mục lục
Trang
Mục lục 1
Lời mở đầu 4
Chương I: Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng ngân hàng
1.1) Tín dụng ngân hàng (TDNH) 6
1.1.1- Ngân hàng thương mại (NHTM) 6
1.1.2- Tín dụng ngân hàng 7
1.1.3- Các hình thức TDNH 8
1.1.4- Vai trò của TDNH đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 10
1.2) Chất lượng tín dụng ngân hàng 13
1.2.1- Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng 13
1.2.2- Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng TDNH 15
1.2.3- Hiệu quả của việc nâng cao chất lư
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp nhà nước tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợng tín dụng của các NHTM 19
1.3) Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng TDNH 20
1.3.1- Các nhân tố vĩ mô 20
1.3.1.1. Môi trường pháp lý 20
1.3.1.2. Môi trường kinh tế 21
1.3.1.3.Một số yếu tố vĩ mô khác 22
1.3.2- Các nhân tố vi mô 23
1.3.2.1. Các nhân tố thuộc về phía khách hàng 23
1.3.2.2. Các nhân tố thuộc về phía ngân hàng 24
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNNN tại chi nhánh NHNT Hà Nội
2.1) Khái quát chung về NHNT Hà Nội 27
2.1.1- Lịch sử hình thành và phát triển 27
2.1.2- Nhiệm vụ của chi nhánh NHNT Hà Nội 28
2.1.3- Cơ cấu tổ chức 29
2.2) Một số hoạt động chủ yếu tại chi nhánh 31
2.2.1- Tình hình huy động vốn 31
2.2.2- Tình hình cho vay 32
2.2.3- Một số hoạt động khác 34
2.3) Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNNN tại chi nhánh NHNT Hà Nội 36
2.3.1- Tình hình DNNN có quan hệ vay vốn với chi nhánh 36
2.3.2- Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNNN tại chi nhánh 37
2.3.2.1. Chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với DNNN 42
2.3.2.2. Chất lượng tín dụng trung-dài hạn đối với DNNN 47
2.3.3- Đánh giá chất lượng tín dụng đối với DNNN tại chi nhánh 49
2.3.3.1. Thành tựu 50
2.3.3.2. Hạn chế 50
2.3.3.3. Nguyên nhân 51
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNN tại chi nhánh NHNT Hà Nội
3.1) Phương hướng hoạt động kinh doanh tại chi nhánh trong thời gian tới 54
3.2) Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNN 56
3.2.1- Thực hiện chính sách tín dụng phù hợp với tình hình thực tế 56
3.2.2- Nâng cao chất lượng công tác thẩm định 57
3.2.3- Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn hiệu quả 58
3.2.4- Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ của chi nhánh 61
3.2.5- Một số giải pháp khác 62
3.3) Một số kiến nghị 63
3.3.1- Kiến nghị đối với ngân hàng cấp trên 63
3.3.1.1. Một số kiến nghị với NHNT Việt Nam 63
3.3.1.2. Một số kiến nghị với NHNN 64
3.3.2- Kiến nghị đối với Nhà nước 64
Kết luận 66
Tài liệu tham khảo 67
Lời mở đầu
D
oanh nghiệp khi tiến hành một hoạt động nào đó đều phải xét đến tính hiệu quả trên hai phương diện: kinh tế - xã hội với ba mục tiêu là an toàn - lợi nhuận và khả năng cạnh tranh. Hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng không những tuân theo nguyên tắc đó một cách chặt chẽ mà nó còn là sự đòi hỏi tất yếu. Bởi hệ thống ngân hàng thương mại được xem như huyết mạch của nền kinh tế, hiệu quả hoạt động của nó vừa là biểu vũ của nền kinh tế lại vừa là động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Một hoạt động quan trọng của các ngân hàng thương mại (NHTM) đó là tín dụng: chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, có khả năng tạo thu nhập lớn nhất và cũng chứa đựng rủi ro cao nhất.
Vốn vay ngân hàng là một nguồn quan trọng đối với sự hoạt động, phát triển của doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà Nước (DNNN) đang trong quá trình tái cơ cấu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, tối đa hoá lợi nhuận, thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường. Thực tế cho thấy nhiều DNNN hoạt động chủ yếu bằng vốn vay của NHTM. Có doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn của ngân hàng chiếm tỷ trọng khoảng 80% vốn lưu động, thậm chí nhiều DNNN 100% vốn hình thành tài sản cố định chính là vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động của các DNNN còn nhiều vấn đề bất ổn và nó đã ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của NHTM dù trong những năm gần đây, chất lượng tín dụng đã và đang được chú trọng và nâng cao.
Chính vì lí do đó, em mong muốn đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng các NHTM. Thời gian thực tập tại NHNT - chi nhánh Hà Nội tuy không phải là dài, song cũng là cơ hội để em tiếp cận thực tế, giúp em nhận biết được phần nào thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh trong những năm qua. Vì vậy, trong luận văn tốt nghiệp của mình, em xin trình bày về đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNN tại chi nhánh NHNT Hà Nội".
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn đề cập đến công tác cho vay đối với các DNNN tại chi nhánh NHNT Hà Nội giai đoạn từ năm 2000-2002.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là vận dụng lý thuyết để phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNNN tại chi nhánh NHNT Hà Nội trong thời gian qua, từ đó thấy được những thành công cũng như hạn chế và xác định rõ nguyên nhân làm căn cứ đưa ra những giải pháp thích hợp nâng cao chất lượng tín dụng góp phần tăng hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh của chi nhánh.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 phần:
Chương I : Tín dụng ngân hàng và chất lượng tín dụng ngân hàng
Chương II : Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNNN tại chi nhánh
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNN tại
chi nhánh NHNT Hà Nội
Luận văn này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy PGS.TS.Lê Đức Lữ cùng toàn thể cán bộ tín dụng tại Phòng Tín dụng-Tổng hợp của ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Do hạn chế về trình độ cũng như thiếu kinh nghiệm thực tế nên luận văn không tránh khỏi những sai sót. Em kính mong được các thầy cô trong khoa và các cô chú tại NHNT - HN góp ý kiến để luận văn được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
Chương 1
Tín dụng ngân hàng và
chất lượng tín dụng ngân hàng
1.1) Tín dụng ngân hàng
1.1.1- Ngân hàng thương mại (NHTM)
Ngân hàng thương mại là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất, ra đời theo yêu cầu khách quan của nền kinh tế hàng hoá và chính nó lại đóng vai trò to lớn trong việc phát triển nền kinh tế hàng hoá lên mức độ cao hơn.
Với vai trò trung gian tài chính, NHTM tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi để thực hiện cho vay và đầu tư góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội đồng thời nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng các mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện nay.
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Như vậy, có thể hiểu, NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ thông qua nghiệp vụ huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ trung gian tài chính khác.
Huy động vốn từ dân cư, cũng như từ các tổ chức kinh tế-xã hội, ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ của nền kinh tế, có trách nhiệm bảo toàn đồng vốn nhưng không phải bằng cách găm chúng trong các két sắt hay trong kho chứa khỏi mối mọt bởi mục tiêu cuối cùng của ngân hàng là lợi nhuận. Cho vay và đầu tư luôn là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất, có khả năng sinh lời cao nhất tuy nhiên lại là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Việc cung cấp các dịch vụ tài chính trung gian không chỉ là tìm kiếm lợi nhuận (hưởng phí dịch vụ) mà qua đó, ngân hàng bằng cách thoả mãn các nhu cầu của khách hàng để mở rộng thị phần và nâng cao vị thế trong cạnh tranh.
Gắn với ba nghiệp vụ này, các NHTM hoạt động đều hướng tới ba mục tiêu chung đó là an toàn, lợi nhuận và tăng khả năng cạnh tranh.
1.1.2- Tín dụng ngân hàng (TDNH)
Tín dụng là phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá, được hiểu là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thái tiền tệ hay hàng hoá) từ chủ thể này sang chủ thể khác, sau một thời gian nhất định sẽ thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu với những điều kiện mà hai bên đã thoả thuận. Tuy nhiên, khi gắn với chủ thể cụ thể là ngân hàng thì Tín Dụng Ngân hàng là mối quan hệ tín dụng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng (tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ) với một bên là các chủ thể khác trong nền kinh tế, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Với tư cách là người đi vay: ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng các hình thức như: Nhận tiền gửi của cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội; Phát hành các chứng chỉ tiền gửi; ...
Với tư cách là người cho vay: ngân hàng đáp ứng mọi chủ thể trong nền kinh tế có nhu cầu vốn cho tiêu dùng, hay để duy trì tính liên tục cũng như mở rộng quá trình sản xuất, tái sản xuất.
