Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng của các Ngân hàng Thương mại

Lời giới thiệu Tín dụng là một quan hệ tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Trong đó, tín dụng ngân hàng thương mại là chủ yếu. Tín dụng là hoạt động mang lại phần lớn lợi nhuận cho các ngân hàng. Chất lượng tín dụng cao không những đem lại lợi nhuận lớn mà còn giúp ngân hàng thực hiện được các mục tiêu khác. Sau 10 năm đổi mới, ngành ngân hàng nước ta đã tạo lập được những cơ sở để tiếp tục đổi mới và phát triển.Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng hoạt động của các ngân hàng thương mại vẫn ch

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng của các Ngân hàng Thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưa đạt hiệu quả như mong đợi. Trong bối cảnh chung của nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế thị trường theo xu hướng từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới, với những thách thức và cơ hội mới, đòi hỏi Đảng và nhà nước phải đặc biệt quan tâm đến ngành ngân hàng và ngân hàng thương mại nói riêng phải nhận thức được vị trí, vai trò và những nhiệm vụ cấp thiết của mình. Trong bất cứ thời kì nào, việc đánh giá chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại là cơ sở chủ yếu để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại từ đó rút ra những kinh nghiệm để ngày càng đạt được những bước tiến cao hơn, là động lực cho sự phát triển nền kinh tế xã hội. Đề án “ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại” của tôi do cô giáo Lưu Thị Hương hướng dẫn hoàn thành mới đầu chỉ xuất phát từ ý tưởng muốn nghiên cứu về hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại. Do kiến thức và kinh nghiệm cũng như khuôn khổ đề án này có hạn, tôi chỉ có thể trình bày được những nét tổng quát nhất mang tính chất lý luận về đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại Em xin chân thành cảm ơn cô giáo đã tận tình dành thời gian hướng dẫn em hoàn thành đề án này. Nội dung I.Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 1.Tổngquan về ngân hàng thương mại 1.1. Ngân hàng thương mại-lịch sử hình thành và phát triển Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM gắn liền với lịch sử phát triển cuả nền sản xuất hàng hoá.Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện đòi hỏi sự phát triển của ngành NH.Đến lượt mình sự phát triển của hệ thống NH trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Nghề NH bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền và đúc tiền của các thợ vàng.Rồi do yêu cầu cất giữ tiền của các lãnh chúa,các nhà buôn,...nhiều người làm nghề đổi tiền thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Việc cất trữ hộ nhiều người khác là điều kiện để thực hiện thanh toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt.Những ngân hàng loại này được gọi là ngân hàng của các thợ vàng. Hình thức cho vay chủ yếu là thấu chi-tức là cho phép khách hàng chi nhiều hơn số tiền gửi tại ngân hàng ,một hình thức cho vay có nhiều rủi ro.Do lợi nhuận từ cho vay rất cao,nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của chứng chỉ tiền gửi(lưu thông thay vàng hoặc bạc), phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay.Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản. Sự sụp đổ của các ngân hàng này gây khó khăn cho hoạt động thanh toán. Trước tình hình đó nhiều nhà buôn tự thành lập ngân hàng,gọi là NHTM.Như vậy, NHTM được hình thành xuất phát từ tư bản thương nghiệp, và gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. NHTM cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như huy động tiền gửi,thanh toán , cất giữ hộ và cho vay.Tuy nhiên điểm khác biệt ở NHTM là NHTM chủ yếu cho các nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.