Lời mở đầu
Thị trường chứng khoán trở thành trung tâm chú ý của toàn xã hội trong thời gian gần đây, khắp các nẻo đường, khắp các quán nước, đâu cũng thấy những câu chuyện bàn về thị trường chứng khoán và truyền nhau những kinh nghiệm và kiến thức hiểu biết về chứng khoán. Có thể nói đây là một tín hiệu đáng mừng cho TTCK Việt Nam nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Nó đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam. Là kết quả của biết bao cố gắng trong việc đưa TTCK đến
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1234 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động môi giới tại Công ty chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với người dân, mở ra một kênh huy động vốn hiệu quả cho doanh nghiệp.
TTCK thực sự đã trở thành một tiềm năng phát triển cho nền kinh tế. Ra đời từ năm 2000 đến nay đã được gần 7 năm, một khoảng thời gian còn quá ngắn ngủi so với lịch sử phát triển của TTCK thế giới. Thế nhưng TTCK Việt Nam phát triển nhanh chóng với tốc độ chóng mặt, có một điểm khác giữa TTCK Việt Nam so với TTCK thế giới là chúng ta chưa trải qua thời kỳ khủng hoảng của giai đoạn 1929-1933, nhưng cũng đang trong giai đoạn điều chỉnh bởi TTCK đã phát triển quá nóng và hầu hết giá cổ phiếu đã vượt quá giá trị thực của cổ phiếu. Đứng trước thực trạng TTCK phát triển quá nhanh chúng ta vừa mừng những cũng phải thực sự nhìn lại quá trình phát triển của TTCK như thế nào. Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng cần nhìn lại quá trình phát triển của thị trường để có cái nhìn đúng đắn hơn về thị trường, đây là một công việc vô cùng quan trọng không chỉ giúp thị trường phát triển ổn định và vững mạnh mà còn bảo vệ chính những nhà đầu tư trên thị trường chúng ta tránh khỏi những tổn thất không thật sự đáng có như sự cố như TTCK thế giới trước đây.
Công ty chứng khoán là một chủ thể tham gia vào TTCK có vai trò như một chiếc cầu nối trung gian giữa người mua và người bán trên thị trường. Bên cạnh các nghiệp vụ như Môi giới, phân tích chứng khoán, tư vấn, bảo lãnh, lưu ký, và những nghiệp vụ khác hỗ trợ cho hoạt động giao dịch của nhà đầu tư thì nghiệp vụ Môi giới là một hoạt động có thể nói là vô cùng quan trọng, nó như là bộ mặt của công ty là nơi thể hiện nhiều nhất về công ty với nhà đầu tư. Không chỉ là hoạt động giao dịch trung gian cho khách hàng, nhà Môi giới còn như một người bạn, một nhà tư vấn quan trọng cho mỗi quyết định của nhà đầu tư, một ngưòi bạn đồng hành của nhà đầu tư. Với đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương” em muốn trình bày những hiểu biết của mình về nghiệp vụ này và những đề xuất mang tính cá nhân nhằm hoàn thiện hơn nữa chất lượng hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Với mục đích nghiên cứu như trên, đề tài được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về nghiệp vụ Môi giới chứng khoán tại CTCK.
Chương 2: Thực trạng chất lượng hoạt động môi giới chứng khoán tại CTCK Ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động Môi giới tại công ty chứng khoán Ngân Hàng Công Thương Việt Nam.
Để hoàn thành bài viết này em đã cố gắng và nỗ lực hết mình, tuy nhiên vẫn không tránh khỏi những thiếu sót trong trình bày, em rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ phía các thầy cô và các anh chị tại đơn vị thực tập để em có thể hoàn thành tốt hơn nữa chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn các anh chị tại Phòng Môi giới công ty chứng khoán Công Thương, đã tạo cho chúng em những điều kiện tốt nhất để được học hỏi và làm việc trong thời gian thực tập vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Đức Hiển, ngưòi đã dìu dắt chúng em trong suốt thời gian học tập dưới mái trường, và đặc biệt trong thời gian thực tập thầy vẫn không ngừng quan tâm chỉ bảo để em có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình!
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ NGHIỆP VỤ MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN
1.1 CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
Khái niệm về công ty chứng khoán:
Thị trường chứng khoán tồn tại và phát triển hàng mấy thế kỷ qua, một sự vận động không ngừng để hoàn thiện và phát triển theo xu hướng phát triển chung của nền kinh tế. Trong quá trình phát triển đó không thể không nhắc đến một chủ thể là công ty chứng khoán, một tổ chức tham gia vào thị trường và giúp thị trường hoạt động hiệu quả hơn.
Mục tiêu của việc hình thành và phát triển TTCK là thu hút vốn đầu tư dài hạn cho việc phát triển kinh tế và tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Do vậy, để thúc đẩy TTCK phát triển công bằng, hiệu quả cần thiết phải có sự tham gia của các CTCK trên thị trường.
Lịch sử hình thành và phát triển của CTCK gắn chặt với sự phát triển của TTCK, khi TTCK đang còn trong thời kỳ phát triển sơ khai thì lịch sử của các CTCK là các nhà môi giới cá nhân hoạt động độc lập. Sau này cùng với sự phát triển của thị trường , thì các cá nhân này gắn kết với nhau thành những tổ chức hoạt động với quy mô lớn hơn, đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng của thị trường.
Là một chủ thể kinh doanh, công ty chứng khoán cũng có những đặc điểm tương đồng với các doanh nghiệp khác về mặt tổ chức và hoạt động. Nhưng điều làm nên nét đặc trưng của CTCK so với các doanh nghiệp khác đấy là hoạt động nghiệp vụ và hoạt động tài chính của công ty.
Có nhiều khái niệm khác nhau về CTCK, trong đó Giáo trình Thị trường chứng khoán- Trường đại học KTQD-2002 có nêu” Công ty chứng khoán là một định chế trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán”
Theo khái niệm trên đã phần nào cho chúng ta thấy một đặc điểm quan trọng của CTCK đó là vai trò “trung gian “ giữa người cần vốn và người có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi và có ý định đầu tư. Vai trò “trung gian” này sẽ được phân tích kỹ trong phần vai trò của CTCK.
Ở Việt Nam theo quyết định 04/1998/QĐ-UBCK ngày 13 tháng 10 năm 1998 của UBCKNN thì”CTCK là công ty trách nhiệm hữu hạn, hoặc công ty cổ phần thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ.”
Tại điều 59, Luật chứng khoán 2006 của Việt Nam cũng đã quy định CTCK là công ty được tổ chức dưới dạng cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, do UBCKNN cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Như vậy theo những quy định pháp luật thì CTCK ở Việt Nam chỉ được tồn tại dưới hai hình thức sỏ hữu là: Công ty cổ phần và Công ty TNHH. Điều này là phù hợp trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam. Đây là hai hình thức sở hữu chủ yếu của các doanh nghiệp ở Việt Nam và trong xu hướng phát triển loại hình công ty cổ phần sẽ được phát triển, cũng chính là những tiền đề để phát triển TTCK Việt Nam.
Phân loại công ty chứng khoán:
Do đặc điểm một CTCK có thể kinh doanh trên một lĩnh vực, loại hình kinh doanh chứng khoán nhất định, do vậy có nhiều cách để phân loại CTCK, sau đây là hai căn cứ để phân loại CTCK đó là theo mô hình tổ chức của công ty và theo hình thức kinh doanh.
Theo hình thức tổ chức của công ty:
Theo nội dung này, CTCK hiện nay có 3 loại:
* Công ty hợp danh:
-Là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở lên
-Thành viên tham gia vào quá trình ra quyết định gọi là thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn trước những nghĩa vụ của công ty bằng toàn bộ tài sản của mình.
- Ngược lại các thành viên không tham gia vào quá trình ra quyết định gọi là thành viên góp vốn, họ chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của mình với các nghĩa vụ nợ của công ty
- Thông thường khả năng huy động vốn của công ty hợpdanh bị hạn chế trong số vốn góp của các hội viên có thể đóng góp.
* Công ty TNHH:
- Đây là loại hình công ty đòi hỏi thành viên của công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Điều này gây nên một tâm lý nhẹ nhàng cho người tham gia đầu tư.
- Mặt khác về phương diện huy động vốn, cũng đơn giản và linh hoạt hơn so với hình thức hợp danh. Đồng thời việc tuyển đội ngũ quản lý cũng năng động hơn, không bị bó hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh.
Vì những lí do đó mà ngày nay cũng có rất nhiều công ty chứng khoán được thành lập dưới hình thức này.
* Công ty cổ phần:
- Công ty cổ phần là pháp nhân độc lập do các cổ đông sở hữu.
- Đại hội đồng cổ đông có quyền bầu Hội đồng quản trị công ty. Hội đồng này sẽ định ra các chính sách của công ty vf chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản lý khác để điều hành công ty theo các sách lược kinh doanh đã đề ra.
- Giấy chứng nhận quyền sở hữu của các cổ đông được thể hiện bằng những cổ phiếu, nó không thể hiện món nợ của công ty, mà thể hiện quyền lợi của người sở hữu nó đối với tài sản của công ty.
- Công ty vẫn tồn tại khi quyền sở hữu của công ty có sự thay đổi.
Đây là loại hình công ty có nhiều ưu điểm nhất so với hai loại hình kia và ngày càng tỏ ra phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
Các ưu điểm của công ty cổ phần:
+ Đây là loại hình công ty tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông của công ty.
+ Rủi ro mà chủ sở hữu phải gánh chịu chỉ nằm trong phạm vi số vốn đã đầu tư vào công ty.
+ Quyền sở hữu của công ty có thể thay đổi dễ dàng thông qua việc mua bán cổ phiếu.
+ Trong điều kiện thị trường chứng khoán phát triển như hiện nay, công ty chứng khoán dưói dạng tổ chức này lại là một điều kiện tốt để không phải quảng cáo cổ phiếu của mình trên thị trường.
+ Hình thức tổ chức, quản lý, công bố thông tin tốt hơn hai hình thức trên.
Hiện nay ở Việt Nam đã có 57 công ty chứng khoán, trong đó có 47 công ty dưới dạng công ty cổ phần còn lại 10 công ty dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, và hầu hết những công ty chứng khoán trách nhiệm hữu hạn đều được lập ra từ ngân hàng mẹ, trong kế hoạch phát triển TTCK năm 2007 UBCKNN đã có kế hoạch cho cổ phần hoá một số CTCK như CTCK Vietcombank, CTCK Ngân hàng Công Thương, CTCK Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, CTCK Ngân hàng Đầu tư.
Trong số các CTCK cổ phần, mới chỉ có bốn CTCK đang giao dịch trên Trung tâm Giao dịch Hà Nội đó là CTCK Bảo Việt( BVSC), CTCK Ngân hàng Á Châu( ACBS), CTCK Sài Gòn( SSI).CTCK Hải Phòng( HPC). Việc phát triển các CTCK theo mô hình công ty cổ phần không chỉ mang lại những hiệu quả về kinh tế nói chung, bên cạnh đó còn là một trong những cách quảng bá chính công ty này trên TTCK và là một trong những nguồn cung hàng có chất lượng cho TTCK phát triển.
Theo hình thức kinh doanh:
Theo tiêu chí này CTCK được chia thành những công ty sau:
Công ty Môi giới chứng khoán: Là 0công ty chuyên hoạt động trong lĩnh vực Môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo tiêu chí này ta cũng có thể chia tiếp thành: Công ty Môi giới giảm giá, Công ty Môi giới dịch vụ đầy đủ.
Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: Là CTCK có lĩnh vực hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh lệch giá.
Công ty kinh doanh chứng khoán: Là công ty chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự doanh, có nghĩa là tự bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh.
Công ty trái phiếu: Là CTCK chuyên mua bán các loại trái phiếu.
Công ty chứng khoán không tập trung: Là các CTCK hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và họ đóng vai trò như một nhà tạo lập thị trường.
Hiện nay, ở Việt Nam hầu hết việc phân chia CTCK theo tiêu thức hình thức tổ chức, các CTCK đều có nhiều hơn một nghiệp vụ, có chăng những công ty mới có một nghiệp vụ Môi giới là do họ chưa có đủ nhu cầu về vốn pháp định nên chưa thể hoạt động các nghiệp vụ khác. Chưa thấy có những công ty hoạt động chỉ chuyên một nghiệp vụ, sự đa dạng hoá hoạt động nhằm đạt được hiệu quả cao trong hoạt động. Trong xu hướng phát triển chung của nền kinh tế theo hướng chuyên môn hoá cao, thì việc thành lập những công ty chuyên một nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng hoạt động trong nghiệp vụ đó và không ngừng tìm tòi phát triển ngày càng cao hơn nghiệp vụ là điều sẽ xảy ra. Tuy nhiên, để làm được điều đó các CTCK phải xây dựng được cho mình một chiến lược phát triển rất mạnh, bởi sự chuyên môn hoá đòi hỏi sự khai thác chuyên sâu trong lĩnh vực nghiệp vụ hoạt động rất cao và khả năng cạnh tranh trong môi trường kinh doanh, chiến lược phòng ngừa rủi ro phải được xây dựng kỹ lưỡng. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam thì sự đa dang hoá trong hoạt động đang là một trong những hướng phát triển chủ đạo, nhằm tận dụng được nguồn lực về con người và cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật, bên cạnh đó còn là một trong những phương pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh tế.