Xét về bản chất TDNH thì các NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay, song xét về khía cạnh thuật ngữ sử dụng thì TDNH được hiểu là việc ngân hàng cấp tín dụng tức ngân hàng ở đây đóng vai trò là người cho vay đối với cá nhân, doanh nghiệp cũng như mọi thành phần khác trong nền kinh tế.
1.1.3- Các hình thức tín dụng ngân hàng
Việc phân loại tín dụng khoa học sẽ tạo điều kiện thuận lợi giúp ngân hàng quản lý chặt chẽ có hiệu quả các món đã cho vay, đồng thời nó cũng là căn cứ để ngân hàng xây dựng cơ cấu huy động vốn hợp lí. Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà tín dụng được chia làm nhiều loại khác nhau.
Các hình thức tín dụng phân theo thời gian cho vay
Thời gian cho vay là thời hạn thường được xác định cụ thể và ghi trong hợp đồng tín dụng, kể từ khi ngân hàng phát tiền vay cho đến khi thu hồi hết nợ gốc và lãi vốn vay.
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn tới một năm, thường được sử dụng để cho vay bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng cá nhân.
Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm, thường để đáp ứng nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đó, hình thức tín dụng này cũng đáp ứng một số nhu cầu tiêu dùng cá nhân như mua nhà, mua xe máy...
Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, dùng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn, có thời gian thu hồi vốn lâu.
Các hình thức tín dụng phân theo mục đích sử dụng
Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cung cấp cho doanh nghiệp (cả doanh nghiệp sản xuất lẫn doanh nghiệp thương mại) để tiến hành sản xuất và kinh doanh.
Tín dụng tiêu dùng: là hình thức tín dụng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân.
Các hình thức tín dụng phân theo mức độ có bảo đảm
Tài sản đảm bảo cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ.
Tín dụng có tài sản bảo đảm: là việc người đi vay phải có tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để thế chấp, cầm cố hoặc có được sự bảo lãnh của bên thứ ba để trả nợ cho ngân hàng.
Tín dụng không có tài sản bảo đảm (tín chấp): khác với trường hợp trên thì đây là loại tín dụng mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng như làm ăn thường xuyên có lãi, có tình hình tài chính vững mạnh,... hay có mối quan hệ truyền thống với ngân hàng hoặc món vay tương đối nhỏ.
Các hình thức tín dụng phân theo thành phần kinh tế
Tín dụng đối với DNNN;
Tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
Tín dụng đối với cá nhân, các thành phần khác.
Các hình thức tín dụng đặc thù
Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương đương với giá trị thương phiếu sau khi đã trừ đi phần phí của mình. Về mặt pháp lí thì đây là hình thức trao đổi trái quyền, tuy nhiên đối với ngân hàng đây được coi như là hoạt động tín dụng bởi trong tương lai sẽ thu về được một khoản tiền lớn hơn hiện tại mà ngân hàng bỏ ra.
Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay khách hàng trong trường hợp khách hàng vi phạm hoặc không thực hiện đúng theo hợp đồng kinh tế. Thực tế, ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình làm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, tín dụng được cấp khi có rủi ro xảy ra và ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính hộ.
Cho thuê: là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau một thời gian, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng đồng thời có quyền mua lại tài sản đó.
Ngoài ra còn có các hình thức tín dụng khác như hình thức tín dụng phân theo đối tượng tín dụng bao gồm: tín dụng vốn lưu động, tín dụng vốn cố định; hình thức tín dụng phân theo phương pháp hoàn trả bao gồm: tín dụng trả góp, tín dụng trả một lần; ... Tuy nhiên, theo đối tượng và phạm vi nghiên cứu đã đề cập ở trên, luận văn chỉ đề cập loại hình tín dụng đối với DNNN tại chi nhánh NHNT Hà Nội.
1.1.4- Vai trò của TDNH đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất và lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển thì TDNH càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng.
TDNH là nguồn tài trợ giúp doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với công nghệ mới, mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường vượt khỏi ranh giới quốc gia, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh
Doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và phát triển trong cạnh tranh khi các sản phẩm cung cấp ra phải thoả mãn nhu cầu thị trường: chất lượng tốt; số lượng và chủng loại phong phú, đa dạng; giá cả hợp lí ... nhưng doanh nghiệp cũng phải đạt được mục tiêu lợi nhuận. Muốn vậy, doanh nghiệp cần vốn để không ngừng cải tiến kĩ thuật, đổi mới công nghệ nhằm tối thiểu chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hoá. Đồng thời mọi hoạt động của doanh nghiệp phải tuân theo nguyên tắc: thị trường là xuất phát điểm, là trung tâm trong việc giải quyết ba vấn đề cơ bản "sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào" do vậy, doanh nghiệp không thể không đầu tư vào việc nghiên cứu thị trường. Vốn luôn là điều kiện tiên quyết trong việc thực hiện mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Phần lớn vốn điều lệ của doanh nghiệp tồn tại dưới dạng nhà xưởng, máy móc trang thiết bị ngay từ đầu quá trình thành lập; nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận hàng năm tăng rất chậm và nhỏ; nguồn vốn hình thành trong tín dụng thương mại ngày càng hạn chế do môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt và chứa đựng nhiều rủi ro; nguồn vốn từ thị trường chứng khoán (TTCK) thì không phải doanh nghiệp nào cũng có thể niêm yết. Hơn nữa, ở Việt nam, TTCK mới ra đời còn đang trong quá trình hoàn thiện nên việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu gặp nhiều khó khăn, hạn chế.... Đặc biệt đối với các DNNN từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, được bình đẳng và có quyền tự chủ trong kinh doanh như các doanh nghiệp khác, không còn cảnh ỷ lại trông chờ vào ngân sách, do vậy vấn đề nguồn vốn càng trở nên quan trọng và bức bách hơn. Với vai trò "bà đỡ của nền kinh tế", các NHTM luôn sẵn sàng đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp không bỏ lỡ các cơ hội trong kinh doanh, có điều kiện rút ngắn chu kỳ sản xuất, đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hoá.
Không chỉ cấp vốn để doanh nghiệp có điều kiện thực hiện tái sản xuất, nâng cao chất lượng và tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm mà TDNH thông qua nghiệp vụ bảo lãnh, tài trợ xuất nhập khẩu còn giúp doanh nghiệp có điều kiện vươn rộng ra thị trường quốc tế.
Có thể nói, ngân hàng với các hình thức tín dụng phù hợp của mình đã thực sự trở thành người bạn đường của các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
TDNH đòi hỏi và giúp các doanh nghiệp đạt hiệu quả trong quản lý, tổ chức cũng như trong các hoạt động kinh doanh của mình
Ngân hàng cũng như doanh nghiệp, mọi hoạt động kinh doanh đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ chính là việc ngân hàng mượn các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để tiến hành cho vay đối với nền kinh tế. Vì vậy việc cấp tín dụng của ngân hàng không phải là việc cấp phát từ thiện theo nhu cầu của người vay mà phải xem xét trên cơ sở doanh nghiệp đó hiện đang hoạt động như thế nào: có hiệu quả hay không, có khả năng tài chính đảm bảo việc trả nợ vay ngân hàng không, có dự án kinh doanh khả thi không...Do đó muốn tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự khẳng định vị trí, uy tín của mình.
Bên cạnh việc kiểm soát trước khi cho vay, ngân hàng còn tiếp tục thực hiện việc kiểm soát trong và sau khi cho vay nhằm đảm bảo rằng doanh nghiệp đang sử dụng vốn đúng mục đích, đúng hướng đã chọn. Điều đó buộc doanh nghiệp có trách nhiệm với hoạt động kinh doanh của chính mình hơn, làm ăn đúng đắn và có hiệu quả hơn. Đồng thời, bằng việc kiểm tra liên tục hoặc định kỳ, ngân hàng sẽ nắm rõ tình hình hoạt động của doanh nghiệp, cũng như những khó khăn hay vướng mắc mà doanh nghiệp đang phải đối mặt, từ đó có thể tư vấn thêm hay sẽ có những hỗ trợ trong phạm vi cho phép nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động.
TDNH góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các DNNN
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiến hành quá trình cổ phần hoá các DNNN, qua đó thực hiện cơ cấu lại thành phần kinh tế này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế thị trường. Trong quá trình này, ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp từ khâu chuẩn bị, tính toán số lượng phát hành, đấu thầu... Các NHTM có thể giúp các doanh nghiệp bán cổ phiếu trên thị trường cấp hai, và trong trường hợp khách hàng cần vốn, xét thấy đủ an toàn và có lợi nhuận, ngân hàng sẽ cho doanh nghiệp vay vốn có giá trị bằng các cổ phiếu phát hành, coi cổ phiếu đó như vật bảo đảm. Với hình thức tín dụng này, các DNNN có thể yên tâm phần nào trong quá trình cổ phần hoá và do đó sẽ đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các DNNN hiện nay.
