quá 300 người ” thì cho thấy tuyệt đại đa số doanh nghiệp Việt Nam nằm trong bảng .
Các tiêu thức phân loại DNV&N
Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế Giới: doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người còn doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước người ta có tiêu chí riêng để xác định DNV&N của riêng nước mình.
Ở Việt Nam, không phân biệt lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp có số vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng hoặc số lượng lao động trung bình hàng năm dưới 300 người được coi là DNV&N ( không có tiêu chí xác định cụ thể đâu là doanh nghiệp siêu nhỏ, đâu là nhỏ, đâu là vừa).Văn bản luật đầu tiên quy định thống nhất tiêu chí xác định DNV&N là công văn số 681/CP-KTN ban hành ngày 20/6/1998. Theo đó, DNV&N là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người.
Thường khi nói đến DNV&N phải nói đến đặc điểm đầu tiên để phân biệt với doanh nghiệp lớn đó là qui mô ( vốn, công nhân) và phạm vi hoạt động của nó .
Ở Đài Loan, loại DNV & N tối thiểu có từ 5-10 công nhân, vốn trung bình là 1,6 triệu USD ( tương đương 4 triệu NT Đài Loan) là rất phổ biến. Tuy mang cái tên khiêm tốn “ vừa và nhỏ”, song những đóng góp của các xí nghiệp này đối với nền kinh tế quốc dân là rất quan trọng.
Ở Nhật Bản, qui mô của DNV&N được qui định trong luật cơ bản về DNV&N.
Bảng 1.1: Cách phân loại DNV& N của Nhật Bản
Ngành nghề
DNV&N( SME)
DN loại nhỏ (người)
Vốn (triệu yên)
Lao động (người)
Công nghiệp khai thác, chế tạo,…
≤ 100
< 300
≤ 20
Thương nghiệp bán buôn
≤ 30
< 100
≤ 5
Thương nghiệp bán lẻ và dịch vụ
≤ 10
< 50
(Nguồn: Kinh nghiệm và cẩm nang phát triển xí nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới - PTS. Đỗ Đức Định - 1999)
Ở Philippin, một nước ASEAN, láng giềng của Việt Nam thì tiêu chuẩn phân loại các doanh nghiệp chỉ căn cứ vào tiêu chí vốn của doanh nghiệp như sau:
Bảng 1.2: Cách phân loại ở Philippin
Loại doanh nghiệp
Vốn (triệu Pêxô)
Lớn
> 60
Vừa
> 15 – 60
Nhỏ
> 1,5 – 15
Vi nhỏ ( DN gia đình)
< 1,5
(Nguồn: Kinh nghiệm và cẩm nang phát triển xí nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới - PTS. Đỗ Đức Định- 1999)
1.1.2 Các đặc điểm của DNV&N so với doanh nghiệp lớn
Khả năng cạnh tranh chưa cao: Hầu hết các DNV&N vẫn chưa có khả năng chịu được áp lực cạnh tranh từ quá trình tự do hoá và mở cửa ra thị trường thế giới vẫn còn nhiều vướng mắc liên quan đến sự bất cập về khung khổ luật pháp cho DNV&N cũng như việc triển khai thực thi các luật và chính sách đặc biệt là ở cấp tỉnh. Bên cạnh đó, DNV&N lại gặp một số hạn chế nhất định trong việc thâm nhập thị trường và phân phối sản phẩm: thiếu thông tin về thị trường, khả năng marketing còn kém ngoài ra cũng do hạn chế về vốn, các DNV&N thường sử dụng các công nghệ lạc hậu, sản xuất chủ yếu theo hình thức thủ công thô sơ, tốn nguyên liệu đầu vào mà khối lượng sản phẩm làm ra không nhiều, chất lượng thì chưa tốt. Một vấn đề khác nữa DNV&N thường phải chịu thiệt thòi phải gánh chịu những thông lệ và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng ở thị trường trong nước khả năng tiếp xúc thương mại, tiếp cận với thị trường trong nước và quốc tế rất khó khăn, điều kiện tiếp cận với thông tin về văn bản, pháp luật thị trường còn tản mạn và hạn chế. Điều đó dẫn đến sản phẩm tung ra thị trường không thể cạnh tranh nổi với các doanh nghiệp khác.
Công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu: Công nghệ các DNV&N đang sử dụng đã lạc hậu hàng chục năm có khi vài chục năm, điều này dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra không thể đáp ứng được mẫu mã, chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh, đến việc nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm. Công nghệ lạc hậu chiếm tỷ trọng rất lớn là đặc điểm khác biệt của các DNV&N Việt Nam so với các DNV&N ở các nước công nghiệp phát triển. Mặt khác tốc độ đổi mới công nghệ lại rất chậm. Không nói đến Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ xét đến một số địa phương khác thì Hà Nội được xem là một trong những trung tâm kinh tế lớn của cả nước nhưng quy mô doanh nghiệp vẫn còn nhỏ, công nghệ lạc hậu. Trong khi các doanh nghiệp trên thế giới đặt mối quan tâm hàng đầu vào thông tin về công nghệ, tiến bộ khoa học công nghệ kỹ thuật, thị trường cung cấp và tiêu thụ thì các doanh nghiệp Việt Nam lại chỉ chủ yếu quan tâm đến cơ chế chính sách… rất ít doanh nghiệp quan tâm đến thông tin về kỹ thuật và công nghệ. Đối với các DNV&N ở các nước phát triển, công nghệ trang bị và sử dụng thường rất hiện đại, do đó khả năng sản xuất và chất lượng sản phẩm của họ khá cao và là một bộ phận không thể tách rời của các doanh nghiệp lớn. Nhưng đối với Việt Nam, một nước còn non trẻ đang bước những bước đi đầu tiên trong nền kinh tế thị trường và nền kinh tế toàn cầu nên quá trình tiếp thu và đổi mới công nghệ vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Theo thống kê trong những năm vừa qua chỉ có khoảng 8% doanh nghiệp có được công nghệ sản xuất tiên tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), chiếm 50% công nghệ đang sử dụng là trung bình còn 42% còn lại là yếu kém sử dụng công nghệ lạc hậu. Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cho thấy tuy số doanh nghiệp sử dụng máy vi tính chỉ lên đến hơn 60% nhưng có 11,55% doanh nghiệp có sử dụng mạng nội bộ-LAN, số doanh nghiệp có Website là rất thấp chỉ 2,16%.
Nguồn tài chính hạn chế: Vấn đề tiếp cận nguồn vốn là vấn đề đầu tiên có ý nghĩa quyết định, các DNV&N còn gặp khó khăn không nhỏ nhất là các khoản vay trung và dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Đặc biệt các khoản bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các DNV&N ; việc đầu tư vào khu vực DNV&N do nhận thức chưa thông thoáng, cho nên bị hạn chế rất nhiều. Mặt khác do nguồn vốn chủ sở hữu thấp, DNV&N hầu như không đáp ứng được điều kiện để có mặt trên thị trường chứng khoán. Vì vậy họ phải huy động vốn từ nhiều nguồn như: Ngân hàng, của bản thân doanh nghiệp, gia đình bạn bè và chủ yếu dựa vào nguồn vay phi chính thức. Số doanh nghiệp được vay từ nguồn vốn chính thức( Ngân hàng) là rất hạn chế bởi một phần do bản thân doanh nghiệp và một phần do các định chế từ phía ngân hàng. Một cuộc điều tra quy mô được Cục Phát triển DNV&N (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tiến hành với sự tham gia của hơn 63 nghìn doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía Bắc cho thấy quy mô vốn của các doanh nghiệp còn nhỏ, gần 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 2 tỷ đồng và 90% số doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng.