1.1.3 Những hoạt động chính của một CTCK:
Công ty chứng khoán cũng như một doanh nghiệp hoạt động bình thường trong nền kinh tế, nhưng điểm làm nên sự khác biệt so với những doanh nghiệp bình thường là CTCK là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, với những nghiệp vụ cũng khác biệt. Những hoạt động chính của công ty chứng khoán được chia thành hai mảng: Hoạt động nghiệp vụ và hoạt động tài chính.
1.1.3.1 Hoạt động nghiệp vụ của CTCK:
Có 5 nghiệp vụ chính của CTCK được quy định trong Luật chứng khoán Việt Nam 2006 đó là:
- Nghiệp vụ Môi giới
- Nghiệp vụ tự doanh
- Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
- Nghiệp vụ tư vấn đầu tư
- Lưu ký
Trước đây, nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư được quy định là một nghiệp vụ của CTCK, nhưng theo Luật Chứng khoán 2006 thì nghiệp vụ này chuyển sang cho công ty Quản lý quỹ. Các CTCK chỉ được thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ trên, và phải có nguồn vốn đảm bảo theo quy định của pháp luật.
► Nghiệp vụ Môi giới chứng khoán:
Môi giới là hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch ngay tại sở giao dịch chứng khoán hay trên thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Những nguyên tắc hoạt động và quy trình hoạt động sẽ được trình bày cụ thể trong mục 1.2
► Nghiệp vụ Tự doanh
Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng khoán cho chính mình.
Hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên Sở Giao Dịch Chứng Khoán( SGDCK), hoặc thị trưòng OTC, ngoài ra giao dịch của tự doanh trong CTCK còn bao gồm giao dịch giữa các CTCK với nhau. Khi giao dịch tự doanh của CTCK thực hiện trên các SGDCK hoặc TTGD thì lệnh tự doanh cũng như lệnh của các nhà đầu tư khác trên thị trường, và phải tuân theo những quy định về ưu tiên. Hoạt động tự doanh của CTCK trên thị trường OTC, là sự thoã thuận giữa hai bên, có thể trực tiếp thoã thuận và thưc hiện giao dịch với nhau hoặc thông qua cơ chế giao dịch của SGD hoặc TTGD. Hoạt động tìm kiếm khách hàng này có thể thông qua hệ thống mạng internet, qua mối quan hệ,vv…
Mục đích của hoạt động tự doanh chứng khoán nhằm thu lợi nhuận cho chính mình bằng chính nguồn vốn của công ty. Trong khi đó CTCK thực hiện nghiệp vụ Môi giới-trung gian giao dịch cho khách hàng, như vậy sẽ dẫn đến sự xung đột về lợi ích giữa CTCK và lợi ích của khách hàng. Do đó pháp luật đã có những quy định nhằm đảm bảo tính khách quan trong thực hiện giao dịch đối với các nhà đầu tư. Một trong những mô hình xây dựng CTCK ngày nay là thể hiện sự chuyên môn hoá cao trong hoạt động đó là hình thành những công ty chuyên Môi giới, chuyên Tự doanh hay gọi là Công ty Đầu tư chứng khoán.
Hoạt động tự doanh của CTCK không chỉ đem lại lợi nhuận cho chính công ty mà bên cạnh đó nó còn là một cơ sở để hỗ trợ cho hoạt động Bảo Lãnh phát hành và hoạt động Môi giới khi có những sự cố xảy ra thì tài khoản của công ty là một trong những nguồn cung cấp hiệu quả nhất.
Với những đặc điểm như vậy, những yêu cầu đối với CTCK bao gồm:
♦ Tách biệt quản lý:
Là CTCK phải có sự tách biệt giữa hoạt động tự doanh chứng khoán với hoạt động Môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng hơn trong hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm sự tách biệt về: Con người, quy trình nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng và công ty.
♦ Ưu tiên khách hàng:
CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên thực hiện lệnh khách hàng trước nghiệp vụ tự doanh. Xuất phát từ việc CTCK có điều kiện tiếp xúc và có những thông tin đánh giá chính xác về thị trường nên có những quyết định cho việc mua bán sẽ thuận lợi hơn so với khách hàng nên việc ưu tiên khách hàng là một điều khẳng định chiến lược CTCK luôn mong muốn mang lại những điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng
♦ Góp phần bình ổn thị trường:
CTCK hoạt động trên TTCK không chỉ nhằm mục đích bảo vệ lợi nhuận của chính mình, mà một ý nghĩa quan trọng của CTCK là góp phần tạo nên sự phát triển của TTCK, là một định chế trung gian giúp cho thị trường được giao dịch, không chỉ như một cây cầu nối cho người mua và người bán gặp nhau mà CTCK còn đóng vai trò như một ngưòi cứu hộ cho TTCK khi có những dấu hiệu không tốt cho thị trường. Chẳng hạn, khi thị trường có xu hướng đi xuống thì các CTCK có trách nhiệm mua vào chứng khoán giúp thị trường đi lên thông qua nghiệp vụ tự doanh của công ty. Ngược lại, khi thị trường trong xu hướng tăng giá quá cao, các CTCK có thể bằng nghiệp vụ bán ra số chứng khoán trong tài khoản tự doanh của mình nhằm hạ nhiệt thị trường. Bình thường pháp luật không quy định việc phải mua vào hay bán ra của các CTCK, nhưng khi tham gia vào thi trường các CTCK thường là những thành viên của hiệp hội chứng khoán, và hiệp hội quy định những điều này với mục đích đảm bảo sự ổn định cho thị trường.
♦ Hoạt động tạo lập thị trường:
Tạo lập thị trường là một hoạt động của các CTCK mà thông qua việc mua bán một chứng khoán mới được giao dịch tạo ra một thị trường cho các chứng khoán này.
Thực tế ở Việt Nam thì nghiệp vụ tự doanh của CTCK chưa thể đóng vai trò như những nhà tạo lập thi trường cho một số loại chứng khoán nào, bởi đơn giản nghiệp vụ này với mục đích chính là mang lại lợi nhuận cho chính mình, và phần nào bình ổn giá cho thị trường, việc tạo nên tính thanh khoản hay tạo ra những giao dịch cho một loại chứng khoán nào thì các CTCK chưa thực hiện được.
► Nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành
Bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành.
Tham gia vào hoạt động bảo lãnh không chỉ có các CTCK mà còn có các ngân hàng đầu tư, và theo luật định thì các CTCK được phép bảo lãnh phát hành chứng khoán, còn các ngân hàng chỉ được phép bảo lãnh phát hành trái phiếu.
Bảo lãnh phát hành bao gồm những loại bảo lãnh như: Cam kết bao tiêu toàn bộ, và cam kết mua nốt toàn bộ phần chứng khoán không bán hết. Với hình thức cam kết bao tiêu toàn bộ các CTCK sẽ mua toàn bộ số chứng khoán trong đợt phát hành và bán lại ra thị trường. Phần chênh lệch giữa giá mua từ nhà phát hành và giá bán ra thị trường là lợi nhuận của CTCK sau khi trừ đi các chi phí.
Hoạt động bảo lãnh của các CTCK giúp đợt phát hành của các tổ chức phát hành thành công tốt hơn, bởi các CTCK có đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp có năng lực trong việc phân tích và đưa ra những phương án phát hành sao cho thu được kết quả cao nhất.
► Nghiệp vụ Tư vấn đầu tư
Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư là việc các công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn:
Không đảm bảo chắc chắn về giá trị chứng khoán: Gía trị chứng khoán không phải là một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế, tâm lý và diễn biến thực tiễn của thị trường.
Luôn nhắc nhở khách hàng: Rằng những lời nhắc nhở của mình dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ, có thể là không chính xác và khách hàng là người cuối cùng trong việc sử dụng các thông tin từ nhà tư vấn đầu tư, nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do lời tư vấn đưa ra.
Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là quá trình nghiên cứu phân tích, tổng hợp một cách khoa học, logic các vấn đề nghiên cứu.
► Nghiệp vụ Lưu ký
Lưu ký chứng khoán là một trong nhưng nghiệp vụ phụ trợ cho CTCK cùng với một số nghiệp vụ như:
Quản lý thu nhập của khách hàng
Nghiệp vụ tín dụng
Kế toán giao dịch
Tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính công ty.
Hoạt động Lưu ký chứng khoán là hoạt động nắm giữ và bảo quản chứng khoán hộ khách hàng cùng với việc giúp khách hàng thực hiện các quyền về cổ tức, trái tức, quyền mua thêm chứng khoán, hay những hoạt động chuyển nhượng… Trung tâm Lưu ký ra đời và hoạt động nhằm quản lý chứng khoán giao dịch trên thị trường tập trung hơn, và đảm bảo chất lượng của chứng khoán được đảm bảo.
Hiện nay, ở Việt Nam hệ thống đăng ký lưu ký chứng khoán đã đi vào hoạt động có quy mô và hoàn đồng bộ. Các công ty chứng khoán là những thành viên lưu ký chứng khoán tại Trung tâm Lưu ký. Hoạt động lưu ký có vai trò quan trọng trong việc tạo nên cơ chế kiểm soát hoạt động đầu tư nắm giữ chứng khoán của nhà đầu tư chặt chẽ và linh hoạt, đồng thời cũng cung cấp một dịch vụ cho hoạt động đầu tư như hoạt động cầm cố, rút chứng khoán để vay tiền trong các tổ chức tín dụng.
1.1.3.2 Hoạt động tài chính của công ty:
Cũng giống như những doanh nghiệp khác, hoạt động tài chính của công ty chứng khoán cũng bao gồm việc xác định kinh doanh cái gì cho có lợi? Sử dụng loại tài sản cố định nào? Lấy nguồn tài chính dài hạn nào để chi phí cho khoản đầu tư của mình( đi vay hay gọi thêm cổ đông)? Quản lý các hoạt động thu chi, thanh toán cho khách hàng như thế nào?.........
Hoạt động tài chính của công ty cũng có mối quan hệ mật thiết với hoạt động nghiệp vụ. Số lượng nghiệp vụ và quy mô kinh doanh lớn như thế nào thì ứng với nó là mảng tài chính của công ty như vậy. Một số hoạt động tài chính của CTCK như sau:
Vốn của CTCK:
Vốn của CTCK nhiều hay ít phụ thuộc vào loại tài sản cần tài trợ, mà loại tài sản này lại được quyết định bởi loại hình nghiệp vụ mà nó thực hiện. Ở Việt Nam nghiệp vụ của các CTCK có quy định mức vốn pháp định cho từng nghiệp vụ như sau:
-Môi giới: 25 tỷ VND
-Tự doanh: 100 tỷ VND
- Bảo lãnh phát hành: 165 tỷ VND
- Tư vấn đầu tư: 10 tỷ VND
- Lưu ký: Không quy định mức vốn pháp định
Ta nhận thấy nghiệp vụ Tự doanh và Bảo lãnh phát hành là nghiệp vụ đòi hỏi nguồn vốn lớn, bởi CTCK phải duy trì số lượng lớn các chứng khoán và bản thân giá của các công cụ trên thị trường vốn luôn biến động mạnh. Còn hoạt động Môi giới chỉ là quản lý hộ tài khoản cho khách hàng, chính vì vậy không cần nguồn vốn lớn.
Nói chung số vốn cần có để thực hiện nghiệp vụ chứng khoán được xác định bằng việc cân đối giữa yêu cầu về vốn pháp định và các nhu cầu vốn kinh doanh của công ty.
Cơ cấu vốn:
Cơ cấu vốn là sự pha trộn giữa vốn của các cổ đông hoặc vốn góp của các thành viên với các khoản nợ mà công ty sử dụng để tài trợ cho hoạt động của mình.
Cũng giống như những loại hình doanh nghiệp khác, các CTCK cũng phải huy động vốn từ các thành viên góp vốn( với Công ty TNHH) hoặc từ vốn góp của cổ đông( Với Cty Cổ phần), hoặc thông qua thị trường tín dụng. Tuỳ theo quy mô và loại hình nghiệp vụ mà CTCK tìm cho mình những phương pháp huy động vốn hiệu quả. Tuy nhiên, việc huy động vốn của các CTCK có những đặc điểm chung sau:
Các CTCK thường huy động phần lớn tài sản vào việc phát hành cổ phiếu.
Các công ty phụ thuộc tương đối nhiều vào các khoản vay ngắn hạn
Các chứng khoán có thể đem ra mua bán trên thị trường thường chiếm phần lớn, khoảng 40-60% tổng giá trị tài sản và khoảng 90% tổng giá trị cổ phiếu.
Tỷ lệ nợ là tuỳ từng công ty, nhưng phải tuân theo những quy định của các cấp quản lý.
Quản lý vốn và hạn mức kinh doanh:
Trong việc quản lý vốn của CTCK , ngoài việc xác định tỷ lệ nợ như đã nói ở trên, các CTCK thường phải duy trì một mức vốn khả dụng để đảm bảo khả năng thanh toán cho người đầu tư.
Vốn thanh khoản được định nghĩa là phần vượt trội của tài sản khả dụng so với các nghĩa vụ nợ cùng cấp độ- bao gồm cả điều chỉnh về tài chính.