Đây là các khoản cho vay ngắn hạn. Để đảm bảo an toàn, NHTM không cho vay đối với người tiêu dùng,không cho vay trung và dài hạn , không cho vay đối với Nhà nước. Ngày nay,cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ,hoạt động NHTM đã có bước tiến triển rất nhanh chóng.Nhiều nghiệp vụ truyền thống vẫn được giữ bên cạnh các nghiệp vụ mới đang càng ngày càng được phát triển. NHTM từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và dài hạn,cho vay để đầu tư vài bất động sản.Các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú.Các loại hình tiền gửi khác nhau được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng 1.2.Khái quát hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại NHTM là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp.Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Mua bán ngoại tệ Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi mua bán ngoại tệ -một ngân hàng đứng ra mua bán 1 loại tiền này lấy 1 loại tiền khác, và hưởng phí dịch vụ.Trong thị trường tài chính ngày nay,mua bán ngoại tệ thường chỉ cho các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao,đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao. Nhận tiền gửi NHTM mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn.Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi,các NHTM đã trả lãi cho tiền gửi như phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Cho vay Cho vay là một hình thức cấp tín dụng theo đó ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích nhất định trong thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Cho vay là hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán Ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ.Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt với các tiện ích như an toàn, nhanh chóng ,chính xác,tiết kiệm chi phí.Đây được xem là 1 trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng. Quản lý ngân quỹ Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân,nhiều NHTM đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản ly ngân quỹ , trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho 1 công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Tài trơ các hoạt động của Chính phủ Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp giấy phép hoạt động và kiểm soát các NHTM.Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của chính phủ và tài trợ cho chính phủ.Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo 1 tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được;hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của chính phủ. Bảo lãnh Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho 1 khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng trong mua chịu hàng hoá hay vay vốn của tổ chức tín dụng khác. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị,máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua,trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho các khách hàng thuê.Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê.Do vậy cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay,và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính,các ngân hàng thương mại có rất nhiều chuyên gia về quản lí tài chính.Vì vậy nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lí tài sản và quản lí hoạt động tài chính hộ.Dịch vụ uỷ thác phát triển ra cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành ,uỷ thác đầu tư.. Cung câp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán Các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán,cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu,trái phiếu và các chứng khoán khác,mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.Trong 1 vài trường hợp các ngân hàng tổ chức ra các công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Từ nhiều năm năm, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng,điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết,bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động,mất khả năng thanh toán. Cung cấp các dịch vụ đại lý Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi.Nhiều ngân hàng(thường ngân hàng lớn)cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lí cho các ngân hàng như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ.. 