TDNH là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế cần khuyến khích, ưu tiên phát triển cũng như hạn chế một số ngành khác theo chủ trương định hướng của Nhà nước.
Tuỳ theo tình hình phát triển kinh tế của đất nước trong từng thời kì cụ thể mà Đảng và Nhà nước ta đưa ra những quy định, chỉ dẫn cụ thể về việc tăng cường phát triển kinh tế ngành này hay hạn chế sự phát triển của một số ngành kinh tế khác. TDNH là một trong những công cụ giúp nhà nước thực hiện được điều này bằng cách tập trung vốn cho vay với lãi suất ưu đãi, đặc biệt để xúc tiến quá trình CNH-HĐH thì thông qua TDNH bằng các nghiệp vụ như bảo lãnh, mở L/C,... Nhà nước có thể khuyến khích các doanh nghiệp nhập khẩu máy móc, trang thiết bị mới. Một số ngành nghề truyền thống cũng nhờ TDNH đã được khôi phục, nhiều sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao, tạo công ăn việc làm, nâng cao mức sống của người dân.
1.2) Chất lượng tín dụng ngân hàng
1.2.1- Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, mọi doanh nghiệp hoạt động đều gắn liền với thị trường, thị trường là xuất phát điểm, là trung tâm giải quyết ba vấn đề cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào hướng tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm - lấy sự thoả mãn của người tiêu dùng làm thước đo - là vấn đề cơ bản.
NHTM là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ do vậy mà các sản phẩm của ngân hàng mang đặc thù riêng. Vì thế chất lượng tín dụng của các NHTM được hiểu là thuật ngữ phản ánh mức độ thoả mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế và mang lại hiệu quả nội tại cho bản thân ngân hàng.
Trên phương diện của khách hàng: chất lượng tín dụng xét đến việc người vay tiếp cận với nguồn vốn vay như thế nào, các thủ tục có thuận tiện và dễ dàng không hay rườm rà, phức tạp; số tiền vay có thoả mãn với nhu cầu vay, có phù hợp với dự án sản xuất kinh doanh không; liệu chi phí vay danh nghĩa (lãi suất tiền vay) và chi phí vay thực tế (tất cả các chi phí mà người đi vay phải chịu để có được khoản vay đó như chi phí đi lại, chi phí liên lạc....) có hợp lí không; các điều khoản về thời hạn vay, về phương pháp trả nợ có phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh không... bởi người đi vay muốn có được một số vốn bổ sung cho hoạt động của mình nhằm đạt được hiệu quả tối đa trong sản xuất kinh doanh chứ không phải phát sinh thêm gánh nặng tài chính.
Trên phương diện nền kinh tế: đó là vòng quay vốn và hiệu quả sử dụng vốn; việc cung ứng tín dụng nâng cao hiệu quả cho doanh nghiệp, mở rộng sản xuất kinh doanh góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, xây dựng các vùng kinh tế mới, ... Hơn nữa tín dụng còn là công cụ giúp NHNN thực hiện chính sách tiền tệ, quản lý cung-cầu tiền tệ.
Trên phương diện của bản thân các NHTM: chất lượng tín dụng được nhìn nhận trên hai khía cạnh là khả năng an toàn và khả năng sinh lời. Tín dụng luôn là hoạt động có khả năng sinh lời cao nhất nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Khi doanh số cho vay, con số dư nợ càng cao thì khoản lãi dự thu của ngân hàng càng lớn tuy nhiên khoản lãi thực thu lại phụ thuộc vào kết quả sử dụng vốn vay của khách hàng, trách nhiệm hoàn trả của khách hàng, liệu khách hàng có khả năng trả nợ đúng hạn không, nếu không thì nên xử lý thế nào: xiết nợ hay tiến hành gia hạn thêm ...
Tuy nhiên, đây chỉ là một số khía cạnh tiếp cận về vấn đề chất lượng tín dụng. Để hiểu rõ và cụ thể hơn, người ta sử dụng một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
1.2.2- Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng TDNH
1.2.2.1. Chỉ tiêu tổng dư nợ
Tổng dư nợ phản ánh khối lượng vốn mà ngân hàng đã cho vay và chưa thu được nợ hoặc khách hàng chưa phải trả nợ gốc, nó được tính bằng tổng số cho vay năm nay và số dư nợ năm trước trừ đi số thu nợ năm nay.
Tổng dư nợ thấp phản ánh ngân hàng không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay, trình độ marketing tiếp cận với khách hàng và thị trường còn thiếu nhạy bén. Tổng dư nợ cao có thể kì vọng lãi từ hoạt động tín dụng cao nhưng không có nghĩa là chất lượng tín dụng tốt bởi rủi ro đối với ngân hàng sẽ tăng lên, ngân hàng có thể không thu hồi được nợ do khách hàng bị phá sản, không còn khả năng trả nợ hoặc cố tình chây ì, không trả nợ cho ngân hàng, trốn nợ... Thông thường ngân hàng nào theo đuổi mục tiêu lợi nhuận sẽ mong muốn mở rộng dư nợ tín dụng, còn nếu theo đuổi mục tiêu an toàn sẽ thận trọng trong gia tăng dư nợ tín dụng. Tuy nhiên, nâng cao chất lượng tín dụng không phải là việc hạn chế rủi ro bằng cách thắt chặt tín dụng mà phải mở rộng tín dụng với hiệu quả hoạt động cao nhất, nghĩa là có khả năng sinh lời cao nhất và an toàn nhất.
Chỉ tiêu này được sử dụng để phản ánh quy mô tín dụng của ngân hàng, có thể thể hiện ở dạng số tuyệt đối hoặc số tương đối (cơ cấu tỷ lệ trong tổng dư nợ theo thời gian: dư nợ tín dụng ngắn hạn - trung/dài hạn; dư nợ tín dụng theo thành phần kinh tế: DNNN, DNNQD, cá nhân... ). Bên cạnh đó chỉ tiêu này cũng phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng song không phải là chỉ tiêu duy nhất, người ta phải kết hợp chỉ tiêu tổng dư nợ tín dụng và một số chỉ tiêu khác để đánh giá chính xác chất lượng tín dụng của NHTM.
1.2.2.2. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn được xem là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ Quá Hạn
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn là điều mà các ngân hàng không mong muốn, trên thực tế, các NHTM luôn cố gắng giảm đến mức thấp nhất tỷ lệ nợ qúa hạn và theo thông lệ quốc tế tỷ lệ này dưới 5% được coi là có thể chấp nhận được.
Tỷ lệ nợ quá hạn thấp biểu hiện chất lượng tín dụng tại ngân hàng cao, độ an toàn của ngân hàng cao. Ngược lại, tỷ lệ nợ quá hạn cao biểu hiện chất lượng tín dụng thấp, rủi ro trong hoạt động tín dụng cao. Song điều này chỉ mang ý nghĩa tương đối. Ta thử xét ví dụ về hai ngân hàng có tổng dư nợ bằng nhau nhưng một ngân hàng có nợ quá hạn thấp trong đó 100% là khoản nợ quá hạn không có khả năng thu hồi do doanh nghiệp vay đang đứng trên bờ vực phá sản... còn một ngân hàng có con số nợ quá hạn cao hơn tuy nhiên thực chất những khách hàng này lại vẫn còn khả năng hoạt động hiệu quả, 100% khoản nợ quá hạn là khoản nợ mang tính chất tạm thời, ít rủi ro ví dụ như nguyên nhân phát sinh của nó là do doanh nghiệp đã bán hàng nhưng tạm thời chưa thu đủ... Rõ ràng với tình huống này thì doanh nghiệp có tỷ lệ nợ quá hạn cao hơn lại có chất lượng tín dụng tốt hơn. Điều đó cho thấy nếu chỉ dựa vào con số tỷ lệ nợ quá hạn sẽ chưa phản ánh đúng thực trạng chất lượng tín dụng của ngân hàng là tốt hay xấu.
Để quản lý tốt và đánh giá chính xác chất lượng tín dụng, ta có thể xét đến cơ cấu nợ quá hạn.
1.2.2.3. Chỉ tiêu về cơ cấu nợ quá hạn
Muốn xác định được cơ cấu nợ quá hạn phải xác định được các tiêu thức hợp lý để phân loại chúng. Bằng việc này ngân hàng có thể nắm được nợ quá hạn tập trung chủ yếu ở đối tượng nào, theo hình thức nào, thời hạn bao nhiêu... từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục.
Căn cứ theo thành phần kinh tế có thể chia nợ quá hạn như sau:
Nợ quá hạn của DNNN;
Nợ quá hạn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
Nợ quá hạn của cá nhân, hộ sản xuất kinh doanh.