Chẳng hạn, khi quản lý tài khoản tiền gửi của khách hàng, các CTCK phải để lại một khoản tiền theo một tỷ lệ % tại công ty để phục vụ cho nhu cầu rút tiền của khách hàng
Với nghiệp vụ tự doanh, các CTCK phải để lại một tỷ lệ dự trữ trên mức lợi tức giao dịch ròng, với mục đích bù đắp các khoản lỗ trong kinh doanh chứng khoán năm đó
Ngoài ra, các CTCK còn phải trích lập một tỷ lệ lãi ròng hàng năm lập quỹ bổ sung vốn điều lệ cho đến khi bằng một mức phần trăm nào đó cảu mức vốn điều lệ. Quỹ này đựoc dùng để bù đắp những khoản thâm hụt trong tương lai.
Kế toán công ty.
Kế toán là một hệ thống chức năng cung cấp các thông tin tài chính hữu dụng cho việc ra các quyết định kinh doanh và kinh tế, thông qua việc ghi chép, sắp xếp có hệ thống, chuyển giao các hoạt động tài chính trung gian của một công ty.
Công việc của một hệ thống kế toán bao gồm:
Ghi chép thông tin tài chính
Báo cáo thông tin tài chính
1.1.4 Vai trò của CTCK :
CTCK đóng vai trò như một “chiếc cầu nối” giữa những người tham gia vào thị trường, cụ thể là chiếc cầu nối giữa nhà phát hành với nhà đầu tư, giữa nhà đầu tư với nhà đầu tư. Những tác động cụ thể như:
Với chủ thể phát hành:
Mục tiêu của các công ty khi tham gia vào thị trường chứng khoán là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Vì vậy thông qua hoạt động như đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là nguyên tắc trung gian, nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành không được mua bán trực tiếp với nhau, mà phải thông qua các trung gian mua bán để cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán có thể quản lý hoạt động của thị trường.
Với nhà đầu tư:
Thông qua các hoạt động như Môi giới, tư vấn đầu tư và những dịch vụ chăm sóc khách hàng các công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch cho khách hàng, do đó nâng cao hiệu quả của các nhà đầu tư.
Với các hàng hóa thông thường, khi qua trung gian bao giò cũng làm tăng chi phí cho giao dịch, nhưng đối với TTCK thì không phải như thế, thông qua trung gian là các CTCK khách hàng nhanh chóng được đáp ứng nhu cầu mua bán mà không mất quá nhiều thời gian và công sức đi tìm người đáp ứng nhu cầu của mình. Trong khi đó, nhà đầu tư có thê được nhận những lời tư vấn hợp lý trước những quyết định đầu tư làm tăng khả năng sinh lời hoặc giảm mức độ rủi ro cho khách hàng. Như vậy việc đầu tư sẽ hiệu quả hơn.
Đối với thị trường chứng khoán:
Hoạt động trong TTCK, đóng vai trò như những định chế trung gian giúp thị trường phát triển. Hoạt động của các CTCK trong việc trung gian nhận lệnh cho khách hàng giúp quá trình thực hiện các lệnh mua và bán của khách hàng được quản lý có hệ thống và đảm bảo an toàn, việc lệnh giao dịch được đưa từ các CTCK rồi mới truyền vào trung tâm là một trong những khâu quan trọng để quản lý hệ thống lệnh và những căn cứ quan trọng cho việc xác nhận kết quả giao dịch, mà nếu không thông qua CTCK mà truyền thẳng vào trung tâm thì không thể quản lý hết được thị trường.
Ngoài ra, các CTCK còn có vai trò trong việc điều tiết giá thị trường thông qua nghiệp vụ tự doanh của công ty chứng khoán. Giúp giá chứng khoán tránh khỏi những diễn biến quá bất thường.
Thông qua hoạt động tư vấn niêm yết, bảo lãnh phát hành, tư vấn phát hành, các CTCK là những chuyên gia giúp đưa hàng hoá lên thị trường được đảm bảo và chất lượng cao hơn, quá trình đấy được làm việc kết hợp giữa doanh nghiệp và CTCK, bàn bạc thoã thuận và đi đến thống nhất và thực hiện đúng như luật định. Phát triển thị trường không chỉ thứ cấp mà còn sơ cấp, không chỉ thị trường giao dịch chính thức mà cả thị trường OTC…
Đối với các cơ quan quản lý thị trường:
CTCK có vai trò cung cấp thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu đó.
Các CTCK làm được những điều này vì họ tham gia vào hoạt động giao dịch chứng khoán từ lúc doanh nghiệp bắt đầu tung chứng khoán ra thị trường, hoạt động ngoài thị trường OTC, hoạt động bảo lãnh phát hành, hoạt động tư vấn… hoạt động giao dịch trực tiếp của khách hàng mở tài khoản tại công ty. Tất cả các giai đoạn để một chứng khoán được giao dịh trên thị trường đều có sự tham gia của CTCK. Vì vậy việc họ có được thông tin để báo cho cơ quan quản lý thị trường là điều có thể. Và cũng thông qua những đầu mối này cơ quan quản lý thị trường mới có được những thu thập về thông tin thị trường để từ đó có những biện pháp quản lý hiệu quả.
NGHIỆP VỤ MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN:
1.2.1 Khái niệm, chức năng và những nét đặc trưng của hoạt động Môi giới chứng khoán:
a) Khái niệm:
Môi giới chứng khoán là nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán trong đó công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải tự chịu trách nhiệm về kết quả giao dịch đó.
b) Chức năng của hoạt động Môi giới chứng khoán:
Với tư cách là một thể chế bậc cao của nền kinh tế thị trường, một trong những đặc trưng của thị trường chứng khoán là hoạt động theo nguyên tắc trung gian. Theo nguyên tắc này, mọi hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán buộc phải thông qua các công ty chứng khoán và nhân viên môi giới chứng khoán.
Thuật ngữ” Môi giới chứng khoán” ở đây được hiểu như là hoạt động của hai yếu tố này, trong sự tương quan chặt chẽ với nhau và với một đối tác chung là khách hàng- Nhà đầu tư- để tác động tới sự vận hành và phát triển của thị trường chứng khoán.
Với những phân tích như trên, ta có thể thấy chức năng của nghề môi giới chứng khoán với hai chức năng chính:
Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng
CTCK thông qua các nhân viên bán hàng cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu và những khuyến nghị đầu tư. Nguồn quan trọng nhất để có các báo cáo này là các báo cáo nghiên cứu từ bộ phận nghiên cứu trong công ty.
Để có được những kết quả phân tích, nghiên cứu đó công ty phải có sự đầu tư không chỉ về công nghệ, cơ sở vật chất mà yếu tố nhân lực đóng vai trò quan trọng, là người đưa ra những nhận định về xu hướng của thị trường
Thông tin cung cấp cho khách hàng được chia thành các nguồn thông tin sau:
-Diễn biến tổng thể của thị trường
-Động thái của từng khu vực riêng biệt trong thị trường đó
-Hoạt động của từng công ty trong từng ngành, nghề.
Hàng ngày, nhân viên môi giới phải tiếp cận với nhiều nguồn thông tin khác nhau, việc tiếp cận,thu thập và xử lý thông tin để đưa ra những lời tư vấn cho khá._.ch hàng là một trong những kỹ năng đòi hỏi người môi giới phải là người nhanh nhẹn và hoạt bát, nắm bắt vấn đề tốt.
Hoạt động tư vấn của nhân viên môi giới chính là việc họ đưa ra những khuyến nghị với khách hàng trước những quyết định mua bán. Môi giới chứng khoán và nghiệp vụ tư vấn chứng khoán về thực tế là hai nghiệp vụ khác nhau, được cấp chứng chỉ hành nghề khác nhau và có những quy định về luật khác nhau. Nhưng chúng ta phải hiểu nghề môi giới chứng khoán theo một nghĩa rộng hơn, hàm lượng tư vấn đầu tư khá là cao trong nghiệp vụ này thì mới đem lại những thành công nhất định cho nghề Môi giới.
Tư vấn trong lĩnh vực này có thể được biết thông qua một số vấn đề như:
Cho khách hàng biết lúc nào thì nên mua và bán
Cho họ biết những gì đang diễn ra trên thị trường.
Những lời tư vấn về cuộc sống của nhà đâu tư (nếu có thể)
Việc đưa ra những khuyến nghị nên mua, bán lúc nào là một việc khó nhất đối với nhân viên môi giới. Thị trường chứng khoán là một thị trường mang tính nhạy cảm cao, những diễn biến giá biến động liên tục, vì vậy buộc nhân viên môi giới phải là những người nắm bắt thông tin nhanh nhạy và có những phán đoán kịp thời và phù hợp với diễn biến của thị trường. Căn cứ trên những phân tích của mình thông qua hoạt động tài chính của doanh nghiệp mà đưa ra những phân tích.
Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính, giúp khách hàng thực hiện giao dịch theo yêu cầu và vì lợi ích của họ.
Người môi giới nhận đơn đặt hàng từ khách hàng và thực hiện giao dịch cho họ. Quá trình này bao gồm rất nhiều công việc( Nói rõ trong quy trình nghiệp vụ Môi giới), từ khâu đầu tiên là mở tài khoản cho khách hàng cho đến những việc chăm sóc cho tài khoản của khách hàng,cả một khâu như vậy được tổ chức và vận hành thống nhất, hợp lý tạo điều kiện cho khách hàng được thuận tiện hơn trong giao dịch. Những dịch vụ tài chính như hoạt động ứng trước tiền bán chứng khoán, tiền cổ tức, hay hoạt động vay cầm cố, bán khống chứng khoán… đây là những dịch vụ bổ trợ cho hoạt động giao dịch được diễn ra thuận lợi hơn nhưng có những tác động quan trọng tới những xúc cảm của khách hàng.
Không chỉ là những dịch vụ tài chính, mà hệ thống trang thiết bị cơ sỏ vật chất, công nghệ để phục vụ khách hàng cũng tác động tới quyết định trong việc có tiếp tục quan hệ với công ty nữa hay không.
c) Những nét đặc trưng của hoạt động Môi giới:
Với những cách tiếp cận và tìm hiểu chức năng trên, cho ta thấy nghề Môi giới chứng khoán có những nét đặc trưng riêng so với những nghề khác.
♦ Lao động cật lực, thù lao xứng đáng
Hoạt động môi giới chứng khoán hiểu một cách đơn thuần là hoạt động trung gian giao dịch cho khách hàng, nhưng đó không phải trung gian đơn giản như hoạt động đưa thư, hay giao hàng. Mà đó là một nghề đòi hỏi những kỹ năng cực kỳ nghiêm túc trong công việc, khả năng tìm kiếm thông tin, khả năng phân tích thông tin và những hoạt động chăm sóc khách hàng, tìm hiểu những nhu cầu, tình hình tài chính, khả năng chấp nhận rủi ro, hay những thay đổi trong đời sống của khách hàng. Có thể nói nhân viên môi giới đóng vai trò như những người bạn, như chuyên gia tư vấn tài chính cho khách hàng,một lĩnh vực rất nhạy cảm trong cuộc sống. Với những đặc điểm đó, đòi hỏi người môi giới chứng khoán phải là người có kiến thức thị trường, có khả năng phân tích, khả năng thu thập thông tin, và khả năng giao tiếp tốt. Để trở thành một nhà môi giới chứ không phải người bán hàng, các nhân viên môi giới phải làm việc không ngừng và học hỏi không ngừng. Khối lượng công việc của nghiệp vụ môi giới không phải là ít, phục vụ khách hàng từ hoạt động tìm hiểu thị trường, đến việc mở tài khoản giao dịch, thực hiện lệnh giao dịch…. đến việc tư vấn và lắng nghe những tâm sự của khách hàng.
Tính chất công việc yêu cầu những người làm môi giới chứng khoán phải có sức khoẻ, có khả năng làm việc trong cường độ cao, cũng đòi hỏi hàm lượng tri thức lớn, nên việc họ được hưởng những chế độ thù lao xứng đáng với khối lượng công việc hay công sức mà họ bỏ ra là hoàn toàn đúng.
♦ Những phẩm chất cần có: Kiên nhẫn, giỏi phân tích tâm lý và ứng xử.
Đặc điểm của hoạt động môi giới chứng khoán là phải tiếp xúc với một lượng lớn khách hàng ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp, mọi tính cách, do vậy đòi hỏi người nhân viên này phải có khả năng ứng xử tốt, linh hoạt trong mọi tình huống và biết xử lý những tình huống phức tạp xảy ra tránh gây mất lòng tin ở khách hàng đối với bản thân và công ty.
Lĩnh vực tài chính tiền tệ là lĩnh vực hoạt động khá nhạy cảm với những thay đổi của nền kinh tế, của thông tin, và những khách hàng của công ty cũng là những người có khả năng phân tích, chịu đựng khác nhau, diễn biến tình cảm, tâm lý và dẫn đến họ đưa ra những quyết định có khi không có lợi cho chính tài khoản của họ, vậy nhà môi giới là những người chuyên gia trong lĩnh vực phân tích tâm lý để đưa ra những lời khuyên có lợi cho khách hàng. Sự kiên nhẫn của nhân viên môi giới trong việc giao tiếp với nhà đầu tư, kiên nhẫn trong thuyết phục, trong công việc chung và kiên nhẫn với chính mình trong việc trau dồi những kinh nghiệm làm việc.