2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 2.1.Khái niệm về tín dụng ngân hàng thương mại 2.1.1. Khái niệm về tín dụng Thuật ngữ tín dụng xuất phát từ tiếng Latinh : creditium có nghĩa là tin tưởng tín nhiệm. Tín dụng đã xuất hiện từ khi xã hội có phân công lao động, sản xuất và trao đổi hàng hoá. Trong quá trình trao đổi hàng hoá đã phát sinh những quan hệ vay mượn để thanh toán. Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá. Do vậy mỗi chủ thể của nền kinh tế đều phải tự tìm kiếm nguồn vốn trên thị trường nhằm thoả mãn nhu cầu của mình và tự chủ trong việc sử dụng nguồn vốn đó. Tuy nhiên nhu cầu về vốn không phải lúc nào cũng được đáp ứng đầy đủ dẫn tới tình trạng thừa thiếu vốn có khi là tạm thời có khi là lâu dài. Nơi thừa vốn thì tìm cách sử dụng nguồn vốn dư thừa của mình sao cho có lợi nhất. Còn nơi thiếu vốn thì tìm cách sao cho bù đắp được sự thiếu hụt của mình với chi phí thấp nhất. Điều này có nghĩa là nhu cầu giao lưu vốn đã xuất hiện bắt nguồn từ phía người cần vốn và phía những người có vốn. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay quan hệ tín dụng ngày càng được mở rộng và phát triển cả về đối tượng lẫn qui mô, thể hiện : -Các tổ chức ngân hàng và tổ chức tài chính tín dụng phát triển mạnh, đa dạng và ở khắp mọi nơi -Phần lớn các nhà doanh nghiệp đều có sử dụng vốn tín dụng và khối lượng ngày càng lớn. -Chính phủ các nước ngày càng hạn chế việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách mà sử dụng vốn vay để bù đắp thâm hụt. -Ngày càng có nhiều cá nhân vay vốn để phục vụ tiêu dùng cá nhân. Ngoài việc mở rộng các quan hệ, hình thức tín dụng cũng phát triển đa dạng.Trong đó, tín dụng ngân hàng là một loại tín dụng đóng vai trò cơ bản đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. 2.1.2. Tín dụng ngân hàng thương mại Tín dụng ngân hàng là một trong các loại hình tín dụng thể hiện mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các nhà doanh ngiệp và cá nhân. Tín dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thái tiền tệ. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, ngân hàng vừa đóng vai trò là một tổ chức trung gian, với tư cách vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Đối với bản thân NHTM, hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu để tạo lợi nhuận. Trong khuôn khổ của đề án này, tôi xin được đề cập đến một phần của hoạt động tín dụng NHTM-hoạt động cho vay. 2.2.Các hình thức tín dụng ngân hàng của các NHTM Qui chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng do thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành nhằm đảm bảo an toàn cho ngân hàng và đảm bảo sự ổn định trong nền kinh tế. Bên cạnh đó mỗi ngân hàng cũng căn cứ vào qui định chung để ban hành những qui định riêng về hoạt động cho vay của ngân hàng mình tuỳ vào điều kiện cụ thể của ngân hàng đồng thời đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động của các nghiệp vụ ngân hàng. Có nhiều cách để phân loại các nghiệp vụ cho vay. Ta sẽ xem xét các cách phân loại sau đây. 2.2.1. Phân loại căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay 2.2.1.1. Cho vay tiêu dùng Khái niệm Cho vay tiêu dùng là loại cho vay nhằm tài trợ cho những nhu cầu tiêu dùng cá nhân, hoặc mua các tích sản nhằm tạo ra các nguồn vốn như cổ phiếu, trái