Căn cứ theo khả năng thu hồi ta có nợ quá hạn bao gồm:
Nợ quá hạn bình thường;
Nợ quá hạn có vấn đề;
Nợ quá hạn khó thu hồi;
Nợ quá hạn thu giữ tài sản chưa xử lý.
Khả năng thu hồi là một tiêu thức quan trọng để đánh giá chính xác hơn chất lượng tín dụng. Như trong ví dụ trên, ta thấy dù tỷ lệ nợ quá hạn cao nhưng trong đó chủ yếu là những khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi lớn thì vẫn có thể khẳng định chất lượng tín dụng của ngân hàng đó là tốt. Theo cách này, chỉ tiêu thường được sử dụng là:
Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi
=
NQH có khả năng thu hồi
Nợ quá hạn
Hoặc ngược lại có thể sử dụng chỉ tiêu:
Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi
=
NQH khó đòi
Nợ quá hạn
Cơ cấu nợ quá hạn phân theo nguyên nhân
Việc phân loại nợ quá hạn theo nguyên nhân sẽ giúp ngân hàng quản lý tốt các khoản đã cho vay, là cơ sở cho việc tìm ra các giải pháp phù hợp.
Nợ quá hạn theo nguyên nhân chủ quan.
Nợ quá hạn theo nguyên nhân khách quan.
Ngoài ra, trong quá trình phân tích, có thể phân loại nợ quá hạn theo thời hạn cho vay: Nợ quá hạn của khoản nợ ngắn hạn - trung hạn - dài hạn; theo thời gian chuyển nợ quá: nợ quá hạn dưới 180 ngày, nợ quá hạn từ 180 - 360 ngày, nợ quá hạn trên 360 ngày; ...
1.2.2.4. Chỉ tiêu về tốc độ chu chuyển vốn
Vòng quay vốn tín dụng
=
Doanh số thu nợ trong năm
Dư nợ bình quân trong năm
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn nhanh hay chậm, nghĩa là một đồng vốn của ngân hàng cho vay được bao nhiêu lần trong năm. Số vòng quay càng lớn chứng tỏ nguồn vốn của ngân hàng luân chuyển nhanh, sử dụng vốn hiệu quả. Tuy nhiên mức độ đánh giá nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào đối tượng khách hàng là doanh nghiệp thương mại hay doanh nghiệp sản xuất, chẳng hạn đối với các doanh nghiệp thương mại, vòng quay vốn tín dụng đòi hỏi phải lớn, có khi đạt 5-7lần/năm mới gọi là tốt trong khi đó các doanh nghiệp sản xuất có thể chỉ cần đạt khoảng 1-2vòng/năm; ngoài ra vòng quay vốn tín dụng còn phụ thuộc vào tính thời vụ, tính chu kì của sản xuất; phụ thuộc vào thời gian của dự án...
1.2.2.5. Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động cho vay
Như ta đã đề cập, chất lượng tín dụng nhìn từ phía ngân hàng xét trên hai khía cạnh: lợi nhuận và an toàn. Do vậy, chất lượng tín dụng tốt chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng. Và đây là một chỉ tiêu cần thiết để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng mang lại từ hoạt động tín dụng.
Hiểu theo nghĩa đen, thu nhập từ hoạt động cho vay chính là lãi từ hoạt động cho vay nhưng ta có thể xét thêm thu nhập thực từ hoạt động cho vay của ngân hàng sau khi đã trừ đi các chi phí phát sinh trong quá trình hình thành và chấp nhận cho vay, ví dụ như các chi phí thẩm định, chi phí quản lý theo dõi khoản vay... Trên thực tế, các NHTM Việt Nam hiện nay hiểu thu nhập từ hoạt động cho vay chính là tỷ lệ lãi từ hoạt động cho vay trên tổng thu nhập.
Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động cho vay
=
Lãi từ hoạt động cho vay
Tổng thu nhập
Tỷ lệ này cho thấy tầm quan trọng của hoạt động tín dụng trong việc tạo ra tổng thu nhập của ngân hàng. ở Việt Nam hiện nay, các NHTM có tỷ lệ thu nhập từ hoạt động cho vay thường rất lớn, điều đó thể hiện rõ rằng tín dụng vẫn là hoạt động sinh lời chủ yếu. Tuy nhiên, ở các nước phát triển thì tỷ lệ này lại rất khiêm tốn, bởi các ngân hàng có xu hướng phát triển các loại hình dịch vụ tài chính trung gian khác hơn là việc cung cấp tín dụng.
Ngoài ra, để phân tích khả năng của ngân hàng trong việc thu nợ lãi ta có thể phân tích tỷ lệ lãi thực thu trên lãi dự thu từ hoạt động cho vay. Ngay sau khi phát tiền vay, ngân hàng sẽ dự tính khoản lãi có thể thu được trong tương lai gọi là lãi dự thu, còn lãi thực thu là khoản lãi thực tế trong hạn ngân hàng đã thu từ khách hàng. Tỷ lệ này càng cao có nghĩa là doanh nghiệp đã tiến hành trả nợ lãi đúng hạn, điều này phản ánh doanh nghiệp hoạt động ổn định, có hiệu quả, có khả năng trả nợ tốt.
1.2.3- Hiệu quả của việc nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM
Hướng tới mục tiêu an toàn, lợi nhuận và tăng khả năng cạnh tranh của mình, các NHTM đều nhận thức rõ tầm quan trọng và sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tín dụng. Bởi:
Có được chất lượng tín dụng tốt đồng nghĩa với việc ngân hàng có khả năng thu hồi nợ đúng hạn, đầy đủ; lợi nhuận thu được cao. Nhờ đó ngân hàng có điều kiện mở rộng khả năng cung cấp tín dụng cũng như các dịch vụ khác.
Chất lượng tín dụng tốt phản ánh trình độ nghiệp vụ chuyên môn cũng như trình độ quản lý của ngân hàng, qua đó tạo được hình ảnh, biểu tượng tốt, khẳng định uy tín của mình trong lòng khách hàng, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Nâng cao chất lượng tín dụng góp phần làm trong sạch, lành mạnh các báo cáo tài chính của ngân hàng khẳng định ngân hàng hoạt động ngày càng vững mạnh và hiệu quả. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay.
Nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ thể hiện vai trò của TDNH đối với DNNN như đã trình bày ở trên mà nó còn phản ánh hiệu quả của TDNH đối với nền kinh tế, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.3) Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
1.3.1- Các nhân tố vĩ mô
1.3.1.1. Môi trường pháp lý
Pháp luật là cái khung mà bất kì chủ thể nào, bất kì một hoạt động nào cũng phải tuân theo. Do đặc trưng hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - vốn là một lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm; đóng vai trò là kênh dẫn vốn cho nền kinh tế và là công cụ để nhà nước._. thực thi các chính sách của mình nên NHTM luôn chịu sự kiểm soát rất chặt chẽ, nằm trong hành lang pháp lý hẹp. Mặt khác, hoạt động tín dụng nói riêng cũng như các hoạt động khác của NHTM đều gắn với mọi chủ thể trong nền kinh tế, mà mỗi chủ thể với tư cách khác nhau lại chịu sự điều chỉnh bởi bộ luật khác nhau, như DNNN chịu điều chỉnh bởi luật DNNN; doanh nghiệp là công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần thì chịu điều chỉnh theo luật doanh nghiệp; cá nhân điều chỉnh theo luật dân sự, luật hôn nhân - gia đình, luật hình sự, các luật tố tụng, ... Cho nên khi xem xét hợp đồng tín dụng cũng như khi xử lý các vấn đề nảy sinh ngoài việc điều chỉnh theo luật ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng còn phải đối chiếu theo các bộ luật khác. Ví dụ, các vụ việc về bảo lãnh thì căn cứ theo điều 367 của bộ luật dân sự việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản có chứng nhận của công chứng Nhà nước.
Chính vì công tác tín dụng có liên quan đến nhiều bộ luật nên môi trường pháp lý nếu không đồng bộ, không rõ ràng không những sẽ gây cho ngân hàng nhiều khó khăn, lúng túng trong quá trình thẩm định, xét duyệt cho vay mà thậm chí còn tạo ra nhiều kẽ hở, nhiều lá chắn hợp pháp cho một số đối tượng trục lợi, lừa đảo chiếm dụng vốn tín dụng của ngân hàng. Ngược lại, hệ thống pháp luật đồng bộ, thông thoáng sẽ là cơ sở đảm bảo hoạt động tín dụng chặt chẽ, an toàn và hiệu quả.
Do vậy, để nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM đòi hỏi phải có sự đồng bộ, thống nhất giữa các luật, cũng như hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn thi hành phải rõ ràng.