♦ Nỗ lực cá nhân là quyết định, đồng thời không thể thiếu sự hỗ trợ của công ty trong việc cung cấp thông tin và kết quả phân tích cũng như việc thực hiện các lệnh của khách hàng.
Như đã nói ở trên, môi giới không đơn giản là hoạt động trung gian nhận lệnh và nhập lệnh cho khách hàng, hàm lượng tư vấn trong hoạt động này càng cao càng hiệu quả, muốn vậy nhân viên môi giới có thể nhận được những phân tích từ những chuyên gia phân tích ngay trong công ty, hoặc có thể tự mình đưa ra những lời tư vấn hợp lý. Nhưng để đưa ra những lời tư vấn hợp lý đó thì phải có sự học hỏi nghiên cứu rất nhiều của nhân viên, do vậy sự nỗ lực của chính nhân viên môi giới sẽ là những điều kiện rất tốt nâng cao chất lượng hoạt động môi giới
d) Đặc điểm của nghề môi giới
Có khả năng làm việc độc lập cao:
Khả năng làm việc độc lập được thể hiện rõ nhất là trong hoạt động của những nhà môi giới hoạt động độc lập phục vụ cho chính mình. Nhưng trong phạm vi môi giới ở các CTCK cũng cần có khả năng làm việc độc lập, phải phục vụ một số lượng lớn khách hàng, những người có những nhu cầu khác nhau. Một nhân viên không có khả năng làm việc độc lập sẽ không có kết quả cao trong công việc, vì như vậy anh xử lý công việc chậm, tiến độ giải quyết công việc chậm,và đặc biết khi không có khả năng giải quyết những khúc mắc cho khách hàng thì sẽ đánh mất lòng tin ở khách hàng. Đây là một thiệt hại rất nghiêm trọng cho các CTCK
Cường độ làm việc lớn, cần thể lực tốt: Thời gian làm việc nhiều hơn so với các nghiệp vụ khác trong công ty, khối lượng công việc nhiều, ngày nào cũng phải làm những công việc phục vụ giao dịch của khách hàng, và đáp ứng những nhu cầu khác của khách hàng, ngoài ra luôn luôn phải đón tiếp một lượng không nhỏ nhà đầu tư, có thể lĩnh vực chứng khoán này khá hấp dẫn đối với những người thích mạo hiểm và có nguồn vốn nhàn rỗi.Do vậy, để đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho công việc yêu cầu nhân viên môi giới phải có sức khoẻ tốt, thể lực đảm bảo để đảm trách được công việc.
Độ am hiểu kiến thức rộng, chuyên môn cao: Làm việc như một nhà bán hàng tư vấn, nghĩa là những sản phẩm của nhân viên môi giới chính là những lời tư vấn đưa ra mà mang lại lợi ích cho khách hàng, để có được những sản phẩm đó tốt, người môi giới chứng khoán luôn phải tìm tòi, học hỏi không chỉ là kiến thức chuyên ngành mà còn có cả năng lực giao tiếp, xử lý công việc. Làm sao để sản phẩm của mình ngày càng được đánh giá cao nhất.
Khả năng quyết đoán cao, tính linh hoạt, khả năng chịu đựng.
Có khả năng thuyết phục:
Khả năng thuyết phục thể hiện trong giao tiếp tư vấn với khách hàng, đưa ra những lời khuyên mà có sức thuyết phục để khách hàng nghe theo, mà những lời khuyên đó phải có tính chính xác hay độ tin cậy cao. Muốn vậy nhân viên môi giới không chỉ phải có sự hiểu biết chính xác về vấn đề đang đề cập với nhà đầu tư, mà phải có thêm khả năng thuyết trình tốt để thuyết phục được người nghe. Khả năng này không phải tự nhiên mà có, người nhân viên này phải có sự rèn luyện để có thể tự tin trong giao tiếp, trong khi trình bày một vấn đề nào đó với người nghe. Sự rèn luỵện đó không chỉ là trong giao tiếp mà cả trong sự nghiên cứu, tìm hiểu thông tin và tập đưa ra những phân tích.
Luôn phải tuân thủ các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp, xây dựng hình ảnh đẹp về nghề môi giới. Đạo đức nghề nghiệp được đề cập rất nhiều trong hoạt động của các CTCK, và được đánh giá rất cao. Hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán vấn đề xung đột lợi ích giữa người đầu tư và khách hàng, giữa lợi ích của nhân viên và lợi ích của khách hàng luôn luôn thường trực. Thể hiện ban đầu trong việc ưu tiên nhập lệnh, trong việc đưa ra những thông tin về tình hình tài khoản của khách hàng, về hiệu quả của từng lệnh giao dịch của khách hàng. Những người nhân viên tuân thủ đúng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp là những người luôn đặt lợi ích khách hàng lên trên lợi ích của công ty và cá nhân, luôn quan tâm đến tình hình tài khoản khách hàng của mình và đưa ra những khuyến nghị cần thiết để giúp khách hàng tránh được những thiệt hại không đáng có.
Được kỳ vọng cao, song hay bị đỗ lỗi khi thất bại, dẫn tới bị kiện tụng. Khi đưa ra những khuyến nghị cho khách hàng, có thể những khuyến nghị đó mang lại hiệu quả cao cho nhà đầu tư, nhưng cũng không tránh khỏi những trường hợp không mang lại hiệu quả và dẫn đến làm thất thoát tài sản của khách hàng, trong tình huống này, những nhà đầu tư có hiểu biết sẽ thông cảm cho nhân viên, nhưng có những người lại không hiểu hết lại đỗ lỗi cho nhân viên môi giới. Và trong rất nhiều trường hợp dẫn đến kiện tụng, một bài học rút ra cho nhân viên môi giới, không đươc đưa ra những lời tư vấn khẳng định lợi nhuận của bất kỳ một loại chứng khoán nào.
Xung đột về quyền lợi với khách hàng: Áp lực bán hàng, và mong muốn hỗ trợ khách hàng
Sản phẩm là dịch vụ tài chính, đòi hỏi luôn đổi mới, song không có bản quyền, dễ bị đánh cắp.
1.2.2 Vai trò của hoạt động Môi giới chứng khoán:
Nghề Môi giới chứng khoán không chỉ là một hệ quả tất yếu của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, mà nó đồng thời còn có tác động ngược lại là thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, vai trò của nghề Môi giới được nhìn nhận trên những khía cạnh sau đây:
1.2.2.1 Giảm chi phí giao dịch:
Bất cứ thị trường nào khi muốn giao dịch được thì người mua và người bán phải gặp nhau, thẩm định chất lượng hàng hoá và thoã thuận giá cả. Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán, với tư cách là một thị trường sản phẩm cấp cao, để thẩm định và đánh giá chất lượng sản phẩm người đầu tư phải mất rất nhiều công sức và tiền của. Quá trình thu thập thông tin, xử lý thông tin không chỉ là mất chi phí tiền mà người ta còn phải biết phân tích thông tin đó, thẩm định tính chính xác, trung thực của thông tin, phân tích những biến động có thể xảy ra qua thông tin đó- đây là một công việc đòi hỏi chuyên môn cao và khả năng phân tích cực tôt- nhưng không phải nhà đầu tư nào cũng có khả năng làm được việc đó. Những công việc đó chỉ có những công ty chứng khoán mới có đủ khả năng đảm nhận về việc trang trải chị phí vật chất và nhân lực mà thôi, do vậy hoạt động Môi giới trong công ty chứng khoán có tác dụng làm giảm chi phí cho khách hàng nói riêng và cũng là tiết kiệm được một khoản chi phí cho toàn xã hội nói chung. Nhờ đó nâng cao tình thanh khoản cho giao dịch trên thị trường, đây là một trong những điều kiện để thị trường phát triển được.
1.2.2.2 Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường
Thông qua hoạt động làm trung gian cho hoạt động mua bán của khách hàng thì công ty chứng khoán và người môi giới nhận thấy những nhu cầu nảy sinh xung quanh nghiệp vụ của mình, và với đầu óc của một nhà tài chính, những con người này sẽ tìm cách để được đáp ứng nhu cầu thiết yếu đó của khách hàng, qua đó thu về cho mình những khoản phí dịch vụ.
Có thể nói, chỉ riêng hoạt động môi giới cho khách hàng là một trong những nguồn cung cấp những ý tưởng sáng tạo cho hoạt động kinh doanh của các CTCK. Với những hoạt động đó sẽ giúp đa dạng hoá cơ cấu khách hàng, thu hút ngày càng được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư vào sản xuất phát triển xã hội.
Không chỉ dừng lại ở việc đa dạng hoá cơ cấu khách hàng, đi kèm với nó là việc đa dạng hoá hàng hoá trên thị trường, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng khi mà nền kinh tế phát triển đòi hỏi ngày càng nhiều những dịch vụ cung cấp. Với một loại chứng khoán cơ bản như cổ phiếu, trái phiếu, …giờ đây đã đi kèm với nó là những hợp đồng quyền mua, quyền chọn, những quyền chuyển đổi,..có thể nói hàng hoá ngày càng đi sâu vào những nhu cầu của con người.
Một trong những đặc điểm của những thị trường mới nổi là hàng hoá còn nghèo nàn, dịch vụ còn đơn điệu, nếu được tổ chức phát triển tốt thì nghề môi giới chứng khoán có thể góp phần cải thiện được môi trường này, đó là việc tạo ra một môi trường đầu tư đa dạng về sản phẩm với cước phí dịch vụ thấp và có lợi nhuận thoã đáng.
1.2.2.3 Cải thiện được môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh là tổng thể những nhân tố hữu hình và vô hình tác động đến quá trình thực hiện và phát triển của hoạt động kinh doanh đó.
Môi trường kinh doanh trong đầu tư chứng khoán là tổng thể những điều kiện kinh tế-xã hội, con người với ý thức đầu tư, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ cùng tác động vào việc ra quyết định kinh doanh và những kết quả mang lại.
Trong đầu tư chứng khoán, ngoài yếu tố tài chính có tác động chủ đạo tới hoạt động kinh doanh thì nhân tố Văn hoá đầu tư có tác động không nhỏ và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh chứng khoán.
Hoạt động Môi giới có tác động tới việc hình thành nền văn hoá đầu tư. Những đặc trưng chính của một nền văn hóa đầu tư là:
-Ý thức và thói quen đầu tư trong cộng đồng: Đó là việc người dân sẽ sử dụng số tiền còn lại sau khi đã trang trải các chi phí cho cuộc sống như thế nào, cất tiền vào két, gửi tiết kiệm, hay trang trải cho những nhu cầu đời sống cao cấp..nhưng có những nơi người dân lại đem những khoản tiền đó đầu tư vào một hoạt động sản xuất hay dịch vụ tài chính nào đó để thu về lợi nhuận cao hơn. Mỗi một vùng đất, mỗi quốc gia có những thói quen đầu tư khác nhau. TTCK phát triển cùng với việc tổ chức tốt hoạt động Môi giới sẽ giúp hình thành nên những thói quen đầu tư theo hướng có lợi cho nền kinh tế. Không chỉ vậy, quá trình đó dần nâng lên sự hiểu biết cho nhà đầu tư thông qua những thói quen phân tích, tìm hiểu về thị trường.
- Thói quen và kỹ năng sử dụng những dịch vụ đầu tư mà phổ biến là dịch vụ Môi giới chứng khoán.
Thói quen lâu nay của người đầu tư là dựa trên những tìm hiều, phân tích và phán đoán của mình để ra quyết định đầu tư. Nhưng điều này là một trong những khó khăn của không ít nhà đầu tư khi mà chưa có kinh nghiệm chơi, khi mà nguồn thông tin trên thị trường có rất nhiều loại thông tin chưa thể khẳng định được tính đúng đắn trung thực của nó.
Thông qua việc sử dụng dịch vụ Môi giới người đầu tư được tư vấn và đưa ra cho một số những kinh nghiệm đầu tư, và dần dà nó trở thành một dịch vụ không thể thiếu được trong đầu tư chứng khoán, khi mà những nhà đầu tư là những người làm việc trong những ngành nghề khác nhau, quỹ thời gian khác nhau, kiến thức khác nhau…dịch vụ Môi giới chứng khoán không chỉ là nơi chăm sóc cho những tài khoản của khách hàng mà còn là nơi mà nhà đầu tư được chia sẻ những tình cảm, những băn khoăn và khó khăn trong cuộc sống, lúc này đây nhân viên môi giới đóng vai trò như là những người bạn tâm tình, những chuyên gia tâm lý cho khách hàng.
Môi trường pháp lý, sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật.
Chính hoạt động của các CTCK, hoạt động của các nhân viên môi giới là một điều kiện tốt góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý cho kinh doanh chứng khoán. Bởi lĩnh vực này là nơi phát sinh những xung đột lợi ích giữa các đối tượng tham gia thị trường. Nếu môi trường pháp lý không đủ chặt chẽ và hiệu lực thì những mâu thuẫn phát sinh, phát triển và dẫn đến những đổ vỡ trên thị trường. Thông qua hoạt động môi giới, pháp luật sẽ được đưa đến với nhà đầu tư, và nhân viên Môi giới đóng vai trò như những người hướng dẫn luật cho mọi người. Đứng trước những sự việc đó buộc mọi ngưòi phải tìm hiểu kỹ về luật, đó là cách tốt nhất để trang bị cho mình những điều kiện đầy đủ khi tham gia thị trường, tránh được những xung đột không mong muốn xảy ra.