phiếu. Các khoản cho vay tiêu dùng giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có thể hưởng một mức sống cao hơn như mua xe, các dụng cụ y tế, gia đình, chi phí nghỉ ngơi, du lịch... Một số lợi ích của CVTD Đối với nền kinh tế: CVTD đóng vai trò quan trọng trong việc kích cầu, kích thích phát triển sản xuất, kinh doanh. Các công ty bán hàng có thể gia tăng được doanh số bán hàng và nâng cao doanh lợi. Đối với người tiêu dùng: CVTD giúp người vay có thể hưởng thụ các tiện ích tiêu dùng trước khi tích luỹ đủ tiền để chi tiêu, nhờ đó góp phần nâng cao mức sống, tạo niềm hưng phấn, tích cực lao động hơn. Đây là hình thức tín dụng đánh vào tâm lí người tiêu dùng ngày nay trước khi có các nguồn thu nhập để trả nợ. Đối với các tổ chức tín dụng: CVTD góp phần đa dạng hoá hoạt động tín dụng, phân tán rủi ro, và tăng thêm thu nhập. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng còn có điều kiện thiết lập nhiều mối quan hệ với các cá nhân cũng như các doanh nghiệp, tạo thuận lợi mở rộng thị phần, phát triển dịch vụ ngân hàng và khả năng huy động vốn từ dân cư. Đối tượng của CVTD: Các đối tượng có thu nhập thấp có nhu cầu tín dụng không cao, việc vay vốn nhằm tạo sự cân đối giữa chi tiêu và thu nhập. Các đối tượng có thu nhập trung bình có xu hướng tăng mạnh, đối tượng này thích vay để tiêu dùng hơn là dùng chính tiền tích luỹ của mình để tiêu pha. Các đối tượng có thu nhập cao muốn vay tiêu dùng để tăng khả năng thanh toán và coi nó như một khoản linh hoạt để chi tiêu khi mà tiền vốn tích luỹ của mình đang đầu tư trung và dài hạn. Nói cách khác, vay là nguồn ứng trước của đầu tư mang lại, nhưng chưa thu được. Trường hợp này tương đối phổ biến và có xu hướng phát triển. Quy mô từng món vay thường nhỏ nhưng số lượng khách hàng đi vay rất đông. Do vậy việc thẩm định khách hàng phải có phương pháp riêng để giảm thiểu chi phí và thời gian thẩm định CVTD có nhiều rủi ro nhưng phân tán bởi rất nhiều đối tượng tham gia vay vốn. Trong số các loại rủi ro có ba loại cơ bản: rủi ro do người vay thất nghiệp không trả được nợ, rủi ro do người vay cố tình chiếm đoạt tiền vay, người vay bị tai nạn, chết, mất tích. 2.2.1.2. Cho vay kinh doanh Khái niệm Cho vay kinh doanh là loại cho vay mà mục đích sử dụng tiền vay là để sinh lời. Kinh doanh là cơ sở để trả nợ. Cho vay kinh doanh có thể chia theo thời hạn: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn 2.2.1.2.1. Cho vay ngắn hạn Phát sinh khi doanh nghiệp cần bổ sung vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh như dự trữ, mở rộng sản xuất kinh doanh. Thời hạn cho vay ngắn hạn từ 12 tháng trở xuống. Các nghiệp vụ cho vay ngắn hạn có thể kể đến như: nghiệp vụ chiết khấu, cho vay thấu chi, cho vay hạn mức, cho vay từng lần. a.Chiết khấu thương phiếu Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ qua đó ngân hàng giao cho khách hàng một số tiền ghi trong thương phiếu mà không đợi đến hạn thanh toán nó. Viêc giao nộp thương phiếu cho ngân hàng thông thường phải đem lại sự hoàn trả cho ngân hàng-người chiết khấu, khoản tiền mà họ đã ứng trước: người cung cấp hàng hoá hay dịch vụ lập ra các thương phiếu thể hiện số hàng đã cung cấp hoặc dịch vụ đã làm và nhượng lại cho ngân hàng để được thanh toán trước hạn và ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm thu tiền ở người mua khi đến hạn. Theo nghĩa rộng, chiết khấu là một kỹ thuật tài trợ ngắn hạn-kể cả tín dụng để cân đối ngân quỹ-cũng như trung và dài hạn.Chiết khấu có thể thực hiện với hối phiếu, kỳ phiếu và thậm chí với séc. Thủ tục chiết khấu cũng khác với thủ tục cho vay ứng trước hay cầm cố chẳng hạn như không lập hợp đồng tín dụng hay khế ước vay tiền, nhưng phải lập bảng kê thương phiếu, chiết khấu từng lần hay hợp đồng chiết khấu thường xuyên, phải có thủ tục nhập, xuất thương