Qua cuộc điều tra, 66,95% doanh nghiệp cho biết thường gặp khó khăn về tài chính, 50,62% doanh nghiệp thường gặp khó khăn về mở rộng thị trường; 41,74% doanh nghiệp gặp khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất; 25,22% doanh nghiệp gặp khó khăn về giảm chi phí sản xuất.
Về khả năng tiếp cận nguồn vốn của Nhà nước: chỉ có 32,38% số doanh nghiệp cho biết đã tiếp cận được các nguồn vốn của Nhà nước, chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hoá; 35,24% số doanh nghiệp khó tiếp cận và 32,38% số doanh nghiệp không tiếp cận được. Trong khi đó việc tiếp cận nguồn vốn khác cũng gặp khó khăn chỉ có 48,65% số doanh nghiệp khả năng tiếp cận; 30,43% số doanh nghiệp khó tiếp cận; 30,43% số doanh nghiệp không tiếp cận được.
Trình độ quản lý còn thấp: Kỹ năng, nghiệp vụ quản lý cũng như tay nghề của lực lượng lao động trong các DNV&N của Việt Nam được đánh giá là thấp so với nhu cầu. Phần lớn số cán bộ, công nhân kỹ thuật trong các DNV&N chưa qua đào tạo cơ bản chiếm khoảng 50%, quản lý tài chính trong các doanh nghiệp này còn thiếu minh bạch, số liệu báo cáo chưa phản ánh đúng thực trạng tài chính của doanh nghiệp.Theo số liệu thống kê của Cục Phát triển DNV&N (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) có tới 55,63% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Cụ thể, số người là tiến sỹ chỉ chiếm 0,66%; thạc sỹ 2,33%; đã tốt nghiệp đại học 37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Điều đáng chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp ngay những người có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghiệp.
1.1.3 Vai trò của DNV&N
DNV&N luôn giữ một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế với hình thức tổ chức nhỏ gọn và hoạt động linh hoạt, các DNV&N dễ dàng đáp ứng những yêu cầu về pháp luật và thích nghi với những điều kiện kinh tế xã hội luôn luôn thay đổi. Trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, DNV&N đã và đang đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt và được xem là yếu tố cần thiết không thể thiếu cho sự tăng trưởng, đảm bảo nền tảng ổn định và bền vững của nền kinh tế; huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển; đáp ứng một cách linh hoạt nhu cầu của các ngành kinh tế quốc dân; cải thiện thu nhập và giải quyết việc làm cho một bộ phận đông đảo dân cư; góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng đất nước.
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Có thể thấy rằng DNV&N có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt ở các nước đang phát triển thì GDP do các DNV&N tạo ra hàng năm chiếm tỷ trọng khá cao. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: tại Việt Nam DNV&N chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp, đóng góp 26% tổng sản phẩm xã hội (GDP), 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá, tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và 25-26% lực lượng lao động cả nước, đóng góp vào ngân sách Nhà nước 7,6%.
Chiếm tỷ trọng cao và hoạt động trong nhiều ngành sản xuất của nền kinh tế
Sau khi đổi mới từ năm 1986 đến nay quy mô của các DNV&N đã tăng đáng kể.Theo thống kê từ năm 2000 đến hết năm 2005 đã có gần 120.000 DNV&N đăng kí thành lập mới theo luật Doanh nghiệp, so với cùng kỳ năm trước ,năm 2002, có 21.535 doanh nghiệp tăng 9%, năm 2003 tăng 29%, năm 2004 tăng 37% và năm 2005 tăng 41%. Nếu năm 2001, trung bình cứ 694 người dân có một doanh nghiệp đăng ký kinh doanh thì đến năm 2005 con số này là 500 người. Tổng vốn đăng ký kinh doanh của DNV&N giai đoạn 2000-2005 cao gấp 7,9 lần so với 9 năm trước đây (1991-1999). Tỷ trọng đầu tư của của doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân trong tổng đầu tư toàn xã hội tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001, 25% năm 2002, 27% năm 2003, 32% năm 2004, 34% năm 2005.
Trong linh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, DNV&N chiếm 17% tổng số doanh nghiệp, tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực thực phẩm, chế biến gỗ, chế biến thủy sản… Hàng năm, DNV&N tạo ra 31% tổng giá trị sản lượng công nghiệp. Các DNV&N ở Việt Nam hoạt động trong linh vực thương mại dịch vụ chiếm 55%, do đây là ngành có vòng quay vốn nhanh, lợi nhuận cao, không cần số vốn đầu tư lớn, sử dụng ít lao động. Các DNV&N ngoài quốc doanh chiếm đến 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá.
Giải quyết việc làm và phân phối thu nhập
Mang đặc tính vừa và nhỏ, đa dạng hoá về lĩnh vực hoạt động, các DNV&N đã có những cống hiến tích cực vào việc tạo công ăn việc làm cho người lao động. Là một nước có lợi thế về nguồn nhân lực, phân bố rải rác trên khắp mọi miền của tổ quốc, các DNV&N luôn tạo ra một khối lượng công việc lớn, tạo thu nhập cho người lao động, nhất là lao động thủ công trong nền kinh tế. Theo ước tính, DNV&N tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, chiếm khoảng 25-26 % lực lượng lao động cả nước. Mỗi năm thu hút trên dưới 45 vạn lao động mới thu nhập bình quân 1,06 triệu đồng/tháng. Mức thuế và phí đóng bình quân đầu người trong các doanh nghiệp nhỏ là 10 triệu đồng và doanh nghiệp vừa là 42 triệu đồng ( trong khi đó mức đóng góp bình quân đầu người của các doanh nghiệp lớn là 12 triệu đồng).
Lý do thành công của các DNV&N trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động là: Các DNV&N năng động và nhanh nhạy trong hầu hết các lĩnh vực SX-KD, nhất là trong phân phối sản phẩm tiêu dùng thông qua hoạt động bán buôn, bán lẻ và ngành SX-KD, chế biến, kinh doanh nhà hàng, giao thông vận tải và thông tin. Mặt khác doanh nghiệp này có số lượng lớn phân bố rộng rãi từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi lên miền ngược, góp phần cân đối lao động. Các doanh nghiệp này mang tính tư hữu cao và tính tự do cạnh tranh cao, dễ dàng đa dạng hoá sản phẩm. Sự lớn mạnh của các DNV&N đã làm tăng thu nhập của công nhân và giảm tỷ lệ thất nghiệp của mỗi địa phương nói riêng và toàn lãnh thổ nói chung. Do loại hình doanh nghiệp này có thể phát triển ở khắp mọi nơi trong nước, nên khoảng cách giữa nhà sản xuất và thị trường được rút ngắn lại, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng và giúp cắt bớt khoảng cách giàu nghèo.