Tăng chất lượng và hiệu quả của dịch vụ nhờ cạnh tranh:
Trên thị trường có nhiều công ty khác nhau thực hiện nghiệp vụ Môi giới chứng khoán cho khách hàng, đứng trước những sự cạnh tranh đó các CTCK phải không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng bằng những sản phẩm dịch vụ mới, phí dịch vụ hợp lý và quá trình hoạt động hiệu quả cao.
Vì vậy những sản phẩm dịch vụ mới trên thị trường không ngừng được đưa ra, tạo công việc cho người lao động, phong phú sản phẩm trên thị trường, đây là những nhân tố cần thiết cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
1.2.3 Phân loại hoạt động Môi giới chứng khoán:
Phân loại môi giới chứng khoán thì có thể xét trên mỗi góc độ chúng ta có những cách phân loại khác nhau. Trong bài viết này xin được đề cập đến sự phân loại dựa trên tiêu thức là phạm vi của môi giới, sẽ bao gồm: Môi giới trên thừa hành, và môi giới độc lập.
Môi giới thừa hành:
Nhà môi giới này là nhân viên của các công ty chứng khoán, họ làm việc trong một CTCK duy nhất, chịu sự quản lý giám sát của CTCK nơi họ làm việc và UBCKNN. Theo luật định, mỗi nhân viên môi giới chỉ được phép làm việc cho một CTCK duy nhất, chứng chỉ hành nghề của họ chỉ có hiệu lực khi đang làm việc cho một CTCK và có báo cáo gửi cho UBCKNN .
Nhân viên môi giới thừa hành làm việc phục vụ cho lợi ích của chính công ty mình làm việc. Do vậy, mọi chế độ đãi ngộ, lương bỗng thưởng đều từ công ty. Môi giới thừa hành có thể làm môi giới hoạt động mua bán chứng khoán cho những chứng khoán đăng ký giao dich trên sàn, thông qua hoạt động nhập lệnh cho khách hàng. Bên cạnh đó các nhân viên có thể môi giới cho chứng khoán ở thị trường OTC, có thể nói đây là một sự mở rộng trong hoạt động môi giới của các CTCK.
b) Môi giới độc lập:
Hay còn gọi là môi giới hai đôla, họ là những người hoạt động cho chính lợi ích của họ, họ quan tâm đến chất lượng tư vấn vì đây chính là nguồn duy nhất khẳng định hiệu quả làm việc, khi họ tư vấn cho một nhà đầu tư trong việc ra quyết định mua hoặc bán một loại chứng khoán nào thì họ sẽ được hưởng phần trăm lợi nhuận từ giá trị của giao dịch đó.
Khi thị trường chứng khoán phát triển, thì lượng lệnh thực hiện cho khách hàng trở nên quá tải đối với các CTCK , do vậy họ cần sự trợ giúp của một lượng lớn những nhà môi giới độc lâp này. Họ bỏ tiền ra thuê những” chỗ ngồi” ở Sở giao dịch và thực hiện đọc lệnh cho khách hàng của mình, họ làm việc độc lập. Những lệnh do khách hàng của những nhà môi giới này là kết quả của một quá trình hoạt động cật lực để có được kết quả.
Ở Việt Nam hiện nay chưa có loại hình môi giới này, mới chỉ có môi giới thừa hành, là những nhân viên môi giới hoạt động trong các CTCK và chịu sự kiểm soát chặt chẽ của luật pháp. Xu hướng phát triển của TTCK trong xu hướng tương lai sẽ phải có những nhà môi giới độc lập này, ở các thị trường chứng khoán phát triển đã có hoạt động môi giới này từ rất lâu.
1.2.4 Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động môi giới chứng khoán tại CTCK .
Để đánh giá chất lượng hoạt động môi giới chúng ta có thể dựa trên một số chỉ tiêu sau:
Số lượng tài khoản khách hàng mở để giao dịch tại công ty.
Quy mô vốn của các tài khoản: quy mô vốn trong tài khoản, quy mô của từng giao dịch…
Doanh thu của công ty từ hoạt động môi giới:
Cơ cấu nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài
Những hoạt động phụ trợ của phòng môi giới: Ngoài những hoạt động như thực hiện giao dịch cho khách hàng, những hoạt động như lưu ký chứng khoán, kế toán giao dịch ảnh hưởng không nhỏ tới tình cảm của nhà đầu tư với công ty. Và hoạt động khác như phối hợp cùng phòng tư vấn thực hiện các cuộc đấu giá, tư vấn niêm yết vv..sẽ là những hoạt động cùng xây dựng nên hình ảnh cho công ty
Đánh giá chất lượng hoạt động môi giới thông qua cuộc điều tra khách hàng bằng hệ thống phiếu điều tra. Thông qua một bảng câu hỏi điều tra khách hàng về chất lượng dịch vụ môi giới tại CTCK sẽ cho chúng ta những cái nhìn khách quan và thực tế hơn từ phía những người đang sử dụng dịch vụ đó.
Có thể nói, chất lượng hoạt động môi giới của một CTCK tốt hay không được thể hiện rất rõ trong số lượng nhà đầu tư đến mở tài khoản. Bởi khi một CTCK có chất lượng hoạt động môi giới tốt sẽ lôi kéo được khách hàng đến với công ty, khi mà cùng một dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư, nơi nào phục vụ tốt hơn thì sẽ lôi kéo được nhiều nhà đầu tư tin tưởng và đến với dịch vụ của công ty mình hơn. Và sức lôi kéo đấy có thể thông qua một số nhân tố như: Biểu phí giao dịch, đội ngũ nhân viên giao dịch có nhiệt tình, năng động, hiểu biết hay không? Chất lượng của những lời tư vấn có mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng không? Ngoài ra yếu tố vật chất ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng phục vụ, như hệ thống bảng giá trực tuyến theo doic diễn biến giá, chỗ ngồi cho nhà đầu tư., dịch vụ chăm sóc khách hàng sau giao dịch và những thông báo về tình hình tài khoản một cách thường xuyên cho khách hàng.
1.2.5 Những nhân tố tác động tới hoạt động Môi giới chứng khoán:
1.2.5.1 Nhân tố chủ quan:
Con người:
Con người là chủ thể của mọi hành động, yếu tố con người trong hoạt động của CTCK nói chung và nghiệp vụ Môi giới nói riêng đóng vai trò vô cùng quan trọng và quyết định đến chất lượng công việc và tạo sự thu hút đối với nhà đầu tư khi đến với CTCK . Nghiệp vụ môi giới hoạt động được không thể thiếu nhân tố con người- nhân viên môi giới- là người trực tiếp đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư từ quá trình nhận lệnh, nhập lệnh, thực hiện thông báo kết quả cho khách hàng và những hoạt động phục vụ chăm sóc tài khoản cho khách hàng. Không chỉ dừng lại ở đấy, một hoạt động có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động Môi giới khác hẳn so với các hoạt động khác đấy là những lời tư vấn trong việc ra quyêt định đầu tư và những tâm sự về cuộc sống của nhân viên môi giới với khách hàng,. Điều này tạo nên sự gần gũi, thân thiện, tạo dựng niềm tin trong nhà đầu tư về hình ảnh người môi giới, hết lòng vì nhà đầu tư, tất cả vì lợi ích của nhà đầu tư.
Con người trong hoạt động Môi giới thể hiện ngay trong những lần gặp gỡ đầu tiên của khách hàng với nhân viên công ty. Nhà đầu tư tìm đến với CTCK thì những người đầu tiên họ tiếp xúc là nhân viên Môi giới, chính vì vậy để tạo nên những thuận lợi cho hoạt động của CTCK thì nhân viên môi giới phải là những người vui vẻ, thân thiện và tạo nên sự hài lòng cho khách hàng về những dịch vụ ở CTCK
Nhân tố con ngưòi ở đây thể hiện trên cả hai khía cạnh: phẩm chất và tri thức.
Có thể nói bản chất của nghiệp vụ Môi giới là bán hàng tư vấn cũng không sai, thông qua những lời tư vấn của mình mà nhân viên môi giới gây dựng được lòng tin ở khách hàng, lôi kéo khách hàng đến với công ty mình
Cơ sở vật chất và trình độ công nghệ:
Hệ thống giao dịch chứng khoán bao gồm địa điểm đặt sàn giao dịch, nơi mà nhà đầu tư đến theo dõi thị trường và đặt lệnh,là hệ thống máy tính, thiết bị đầu cuối, điên thoại, bảng giá, phần mềm chạy chương trình để tiếp nhận lệnh và khớp lệnh… có thể nói bên cạnh nhân tố con người, yếu tố máy móc thiết bị và công nghệ có tác động không nhỏ tới quá trình giao dịch đó là hệ thống nhận lệnh có đáp ứng được nhu cầu nhà đầu tư, việc khớp lệnh có được tính toán chính xác hay không và từ đó tác động tới tâm lý nhà đầu tư.
Không chỉ tác động tới nhà đầu tư, mà yếu tố này còn tác động trực tiếp tới nhân viên môi giới, bởi khi công việc suôn sẻ thì người nhân viên làm việc mới có hứng thú và hiệu quả cao hơn.
Mô hình tổ chức và hoạt động của CTCK
Trong bất cứ một tổ chức nào, cách thức tổ chức và hoạt động có tác động rất lớn đến hoạt động chung của toàn công ty. Đấy là tổ chức này có thể phát huy được thế mạnh của từng bộ phận hay không, có sự gắn kết giữa các bộ phận khác để bổ sung cho nhau hay không? Hay chính sách của công ty có tác động khuyến khích người lao động làm việc hết mình hay không?
Công tác kiểm tra giám sát
Kiểm tra giám sát là hoạt động theo dõi sự trung thực trong hoạt động, việc tuân thủ những quy định của công ty, của tổ chức, của pháp luật để bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư
Biểu phí giao dịch của công ty cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động môi giới, nếu biểu phí cao trong khi những yếu tố khác không hơn gì các CTCK khác thì vô tình đã làm giảm sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Hiện nay khi có rất nhiều CTCK mới ra đời và họ thực hiện chiến lược cạnh tranh nhau bằng phí giao dịch và phí lưu ký chứng khoán.
1.2.5.2 Nhân tố khách quan
Thực trạng nền kinh tế:
Nền kinh tế phát triển là một trong những điều kiện cần và đủ để thúc đẩy TTCK phát triển. Khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định, các doanh nghiệp làm ăn có lãi và hiệu quả cao, sản phẩm của doanh nghiệp đó trên thị trường được ưa chuộng lại là điều kiện để chứng khoán của doanh nghiệp đó lưu thông và thạnh khoản. Tạo ra cơ chế huy động vốn tối ưu cho doanh nghiệp. Khi nền kinh tế bị suy thoái hay khủng hoảng( như cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 hoặc giai đoạn 1997), TTCK cũng bị ảnh hưởng lớn, doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kéo theo giá chứng khoán trên thị trường sụt giảm.
Có thể nói yếu tố nền kinh tế bao trùm lên tất cả mọi hoạt động của con ngưòi trong đó, do vậy TTCK cũng không nằm ngoài trường hợp đó. Khi TTCK phát triển hay suy sụt đều ảnh hưởng đến hoạt động môi giới của các CTCK. Đây là bộ phận nhạy cảm nhất với sự thay đổi của bức tranh nền kinh tế.
Sự phát triển của TTCK:
TTCK phát triển sẽ tạo điều kiện cho những hoạt động giao dịch chứng khoán được phát triển theo, và khi đó nghề Môi giới mới có cơ hội phát huy những thế mạnh của mình, khối lượng giao dịch tăng lên, các hàng hoá trên thị trường đa dạng phong phú, buộc nhà môi giới phải có kiến thức và sự nhạy cảm để tư vấn cho nhà đầu tư.
Môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý là một trong những khung quy định quy tắc hoạt động, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia vào thị trường nhằm đảm bảo cho những hoạt động kinh tế đó được diễn ra lành mạnh, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư. Khi thị trường phát triển thì hoạt động giao dịch chứng khoán diễn ra trên nhiều phạm vi, quy mô lớn hơn, kỹ thuật tinh vi hơn, nếu khung pháp lý không kịp thời đưa ra những quy định đúng đắn, đầy đủ,khoa học để quản lý thị trường thì sẽ có những hành động phạm pháp và những hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp diễn ra.
Khung pháp lý hoàn chỉnh không chỉ là cơ sở khoa học nhằm bảo vệ nhà đầu tư mà còn bảo vệ chính những người làm nghiệp vụ môi giới trước những kết quả của công việc.
Thói quen đầu tư của người dân:
Thói quen đầu tư của ngưòi dân là một trong những điều kiện để thị trường chứng khoán phát triển, người dân có hiểu biết về lĩnh vực này hay không có tác động đến quá trình phát triển của thị trường, và khi đó nghiệp vụ Môi giới có điều kiện phát triển.
Tóm lại: Nghiệp vụ Môi giới chứng khoán là một trong những nghiệp vụ đòi hỏi rất cao về kiến thức, kỹ năng,giao tiếp của người làm Môi giới. TTCK phát triển là tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển thị trường chứng khoán chúng ta phải xây dựng song song với sự phát triển của nền kinh tế, của tri thức, kiến thức của người dân về thị trường, khung pháp lý hoàn chỉnh nhằm quản lý thị trường tốt hơn..