phiếu, cách gia hạn thương phiếu, thay đổi thương phiếu, cách giải quyết thương phiếu bị từ chối khi đến hạn. Cách hạch toán cũng có những đặc thù về định khoản, về cách tính lãi suất, việc thu lãi trước, thu hoa hồng, lệ phí xác nhận thương phiếu, thu ngân thương phiếu,.... Chiết khấu thương phiếu đem lại lợi nhuận cao mà tương đối ít rủi ro so với cho vay ứng trước. Bên cạnh những thuận lợi không thể phủ nhận, chiết khấu thương phiếu còn có bất lợi là chi phí quản lí cao, mỗi thương phiếu phải được quản lí một cách riêng biệt. b.Cho vay từng lần Cho vay từng lần là loại cho vay mà mỗi lần vay vốn, ngân hàng và khách hàng thực hiện một thủ tục vay vốn cần thiết và kí kết hợp đồng vay vốn. Cho vay từng lần áp dụng với các đối tượng khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên. c.Cho vay theo hạn mức Cho vay theo hạn mức tín dụng mà ngân hàng cam kết cho khách hàng vay tới một giới hạn tối đa trong một thời gian nhất định. Cho vay theo hạn mức tín dụng đối với các khách hàng có nhu cầu vay trả thường xuyên, ổn định. Ngân hàng căn cứ vào nhu cầu vay vốn, đặc điểm sản xuất kinh doanh , dòng tiền, giá trị tài sản đảm bảo để xác địng hạn mức trong một thời gian nhất định. Trong thời hạn rút vốn của hợp đồng, khách hàng có thể vừa rút vốn vay, vừa trả nợ tiền song đảm bảo không vượt hạn mức dư nợ đã thỏa thuận trong hợp đồng. d.Cho vay thấu chi Cho vay thấu chi là phương thức cho vay mà trong đó ngân hàng chấp nhận cho khách hàng chi vượt số tiền hiện có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các qui định về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Thấu chi có thể là thấu chi trong ngày hoặc thấu chi “ over night ” hay thấu chi có kì hạn mà thời hạn tối đa không quá 6 tháng. Khi khách hàng sử dụng tài khoản thấu chi, mọi khoản thu khách hàng được ghi vào tài khoản để trả nợ ngay, giảm được tiền lãi phải trả cho ngân hàng. Đồng thời mỗi lần có tiền thu về tài khoản làm giảm mức dư nợ thực tế thì cũng không làm tăng mức dư nợ được vay tiếp của khách hàng. Về phía ngân hàng có lợi là giảm bớt được các khoản thủ tục giấy tờ đồng thời thông qua tài khoản này biết được khách hàng đang gặp khó khăn hay thuận lợi. Về phía khách hàng có được lợi thế chủ động trong quan hệ với ngân hàng, tránh tình trạng gò bó về thời hạn vay vốn, thời gian làm thủ tục vay nên sử dụng vốn linh hoạt hơn. Phương thức cho vay được các NHTM qui định chỉ áp dụng với các đối tượng: là doanh nghiệp Việt nam, có tình hình tài chính lành mạnh, có lãi hai năm liền kề so với thời điểm xem xét cho vay thấu chi, có doanh số thanh toán lớn và thường xuyên tại ngân hàng, có tín nhiệm với ngân hàng. 2.2.1.2.2.Cho vay trung hạn và dài hạn Các khoản cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến 5 năm. Các khoản cho vay dài hạn có thời hạn từ 5 năm trở lên. 2.2.2. Căn cứ vào điều kiện đảm bảo đối với khoản vay 2.2.2.1. Cho vay có đảm bảo Là khoản vay mà ngân hàng nắm giữ tài sản của người vay với mục đích xử lí tài sản đó để thu hồi tiền cho vay trong trường hợp người vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Loại cho vay này dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: -Nguyên tắc tiền vay phải được trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi . Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn của ngân hàng là nguồn vốn huy động của khách hàng. Đó là một bộ phận tài sản của các chủ sở hữu mà ngân hàng tạm thời quản lí và sử dụng,ngân hàng cũng có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu rút vốn của khách hàng khi họ yêu cầu. Nếu các khoản tín dụng không được trả đúng hạn thì nhất định sẽ ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của ngân hàng. Để thực hiện nguyên tắc này, mỗi lần cho vay ngân hàng phải định kì hạn nợ phù hợp. Khi đến kì hạn nợ, người đi vay phải lập giấy trả nợ cho ngân hàng, nếu không ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của người đi vay để thu nợ. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ số dư thì chuyển nợ quá hạn. Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ, ngân hàng sẽ phát mãi tài sản đảm bảo. Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về thanh khoản. -Nguyên tấc vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích. Nguyên tắc này đòi hỏi ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã ghi trong đơn vay. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn. -Nguyên tắc vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo. Tính vận động của vốn tín dụng gắn liền với sự vận động của vật tư hàng hoá, gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của các đoanh nghiệp. Do đó đảm bảo tín dụng là một phương tiện cho người chủ ngân hàng có thêm một nguồn vốn khác để thu hồi nợ nếu mục đích cho vay bị phá sản. Tài sản đảm bảo có thể tồn tại dưới nhiều dạng: +Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay ngân hàng +Tài sản đảm bảo là tài sản của người đi vay +Tài sản đảm bảo còn thể là tín chấp hoậc bảo lãnh của người thứ ba Đảm bảo tín dụng được coi là tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhưng phải thấy rằng đây không phải là tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc. Tuy vậy trong nền kinh tế thị trường các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phức tạp và đa dạng, vì thế mọi dự đoán rủi ro của ngân hàng đều mang tính tương đối. Đảm bảo tín dụng là một tiêu chuẩn bổ sung những mặt hạn chế của nhà quản trị tín dụng cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh 2.2.2.2. Cho vay không có đảm bảo Là những khoản vay mà ngân hàng không nắm giữ tài sản để thu hồi khoản vay mà thay vào đó những điều kiện ràng buộc khác ( khách hàng không được giao dịch với các ngân hàng khác ) vì mọi hoạt động thu chi của doanh nghiệp đều phải thông qua ngân hàng,ngân hàng quản lí tình hình tài chính của doanh nghiệp, khách hàng và ngân hàng có sự sở hữu chung. Ngân hàng cấp tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh, mà dựa trên cơ sở uy tín của khách hàng Loại cho vay này đòi hỏi ngân hàng phải xem xét, phân tích, đánh giá, khách hàng dựa vào hàng loạt các chỉ tiêu để giảm thiểu rủi ro không thanh toán. 2.2.3. Căn cứ vào phương thức hoàn trả Dựa vào phương thức hoàn trả có thể phân loại cho vay thành cho vay hoàn trả một lần và cho vay hoàn trả định kì . 2.3. Qui trình cho vay Qui trình cho vay về cơ bản có thể chia thành ba giai đoạn: giai đoạn trước khi cho vay, giai đoạn cho vay, giai đoạn sau khi cho vay. 2.3.1. Giai đoạn trước khi cho khách hàng vay vốn. 2.3.1.1. Hồ sơ vay vốn Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn, ngân hàng hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ xin vay vốn. Hồ sơ xin vay vốn bao gồm: giấy đề nghị vay vốn, các tài liệu chứng minh năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự, trách nhiệm dân sự của khách hàng, các tài liệu chứng minh tình hình sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống, khả năng tài chính của khách hàng và của người bảo lãnh ( giấy phép kinh doanh, giấy xác nhận nghề nghiệp, giấy xác nhận thu nhập, các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh trong thời gian gần nhất, biên bản góp vốn điều lệ, quyết định giao vốn, báo cáo nhanh tình hình tài chính..), các tài liệu liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay, tính khả thi và hiệu quả của dự án vay vốn ( hợp đồng kinh tế về mua bán, dịch vụ, hợp đồng bao tiêu sản phẩm, hợp đồng xuất nhập khẩu, báo cáo nghiên cứu khả thi được duyệt, giấy phép xây dựng, giấy phép về vệ sinh môi trường, dự toán, kết quả đấu thầu, hợp đồng thi công và các tài liệu liên quan đến sử dụng vốn vay), hồ sơ thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, xuất trình chứng minh thư nhân dân, hộ chiếu, giấy phép lưu trú đối với cá nhân người nước ngoài. 