1.3.1.2. Môi trường kinh tế
Nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào sự tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế tăng trưởng ổn định bền vững, các doanh nghiệp bao giờ cũng có nhu cầu vốn rất cao, để mở rộng sản xuất, tìm kiếm cơ hội kinh doanh mới,... Nhu cầu và tâm lí người tiêu dùng cũng ổn định. Các điều kiện đó cho phép doanh nghiệp có thể dự đoán chính xác kết quả kinh doanh của mình. Mà như vậy, hoạt động tín dụng của ngân hàng gắn với doanh nghiệp có điều kiện mở rộng, mà vẫn đạt được tính an toàn và hiệu quả. Ngược lại, trong nền kinh tế trì trệ, có nhiều biến động mạnh, bất ổn định sẽ tác động rất lớn đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới mục tiêu cũng như kết quả của doanh nghiệp. Như sự biến động về tỷ giá là một ví dụ. Phần lớn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu - đều có mối quan hệ với NHNT - luôn chịu nhiều rủi ro khi gặp sự biến động bất lợi của tỷ giá. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, sau quá trình bán hàng hoá, tiền thanh toán sẽ nhận được bằng ngoại tệ, số tiền này phải chuyển về đồng Việt nam để chi trả các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất như chi phí quản lý, chi phí lưu thông, chi phí vay ngân hàng ... Tuy nhiên, trong trường hợp tỷ giá giảm mạnh, điều đó có nghĩa là khoản tiền nhận được quy VNĐ sẽ bị giảm so với dự tính ban đầu, kết quả là lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm thậm chí trong nhiều trường hợp doanh nghiệp còn bị lỗ.
Như vậy, môi trường kinh tế ảnh hưởng đến nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp đồng thời có ảnh hưởng sâu sắc đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vì vậy mà tác động đến khả năng mở rộng cũng như chất lượng công tác tín dụng của ngân hàng.
1.3.1.3. Một số yếu tố vĩ mô khác
Xã hội, chính trị có ổn định mới tạo cho doanh nghiệp yên tâm đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh đặc biệt trong dài hạn. Ngược lại, chính trị xã hội có nhiều bất biến có thể dẫn đến đảo chính, đình công.... gây thiệt hại cho doanh nghiệp, tạo sức ì trong sản xuất kinh doanh.
Sự thay đổi, sửa đổi hay ban hành một số chính sách mới của chính phủ cũng ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng, đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Ví dụ như chính sách thuế quy định về đất đai, nhà ở... làm đóng băng thị trường bất động sản kéo theo nợ đọng vốn ngân hàng; chính sách xuất nhập khẩu thay đổi sau khi ngân hàng đã tiến hành cho doanh nghiệp vay vốn để khai thác và chế biến gỗ xuất khẩu nhưng sau đó chính phủ lại đột ngột có quyết định cấm xuất khẩu gỗ làm cho hàng hoá bị tồn đọng, do vậy, vốn của ngân hàng cũng bị khê đọng theo.
Sự phát triển của công nghệ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cũng như ngân hàng trong việc giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Để thúc đẩy quá trình CNH-HĐH, TDNH là công cụ giúp doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ mới tiên tiến, hiện đại. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là cứ đầu tư mua sắm công nghệ càng tiên tiến, càng hiện đại thì doanh nghiệp càng hoạt động có hiệu quả và có khả năng trả nợ ngân hàng. Hãy xét trường hợp doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để đầu tư mua sắm công nghệ mới hiện đại nhưng quy mô sản xuất hiện còn nhỏ, nguồn nhiên vật liệu hạn chế, nhu cầu tiêu thụ trên thị trường thấp... thì công nghệ đó sẽ không được tận dụng hết công suất, gây nên tình trạng lãng phí. Điều này đặt ra đối với cán bộ tín dụng là phải có trình độ am hiểu về kĩ thuật, không những để định giá giá trị của công nghệ trên thị trường mà còn có thể tư vấn cho khách hàng trong việc lựa chọn công nghệ phù hợp. Hơn nữa, môi trường công nghệ phát triển rất nhanh chóng làm cho những công nghệ cũ chịu hao mòn vô hình nhanh và lớn. Khi đó vô hình chung sản phẩm tạo ra có chi phí cao hơn, làm giảm tính cạnh tranh, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiêu thụ, ảnh hưởng đến doanh thu và khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Công nghệ ngoài hình thức gián tiếp như vừa trình bày ở trên, nó còn tác động trực tiếp đến công tác tín dụng của ngân hàng. Nhờ một số công nghệ chuyên dụng, với những phần mền riêng, ngân hàng có thể tập hợp, phân tích và xử lý nhanh những thông tin liên quan đến doanh nghiệp, từ đó giúp ngân hàng đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn và nhanh chóng, không bị mất những cơ hội kinh doanh tốt - đó là những khoản đầu tư có khả năng sinh lợi cao mà lại chịu ít rủi ro.
Môi trường tự nhiên cũng ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do nước ta nằm trong vành đai nhiệt đới, lại là nước nông nghiệp. Mà như ta biết các rủi ro do thiên nhiên gây ra như lũ lụt, hoả hoạn, động đất, dịch bệnh, ... là những rủi ro khó dự đoán, và mức độ thiệt hại mà nó gây ra rất nghiêm trọng. Các khách hàng gặp loại rủi ro bất khả kháng này trong nhiều trường hợp buộc các NHTM phải tiến hành xoá nợ.
1.3.2- Các nhân tố vi mô
1.3.2.1. Các nhân tố thuộc về phía khách hàng
Thực tế cho thấy, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đã bộc lộ rõ những yếu kém về quản lý, về trình độ, về tác phong công việc. Điều này dẫn đến việc sử dụng vốn bị hạn chế, kém hiệu quả làm găm đọng vốn ngân hàng.
Với mục đích có được nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng, nhiều doanh nghiệp không ngại ngần chỉnh sửa số liệu kế toán làm cho công tác thẩm định của ngân hàng bị sai lệch là nguyên nhân đưa ra ra quyết định đầu tư sai. Cũng không ít doanh nghiệp sau khi có được vốn vay của ngân hàng song cung cấp số liệu giả sẽ khiến ngân hàng khó kiểm soát chính xác mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích kinh doanh, thậm chí có khách hàng dựng lên dự án giả hoặc xuất trình những hợp đồng ma nhằm đạt được vốn vay từ ngân hàng để tài trợ cho việc ăn chơi xa xỉ, như bài học từ vụ án Epco-Minh Phụng là một ví dụ. Kết quả là ngân hàng gặp rủi ro và chất lượng tín dụng nằm trong tình trạng xấu.
Một thực tế nữa đó là, dù TDNH có nhiều ưu điểm hơn, song tín dụng thương mại vẫn tồn tại trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp. Do vậy, trường hợp bên phía đối tác của doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, hay mục đích chiếm dụng thương mại là lừa đảo... sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc trả nợ ngân hàng
1.3.2.2. Các nhân tố thuộc về phía ngân hàng
Chiến lược lược kinh doanh là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, nếu không có chiến lược kinh doanh thì mọi hoạt động ngân hàng sẽ rơi vào trạng thái bị động, không có mục đích, không có mục tiêu - phương hướng cụ thể. Một chiến lược kinh doanh hợp lý phải được xây dựng theo từng thời kì, nó phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh chung của ngân hàng cấp trên, phụ thuộc vào tình hình nền kinh tế và phụ thuộc vào thực trạng, khả năng của bản thân từng chi nhánh. Chiến lược kinh doanh được xem là công cụ giúp doanh nghiệp - đặc biệt là ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận và tăng khả năng cạnh tranh.
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam, đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng hướng, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của một NHTM. Một chính sách tín dụng đúng đắn là nền tảng để hoạt động tín dụng vững mạnh, chất lượng tín dụng được củng cố và nâng cao. Tuỳ từng thời kì mà ngân hàng có thể lựa chọn chính sách tín dụng mở rộng hay thắt chặt. Chẳng hạn, trong nền kinh tế phát triển, nhu cầu tín dụng tăng cao nhưng ngân hàng lại thực hiện chính sách tín dụng thắt chặt điều đó cũng đồng nghĩa là ngân hàng đang tự nhốt mình, tự thu hẹp thị trường của mình mà như vậy sẽ mất khách hàng, mất cơ hội sinh lợi, tự mài mòn uy tín.
Công tác tổ chức được sắp xếp, bố trí khoa học về nhân sự đúng người - đúng việc - đúng vị trí và đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn của khách hàng, giúp ngân hàng theo dõi, quản lý sát sao các khoản cho vay. Đây là cơ sở tiến hành các hoạt động tín dụng lành mạnh và quản lý hiệu quả các khoản cho vay.