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN TẠI CTCK NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
VIỆT NAM
2.1 Giới thiệu tổng quan về CTCK Ngân hàng Công Thương Việt Nam :
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của CTCK Ngân Hàng Công Thương Việt Nam :
Công ty chứng khoán ngân hàng Công Thương được thành lập vào ngày 01/09/2000 theo quyết định số 126/ QĐ-HĐQT-NHCT của Ngân hàng Công Thương, với hình thức là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên( theo luật doanh nghiệp và quy định của Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước) là thành viên thứ 7 trong tổng số 57 Công ty Chứng khoán do Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước( UBCKNN) cấp phép hoạt động, với giấy phép hoạt động số 07/GPHĐKD ngày 16/11/2000.
Vào ngày 16/11/2000, sau hơn hai tháng hoàn thiện thủ tục pháp lý, cơ sở vật chất và nguồn nhân lực, công ty đã khai trương và đi vào hoạt động.
Tên giao dịch đầy đủ :Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Công
Thương Việt Nam.
Tên giao dịch quốc tế : Incombank Securities Co.,Ltd( viết tắt là IBS).
Vốn điều lệ :105.000.000.000 đồng( 105 tỷ đồng).
Trụ sở chính : 306 Bà Triệu, phường Lê Đại Hành, quận Hai
Bà Trưng, Hà Nôị.
Điện thoại : 04.9741764 - 04.9741055
Fax : 04.9741760 - 04.9741053
Website : www.ibs.com.vn
Email : ibs-ho@hn.vnn.vn
Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh:
Địa chỉ :153 Hàm Nghi- Quận 1- Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại : 089140200
Fax : 089140201
Email : ibs-hcm@.vnn.vn.
Công ty Chứng khoán Ngân hàng Công Thương là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập. Ngành nghề kinh doanh là:Kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán, bao gồm:
-Môi giới
-Tự doanh
-Bảo lãnh phát hành
-Quản lý danh mục đầu tư( theo luật chứng khoán 2006 thì hết năm 2007 nghiệp vụ này phải được tất toán và chuyển sang cho công ty quản lý quỹ)
- Lưu ký chứng khoán
-Tư vấn cổ phần hoá
-Tư vấn niêm yết và Đăng ký giao dịch chứng khoán
-Tư vấn đầu tư chứng khoán.
Số vốn điều lệ ban đầu là 55.000.000.000( năm lăm tỷ đồng), đến tháng 12/2004 vốn điều lệ tăng lên 105.000.000.000( 105 tỷ đồng), sự tăng vốn này đã đáp ứng được nhu cầu của công ty trước sự phát triển của thị trường, cho đến nay công ty đã có đầy đủ các phòng ban, nghiệp vụ cung cấp kịp thời những dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhu cầu của các doanh nghiệp trong các lĩnh vực tư vấn tài chính và tư vấn một số hoạt động . Không chỉ có chi nhánh ở Thành phố Hồ Chí Minh, công ty còn có thêm 4 đại lý nhận lệnh tại một số tỉnh, thành phố ở cả ba miền như:
Hải Phòng: 36 Điện Biên Phủ- Tp.Hải Phòng. ĐT: 031.._.hát triển đối tượng khách hàng mục tiêu nào. Trong tình hình chung như hiện nay, mặc dù IBS đã có một lượng lớn nhà đầu tư mở tài khoản tại đây, nhưng hiện tượng nhà đầu tư đi ra cũng không phải ít, đặc biệt có những nhà đầu tư “ “đại gia” cũng ra đi cho thấy một điều là chất lượng dịch vụ môi giới của IBS đã đến hồi lên tiếng.
Chưa tạo được nền tảng văn hoá kinh doanh của công ty, môi trường làm việc được cải thiện nhưng chưa hoàn thiện hết. Sự thống nhất trong nội quy quy chế làm việc từ giờ giấc, trang phục và mức độ hoàn thành công việc không được thực hiện nghiêm túc. Văn hoá làm việc chưa được nâng cao, sự nhiệt tình trong công tác tìm tòi và học hỏi của từng các nhân là đang còn hạn chế. Do vậy văn hoá kinh doanh trong công ty chưa cao.
Tiến độ triển khai ứng dụng thông tin công nghệ còn chậm, phần mềm hiện tại chưa đáp ứng yêu cầu, nhiều phần mềm ứng dụng cần thiết chưa có. Hiện nay, khi mà công nghệ đã phát triển, các CTCK mới có thể xây dựng cho mình những trang web về công ty rất nhanh và mạnh, còn chưa nói đến sự đầu tư vào công nghệ để có thể đáp ứng những nhu cầu đặt lệnh qua điện thoại hay tin nhắn điện thoại hoặc bằng trực tuyến qua internet… nhưng công ty chưa thể thực hiện được những việc làm đó. Việc đầu tư vào công nghệ mới còn chậm chưa có, bảng giao dịch luôn bị đơ, chậm.
-Chưa mở rộng được hệ thống máy tính nhập lệnh ngay tại sàn giao dịch của công ty để đáp ứng nhu cầu giao dịch của nhà đầu tư.
-Hệ thống bảng giá tuy nhiều nhưng hay bị đơ, không cập nhật số liệu kịp thời ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định mua bán của nhà đầu tư.
-Hệ thống máy tính nhập lệnh đôi khi vẫn còn gặp nhiều trục trặc, làm ngưng trệ quá trình vào lệnh.
-Mặc dù có trang bị hệ thống máy để khách hàng tự tra vấn tài khoản của mình, nhưng hệ thống máy này thường không cập nhật nhanh những thay đổi của tài khoản, đôi khi gây rắc rối cho khách hàng.
2.2.5 Phân tích những nguyên nhân ảnh hưởng tới hoạt động Môi giới:
2.2.5.1 Những nguyên nhân khách quan:
* Thị trường chứng khoán cùng nền kinh tế nói chung trong thời gian qua phát triển quá nóng, khiến không chỉ mình IBS mà hầu hết các công ty chứng khoán ra đời từ những ngày đầu của thị trường phát triển đều khó đáp ứng kịp với sự thay đổi chóng mặt đó. Lượng khách hàng đến mở tài khoản đông gây ra sự ùn tắc trong công tác quản lý khách hàng, các công ty không thể đáp ứng đầy đủ, kịp thời đến khách hàng.
* Thị trường những đối thủ cạnh tranh: Sự ra đời và đi vào hoạt động của một lượng lớn công ty chứng khoán mà điều kiện về cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị mới, hiện đại hơn, đội ngũ nhân viên được đào tạo từ những chương trình đào tạo nước ngoài là một thế mạnh và chúng là những trở ngại cho công ty. Và còn có những công ty với biểu phí giao dịch thấp hơn so với IBS, sự đa dạng trong sản phẩm dịch vụ cùng chất lượng cao đã đang là thách thức cho IBS. Hiện nay, một số công ty mới như CTCK VNDirect, CTCK VIS, CTCK APEC là những công ty chứng khoán mới mà có chiến lược kinh doanh khá hấp dẫn nhà đầu tư, vì chúng đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư.v.v..
* Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, trong năm 2006 bộ Luật chứng khoán mới hoàn thiện và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2007. Sự chậm trễ trong việc hoàn thiện khung pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện và tổ chức các dịch vụ cho nhà đầu tư, những tranh chấp, xung đột giữa nhân viên công ty và khách hàng, do khách hàng không nắm vững những nguyên tắc hoạt động của thị trường. Trong khi đó, sự chồng chéo giữa luật mới và cũ vẫn đang tồn tại, trong khi một số văn bản luật mới bắt đầu có hiệu lực thì những cũng đồng thời nó là một số văn bản cũ vẫn đang còn hiệu lực.
* Mạng lưới khách hàng tăng nhanh, công ty chưa kịp thời đầu tư để phục vụ khách hàng.
2.2.5.2 Nguyên nhân chủ quan
* Nguyên nhân thuộc về tổ chức:
Công ty được tổ chức dưới hình thức công ty TNHH, những hạn chế trong mô hình công ty này vẫn bộc lộ rõ nét, và ngày càng không phù hợp với tính chất của nền kinh tế hiện nay, khi mà lĩnh vực chứng khoán ngày càng phát triển.
Trong khi đó, IBS là công ty con của Ngân Hàng Công Thương, chịu sự chi phối về vốn của ngân hàng mẹ, những chính sách mang tính chất vĩ mô trong công ty đều phải thông qua ngân hàng mẹ, do vậy không phát huy được sự chủ động sáng tạo trong đường lối chủ trương chính sách phát triển công ty. Những tồn tại trong mối quan hệ của doanh nghiệp nhà nước vẫn còn.
* Nguyên nhân thuộc về nhân tố con người:
Với nét đặc trưng của nghiệp vụ là hoạt động trong một môi trường thường xuyên tiếp xúc với một lượng lớn khách hàng, những người có những tính cách khác nhau, nhu cầu khác nhau trong việc tìm đến công ty chứng khoán.
Có thể có những người khi đến với công ty chỉ đơn thuần là để giao dịch chứng khoán, khi họ có khả năng tự lập trong việc ra quyết định đầu tư. Nhưng lại có những ngưòi họ chưa biết nhiều về thị trường chứng khoán, họ chỉ thông qua phương tiện thông tin đại chúng và biết đến thị trường, họ rất cần sự chỉ dẫn của nhân viên Môi giới, đặc biệt là những lời tư vấn đầu tư đóng vai trò quan trọng trong việc xác định thành công trong công việc của một nhà môi giới thực thụ. Bởi phải là những người có chuyên môn, có kiến thức am hiểu thị trường và biết đưa ra những phân tích kinh tế, nhằm phát triển mạng lưới khách hàng cho công ty thì mới mang lại hiệu quả công việc cao cho công ty.
Nguồn nhân lực trong phòng Môi giới được đánh giá là nguồn nhân lực trẻ, nhiệt tình, hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Tuy nhiên, một trong những đòi hỏi của nghiệp vụ Môigiới là kiến thức chuyên ngành, kỹ năng chuyên ngành có một ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả làm việc của từng cá nhân. Tại phòng Môi giới IBS, lượng nhân viên được đào tạo đúng chuyên ngành còn hạn chế, mới chỉ có 3 nguời.
* Chiến lược tiếp thị, quảng bá với khách hàng cũng như những dịch vụ chăm sóc khách hàng ngày càng không phát huy được, không có sự sáng tạo trong công tác chăm sóc khách hàng, chưa có chiến lược rõ ràng để khẳng định vị thế của công ty. Việc đi tìm cho mình những khách hàng ruột và giữ chân những khách hàng ruột này đã bị IBS thờ ơ trong thời gian qua. Một số dịch vụ như: Cầm cố chứng khoán, nhận lệnh giao dịch qua điện thoại, trả lời khách hàng qua điện thoại không được triển khai thường xuyên.
Có thể nói những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến những hạn chế của hoạt động Môi giới trong công ty trong thời gian qua đấy là:
-Chính sách của công ty chưa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng
- Cơ sở vật chất còn hạn chế,
- Đội ngũ nhân viên còn thiếu không đáp ứng được một lượng lớn khách hàng
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, công ty chưa có chính sách hợp lý để giữ những nhân tài ở lại phục vụ cho công ty.
Với những hoạt động của mình, IBS đang trong quá trình hoàn thiện hồ sơ để tiến hành cổ phần hoá. Đây là một trong những dấu hiệu tốt cho hoạt động của công ty trong điều kiện nền kinh tế đang đòi hỏi.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI CTCK NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG.
NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG TRONG THỜI GIAN QUA.
Năm 2006 một năm ghi nhận sự trưởng thành nhanh chóng của thị trường chứng khoán, đó là hàng loạt doanh nghiệp lên sàn giao dịch, hàng loạt công ty chứng khoán ra đời phục vụ cho thị trường đang nóng lên từng ngày từng giờ, hàng loạt tài khoản giao dịch được mở ra nhằm thực hiện nhu cầu đầu tư của mình. Cụ thể những kết quả đạt được tính đến thời điểm cuối năm 2006 như sau:
-Số lượng công ty niêm yết trên TTGD TP.HCM đã tăng từ 2 công ty là REE và SAM năm 2000 đến năm 2005 tăng lên 32 công ty và đến ngày 31/12/2006 có 107 công ty, tính đến thời điểm tháng 4-2007 là 109 công ty. Trong đó có 107 cổ phiếu,và 2 chứng chỉ quỹ đầu tư và có 367.loại trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp được niêm yết và giao dịch.
- Số lượng công ty niêm yết và giao dịch trên TTGD Hà Nội tăng từ 8 lên 86 công ty cũng tính đến thời điểm này.
- Số CTCK tăng từ 13( tính đến cuối năm 2005) lên 57 công ty, và dự tính đến cuối năm 2007 chúng ta còn chào đón khoảng15-20 công ty nữa ra đời. Và nếu không có gì thay đổi đến cuối năm 2007, chúng ta sẽ có khoảng 80 công ty chứng khoán.
- Có 18 công ty quản lý quỹ, 6 ngân hàng hoạt động lưu ký.