Đóng góp của DNV&N trong việc lưu thông hàng hoá và xuất khẩu
Sản xuất muốn phát triển phải gắn với thị trường. Một khi nền kinh tế phát triển, sức mua tăng lên, nhu cầu lớn hơn, các DNV&N rất nhạy bén trong việc điều chỉnh cơ cấu, tăng doanh thu. Điều này rất khó thực hiện ở các doanh nghiệp lớn khi muốn đa dạng hoá mặt hàng sản xuất. Khi các DNV&N có số lượng đông đảo và hoạt động có hiệu quả, chúng có thể tự sản xuất, thay thế nhập khẩu. Bên cạnh việc góp phần lưu thông hàng hoá trong nước, các DNV&N đều lấy thị trường quốc tế làm thị trường chính.
Thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư
Với tính chất nhỏ bé, dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách bản làng và số lượng vốn yêu cầu ban đầu không nhiều, các DNV&N có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi nằm rải rác trong dân cư. Mặc dù số vốn thu hút vào mỗi doanh nghiệp không nhiều nhưng với số lượng rất đông đảo của các DNV&N thì tổng số vốn đóng góp của các doanh nghiệp này vào sản xuất kinh doanh là khá lớn. Vì vậy nhờ có sự đóng góp của DNV&N thì nền kinh tế có thể sử dụng hiệu quả hơn các nguồn tài chính trong dân cư, hạn chế tiền nhàn rỗi không sinh lời trong nền kinh tế.
Hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp lớn
Các doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước còn DNV&N thì có mặt ở khắp mọi nơi. Vì vậy DNV&N là kênh phân phối sản phẩm, thực hiện các hợp đồng phụ quan trọng không thể thiếu cho các doanh nghiệp lớn. Một doanh nghiệp lớn để đảm bảo cho hoạt động SX-KD của mình thường cần phải có mạng lưới các nhà cung cấp và phân phối sản phẩm và nhân vật có thể thực hiện việc đó một cách có hiệu quả không ai ngoài các DNV&N. Điều này giúp cho các doanh nghiệp lớn giảm chi phí sửa chữa bảo hành, chi phí quản lý vận chuyển và lưu trữ hàng hóa tạo điệu kiện thuận lợi cho việc giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Góp phần tạo ra sự năng động và hiệu quả cho nền kinh tế
Các DNV&N có tính linh hoạt và lượng vốn yêu cầu tương đối nhỏ, vòng quay vốn nhanh, chi phí quản lý và đào tạo không lớn thường hướng vào những lĩnh vực phục vụ trực tiếp đời sống, những sản phẩm có sức mua cao, dung lượng thị trường lớn , nên huy động được các nguồn lực xã hội, các nguồn vốn còn tiền ẩn trong dân. Có thể sử dụng các loại máy móc thiết bị sản xuất trong nước, dễ dàng thay đổi công nghệ, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí; có thể kết hợp cả những công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại, sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao trong điều kiện sản xuất không thuận lợi. Nhạy cảm với những biến động của thị trường, chuyển đổi mặt hàng nhanh phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, tận dụng được các nguồn nguyên vật liệu, nhân lực tại chỗ. Dễ dàng duy trì sự tự do cạnh tranh làm vệ tinh gia công, chế tác cho các doanh nghiệp lớn, xâm nhập vào các thị trường ngách và dễ dàng tạo nên sự phát triển cân đối giữa các vùng, miền trong lãnh thổ một quốc gia. Sự tham gia của rất nhiều DNV&N vào SX-KD làm cho số lượng và chủng loại sản phẩm sản xuất tăng lên rất nhanh. Kết quả là làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường, tạo ra sức ép lớn buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm. Với những ưu thế trên thì các DNV&N làm cho nền kinh tế trở nên năng động và thúc đẩy SX-KD phát triển có hiệu quả hơn.
1.2 Khái quát về tín dụng ngân hàng
1.2.1 Khái niệm tín dụng
Tín dụng xuất phát từ chữ La tinh là creditium có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng Anh gọi là credit. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn. Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau; ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau:
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hoặc thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thoả thuận bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất định người đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi.
Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
Nếu xét tín dụng như là một chức năng cơ bản của ngân hàng thì tín dụng có nghĩa là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay ( ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay ( cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 49 ghi: “ Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo qui định của Ngân hàng Nhà nước ”.
Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị, dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng sau đó hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn.
1.2.2 Nguyên tắc tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các qui định của ngân hàng Nhà nước và các NHTM như sau:
Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định: Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.
Khách hàng phải cam kết sử dụng tiền vay được từ ngân hàng theo mục đích được thoả thuận với ngân hàng, không trái với các qui định của pháp luật và các qui định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp qui định phạm vi hoạt động cho các ngân hàng. Bên cạnh đó mỗi ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái luật pháp và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng.
Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án hoặc dự án có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay.
1.2.3 Phân loại tín dụng của ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong phú. Người ta thường dựa vào các tiêu thức dưới đây để phân loại các hinh thức tín dụng.
Căn cứ vào thời hạn tín dụng gồm có 3 loại:
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân.
Tín dụng trung hạn: là tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm dùng để cho vay vốn mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
Căn cứ vào đối tượng tín dụng gồm có hai loại:
Tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng được cung cấp nhằm hình thành vốn lưu động của doanh nghiệp. Loại tín dụng này được thực hiện chủ yếu bằng hai hình thức cho vay bổ sung vốn lưu động tạm thời thiếu hụt và chiết khấu chứng từ có giá.
Tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng được cung cấp để hình thành vốn cố định của doanh nghiệp. Loại tín dụng này được thực hiện dưới hình thức cho vay trung và dài hạn.
Căn cứ vào mục đích sử dụng gồm có hai loại:
Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là loại tín dụng cung cấp cho các nhà doanh nghiệp để tiến hành sản xuất và kinh doanh.
Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức tín dụng cấp phát cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
Căn cứ vào chủ thể tín dụng được chia thành các loại sau:
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá hoặc ứng tiền trước khi nhận hàng hoá.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng thể hiện quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân. Trong mối quan hệ này tín dụng đóng vai trò trung gian cho nên ngân hàng vừa là người cho vay vừa là người đi vay. Tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ, bao gồm tiền mặt và bút tệ trong đó bút tệ là chủ yếu.
Tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có quan hệ chặt chẽ, bổ sung và hỗ trợ cho nhau.
Tín dụng Nhà nước: Là hình thức tín dụng thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân và các tổ chức khác theo đó Nhà nước chủ động vay tiền để tăng nguồn thu ngân sách nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách. Tín dung nhà nước được thực hiện bằng cách phát hành công trái.
Tín dụng quốc tế: Là hình thức tín dụng thể hiện quan hệ giữa nươc Việt Nam với các quốc gia hay các tổ chức tiền tệ tín dụng quốc tế.
Căn cứ vào hình thức: Gồm có chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê
Chiết khấu: Là hình thức Ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị củ thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữư một thương phiếu chưa đến hạn.
Cho vay: Là việc Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định.
Bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
Cho thuê: Có hai hình thức chủ yếu là cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài chính. Cho thuê nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian ngắn, người đi thuê không có dự định mua tài sản đó để sử dụng lâu dài, ví dụ cho thuê phòng trong khách sạn, cho thuê xe máy, ô tô… Còn cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian dài và người đi thuê có quyền mua lại tài sản khi hết hợp đồng thuê.