Phẩm chất và trình độ cán bộ tín dụng là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Cán bộ tín dụng không chỉ đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn tốt mà còn phải có sự am hiểu sâu sắc về tất cả các ngành sản xuất kinh doanh khác cũng như phải có sự am hiểu về pháp luật để có thể thẩm định năng lực pháp lý và khả năng tài chính của doanh nghiệp; đánh giá chính xác tính khả thi của dự án; định giá chuẩn giá trị thực tế và giá trị pháp lý tài sản thế chấp, tài sản hình thành từ khoản vay; xác định độ tin cậy của các thông tin thu thập được về khách hàng vay từ đó đưa ra quyết định đúng về việc có cho vay hay không, tại sao lại có hoặc tại sao lại không, nếu có thì cho vay là bao nhiêu, ...
Phẩm chất cán bộ cũng là một yếu tố quan trọng. Cán bộ tín dụng mà không có đạo đức nghề nghiệp, coi tiền ngân hàng như "tiền chùa", coi việc cho vay là sự ban phát nhân đạo, làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm, tham nhũng, nhận phong bao phong bì để ra quyết định cho vay trái với các quy định, quy trình; thông đồng với khách hàng làm trái, giả mạo tài sản thế chấp, giả mạo hồ sơ vay vốn. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng mà còn ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh của ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng càng phát triển, càng đòi hỏi chất lượng nhân sự phải cao. Hơn nữa, với đặc trưng của ngành ngân hàng thì mỗi cán bộ đều là hình ảnh, là biểu tượng của ngân hàng do vậy có thể nói chất lượng nhân sự là yếu tố bền vững, yếu tố chủ đạo trong việc nâng cao chất lượng tín dụng nói riêng và chất lượng ngân hàng nói chung.
Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng. Nhờ có thông tin tín dụng, ngân hàng có thêm cơ sở đánh giá uy tín, năng lực thực sự của khách hàng. Thông tin tín dụng càng nhanh, càng chính xác và toàn diện thì khả năng phòng chống rủi ro trong hoạt động kinh doanh càng tốt. Thông tin tín dụng có thể thu thập được từ rất nhiều nguồn: từ trung tâm thông tin tín dụng của NHNN, từ phòng thông tin tín dụng của các NHTM, qua báo chí, các tổ chức nghề nghiệp....
Công tác kiểm tra giám sát tín dụng Đây là hoạt động mang tính thường xuyên và cần thiết đối với mọi ngân hàng. Công tác kiểm tra giám sát càng thường xuyên, càng chặt chẽ sẽ làm cho hoạt động đúng hướng, thực hiện đúng các nguyên tắc, các yêu cầu trong quy chế, quy trình tín dụng, giúp ngăn ngừa - hạn chế những sai sót của cán bộ tín dụng, từ đó có những sửa chữa kịp thời, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng.
chương II
Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNNN tại chi nhánh NHNT hà nội
2.1) Khái quát chung về NHNT - Hà Nội
2.1.1- Lịch sử hình thành và phát triển
NHNT Hà Nội (Vietcombank Hà Nội) là chi nhánh Hà Nội của NHNT Việt nam (Vietcombank hay VCB), một ngân hàng có uy tín trong lĩnh vực kinh doanh đối ngoại. Trải qua các thời kì, Vietcombank Hà Nội đã có sự phát triển đáng kể. Theo quyết định số 177/NH.QĐ ngày 22/12/1984 của tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thành lập chi nhánh NHNT Hà Nội và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/03/1985 với các nhiệm vụ chính, và bao gồm các phòng ban như sau:
Phòng kế hoạch và tín dụng
Phòng thanh toán quốc tế
Phòng kế toán tài vụ
Phòng hành chính nhân sự
Tổ quỹ tiền mặt
Và bàn thu đổi ngoại tệ tại sân bay quốc tế Nội Bài.
Trong quá trình hoạt động, do quy mô nghiệp vụ và khách hàng ngày càng phát triển nên bộ máy tổ chức của chi nhánh đã nhiều lần được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong quá trình triển khai chương trình NH bán lẻ Vietcombank Silverlake, và sau khi thống nhất với Ban chỉ đạo triển khai NH bán lẻ NHNT Việt Nam, hiện nay Chi nhánh NHNT Hà Nội đã trình tổng giám đốc xét duyệt và hiện đang hoạt động với mô hình tổ chức như sau:
Phòng Tín dụng tổng hợp - trong đó có Tổ quan hệ khách hàng, nhưng trong thời gian tới, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì việc chăm sóc khách hàng càng trở thành một trong những mục tiêu quan trọng và là mục tiêu hàng đầu, vì vậy bộ phận này trong tương lai có xu thế tách ra thành phòng riêng.
Phòng Thanh toán xuất nhập khẩu - giữ nguyên;
Phòng Hành chính - Nhân sự - giữ nguyên;
Phòng Ngân quỹ - giữ nguyên;
Phòng giao dịch số 2 Hàng bài - giữ nguyên;
Tổ Kiểm tra và kiểm toán nội bộ - phiên hiệu mới;
Phòng Dịch vụ NH - đổi tên từ phòng kinh doanh dịch vụ và thay đổi chức năng - nhiệm vụ;
Phòng Kế toán và tài chính - Bổ sung tên gọi và thay đổi chức năng - nhiệm vụ;
Phòng Tin học - tách từ phòng kế toán và giao chức năng nhiệm vụ mới.
2.1.2- Nhiệm vụ của chi nhánh NHNT Hà Nội
Chi nhánh NHNT Hà Nội có chức năng nhiệm vụ là phục vụ các doanh nghiệp làm công tác sản xuất kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu và tiêu dùng trong nước tại thủ đô Hà Nội; các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt nam; Việt kiều về thăm quê hương; các đoàn khách nước ngoài vào thăm quan du lịch tại Việt Nam, huy động tiền nhàn rỗi của dân cư ... thông qua các dịch vụ hiện đang cung cấp dưới đồng VN và một số loại ngoại tệ.
Chức năng - nhiệm vụ cụ thể của phòng ban được ban hành kèm theo quyết định số 16/QĐ-NHNT.HN ngày 01/08/2000. Ngoài ra còn thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc giao.
Hiện nay, tổng số cán bộ nhân viên nhân viên của ngân hàng là 139; với tuổi đời bình quân là 32,3 tuổi - được đánh giá là đội ngũ cán bộ trẻ; lại có trình độ chuyên môn cao: số lượng cán bộ ở trình độ đại học và sau đại học là 126 người, trong đó trình độ ngoại ngữ sau C (kể cả tiếng Anh, Pháp, Nhật,... ) chiếm 91%. Cùng với những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, chi nhánh đã được đánh giá là một doanh nghiệp trẻ, năng động, có nhiều triển vọng và đã được xếp hạng là doanh nghiệp hạng I.
2.1.3- Cơ cấu tổ chức
Mỗi phòng do Trưởng phòng điều hành và có một số phó trưởng phòng giúp việc. Các phòng ban được phân chia theo chức năng riêng biệt và theo từng nhiệm vụ cụ thể để giúp việc cho giám đốc và bộ máy điều hành, bên cạnh đó các phòng ban phối hợp thực hiện các nhiệm chung có liên quan.
Sơ đồ bộ máy tổ chức của chi nhánh như sau:
Giám đốc
Phòng
Tín dụng – Tổng hợp
Phòng
Thanh toán quốc tế
Phòng
Tin học
Phòng
Hành chính Nhân sự
Phó Giám đốc
(Tài chính kế toán, ngân quỹ)
Phó Giám đốc
(Dịch vụ NH, sản phẩm mới)
Phó Giám đốc
(Mạng lưới, giao dịch, XDCB)
Trụ sở chính
Phòng
Kế toán – Tài chính
Phòng
Ngân quỹ
Phòng
Dịch vụ Ngân hàng
Tổ
kiểm tra nội bộ
Tổ
quan hệ khách hàng
Chi nhánh cấp II
Phòng giao dịch
Chi nhánh
Thành Công
Chi nhánh
Cầu Giấy
Phòng giao dịch số 1
2 Hàng Bài
Phòng giao dịch số 2
14 Trần Bình Trọng
Phòng giao dịch số 3
1 Hàng Bông
2.2) Một số hoạt động chủ yếu tại chi nhánh
2.2.1- Tình hình huy động vốn
Trong những năm qua, trước yêu cầu phát huy các nguồn nội lực cho công cuộc CNH-HĐH đất nước, các NHTM đều nỗ lực tìm kiếm và áp dụng các biện pháp huy động vốn hiệu quả, vì vậy, thị trường vốn diễn ra rất sôi động. Trên địa bàn Hà Nội, các NHTM cạnh tranh gay gắt bằng việc đưa ra các mức lãi suất với nhiều hình thức huy động hấp dẫn. Với vị trí và uy tín đã tạo dựng được qua nhiều năm, chi nhánh NHNT Hà Nội đã hoàn thành tốt công tác huy động vốn theo kế hoạch.