- Giá trị niêm yết của toàn thị trường cũng tăng đáng kể. Nếu như trong ngày giao dịch đầu tiên giá trị niêm yết của các cổ phiếu là 270 tỷ đồng thì cuối năm 2006 là trên 72.000 tỷ đồng, trong đó cổ phiếu đạt trên 17.000 tỷ đồng. Giá trị vốn hoá của thị trường tăng một cách nhanh chóng, cuối năm 2006 đạt 147.967 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 15,72% GDP và đến cuối tháng 3-2007 giá trị vốn hoá thị trường của cổ phiếu và trái phiếu đã gần đuổi kịp con số 50% GDP.
- Chỉ số VN-INDEX cũng biến động không ngờ, gây nên những cú sốc cho thị trường. Tính đến phiên ngày 31/12/2006 chỉ số đóng cửa ở mức 753,81 điểm tăng 446,31 điểm tương ứng 145,14% so với cuối năm 2005. Đầu năm 2007 chỉ số VN-Index làm ngạc nhiên nhiều nhà đầu tư cả trong và ngoài nước, khi đạt mức kỷ lục là 1170,67 điểm vựot qua con số 1000 là một kỷ lục của thị trường. Theo kế hoạch phát triển của thị trường chứng khoán thì đến cuối năm 2007 chỉ số có thể lên đến 1500 điểm. Năm 2007 là năm được đánh giá là thị trường chứng khoán có những bước phát triển vượt bậc nữa, khi mà trong kế hoạch năm nay sẽ có khoảng 20 tổng công ty được đăng ký giao dịch, làm tăng lượng cung hàng trên thị trường mà đây là những doanh nghiệp hàng đầu được đánh giá cao như : Vietcombank, Mobiphone, viettinbank…. Và nhiều tập đoàn kinh tế lớn đang đứng ngoài cuộc chơi này.
- Giá trị giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài:
Có thể nói giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng khá lớn đến hoạt động giao dịch của nhà đầu tư trong nước cũng như tốc độ tăng giá của các loại cổ phiếu trên thị trường. Với đặc tính tâm lý của người Việt Nam đầu tư chưa chuyên nghiệp theo tâm lý đám đông nhiều nên chưa có những kế hoạch cho riêng mình, do vậy những động tĩnh của nhà đầu tư nước ngoài mà được cho là những chuyên gia trong lĩnh vực này đều gây tác động mạnh mẽ tới thị trường. Cho đến ngày 31/12/2006 hầu hết những cổ phiếu lớn như REE, SAM, STB, AGF, NKD, GIL… đã được nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ hết và gần hết 49% cổ phần được phép nắm giữ. Vào giai đoạn hiện nay, khi mà thị trường đang có chiều hướng đi xuống, rất nhiều nhà đầu tư trong nước bán tháo vội chứng khoán để tránh rủi ro, và cũng có không ít nhà đầu tư vẫn giữ lại chứng khóan không bán ra, còn động thái của các nhà đầu tư nước ngoài như thế nào
Năm 2006 tổng khối lượng và giá trị giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài đạt được là 295 triệu chứng khoán, tương ứng 26.620 tỷ đồng( trong khi đó con số này ở năm 2005 chỉ đạt được 73,86 triệu chứng khoán, tương ứng với giá trị là 5.885,8 tỷ đồng) , chiếm tỷ trọng 21% về khối lượng và 30.2% về giá trị so với giao dịch toàn thị trường.
- Số lượng tài khoản giao dịch trên thị trường theo thống kê vào khoảng 100.000 tài khoản giao dịch, tăng 3 lần so với năm 2005, và tăng hơn 30 lần so với ngày đầu của thị trường. Số lượng tài khoản nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ là khoảng 1.700 tài khoản,nắm giữ từ 25-30% số lượng cổ phiếu của các công ty.
3.2 ĐỊNH HƯỚNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
Từ những kết quả hoạt động trong thực tế của Công ty năm 2006 đã đạt được và còn những mặt hạn chế đề cấp ở Chương 2, về phía công ty đã có những cuộc họp bàn và thống nhất đưa ra những kết luận đồng thời rút ra kinh nghiệm trong quá trình hoạt động để đáp ứng kịp sự phát triển nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng.
3.2.1 Kinh nghiệm rút ra:
- Về quản lý điều hành: Trình độ quản lý điều hành cần chuyên nghiệp, luôn sáng tạo và đổi mới theo yêu cầu của thị trường. Thực hiện tốt và kết hợp tốt chế độ thủ trưởng và phát huy chế độ tập thể, phân cấp quản lý phù hợp, uỷ quyền phù hợp, tăng quyền chủ động sáng tạo, quyền quyết định hạn mức cho các cấp cán bộ trên cơ sở thực hiện đúng cơ chế và quy trình nghiệp vụ.
- Về cán bộ: Đào tạo và đào tạo lại cán bộ một cách thiết thực và hiệu quả nhất. Đánh giá để bố trí đúng người, đúng việc, công bằng khách quan, khen thưởng kịp thời xứng đáng đồng thời xử lý nghiêm khắc những sai phạm, vi phạm.
-Về công nghệ và nghiên cứu phân tích: Việc chậm triển khai lộ trình công nghệ thông tin và triển khai bộ phận nghiên cứu phân tích là nguyên nhân dẫn đến hoạt động kinh doanh của công ty thiếu bền vững.
- Về đoàn kết nội bộ: Cơ chế dân chủ và sức mạnh tập thể phải phát huy đầy đủ, phối hợp chặt chẽ với chi bô Đảng, tổ chức Công Đoàn, đoàn thanh niên, trong việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động kinh doanh.
3.2.2 Phương hướng, biện pháp kinh doanh năm 2007:
a) Phòng Môi giới:
- Phát huy hết năng lực cán bộ và điều kiện về hạ tầng cơ sỏ đã có.
-Chủ động xây dựng các bước quy định chi tiết về quy trình nghiệp vụ cho tứng công việc cụ thể theo quy trình môi giới đã được chủ tịch công ty ban hành.
-Tăng cường phối hợp với văn phòng đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của cán
bộ trong phòng.
-Xây dựng văn hoá giao dịch tại sàn giao dịch.
- Chỉ tiêu kế hoạch năm 2007:
Căn cứ các kết quả đạt được của năm 2006, và các tín hiệu lạc quan tăng trưởng của TTCK trong năm nay, phòng Môi giới tại trụ sỏ chính công ty đã đăng ký chỉ tiêu kế hoạch trong năm 2007 đạt 14 tỷ đồng tiền phí môi giới tăng hơn 60% so với thực hiện năm 2006, cụ thể:
Phí giao dịch: 12 tỷ đồng
Phí dịch vụ: 1,5 tỷ đồng
Phí lưu ký: 0,5 tỷ đồng.
Và một số kế hoạch cụ thể cho các nghiệp vụ khác trong năm 2007 như sau:
Tự doanh: Cổ phiếu 78.6%
Bảo lãnh phát hành: 9%
Quản lý danh mục đầu tư: 500 triệu đồng
Tư vấn tài chính doanh nghiệp: 2,6 tỷ đồng.
b) Văn phòng:
Văn phòng trực tiếp tham mưu với ban Giám đốc, kết hợp với phòng liên quan mua sắm những tài sản cố định, công cụ làm việc phục vụ kịp thời nhu cầu nhà đầu tư và giúp hoạt động kinh doanh chứng khoán thuận lợi hơn.
Tham mưu với Giám đốc trong việc tuyển dụng và tiếp nhận cán bộ, lao động bổ sung cho các phòng ban nghiệp vụ hiện nay đang thiếu cán bộ và lao động làm việc.
Kết hợp chặt chẽ với UBCKNN đào tạo nghiệp vụ chuyên môn và cấp chứng chỉ.
C) Phòng công nghệ thông tin:
- Xây dựng lộ trình kế hoạch nâng cấp cơ sở hạ tầng CNTT
- Quản lý điều hành mạng máy tính và các thiết bị liên quan
-Sữa chữa khắc phục các sự cố về mạng và máy tính.
-Quản trị phần mềm giao IBROKER, phần mềm IFINANCE và các phần mềm hiện có tại công ty.
- Quảng bá rộng rãi website: WWW.ibs.com.vn của công ty, đồng thời nâng cấp phát triển website, tích hợp hệ thống tra cứu tài khoản khách hàng, sao kê tài khoản, dịch vụ SMS… trên website của công ty.
d) Kiểm tra kiểm soát nội bộ:
Với phương châm hoạt động là: An toàn, Hiệu quả, bền vững.
Phương hướng của công ty là: Mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh, tăng thị phần các sản phẩm dịch vụ của Công ty trên thị trường, xây dựng và hoàn thiện bản sắc thương hiệu.
NHỮNG ĐỀ XUẤT CÁ NHÂN CHO GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG.
Cơ sở của những đề xuất:
Qua quá trình thực tập tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương, trên cơ sở những hiểu biết về nghiệp vụ cùng với sự tham khảo ý kiến từ nhiền nguồn khác nhau, cá nhân tôi đưa ra những đề xuất với mục đích nâng cao chất lượng hoạt động môi giới tại công ty.
Đề xuất với công ty:
Hoạt động Môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương là một nghiệp vụ đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của công ty. Thế nhưng, công ty vẫn chưa có những chính sách đầu tư hợp lý cho phòng, đây chính là những nguyên nhân tạo nên những hạn chế gây ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động. Vì vậy theo ý kiến của cá nhân, em xin có một số đề xuất như sau:
* Có chính sách đầu tư hợp lý cho phòng Môi giới về hệ thống trang thiết bị, công nghệ và những thiết bị cần thiết, nhằm tạo những điều kiện tốt nhất cho nhân viên làm việc và phát huy năng lực. Với thực tế hiện nay, khi công ty đang gặp phải nhiều rắc rối trong hoạt động vì hệ thống máy móc, trang thiết bị và phần mềm phục vụ giao dịch,việc nhanh chóng có những đầu tư thay đổi cơ sở hạ tầng là điều cần thiết. Hiện nay, nhiều công ty chứng khoán mới thành lập họ có cơ sở hạ tầng, máy móc hiện đại hơn, sẽ tăng sức cạnh tranh với công ty trong việc mở rộng mạng lưới khách hàng. Với số vốn điều lệ là 105 tỷ đồng, một lượng vốn không bé, IBS hoàn toàn có thể đầu tư hơn nữa cho hệ thống máy móc phục vụ giao dịch tốt hơn.
* Có chính sách quản lý, phân công công việc hợp lý, năng động để tạo nên tính chủ động trong công việc của phòng. Phân công công việc cụ thể trong phòng giao dịch là việc làm cần thiết trong thời điểm hiện nay. Việc tuyển thêm nhân lực cho phòng là điều cần thiết, nhân lực phục vụ quá trình nhận lệnh phục vụ khách hàng. Theo tôi nên có thêm một bộ phần đó là ban lễ tân, bộ phận này sẽ làm những công việc phục vụ khách hàng như phân phát báo chí, thông báo số dư tài khoản, trả kết quả giao dịch, trả lời điện thoại của khách hàng,… và những công việc không đòi hỏi nhiều đến chuyên môn thị trường. Sự phân công như vậy nhằm giảm bớt áp lực trong công việc cho nhân viên giao dịch, để sự chuyên nghiệp được nâng cao hơn.
* Đề ra những thi đua để phát huy khả năng của mỗi người, mỗi phòng ban .
* Có chế độ đãi ngộ hợp lý để giữ lại những cán bộ và nhân viên có năng lực thật sự, họ là những nòng cốt của công ty là trụ cột trong hoạt động nghiệp vụ,do vậy họ phải có chế độ đãi ngộ thoã đáng. Một điểm đặc biệt của IBS là lương trả cho cán bộ công nhân viên theo chế độ lương của ngân hàng, đây là chế độ lương thấp hơn so với những CTCK khác, nên thường chưa khuyến khích được nhân lực phát huy trong công việc.
* Cơ chế quản lý chặt chẽ, khoa học, nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công nhân viên trong công việc, vì đây là ngành yêu cầu đạo đức nghề nghiệp cũng tương đối cao. Bộ phận kiểm soát nội bộ của công ty tuy có hoạt động, nhưng hoạt động chưa có hiệu quả, vì vậy việc nhất thiết phải xây dựng lại một bộ phận kiểm soát làm việc hiệu quả để đôn đốc tinh thần làm việc của nhân viên trong phòng giao dịch hơn nữa.
* Đầu tư những công nghệ hiện đại, và cơ chế quản lý tốt để mở rộng những hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng như: Cho nhận lệnh từ xa thông qua điện thoại, mạng, hay qua tin nhắn. Có thể nói đây là những dịch vụ tương đối hiện đại và phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường, hầu như những nhà đầu tư là những cán bộ công nhân viên hay những người lao động làm việc trong những lĩnh vực khác nhau, họ không thể có thời gian lúc nào cũng bỏ cơ quan để đến sàn đặt lệnh được. Việc phát triển hệ thống nhận lệnh qua điện thoại hay internet là một trong những phương pháp tốt nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư vừa làm việc vừa tham gia thị trường. Muốn vậy, IBS cần phát triển nguồn nhân lực hơn nữa để mở rộng những dịch vụ của mình, đồng thời với nó là việc đầu tư vào công nghệ để triển khai hoạt động và kiểm soát tính trung thực, hiệu quả tránh những rủi ro có thể xảy ra trong việc nhận lệnh. Rủi ro này thường là sự không thống nhất trong việc đặt lệnh và thực hiện lệnh giữa khách hàng và nhân viên giao dịch, do vậy phải có sự ghi nhận quá trình đặt lệnh của khách hàng làm bằng chứng cho những rắc rối đó, đó là hệ thống máy ghi âm cuộc gọi đến của khách hàng, ngay từ khi cho khách hàng đăng ký dịch vụ đặt lệnh qua điện thoại phải có chế độ quản lý nghiêm ngặt như: Phải đăng ký số điện thoại được phép đặt lệnh, mật khẩu của người đặt lệnh.v.v
* Tổ chức những khoá học cho nhân viên Môi giới được học tập nâng cao nghiệp vụ, tiếp xúc với những thay đổi trong ngành.