1.2.4 Các phương thức tín dụng ngân hàng đối với DNV&N
Với nguồn tài chính hạn hẹp của các DNV&N nếu như họ chỉ dựa vào tiềm lực tài chính của riêng họ mà không để ý đến tín dụng của ngân hàng thì họ khó có thể mà đuổi kịp xu thế của thị trường. Bên cạnh đó các ngân hàng đã nhận thấy được nhu cầu ngày càng cao của các DNV&N và họ luôn đưa ra những hình thức cho vay đa dạng phù hợp với nhu cầu, đặc điểm SX-KD của các doanh nghiệp. Các hình thức cho vay đó gồm có:
Thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội(vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo có cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng vài tháng trong năm.
cho vay theo hạn mức: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch SX-KD, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình SX-KD. Ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí ngân quĩ cho khách hàng.
Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kì SX-KD.
Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Hình thức này thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền.
1.3 Chất lượng tín dụng
1.3.1 Khái niệm chất lượng tín dụng
Trong hoạt động kinh doanh của NHTM, tín dụng là một nghiệp vụ mang lại phần lớn doanh lợi cho Ngân hàng nhưng đồng thời nó cũng là nơi ẩn chứa nhiều rủi ro. Có nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng tín dụng:
Đối với nền kinh tế: Khoản cho vay có chất lượng tốt phải hỗ trợ cho hoạt động SX-KD, giải quyết công ăn việc làm, tăng thêm sản phẩm cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác hiệu quả những khả năng tiềm ẩn của nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế.
Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng là sự đ._.áp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng, lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản không phiền hà, thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng phù hợp với tốc độ phát triển của xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, góp phần làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp.
Đối với ngân hàng : Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ và ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn, trung hạn và dài hạn trong nền kinh tế.
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.3.2.1 Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng
Đây là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động ngân hàng nói chung. Nó đánh giá mức độ hiệu quả sử dụng tài sản của nhà quản lý, là lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ hoạt động cho vay đối với DNV&N. Trong hoạt động cho vay phải thực hiện được lãi suất dương, có nghĩa là lãi suất đầu ra phải cao hơn lãi suất đầu vào công với các chi phí nghiệp vụ ngân hàng. Nguồn thu từ hoạt động cho vay là nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại và phát triển. Ngân hàng có thể tùy thuộc vào thời gian điều kiện kinh doanh cụ thể để có chính sách khách hàng hợp lý nhằm mở rộng đầu tư tín dụng thu hút khách hàng mà vẫn đảm bảo cho hoạt động tín dụng đạt hiệu quả cao nhất. Lợi nhuận do tín dụng đem lại chứng tỏ các khoản vay không những thu hồi được gốc mà thu được cả lãi, đảm bảo được an toàn đồng vốn cho vay. Bằng việc so sánh các chỉ tiêu này giữa các ngân hàng cung cấp chúng ta có thể đánh giá, xếp loại chất lượng tín dụng của các ngân hàng.
LN từ hoạt động TD = DT từ hoạt động TD – CP từ hoạt động TD
Trong đó:
DT từ hoạt động tín dụng = Dư nợ x Lãi suất
Chỉ tiêu tổng dư nợ: Được đề cập để đánh giá chất lượng tín dụng ( bao gồm cho vay ngân hàng trung hạn và dài hạn, cho vay uỷ thác). Chỉ tiêu này được đo bằng số tuyệt đối, nó phản ánh doanh số cho vay của ngân hàng trong một thời kỳ là bao nhiêu. Tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng tín dụng thấp vì chỉ ra rằng ngân hàng không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay, khả năng tiếp thị khách hàng kém, trình độ của đội ngũ cán bộ không cao. Tuy nhiên khi xét chỉ tiêu này chúng ta không nên xem xét chúng theo từng thời kỳ riêng rẽ mà phải xem xét chúng trong cả một quá trình trên cơ sở phân tích các yếu tố tác động bên ngoài để chỉ số này phản ánh một cách tốt nhất. Tuy vậy tổng dư nợ cao chưa chắc đã phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng cao. Vì vậy chỉ tiêu này không phải là quan trọng nhất, ta thường sử dụng để tính hệ số sử dụng vốn vay.
Tổng số dư nợ
Tổng nguồn vốn huy động
Hệ số sử dụng vốn vay =
Dư nợ ck = Dư nợ đk + DS cho vay trong kỳ - DS thu nợ trong kỳ
Hệ số này phản ánh kết quả sử dụng vốn để đầu tư của NHTM. Hệ số này luôn nhỏ hơn 1. Nếu hệ số sử dụng vốn vay gần bằng 1 thì NHTM phải chú ý tăng trưởng nguồn vốn để đề phòng mất khả năng thanh toán. Nếu hệ số sử dụng vốn thấp cần phải tăng trưởng dư nợ hoặc giảm vốn, huy động vốn bằng cách hạ lãi suất huy động, hạn chế rủi ro nguồn vốn tác động đến chất lượng tín dụng.
Doanh số cho vay : Chỉ tiêu này phản ánh quy mô hoạt động tín dụng của NHTM. Ngân hàng có doanh số cho vay càng lớn cho thấy mối quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng là nhiều. Chỉ khi chỉ tiêu này lớn mới giúp cho ngân hàng có khả năng tạo ra lợi nhuận lớn từ hoạt động tín dụng. Tuy nhiên không phải khi nào chỉ tiêu này lớn thì chất lượng tín dụng cũng tốt mà còn phù thuộc vào các rủi ro mà hoạt động tín dụng gặp phải.
Doanh số thu nợ : Được tính bằng cách cộng dồn các khoản thu nợ trong một niên độ kế toán, chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn cho vay được hoàn trả trong một thời kỳ cụ thể. Doanh số cho vay lớn cần phải kèm theo với doanh số thu nợ cao. Nếu doanh số cho vay cao mà doanh số thu nợ thấp cho thấy dư nợ quá hạn là quá lớn, khả năng thu hồi vốn và lãi là thấp thì chất lượng tín dụng là không tốt.
1.3.2.2 Chỉ tiêu nợ quá hạn
Chỉ tiêu này có thể nói là quan trọng nhất khi xem xét chất lượng tín dụng của một ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính như sau:
Nợ quá hạn x 100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Chỉ tiêu này phản ánh rõ nét nhất về chất lượng tín dụng ngân hàng nếu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp, rủi ro cao vì với một số lượng lớn các khoản nợ không được hoàn trả đúng hạn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc phân phối luồng vốn vào, ra. Với việc không thu được nợ thì ngân hàng sẽ phải đối mặt với việc mất khả năng thanh toán hoặc tệ hơn là phá sản. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn thấp biểu hiện chất lượng tín dụng ở ngân hàng cao, mức độ an toàn cao hay rủi ro thấp vì nó nói lên trong các khoản cho vay của ngân hàng chỉ có một số ít các khoản vay không hoàn trả đúng thời hạn.
Thường các NHTM dùng quỹ rủi ro để xử lý giảm hoặc xoá nợ tuỳ theo tình hình thực tế từng món vay để giảm tỷ lệ nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn phụ thuộc vào tổng số nợ đã chuyển sang nợ quá hạn và tổng dư nợ tại một thời điểm, thường là ngày cuối quý hoặc cuối năm. Ngoài ra, trong nợ quá hạn thì có một phần là các khoản nợ khó đòi. Chỉ tiêu nợ khó đòi được tính như sau:
Nợ khó đòi
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ khó đòi =
Đây là khoản nợ có khả năng dẫn đến sự mất một phần hay toàn bộ số vốn mà ngân hàng đã cho vay nên mục đích của các ngân hàng là làm cho tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt. Vậy nên các NHTM ngày càng quan tâm đến chỉ tiêu này.