Cuối năm 2002, nguồn vốn huy động ước tính đạt 3.996 tỷ đồng, so với năm 2001 là 3.269 tỷ đồng tăng 727 tỷ đồng tương đương 22% trong khi đó, 2001 so với năm 2000 là 2.757 tỷ đồng tăng 512 tỷ đồng tương đương 18%.
Trong đó, phân theo nội-ngoại tệ: nguồn vốn huy động bằng VNĐ năm 2002 tăng 515 tỷ tương đương là 79,8% so với năm 2001, trong khi năm 2001 so với năm 2000 chỉ tăng khoảng 125 tỷ tương đương 24,03%; nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ năm 2002 tăng 212 tỷ tương đương 8,1% so với năm 2001, nhưng năm 2001 tăng so với năm 2000 là 387 tỷ tương đương 17,3%. Có thể thấy rằng tốc độ tăng vốn huy động ngoại tệ của chi nhánh chậm hơn tốc độ tăng vốn huy động bằng VNĐ đó là do ảnh hưởng của nền kinh tế Mỹ suy giảm và việc cắt giảm liên tục lãi suất USD trên thế giới buộc NHNT cũng phải hạ lãi suất huy động USD của mình. Tuy nhiên, công tác huy động vốn của chi nhánh vẫn được đánh giá là có hiệu quả cao.
Phân theo đối tượng huy động: thì huy động từ dân cư đạt 3.237 tỷ đồng, tăng 24% so với năm 2001, chiếm 81% tổng nguồn vốn huy động và nguồn vốn huy động USD từ bộ phận này chiếm trên 92% tổng nguồn vốn huy động vào bằng ngoại tệ. Còn huy động từ các tổ chức kinh tế đạt 740 tỷ đồng, tăng 13% so với năm 2001 và chiếm 18% trong tổng nguồn vốn huy động.
Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại NHNT Hà Nội
Đơn vị: Triệu đồng - quy VNĐ
Nguồn vốn
Huy động
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
% 01/00
% 02/01
VNĐ
520.072
645.023
1.160.000
124,03%
179,84%
USD
2.236.663
2.623.912
2.836.342
117,31%
108,10%
Tổng-quy VNĐ
2.756.735
3.268.935
3.996.342
118,58%
122,25%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của CN NHNT Hà Nội từ năm 2000-2002)
2.2.2- Tình hình cho vay
Với lợi thế huy động vốn dồi dào tạo cho chi nhánh có khả năng mở rộng các hoạt động của mình. Tổng vốn sử dụng trong năm 2002 đạt 3.948 tỷ đồng, chiếm 98,8% tổng nguồn vốn huy động - tăng 860 tỷ đồng so với tổng vốn sử dụng năm 2001, tương đương với mức tăng là 28%.
Công tác điều hành vốn của chi nhánh tuân thủ quy chế quản lý vốn do NHNT Việt nam ban hành và thực hiện tốt phương châm an toàn và hiệu quả. Phần lớn vốn huy động của chi nhánh được điều chuyển về Hội sở chính nhằm cung ứng vốn phục vụ cho công tác quản lý vốn tập trung của NHNT Việt nam. Năm 2002, lượng vốn điều chuyển lên VCB.TW (quy VNĐ) là 2.977tỷ chiếm 75% tổng nguồn vốn sử dụng so với mức điều chuyển vốn trong năm 2001 là 2.328tỷ đã tăng 649tỷ đồng tương đương 27,9%.
Do nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tăng để mở rộng kinh doanh và chuẩn bị quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, mặt khác với sự đổi mới cơ chế thông thoáng hơn của ngành ngân hàng: như cơ chế tín dụng, chính sách lãi suất thoả thuận... cùng với sự nỗ lực phấn đấu của tập thể cán bộ tín dụng nói riêng và toàn chi nhánh nói chung, trong năm qua, công tác tín dụng của chi nhánh đã thực sự khởi sắc.
Bảng 2: Tình hình hoạt động cho vay
Đơn vị: Triệu đồng - quy VNĐ
Chỉ tiêu
Doanh số cho vay
Doanh số thu nợ
Dư nợ
2002
'02/'01
2002
'02/'01
2002
'02/'01
1.TDngắn hạn
3264161
155.46%
2958535
150.31%
761631
156.76%
2.TD T-Dhạn
106545
122.47%
50542
122.41%
189130
142.48%
3. NQH
13743
185.72%
11718
115.41%
5817
28.65%
4. Nợ khoanh
29799
151
0.51%
Tổng số
3370707
154.15%
3009078
149.73%
950761
153.69%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNT Hà Nội từ 2000-2002)
Công tác tín dụng ngắn hạn trong năm 2002, tổng doanh số cho vay đạt 3.264 tỷ đồng, tăng 55% so với năm 2001. Dư nợ tín dụng ngắn hạn đạt 762 tỷ đồng, tăng 57% so với năm 2001.
Chi nhánh đã đáp ứng được nhu cầu vốn lưu động cho khách hàng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, trong năm qua, chi nhánh đã thực hiện cho vay USD để thu mua và làm hàng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi với doanh số là 4 triệu USD.
Công tác tín dụng trung và dài hạn cũng được chú trọng và phát triển. Chi nhánh đã chủ động tìm kiếm các dự án đầu tư có hiệu quả, thực hiện tốt định hướng, nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động tín dụng với doanh số tín dụng trung và dài hạn cả năm đạt 106 tỷ, tăng 22% so với năm 2001; dư nợ tín dụng tính đến 31/12/2002 đạt khoảng 189 tỷ đồng, tăng 42% so với năm 2001.
Công tác giải quyết nợ quá hạn cũng đã được xử lý trên cơ sở phân loại nợ, đánh giá thực chất nợ xấu để trích dự phòng rủi ro và đảm bảo thực hiện lành mạnh hoá tài chính. Chi nhánh đã xử lý được 29.746 triệu đồng NQH đưa ra theo dõi ngoại bảng. Bên cạnh đó, thường xuyên tiến hành đôn đốc thu hồi nợ đảm bảo việc thu nợ đúng hạn. Vì vậy, tỷ lệ nợ quá hạn chỉ chiếm 0,1% trên tổng dư nợ. Số NQH phát sinh trong năm bao gồm cả NQH do chưa trả được gốc và nợ do quá hạn lãi theo phương thức hạch toán NQH mới - áp dụng từ T10/2002
2.2.3- Một số hoạt động khác
Công tác thanh toán xuất nhập khẩu
Bảng 3: công tác thanh toán xuất nhập khẩu
Đơn vị: nghìn USD
Chỉ tiêu
Doanh số
năm 2002
Doanh số
năm 2001
% so với 2001
1. Nhập khẩu
292.196
239.085
122%
Mở L/C
140.977
113.589
124%
Thanh toán L/C
123.141
98.824
125%
Chuyển tiền đi và nhờ thu
28.078
26.672
105%
2. Xuất khẩu
68.836
87.721
78%
Mở L/C
17.496
29.641
59%
Thanh toán L/C
13.984
25.472
55%
Chuyển tiền đi và nhờ thu
37.483
32.608
115%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2002)
Năm 2002, công tác thanh toán quốc tế có chất lượng tốt, với tổng doanh số xuất nhập khẩu cả năm ước tính đạt 361 triệu USD, tăng 10% so với năm 2001.
Trong đó:
Doanh số thanh toán nhập khẩu đạt tỷ lệ cao, tốc độ tăng 22% so với năm 2001. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu được thực hiện qua chi nhánh NHNT HN là máy móc-thiết bị, sắt thép, hoá chất, bông sợi, thuốc chữa bệnh, xe máy....
Doanh số xuất khẩu trong năm qua có giảm sút, chỉ đạt 78% so với năm 2001 (tức giảm 22%) - do khó khăn hoạt động xuất khẩu chung cả nước. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng dệt may, lâm sản, thủ công mỹ nghệ...
Công tác kế toán
Năm 2002, chi nhánh đã tích cực chủ động triển khai và tham gia cùng với VCB và NHNN ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại vào công tác thanh toán của ngân hàng; tham gia vào thanh toán điện tử liên ngân hàng; thanh toán trực tuyến VCB Online đã góp phần nâng cao chất lượng thanh toán. Một số chỉ tiêu đạt được so với năm 2001:
Lượng khách hàng đến mở tài khoản tăng 46% - 165 đơn vị
Doanh số thanh toán trong hệ thống VCB đạt 2817 tỷ đồng, tăng 13,5%
Thanh toán bù trừ đạt 445 tỷ đồng, tăng 43%.Trong đó thanh toán điện tử liên ngân hàng (áp dụng từ T5/2002) đạt 626 tỷ đồng.