2.3.1.2. Phân tích tín dụng Sau đó ngân hàng bắt đầu tiến hành phân tích tín dụng.Việc phân tích tín dụng bao gồm việc thu thập những thông tin trực tiếp hay gián tiếp đối với việc đánh giá tín dụng, việc chuẩn bị và phân tích thông tin thu thập được và việc lưu lại thông tin để sử dụng trong tương lai. Mục đích của việc phân tích tín dụng nhằm mục đích hiểu rõ khách hàng, hiểu rõ mục đích vay vốn, kế hoạch sử dụng vốn vay, cũng như để xác định mức vay và các điều kiện cho vay để vừa đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng vừa hạn chế rủi ro cho vay đến mức có thể chấp nhận được. Trước hết ngân hàng cần tiếp cận với các nguồn thông tin về khách hàng. Phương pháp tiếp cận thường là thông qua hồ sơ vay vốn, phỏng vấn trực tiếp khách hàng, gặp gỡ với các chủ nợ khác để tham khảo kinh nghiệm của họ trong quá trình cấp tín dụng cho khách hàng, hoặc thông qua các cơ quan chuyên cung cấp thông tin. Khi đã có các tài liệu và thông tin thu thập được, ngân hàng tiến hành phân tích khách hàng về các mặt: Thứ nhất, về năng lực khách hàng. Khách hàng muốn vay cần phải có đủ năng lực pháp lí. Nếu khách hàng vay bằng hình thức bảo lãnh thì ngân hàng phải xem xét năng lực pháp lí của người bảo lãnh. Năng lực còn được xem xét trên khía cạnh năng lực cá nhân như giáo dục, sức khỏe, công việc, tháo vát. Đối với các công ty thì năng lực được hiểu là tư cách pháp lí, các yếu tố đầu vào, đầu ra, môi trường kinh doanh, thu nhập, các khó khăn gặp phải, bộ máy hoạt động và quản lí. Đối với các dự án thì năng lực cần được xem xét như NPV, IRR. Thứ hai, về uy tín của khách hàng. Uy tín của khách hàng được khai thác thông qua người thân, bạn bè, những người kinh doanh cùng ngành nghề hay đối tác làm ăn kinh doanh của khách hàng, thể hiện ở những quan hệ làm ăn có sòng phẳng hay không, có nợ nần dây dưa hay không, và những quan hệ tốt hay xấu. Thứ ba, về tính cách khách hàng. Ngân hàng cần thiết phải làm rõ mục tiêu xin vay, trách nhiệm, tính trung thực của khách hàng, kế hoạch sử dụng vốn và phương án trả nợ. Thứ tư, về khía cạnh dòng tiền mặt. Dòng tiền mặt được định nghĩa là Dòng tiền mặt = lợi nhuận ròng+các chi phí không bằng tiền mặt+các khoản phải trả bổ sung-số dư hàng tồn kho và các khoản phải thu bổ sung. Ngân hàng tiến hành xem xét các khoản thu nhập, cổ tức, doanh thu bán hàng và các khoản dự trữ có khả năng thanh khoản của khách hàng, xem xét các khoản phải trả, phải thu và hàng tồn kho, xem xét cơ cấu vốn và đòn bẩy tài chính, xem xét chứng khoán và chỉ số giá/thu nhập hiện thời của khách hàng, kiểm soát chi phí, các chỉ số thanh toán, xem xét chất lượng quản lí và những thay đổi trong hoạt động kế toán gần đây. Thứ năm, phân tích về tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Qui định về tài sản thế chấp, cầm cố,bảo lãnh được chính phủ qui định trong nghị định số 178/1999/ND-CP ngày 29/12/1999. Ngân hàng phải xem xét về quyền sở hữu tài sản, tình trạng của tài sản, giá trị của tài sản, mức độ chuyên môn hoá của tài sản, xem xét quyền pháp lí trở ngại và hạn chế đối với việc nắm giữ tài sản, xem xét vấn đề thuê mua và thế chấp liên quan đến tài sản và thiết bị dùng làm tài sản thế chấp. Thứ sáu, phân tích các điều kiện môi trường khác ảnh hưởng trực tiếp đến dự án của khách hàng hay tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Ngân hàng phải nghiên cứu về xu hướng tiến triển gần đây của công việc sản xuất kinh doanh, của lĩnh vực mà khách hàng sản xuất kinh doanh cùng với những tác động của sự thay đổi của nền kinh tế ( như suy thoái kinh tế, lãi suất tăng cao, lạm phát tăng cao, ..) và những biến