1.3.2.3 Chính sách tín dụng hợp lý
Quy trình cho vay hợp lý: Được thể hiện thông qua các quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng… Một hợp đồng tín dụng bảo đảm chất lượng trước hết phải tuân thủ một cách tuyệt đối các quy định có tính pháp quy về hoạt động tín dụng hiện hành. Đây là những quy định có tính chất bắt buộc, nó cụ thể hoá toàn bộ quy trình tín dụng, từ khâu tiếp nhận hồ sơ, tiếp nhận khách hàng đến khi thu hồi được vốn cả gốc và lãi, nó là cơ sở pháp lý đảm bảo cho món vay an toàn, hiệu quả. Mặt khác nó cũng thể hiện một cách cơ bản trình độ nghiệp vụ cho vay.
Để đưa ra quyết định cho vay, ngân hàng phải từng bước thực hiện các công việc: Thẩm định tư cách pháp nhân của khách hàng, thẩm định hồ sơ tài chính, thẩm định tình hình SX-KD và phương án sử dụng tiền vay. Khi đưa ra quyết định cho vay thì ngân hàng phải tiến hành kiểm soát trong và sau khi cho vay. Nghiệp vụ tín dụng tuy đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng nhưng cũng hàm chứa nhiều rủi ro. Do vậy việc chấp hành các quy chế tín dụng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó là nền tảng cho một khoản vay tốt, là thước đo để đánh giá chất lượng tín dụng.
Lãi suất cho vay hợp lý: Ngân hàng có mức lãi suất tín dụng khác nhau tuỳ theo kỳ hạn, tuỳ theo các loại tiền và tuỳ theo loại khách hàng ( khách hàng quen, hoặc khách vay lớn có thể có lãi suất thấp hơn). Ngân hàng khi thoả thuận về lãi suất tín dụng phải tính đến rủi ro, lãi suất hoàn vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh khung lãi suất định trước, ngân hàng còn cung cấp các lãi suất thoả thuận đối với từng khách hàng cụ thể. Lãi suất có thể cố định trong suất kỳ hạn tín dụng( gọi là lãi suất cố định), hoặc biến đổi tuỳ theo thay đổi của lãi suất tham khảo hoặc của chỉ số làm cơ sở điều chỉnh lãi suất( gọi là lãi suất thả nổi), hoặc kết hợp cố định có điều chỉnh sau một khoảng thời gian xác định( gọi là lãi suất hỗn hợp). Lãi suất tín dụng có thể bị giới hạn bởi lãi suất trần, bị tác động bởi lãi suất tái chiết khấu do ngân hàng Nhà nước qui định, hoặc lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Tài sản đảm bảo hợp lý: Chính sách đảm bảo gồm các qui định về các trường hợp tài trợ cần đảm bảo bằng tài sản, các loại đảm bảo cho mỗi loại hình tín dụng, danh mục các đảm bảo được ngân hàng chấp nhận, tỷ lệ phần trăm cho vay trên đảm bảo, đánh giá và quản lý đảm bảo. Ngân hàng tài trợ dựa trên uy tín của khách hàng. Trong trường hợp khách hàng truyền thống, có uy tín, ngân hàng cho vay không cần ký hợp đồng đảm bảo. Trong những trường hợp độ an toàn của người vay không chắc chắn ngân hàng đòi hợp đồng tài sản đảm bảo.
Đảm bảo có thể bằng phương pháp cầm cố hoặc thế chấp. Các đảm bảo thường là các giấy tờ có giá, hàng hoá trong kho, nhà cửa, thiết bị, hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng chỉ chấp nhận các tài sản có khả năng bán được làm đảm bảo. Các tài sản thuộc sở hữu công, kém mất phẩm chất hoặc phi pháp đều bị loại khỏi đảm bảo. Có loại đảm bảo ( thường là bất động sản, máy móc, thiết bị, đồ dùng lâu bền) ngân hàng vẫn cho người vay được quyền sử dụng song phải cam kết giữ nguyên hiện trạng, hoặc sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận với ngân hàng. Có loại đảm bảo thường là hàng hoá bị ngân hàng phong toả, hoặc kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng. Để đề phòng các trường hợp bất trắc xẩy ra đối với các đảm bảo, ngân hàng thường yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm tài sản.
Chính sách khách hàng hợp lý: Khách hàng nhận tín dụng của ngân hàng rất đa dạng, từ các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước, cá nhân người tiêu dùng, các ngân hàng, các công ty tài chính… Tuy nhiên luật pháp cũng cấm hoặc hạn chế tài trợ đối với một số đối tượng nhất định.
Người đứng tên vay cho một tập thể phải được sự uỷ quyền của cả tập thể. Cá nhân vay phải là người đã đến tuổi thanh niên. Người vay phải ghi rõ vay để làm gì. Ngân hàng được quyền chấm dứt quan hệ tín dụng và thu hồi nợ nếu phát hiện người vay sử dụng vốn sai mục đích đã đăng ký ban đầu mà không được phép của ngân hàng. Ngân hàng tiến hành phân loại khách hàng truyền thống và quan trọng, khách hàng khác. Loại khách hàng truyền thống và quan trọng thường được hưởng chính sách ưu đãi của NHTM. Đây là nội dung có liên quan đến chính sách Marketing nên thường được các ngân hàng cân nhắc và đưa ra cho khách hàng biết.
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
1.3.3.1 Các nhân tố thuộc về ngân hàng
Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: Một chiến lược kinh doanh có hiệu quả sẽ giúp ngân hàng có một phương hướng phát triển nhất quán, giúp cho ngân hàng khai thác tốt nhất năng lực hiện có của đơn vị và đồng thời nó cũng giúp cho ngân hàng có thể thích ứng một cách nhanh nhất những biến đổi trong môi trường kinh doanh của mình. Chính vì vậy công tác lập chiến lược kinh doanh hiện được các ngân hàng hết sức coi trọng và nó ảnh hưởng lớn tới chất lượng hoạt động tín dụng.
Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng có một vai trò hết sức quan trọng, nhờ vào những thông tin đã thu thập được người quản lý có thể đưa ra những quyết định đúng đắn về việc đầu tư tín dụng hoặc biện pháp cần thiết liên quan đến việc theo dõi, quản lý thu hồi nợ. Chất lượng của thông tin ảnh hưởng trực tiếp đến khoản cho vay vì vậy phải đảm bảo là những thông tin đó là chính xác, toàn diện và tránh sự bóp méo thông tin. Nếu làm được điều đó thì có thể góp phần phòng ngừa và giảm bớt được rủi ro cho ngân hàng.
Công tác thẩm định: Thẩm định dự án giúp ngân hàng xem xét một cách toàn diện các mặt của dự án để xác định tính khả thi của dự án, trên cơ sở đó sẽ quyết định khách hàng này có đủ điều kiện để được cấp tín dụng hay không? Qua đó ngân hàng cũng có thể đóng vai trò như là người tư vấn cho chủ đầu tư sửa đổi những điểm không hợp lý trong dự án để dự án có tính khả thi hơn và cũng giúp cho ngân hàng có thể mở rộng hoạt động tín dụng của mình.