Tổng thu đạt 145 tỷ: Thu lãi tiền vay: Tăng 43%
Thu lãi tiền gửi: Tăng 42%
Thu phí dịch vụ: Tăng 29%
Tổng chi đạt 117 tỷ: Trả lãi tiền gửi: Bằng 63%
Chi phí quản lý: Tăng 10%
Chi phí tài sản: Tăng 63%
Kết quả kinh doanh lãi ước tính đạt 28 tỷ đồng, tăng 33%.
Công tác dịch vụ ngân hàng
Với chính sách đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, công tác dịch vụ ngân hàng trong năm qua tăng mạnh:
Công tác thanh toán chi trả kiều hối của chi nhánh đạt doanh số 15.252 ngàn USD, tăng 91% so với năm 2001.
Công tác phát hành thẻ lần đầu tiên được chi nhánh triển khai đã có kết quả tốt: Thẻ ATM đạt số lượng phát hành là 2.800 thẻ với doanh số thanh toán là 18tỷ đồng. Thẻ Visa, Master số lượng thẻ phát hành đạt 300 thẻ, doanh số thanh toán thẻ tín dụng là 104 ngàn USD, tăng 17% so với 2001.
Công tác kinh doanh ngoại tệ
Doanh số mua bán ngoại tệ năm 2002 tăng mạnh, đạt 131 triệu USD, tăng 13% so với năm 2001.
Trong đó:
Mua từ các tổ chức kinh tế và cá nhân: 10.030 ngàn USD - tăng 9%.
Mua từ VCB.TW: 53.966 ngàn USD - tăng 10%
Mua từ các TCTD khác: 6.507 ngàn USD - tăng 448%
Bán cho các tổ chức kinh tế và cá nhân: 123.426 ngàn USD-tăng 20%
Bán cho VCB.TW: 7.078 ngàn USD - tăng 27%
2.3) Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNNN tại chi nhánh NHNT - Hà Nội
2.3.1- Tình hình DNNN có quan hệ vay vốn với chi nhánh
Do tiến hành phân cấp phạm vi hoạt động theo địa dư hành chính nên đối tượng khách hàng vay vốn tại chi nhánh NHNT Hà Nội phải hoạt động trên địa bàn Hà Nội . Là thủ đô, là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội của một nước, là nơi thu hút và tập trung lớn nguồn vốn đầu tư nước ngoài nên các doanh nghiệp trên địa bàn này rất phát triển, có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận với công nghệ tiên tiến, vì thế nhu cầu tín dụng ngân hàng cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng rất cao.
Hội Sở Chính của NHNT Việt nam đặt tại Hà Nội không chỉ đóng vai trò quản lý vĩ mô hệ thống NHNT mà nó còn thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh như các chi nhánh con khác và cũng đã thu hút được một lượng lớn khách hàng. Mặt khác, mỗi chi nhánh chỉ được quyền quyết định những khoản tín dụng trong giới hạn hạn mức tín dụng của mình, vì thế, nếu có khách hàng nào có nhu cầu vay vốn vượt quá hạn mức thì chi nhánh phải chuyển khoản này lên NHNT.TW. Do vậy, khách hàng là DNNN nói riêng và các doanh nghiệp vay vốn tại chi nhánh nói chung hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các DNNN có quan hệ vay vốn tại chi nhánh hầu hết thuộc sở công nghiệp Hà Nội (thường phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh), và thuộc sở thương mại Hà Nội (với mục đích xuất nhập khẩu).
2.3.2- Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNNN tại chi nhánh
Trước khi đi vào phân tích chi tiết chất lượng tín dụng ngắn hạn đối với DNNN tại chi nhánh NHNT Hà Nội, ta hãy xem xét thực trạng tình hình cho vay theo thành phần kinh tế để thấy được quy mô cho vay cũng như tốc độ mở rộng tín dụng đối với DNNN tại chi nhánh thông qua việc sử dụng một số chỉ tiêu như doanh số cho vay, doanh số thu nợ.
Doanh số cho vay là chỉ tiêu phản ánh tổng các món vay được thực hiện trong một năm. Con số này lớn nói lên khả năng đáp ứng nhu cầu tín dụng của ngân hàng cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế.
Doanh số thu nợ cho ta biết số tiền vốn mà ngân hàng cho vay đã thu từ lưu thông về, nó là số tiền vay đến hạn phải trả mà ngân hàng đã thu được. Tuy nhiên, chất lượng tín dụng đòi hỏi chỉ tiêu này phải phù hợp với tình hình cho vay và thời hạn của các khoản vay bởi nếu con số này quá lớn có thể sẽ làm giảm dư nợ cuối năm nay và vì vậy sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng trong những năm tới; mà nếu con số này quá nhỏ lại có thể làm tăng mức nợ quá hạn, tăng rủi ro cho ngân hàng.
Tình hình cho vay theo thành phần kinh tế tại chi nhánh
Bảng 4- tình hình cho vay theo thời gian và thành phần kinh tế
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
DSCV
Tỷ trọng
DSCV
Tỷ trọng
DSCV
Tỷ trọng
Tổng dscv nghạn
1808145
98.33%
2067416
97.78%
3501294
96.59%
- DNNN
1649738
91.24%
1756528
84.96%
2882486
82.33%
- DNNgQD
95759
5.30%
182150
8.81%
526380
15.03%
- cá nhân
62648
3.46%
128738
6.23%
92428
2.64%
Tổng dscv tdhạn
30653
1.67%
46964
2.22%
123547
3.41%
- DNNN
26925
87.84%
28558
60.81%
75799
61.35%
- DNNgQD
3728
12.16%
18361
39.10%
45787
37.06%
- Cá nhân
0
0.00%
45
0.10%
1961
1.59%
Tổng DSCV
1838798
100%
2114380
100%
3624841
100%
(Nguồn: Báo cáo tín dụng chi tiết-Quy VNĐ năm 2000-2002)
Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, cho vay ngắn hạn là nguồn vốn đáp ứng nhu cầu tạm thời cho các khách hàng, các khoản cho vay ngắn hạn được coi là có tính thanh khoản cao hơn các khoản cho vay trung-dài hạn song khoản lợi nhuận mà nó mang lại cho ngân hàng lại không cao. Có thể thấy trong những năm gần đây tại chi nhánh Ngoại thương Hà Nội, phần lớn doanh số cho vay là các khoản ngắn hạn, tỷ trọng này qua các năm đều chiếm trên 95%. Năm 2002 là năm đánh dấu sự dồi dào trong nguồn vốn huy động nên quy mô cho vay cũng được mở rộng và tăng mạnh: trong khi năm 2001 so với năm 2000, doanh số cho vay chỉ tăng 276 tỷ đồng (trong đó số tăng ngắn hạn là 259 tỷ, số tăng trung-dài hạn là 16 tỷ đồng) nhưng đến năm 2002, doanh số cho vay đạt tới 3625 tỷ tức là so với năm 2001 tăng khoảng 1510 tỷ (trong đó doanh số cho vay ngắn hạn tăng 1434 tỷ, trung-dài hạn tăng 76 tỷ đồng).
Doanh số cho vay tập trung vào thành phần DNNN, luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số cho vay của chi nhánh - chiếm khoảng 80%. Điều này được giải thích như sau:
Một là: Nhu cầu vốn kinh doanh của DNNN đang phục hồi nhanh.
Hai là: Nghị định NĐ178 TTg và thông tư TT06 NHNN được ban hành cho phép các DNNN có thể vay vốn ngân hàng dưới hình thức tín chấp, do vậy các DNNN có cơ hội vay vốn ngân hàng để phát triển sản xuất.
Ba là: Thị trường tiền tệ kém phát triển, thị trường chứng khoán mới ra đời nên việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay các công cụ nợ ngắn hạn khác của doanh nghiệp chưa phổ biến. Vì vậy, các hình thức huy động này tính khả thi kém. Điều đó càng cho thấy rõ vai trò của tín dụng NHTM đối với DNNN nói riêng và doanh nghiệp nói chung.
Tuy nhiên, tỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn của thành phần DNNN lại có xu hướng giảm xuống và mở rộng sang thành phần kinh tế ngoài quốc doanh (đặc biệt tăng mạnh từ sau năm 2000). Điều này thể hiện:
Sự ảnh hưởng của luật doanh nghiệp đã đẩy mạnh việc thành lập các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, kéo theo nhu cầu vay vốn của khối này tăng lên.
Trong khi đó, khối DNNN trong quá trình cải tổ và tái cơ cấu đã xoá bỏ một số doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, còn lại các DNNN có điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình hơn nên ắt sẽ có nhu cầu vốn tăng lên.
Cơ chế cho vay được nới lỏng, mở rộng hơn cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và chủ trương của Nhà nước trong thời gian qua là quan tâm, hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không phân biệt là DNNN hay DNNQD.
Đó là lý do tại sao doanh số cho vay củ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37018.doc