động tự nhiên ( như thiên tai,..). Những tác động tiêu cực như thế sẽ khiến công việc của khách hàng lâm vào tình trạng khó khăn như giảm doanh thu, giảm thu nhập, thua lỗ, không thể trả được nợ. Vì vậy ngân hàng cần nghiên cứu kỹ lưỡng và dự báo được những thay đổi có thể xảy ra. Sau khi phân tích khách hàng, ngân hàng phải quyết định cho vay hay không. Nếu ngân hàng quyết định không cho vay, ngân hàng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản trong đó nêu rõ căn cứ từ chối cho vay. Nếu ngân hàng quyết định cho vay thì kí hợp đồng tín dụng. 2.3.2. Giai đoạn cho vay. Việc cho vay phải được ngân hàng lập thành văn bản gọi là hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng bao gồm các nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất vay, thời hạn, hình thức đảm bảo, giá trị tài sản đảm bảo, phương thức trả nợ, và các cam kết được các bên thoả thuận. Trong phần thoả thuận cam kết, ngân hàng cam kết cung cấp tín dụng cho khách hàng vào các thời điểm định sẵn trong tương lai gọi là quá trình giải ngân. Còn khách hàng cam kết trả một mức phí cam kết vào khoảng 0,5% mức tối đa có thể vay. Các điều khoản hạn chế gồm các điều khoản đồng ý và từ chối. Điều khoản đồng ý yêu cầu người vay phải thực hiện một số yêu cầu nhất định( định kì nộp các baó cáo tài chính, phải có tài sản thế chấp, phải bảo đảm tính thanh khoản và hợp pháp..). Điều khoản từ chối hạn chế người vay tiến hành một hoạt động nào đó nếu không có sự chấp thuận của ngân hàng. Kể từ khi bắt đầu giải ngân đến lúc đến hạn thu hồi khoản cho vay, ngân hàng phải thường xuyên kiểm soát, giám sát khách hàng. Kiểm soát tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng đối với một chương trình cho vay lành mạnh của ngân hàng. Nó không chỉ giúp ngân hàng phát hiện ra những khoản cho vay có vấn đề nhanh hơn mà còn giúp xác định được các cán bộ tín dụng có tuân thủ chính sách cho vay của ngân hàng hay không. Ngân hàng có thể áp dụng nhiều biện pháp khác nhau: _Thực hiện kiểm soát định kì hay bất thường đối với các khoản cho vay. _Đánh giá quá trình thanh toán của khách hàng _Đánh giá chất lượng tài sản thế chấp. _Đánh giá sự thay đổi trong tình hình tài chính người vay, sự thay đổi trong các dự báo, đánh giá các yếu tố làm tăng hay giảm nhu cầu tín dụng. _Tiến hành theo dõi thường xuyên các khoản cho vay lớn, các khoản cho vay có vấn đề. Việc kiểm tra giám sát vốn vay có tác dụng làm tăng hiệu quả và khả năng thu hồi vốn vay. 2.3.3. Giai đoạn thu hồi nợ. Đến kì hạn trả nợ, theo hợp đồng tín dụng đã kí, khách hàng vay phải chủ động trả nợ cho ngân hàng. Đối với các dự án sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, ngân hàng có thể xem xét mức thu hồi nợ gốc cao hơn so với thu lãi. Trường hợp khách hàng vay có nợ quá hạn sẽ thu hồi nợ gốc trước và thu tận lãi khi khách hàng có tiền. Đến kì hạn trả nợ nếu khách hàng không trả được nợ hoặc không trả được nợ mà không được gia hạn nợ hoặc khoanh nợ thì số nợ gốc đến hạn phải trả được chuyển sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất nợ quá hạn tối đa bằng 150%lãi suất cho vay trong hạn. Thời gian gia hạn nợ vay trung và dài hạn tối đa bằng một nửa thời gian cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. II. Đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại 1. Khái niệm về chất lượng tín dụng Chất lượng của một sản phẩm hoặc dịch vụ là năng lực của sản phẩm, dịch vụ đó nhằm thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng. Từ cách tiếp cận trên có thể định nghĩa chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. 2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại 2.1. Chỉ tiêu định tính 2.1.1. Khả năng đáp ứng yêu cầu và thu hút khách hàng Khả năng đáp ứng yêu cầu và th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34564.doc