Trình độ của đội ngũ cán bộ của ngân hàng: Nguồn nhân lực của ngân hàng mang tính quyết định đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ lãnh đạo tốt thì sẽ đưa ra những chính sách hợp lý và phương hướng phát triển phù hợp với khuynh hướng phát triển của nền kinh tế.
Công tác kiểm tra, kiểm soát sau khi cho vay chưa hiệu quả: Việc kiểm tra, kiểm soát của ngân hàng sau khi giải ngân chưa được coi trọng đúng mức, cán bộ tín dụng không nhận thấy được vai trò quan trọng của công tác kiểm tra, kiểm soát nên chưa theo dõi một cách chặt chẽ hoặc là chỉ mang tính hình thức dẫn đến không phát hiện được kịp thời việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích hay không hiệu quả.
1.3.3.2 Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp
Năng lực quản lý của các DNV&N còn hạn chế: Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp còn kém hiệu quả dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không trả được nợ. Các DNV&N luôn đối mặt với tình trạng thiếu vốn, khả năng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng còn nhiều khó khăn. Một số doanh nghiệp khi xây dựng phương án kinh doanh không tính hết được những biến động của thị trường hàng hoá hay trong quá trình thẩm định kỹ thuật dây truyền công nghệ mới còn yếu kém, nhập vào những máy móc thiết bị lạc hậu, không đồng bộ nên khi sản xuất ra sản phẩm thì không thể đáp ứng đựơc tiêu chuẩn của thị trường. chính vì điều này càng làm cho hoạt động SX-KD của doanh nghiệp kém hiệu quả, giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, dẫn đến tình trạng làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả nợ của ngân hàng .
Các DNV&N nhất là các DNV&N ngoài quốc doanh chưa thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán, kế toán theo pháp lệnh hạch toán kế toán. Hạch toán kế toán là việc làm rất quan trọng để có thể từ đó nhận biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tình hình tài chính của doanh nghiệp minh bạch là điều kiện thuận lợi để ngân hàng xét duyệt khi ra quyết định cho vay. Ngược lại, tình hình tài chính của doanh nghiệp không minh bạch lại gây khó khăn cho ngân hàng trong khâu thẩm định cũng như trong việc đánh giá doanh nghiệp khi xem xét, giải quyết cho vay.
Các DNV&N chưa thực sự năng động tìm ra phương án kinh doanh có tính khả thi cao để ngân hàng đầu tư vốn có hiệu quả. Ngân hàng là một đơn vị kinh doanh tiền tệ nên hiệu quả của việc sử dụng vốn là mối quan tâm của ngân hàng. Vì vậy việc chấp nhận cho vay đối với các doanh nghiệp phải gắn liền với những điều kiện nhất định trong đó phải có những phương án kinh doanh hiệu quả và tính khả thi cao. Đây là một điều kiện quan trọng trong việc xem xét cho vay đối với các doanh nghiệp vì chỉ có phương án làm kinh doanh tốt thì doanh nghiệp mới có lãi từ đó mới trả nợ được cho ngân hàng.
Tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp là phổ biến đã làm năng lực tài chính của doanh nghiệp bị giảm sút, ảnh hưởng không nhỏ đến kế hoạch, khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay với những hạn chế của doanh nghiệp trong cạnh tranh, tiêu thu sản phẩm nhiều khi doanh nghiệp phải chấp nhận những điều kiện mua bán bất lợi cho mình về giá cả, điều kiện, phương thức thanh toán. Lợi dụng tình trạng này nên nhiều doanh nghiệp mua hàng đều sử dụng phương pháp nhận hàng trước, trả nơ sau.
1.3.3.3 Các nhân tố từ môi trường
Chất lượng tín dụng của NHTM chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi trường kinh doanh bên ngoài và đòi hỏi các ngân hàng phải thường xuyên nghiêm cứu sự thay đổi đó một cách thận trọng. Bởi vì một sự điều chỉnh nào đó của cơ quan Nhà nước có thể ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các NHTM nói chung. Cụ thể cần phải đề cập tới các nhân tố sau: Môi trường chính trị - xã hội, môi trường pháp lý, môi trường kinh tế và các chính sách vĩ mô.
Môi trường chính trị - xã hội: Môi trường chính trị xã hội là một nhân tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM bởi vì chính trị ổn định thì các NHTM mới có thể mở rộng đầu tư và mở rộng hoạt động tín dụng của mình. Nhưng ngược lại các NHTM khó có thể mở rộng hoạt động tín dụng của mình khi mà môi trường chính trị không ổn định và một sự thay đổi nào đó có thể dẫn đến sự mất mát một phần hoặc toàn bộ các khoản tín dụng của mình. Điều này có thể làm cho các ngân hàng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và dẫn đến bị phá sản.
Môi trường pháp lý: Có thể nói môi trường pháp lý có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Do môi trường pháp lý về kinh doanh ngân hàng, đặc biệt đối với DNV&N chưa thật đầy đủ và đồng bộ ở việc ban hành và hướng dẫn thực hiện các quy định, các thông tư hướng dẫn chưa thống nhất giữa các liên ngành. Các quy chế, quy định văn bản hướng dẫn thi hành của chi nhánh cũng chưa được quan tâm đến DNV&N.
Một hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ giúp các NHTM dễ dàng hơn trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của mình, góp phần vào nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của các NHTM.
Môi trường kinh tế và chính sách vĩ mô: Khi mà một nước có nền kinh tế phát triển thì ở đó thường có một môi trường kinh tế tốt và bình đẳng để tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM mở rộng quy mô tín dụng của mình. Ngược lại khi môi trường kinh tế có những thay đổi bất ngờ thì sẽ có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của các NHTM. Như vậy các NHTM cần phải làm tốt công tác dự báo và khả năng thích ứng nhanh khi có sự biến động nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NHNo & PTNT HÀ NỘI
(2004-2006)
2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh NHNo & PTNT Hà Nội
2.1.1 Quá trình hình thành
NHN0 & PTNT Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 51- QĐ/NH/QĐ ngày 27/6/1988 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( nay là Thống đốc NHNN Việt Nam).
Chi nhánh NHNo & PTNT Thành phố Hà Nội ( nay là NHN0 & PTNT Hà Nội) trên cơ sở 28 cán bộ cùng với 21 công ty, xí nghiệp thuộc lĩnh vực Nông, Lâm, Ngư nghiệp được điều động từ Ngân hàng Công-Nông-Thương Thành phố Hà Nội và 12 chi nhánh Ngân hàng phát triển Nông nghiệp huyện được đổi tên từ các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước huyện đã hội tụ về trụ sở chính tại số 77 phố Lạc Trung Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Với 1182 lao động, 18 tỷ nguồn vốn, chủ yếu tiền gửi ngân sách huyện và 16 tỷ dư nợ mà hầu hết là nợ cho vay các xí nghiệp Quốc doanh, các hợp tác xã đã trở thành nợ tồn đọng. Trụ sở, phương tiện, kho tang không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh. NHN0 & PTNT Hà Nội sớm phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các ngân hàng đã có bề dày hoạt động kinh doanh và có nhiều lợi thế hơn hẳn, không những thế còn luôn trong tình trạng thiếu vốn, thiếu tiền mặt. Những năm đầu cùng sự hỗ trợ nguồn vốn của Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Trung ương cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay vốn của Liên hiệp các công ty Lương thực Hà Nội để mua gạo cho nhân dân nội thành, một phần nhu cầu tiền mặt chi lương cho các doanh nghiệp.
Nhận rõ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, mà trọng tâm là phát triển kinh tế nông nghiệp, góp phần đổi mới nông thôn ngoại thành Hà Nội. NHN0 & PTNT Hà Nội đã nhanh chóng khai thác nguồn vốn để đầu tư cho các thành phần kinh tế mà trước hết là đầu tư cho nông nghiệp. Nhờ có những quyết sách táo bạo đổi mới nhận thức kiên quyết khắc phục điểm yếu nhất là thiếu vốn, thiếu tiền mặt, nhờ vậy chỉ sau hơn hai năm hoạt động từ năm 1990 trở đi NHN0 & PTNT Hà Nội đã có đủ tiền mặt và nguồn vốn thoả mãn cơ bản các nhu cầu tín dụng và tiền mặt cho khách hàng.
Tháng 9 năm 1991, 7 Ngân hàng huyện thị : Mê Linh, Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Ba Vì, Phú Thọ, Thị xã Sơn Tây được bàn giao về Vĩnh Phú và Hà Tây.
Tiếp theo đó thực hiện mô hình hai cấp từ tháng 10/1995 NHN0 & PTNT Hà Nội đã bàn giao 5 ngân hàng Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gai Lâm về NHN0 & PTNT Việt Nam. Lúc này NHN0 & PTNT Hà Nội lại đứng trước một thử thách mới đó là mang tên Ngân hàng Nông nghiệp nhưng lại phục vụ các thành phần kinh tế không mang đáp ứng của sản xuất nông nghiệp ngay giữa nội đô Thành phố Hà Nội.
Để đứng vững, tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, NHN0 & PTNT Hà Nội đã chủ động mở rộng mạng lưới để huy động và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn nội thành.
Năm 1994 thành lập Ngân hàng khu vực Chợ Hôm (nay là Hai Bà Trưng).
Năm 1995 thành lập Ngân hàng khu vực Đồng Xuân (nay là Hoàn Kiếm).
Năm 1996 thành lập các Ngân hàng Quận Tây Hồ, Ba Đình, Thanh Xuân.
Năm 1997 thành lập Ngân hàng Quận Cầu Giấy.
Năm 2000 thành lập Ngân hàng Quận Đống Đa và khu vực Tam Trinh.
Năm 2001 thành lập 10 phòng giao dịch.
Năm 2002 thành lập 2 Ngân hàng Chương Dương và Tràng Tiền PLAZA và 11 phòng giao dịch thì đến năm 2002 NHN0 & PTNT Hà Nội có 33 phòng giao dịch huy động nguồn vốn và dịch vụ Ngân hàng.
Sau 15 năm phấn đấu, xây dựng và từng bước trưởng thành, NHN0 & PTNT Hà Nội đã đi những bước vững chắc với sự phát triển toàn diện trên các mặt huy động nguồn vốn, tăng trưởng đầu tư và nâng cao chất lượng tín dụng, thu chi tiền mặt, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và các hoạt động khác.
Về nguồn vốn: Từ 18 tỷ khi mới thành lập, đến 5/2003 NHN0 & PTNT Hà Nội đã huy động được 7500 tỷ, tăng 415 lần bình quân tăng 30% mỗi năm, trong đó nguồn vốn ngoại tệ chiếm 11% đến nay có thể đáp ứng các nhu cầu tín dụng nội, ngoại tệ của các doanh nghiệp.
Về dư nợ 2300 tỷ, tăng 143 lần, trong đó dư nợ tài trợ nhập khẩu gần 50 triệu USD, chất lượng được tín dụng đặc biệt chú trọng đã nâng dần hiệu quả kinh doanh của NHNo và PTNT Hà Nội.
Từ 2006 thực hiện đề án cơ cấu lại ngân hàng và đề án kinh doanh trên địa bàn đô thị loại I giai đoạn 2006 – 2010, Hoạt động mô theo hình ngân hàng kinh doanh đa cấp. NHNo & PTNT Hà Nội có 11 chi nhánh cấp II và 37 PGD trực thuộc. Tổng nguồn vốn huy động đến hết năm 2006 là 12.845 tỷ đồng, dư nợ 2.419 tỷ đồng, Tổng kim ngạch XNK trên 150 triệu USD, Doanh số kinh doanh ngoại hối đạt trên 100 triệu USD.
2.1.2 Nhiệm vụ của chi nhánh
F Huy động vốn
Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của tất cả các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ.
phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và thực hiện các hình thức huy động vốn khác ( phát hành trái phiếu, vay Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức tín dụng khác).
Tiếp nhận vốn tài trợ, tín thác, uỷ thác đầu tư từ chính phủ ( chủ yếu thông qua Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước… ), các tổ chức quốc tế, quốc gia và cá nhân ở trong nước, nước ngoài đâu tư cho các chương trình kinh tế - chính trị - xã hội tại Việt Nam có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
Được phép vay vốn các tổ chức tài chín, tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và tổ chức tín dụng nước ngoài khi được Tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt Nam cho phép bằng văn bản.
Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam.
Việc huy động vốn có thể bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ, vàng và các công cụ khác theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam.
F Cho vay
Cho vay ngắn hạn đối với các tổ chức kinh tế và cá nhân đáp ứng nhu cầu vốn cho SX-KD, dịch vụ, đời sống.
Cho vay trung hạn, dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và cá nhân nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển SX-KD, dịch vụ, đời sống.
Đồng tiền cho vay: Nội tệ (VNĐ), Ngoại tệ ( USD và các loại ngoại tệ khác theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam).
Chiết khấu các loại giấy tờ có giá( bao gồm cả nội tệ và ngoại tệ).
Cho vay theo chương trình dự án và kế hoạch của Chính phủ.
Cho vay tài trợ các chương trình, dự án vì mục tiêu nhân đạo, văn hoá xã hội.
F Kinh doanh ngoại hối
Mua bán ngoại tệ, kinh doanh vàng bạc, kim khí quý, đá quý.
Thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế, mở thư tín dụng (L/C) cho khách hàng, bảo lãnh hợăc tái bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh dự thầu và nghiệp vụ bảo lãnh, tái bảo lãnh cho các Doanh nghiệp, tổ chức tài chính – tín dụng trong và ngoài nước hoạt động tại Việt Nam .
F Cung ứng các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ gồm:
Cung ứng các phương tiện thanh toán
Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
Thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ cho khách hàng
Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN và của NHNo & PTNT Việt Nam.
F Kinh doanh các dịch vụ ngân hàng khác
Thu, phát tiền mặt, máy rút tiền tự động, phát hành thẻ ghi nợ. thẻ tín dụng, trả lương qua tài khoản, phát triển các đại lý chấp nhận thẻ, nhận uỷ thác cho vay của các tổ chức tài chính, tín dụng, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các dịch vụ ngân hàng khác được NHNN và NHNo & PTNT Việt Nam cho phép.
Tư vấn tài chính, tín dụng cho khách hàng dưới hình thức trực tiếp tư vấn cho khách hàng.
Cân đối, điều hoà vốn kinh doanh đối với các chi nhánh ngân hàng nông nghiệp cấp 2 trực thuộc trên địa bàn.
Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam.
Đầu tư dưới các hình thức như: góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các các tổ chức kinh tế khác khi được NHNo & PTNT Việt Nam cho phép.
2.1.3 Kết quả hoạt động của chi nhánh năm 2006
F Hoạt động huy động vốn
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn năm 2004, 2005, 2006
( Đơn vị: Tỷ đồng )
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2005 trên 2004
2006
trên
2005
Số tiền
Số tiền
Số tiền
% tăng
% tăng
- Huy động từ dân cư
2.528
2.964
3.245
17,25
9,5
- Tiền gửi của các TCKT
3.960
4.999
5.300
26,23
6,02
- Tiền gửi,tiền vay TCTD
660
404
600
-38,78
48,51
- Tiền kho bạc và khác
2.128
3.234
3.700
51,97
14,40
Tổng cộng
9276
11.601
12.845
(Nguồn: Báo cáo tài chính NHNo & PTNT Hà Nội )
Tổng nguồn vốn của NHNo & PTNT Hà Nội liên tục tăng trong 3 năm qua, từ con số khiêm tốn là 9276 tỷ đồng năm 2004, nguồn vốn của ngân hàng đạt 12.845 tỷ đồng năm 2006, tăng 38,47% so với năm 2004.Trong đó đã có sự tăng trưởng ca hoản mục Tiền gửi, tiền vay của các TCTD và tiền kho bạc trong năm 2006. Tuy nhiên khoản mục khoản mục này đã có sự giảm sút từ con số 660 tỷ đồng xuống chỉ còn 404 năm 2005 tức là koảng 38,78% điều này không ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng của nguồn vốn.
Trong năm 2006, do tình hình lãi suất của NHNo & PTNT Hà Nội nói riêng và hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam nói chung đã có mức lãi suất huy động ngang bằng với mặt bằng lãi suất huy động của các NHTM Nhà nước và một số NHTM cổ phần nên nguồn vốn huy động từ dân cư của chi nhánh cũng ổn định và tăng trưởng. Trong năm công tác huy động vốn của chi nhánh đã đạt kết quả đáng kể, đặc biệt việc thay đổi cơ cấu nguồn vốn. Ngoài việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn từ dân cư chi nhánh còn tìm mọi biện pháp giữ vững và tiếp cận nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các Tổ chức xã hội nhằm tiếp tục tăng trưởng nguồn vốn.
Đầu tư tín dụng
Bảng 2.2 : Tình hình dư nợ phân theo loại tiền
( Đơn vị : Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
Số tiền
% tăng
Số tiền
% tăng
- Dư nợ bằng VNĐ
2.197
1.960
11
2.069
5,5
- Dư nợ bằng ngoại tệ
942
730
23
350
-52,05
Tổng cộng
3.139
2.690
2.419
( Nguồn: Báo cáo tài chính NHNo & PTNT Hà Nội )
Bảng 2.3: Tình hình dư nợ phân theo thời hạn cho vay
( Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
Số tiền
% tăng
Số tiền
% tăng
- Ngắn hạn
2.062
1.631
-11
1.102
-32,42
- Trung hạn
552
383
-31
493
28,72
- Dài hạn
525
676
29
824
21,89
Tổng cộng
3.139
2.690
2.419
Bảng 2.4: Tình hình dư nợ phân theo thành phần kinh tế
( Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
Số tiền
% tăng
Số tiền
% tăng
- Doanh nghiệp NN
1.615
970
-60
718
-25,17
- DNNQD
1.094
1.160
6
1.408
21,37
- Hộ sản xuất
430
560
30
293
-47,67
Tổng cộng
3.139
2.690
2.419
Bảng 2.5: Tình hình dư nợ phân theo ngành kinh tế
( Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
Số tiền
% tăng
Số tiền
% tăng
- Ngành CN và XD
797
721
-9,5
1245
72,67
- Ngành NLNN
638
756
18,49
281
-62,83
- Ngành TM, DV
1.704
1.213
-28,81
893
-26,38
Tổng cộng
3.139
2.690
2.419
( Nguồn: Báo cáo tài chính NHNo & PTNT Hà Nội )
Vốn chỉ tập trung chủ yếu cho các phương án, dự án thực sự có hiệu quả, không phân biệt thành phần kinh tế. Mặt khác NHNo & PTNT Hà Nội cũng đã và đang thực hiện nghiêm túc Quyết định 493 của NHNo & PTNT Việt Nam về trích và xử lý rủi ro đối với nợ xấu, nợ tiềm ẩn rủi ro, từng bước nâng cao chất lượng lành mạnh hoá đầu tư tín dụng, do vậy dự nợ đạt gần 2.500 tỷ đồng, nếu xét theo thành phần kinh tế thì Ngân hàng đang tập trung cho vay các DNNQD ( chiếm 58,2% tổng dư nợ ) tăng so với năm 2004 chiếm 28,7% tổng dư nợ.
Để đạt được những kết quả trên Ngân hang đã mở rộng phương thức cho vay như: cho vay đồng tài trợ với các Ngân hàng TMQD, Ngân hang TMCP trên địa bàn đối với các dự án lớn có hiệu quả. Không những thế NHNo & PTNT Hà Nội còn mở rộng cho vay hộ sản xuất, vay sinh hoạt đối với công chức, viên chức, sĩ quan, công nhân trong các doanh nghiệp, bênh viện, Trường học, lực lượng vũ trang với dư nợ gần 300 tỷ đồng, đã hỗ trợ cho nhiều gia đình cải tạo, sửa chữa nhà ở, mua sắm tiện nghi sinh hoạt trong gia đình nhằm cải thiện nâng cao đời sống cán bộ nhân dân thủ đô.
F Hoạt động thanh toán quốc tế
Về xuất khẩu
Bảng 2.6: Tình hình phục vụ công tác xuất khẩu của các DN
(Đơn vị: triệu USD)
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
- Chứng từ đòi tiền
53
1,1
54
1,4
82
1,5
- Thu tiền được
46
1,0
52
1,4
66
1,2
Tổng cộng
99
106
148
(Nguồn: Báo cáo tài chính NHNo & PTNT Hà Nội)
Chất lượng của các sản phẩm dịch vụ ngày càng được ổn định và từng bước phát huy hiệu quả, bước đầu chiếm lĩnh thị trường và góp phần vào kết quả kinh doanh của NHNo & PTNT Hà Nội như: chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền nhanh WU, thanh toán séc thẻ, thu đổi ngoại tệ. Mặt khác đã đa dạng hoá các kênh chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam thông qua dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union đạt trên 5,1 triệu USD, dịch vụ chi trả kiều hối thông qua tài khoản của ngân hàng đạt trên 2 triệu USD. Thanh toán thẻ và séc du lịch đạt 225 ngàn USD.
Năm 2006 Ngân hàng đã gửi chứng từ đòi tiền 82 món thu về 1,5 triệu USD, trong đó thu tiền được 66 món thu về 1,2 triệu USD. Qua bảng trên ta thấy hoạt động kinh doanh đối ngoại về xuất khẩu đã có sự giảm sút.
Về công tác nhập khẩu
Bảng 2.7: Tình hình phục vụ công tác nhập khẩu
( Đơn vị: Triệu USD )
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
- Số L/C mở
612
82,4
784
111,5
820
120
- Số L/C thanh toán
587
65
889
107,2
910
110
- Thanh toán Nhờ thu
243
6,2
364
16,8
400
17._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28668.doc