Việc học tập để cập nhật những kiến thức mới là điều nên làm, trong tháng 5 năm 2007 này TTGD TPHCM bắt đầu thực hiện khớp lệnh liên tục, phương thức giao dịch có những thay đổi do vậy công tác phổ biến khớp lệnh liên tục không chỉ được tổ chức hướng dẫn cho nhà đầu tư , mà ngay chính nhân viên là những người phải hiểu rất kỹ nắm vững nguyên tắc làm việc để có thể tư vấn cho khách hàng.
Đề xuất với phòng Môi giới:
Về chiến lược kinh doanh:
Với bản chất như một nghề bán hàng tư vấn, hoạt động môi giới của công ty chứng khoán đem đến cho khách hàng những dịch vụ thuận lợi cho quá trình giao dịch, trong đó các nhân viên Môi giới đóng vai trò như là những chuyên gia trong lĩnh vực này. Và để thành công trong bất cứ một lĩnh vực nào thì người ta cũng phải vạch ra cho mình những kế hoạch cụ thể, bước đi và những biện pháp thực hiện nó.
Phòng Môi giới hay những người trực tiếp hàng ngày hàng giờ tiếp xúc với thị trường, họ phải có được những nhận xét rút ra sau những cuộc nói chuyện về khách hàng mà mình đã tiếp xúc, và cũng gần như là chúng ta phải biết phân tích con người tính cách và khả năng chấp nhận rủi ro của họ để từ đấy đưa ra lời khuyên, tư vấn cho hợp lý.
Để làm được điều đó, việc xây dựng cho phòng một nguyên tắc làm việc thống nhất, phổ biến những kinh nghiệm để học hỏi. Bên cạnh đó nhân viên phải không ngừng học hỏi để từ trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng cần thiết của ngành. Một chiến lược kinh doanh có thể bao gồm những yêu cầu đặt ra như:
Xác định mục tiêu hướng tới của mình là ai? Có những công ty chứng khoán hoạt động mà mục tiêu hướng tới của họ là những nhà đầu tư có tổ chức, khả năng tài chính mạnh, nhưng lại có những công ty mà khách hàng mục tiêu là những nhà đầu tư có khả năng chấp nhận rủi ro cao. Khi xác định đựơc khách hàng mục tiêu, thì chúng ta sẽ có những kế hoạch phục vụ và kinh doanh phù hợp, tránh được sự lãng phí về nguồn nhận lực và cơ sở vật chất. Trước đây IBS có một chính sách đãi ngộ riêng cho những nhà đầu tư có giá trị giao dịch lớn trong mỗi phiên giao dịch, mà chúng ta gọi là “ VIP” thông qua việc đặt cho họ những phòng giao dịch riêng, được phục vụ tận tình hơn so với những khách hàng thông thường. Có thời gian điều này đã bị các nhà đầu tư lên tiếng về sự đối xử bất công bằng với khách hàng, về nguyên tắc đạo đức thì công ty không được đối xử phân biệt với khách hàng, nhưng xét trên mặt kinh tế xã hội thì cũng không hẳn là sự bất công bằng, bởi cùng một việc làm, cùng một quy trình mà người này mang lại nhiều lợi nhuận cho công ty thì rõ ràng họ cũng phải được đối xử đầy đủ hơn. Tuy nhiên điều phê phán ở đây là sự thể hiện này quá là lộ liễu, chính điều đó sẽ gây nên sự phản cảm cho bất cứ người nào khi tham gia thị trường, IBS có thể làm phòng VIP kín đáo hơn một chút để tất cả khách hàng đến với IBS đều cảm thấy hài lòng.
Thời gian gần đây, nhiều công ty mới thành lập đã xây dựng cho mình những mục tiêu hướng tới để từ đó xây dựng cho mình những chiến lược hoạt động có hiệu quả nhất, việc đa dạng hoá các phân đoạn khách hàng cũng là một điều hay, nhưng nếu không có kế hoạch chu đáo cho tất cả các phân đoạn khách hàng đó thì sẽ gây tác hại nhiều hơn..
Về nguồn nhân lực:
Nhân lực trong công ty chứng khoán là những nhà tài chính có kiến thức kỹ năng về thị trưòng chứng khoán, riêng trong lĩnh vực Môi giới thì nó lại là sự kết hợp giữa kỹ năng của một nhà tài chính và một người bán hàng. Do vậy, yêu cầu với nhân viên Môi giới không chỉ là kiến thức về tài chính,về thị trường mà cần thiết phải có kỹ năng của một ngưòi bán hàng tài chính, một ngưòi nắm bắt và thu thập thông tin nhanh nhạy, khả năng quyết đoán cao, chịu được áp lực công việc…
Có hàng trăm tiêu chuẩn đặt ra cho một ngưòi hành nghề chứng khoán, nhưng trước mắt với tình hình phát triển của thị trường chứng khoán ở Việt Nam và các nhà môi giới phải tự xác định cho mình những kế hoạch và phương pháp làm việc hợp lý. Không chỉ đóng vai trò là người giao dich cho khách hàng, các nhân viên cần phải nâng cao khả năng phân tích, tư vấn cho khách hàng, khả năng giao tiếp là một trong những yếu tố cũng đóng góp không nhỏ vào hiệu quả công việc của ngưòi môi giới chứng khoán.
Những chiến lược cụ thể để nâng cao khả năng làm việc của một chuyên gia môi giới trong điều kiện thị trường chứng khoán phát triển như hiện nay, và đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO thì chúng ta phải chào đón một lượng không nhỏ nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể như:
-Tham gia những khoá học hoặc bằng khả năng tự học để nâng cao khả năng phân tích tài chính và thông tin thị trường, để từ đó đưa ra được những lời tư vấn hợp lý cho khách hàng.
- Rèn luyện kỹ năng giao tiếp, tránh những tình huống bất ngờ xảy ra mà chúng ta không xử lý một cách ổn thoả. Đặc điểm của ngưòi làm môi giới chứng khoán yêu cầu đức tính kiên nhẫn, chịu đựng, và sự bình tĩnh trong moi tình huống.
-Luôn tìm kiếm, nắm bắt kịp thời thông tin thị trường.
Theo những nghiên cứu của các chuyên gia thì những kỹ năng cần có của một nhân viên môi giới đó là:
♦ Kỹ năng truyền đạt thông tin
♦ Kỹ năng tìm kiếm khách hàng
♦ Kỹ năng khai thác thông tin
♦ Kỹ năng bán hàng
Có thể nói đây là những kỹ năng rất cần thiết đối với một nhà môi giới chuyên nghiệp, nhất là khi thị trường ngày càng phát triển, càng đòi hỏi những chiến lược cạnh tranh mạnh mẽ hơn, nguồn nhân lực vẫn là một trong những nhân tố quan trọng của kết quả hoạt động trong công ty, sức lôi cuốn ở chỗ công ty này có những nhân viên môi giới chuyên nghiệp, họ là những nhà phân tích và tư vấn tuyệt vời, họ là những người thật sự mong muốn mang lại hiệu quả cho những khoản đầu tư của mình. Do vậy, khi mà điều kiện TTCK Việt Nam chưa thực sự là một thị trường của những nhà đầu tư chuyên nghiệp, nhưng trong tương lai sự phát triển cũng sẽ tiến dâng đến ngưỡng đó, và nhất thiết những người môi giới muốn tìm cho mình một chỗ đứng trong nghề nghiệp thì rất cần thiết phải tự trang bị cho mình những kỹ năng đó.
Về tổ chức:
Tổ chức có vai trò quan trọng trong việc điều hành quá trình hoạt động, lên kế hoạch hoạt động cụ thể và đề ra chiến lược phát triển của công ty.
Xây dựng môi trường làm việc năng động, hiện đại, tiếp cận với công nghệ thông tin nhanh nhạy bổ trợ cho nghiệp vụ của nhân viên.
Xây dựng môi trường làm việc văn hoá, cán bộ công nhân viên hoà hợp trong công việc và trong đời sống, luôn giúp đỡ nhau trong công việc và trong cuộc sống.
Có thể nói nghiệp vụ Môi giới,một công việc đòi hỏi cao về sự tập trung và nỗ lực trong công việc, chính vì vậy hay gây ra những căng thẳng cho nhân viên, phải nắm bắt đựơc điều đó để tổ chức đời sống cho cán bộ nhân viên.
Tóm lại: Xuất phát từ thực tế hoạt động của IBS, cùng với sự phát triển chung của toàn thị trường, cho thấy chất lượng hoạt động môi giới của IBS đang ngày càng đi xuống, bằng thực tế thu nhập từ hoạt động môi giới, bằng lượng khách hàng đến với công ty, và điều quan trọng thông qua những phản ánh trưc tiếp của nhà đầu tư. Trong điều kiện hiện nay, sự hoàn thiện đầu tiên cần làm được của IBS sẽ là một số việc sau đây:
Về dịch vụ:
Cung cấp đầy đủ dịch vụ cho khách hàng về báo chí, về thông tin liên quan đến doanh nghiệp. Cụ thể IBS phải tiếp tục làm bản tin nội bộ cung cấp thông tin cho khách hàng, ngoài ra có thể photo bản tin thị trường của hai trung tâm giao dịch cho nhà đầu tư tham khảo. Tiếp tục cung cấp những thông tin về công ty niêm yết trên sàn, hệ thống thông tin của khách hàng bằng điện thoại.. những hoạt động này cần thiết thành lập một bộ phận lễ tân làm những công việc đó.
Thiết kế mở rộng sàn giao dịch để phục vụ tốt hơn nữa cho nhà đầu tư.
Hệ thống bảng giao dịch phải được thiết kế đủ rộng và treo hợp lý.
Về công nghệ:
Đầu tư công nghệ hiện đại cho hệ thống mạng của IBS, hệ thống phần mềm IBROCKER, hệ thống đọc truyền lệnh vào sàn.
Triển khai dịch vụ nhận lệnh qua điện thoại, tin nhắnvv
Về con người:
Tiếp tục bổ sung nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng
Quản lý giám sát chặt chẽ hoạt động giao dịch, xây dựng nội quy quy chế nghiêm ngặt.
Bố trí phân công hợp lý công việc và cơ sở vật chất để tạo điều kiện thuận lợi để nhân viên làm việc hiệu quả hơn.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đường phát triển và hội nhập cùng nền kinh tế thế giới, năm 2006 năm chứng kiến sự phát triển vượt bậc của TTCK Việt Nam. Nhiều tổ chức tài chính thế giới đã có những nghiên cứu và đánh giá cao tiềm năng phát triển của không chỉ TTCK nói riêng mà của cả nền kinh tế nói chung. Sau hội nhập WTO, sẽ có nhiều tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đẹm theo những cơ hội mới cho nền kinh tế nước nhà. Đứng trước những cơ hội và thách thức đó, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát huy nội lực và hoà nhập cùng thế giới.
Nghề môi giới chứng khoán hiện đang được đánh giá là nghề “hot” nhất ở Việt Nam hiện nay, khi mà cả xã hội nhôn nhao vì chứng khoán, khi mà có không ít nguồn nhân lực chuyển công tác sang lĩnh vực chứng khoán đã là một điều kiện tốt để TTCK được phát huy tiềm năng và thu hút nhân tài. Thế nhưng để phát triển một cách ổn định và bền vững, chúng ta phải xác định xây dựng cho mình một đội ngũ những người làm chứng khoán có trình độ và chuyên môn thật sự, có như vây mới đảm bảo về lâu dài.
Người làm môi giới chứng khoán phải tự trang bị cho mình những hành trang cần thiết khi bước vào nghề.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình:
PGS.TS Nguyễn Văn Nam, PGS.TS Vương Trọng Nghĩa- Giáo trình thị trường chứng khoán- NXB Tài chính, năm 2002.
TS.Trần Thị Thái Hà- Nghề môi giới chứng khoán- NXB Chính trị quốc gia, năm 2001.
Minh Đức, Hồ Kim Chung- Hướng dẫn đầu tư vào thị trường chứng khoán- NXB Trẻ, năm2000/
TS. Đào Lê Minh- Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán- NXB Chính trị quốc gia Hà Nội ,Năm 2002.
Văn bản luật:
-Lụât chứng khoán 2006
-Quyết định 27/2007-BTC của Bộ tài chính ban hành về hướng dẫn hoạt động của CTCK.
Tạp chí:
Tạp chí Đầu tư chứng khoán Việt Nam các số 1+2 năm 2006.
Tạp chí Chứng khoán Việt Nam các số.
Tài liệu khác:
Những tài liệu về IBS
Báo cáo kết quả hoạt động từ năm 2001-2006.
Trang web : www. ssc.gov.vn, www.bsc.com.vn,
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức của công ty Chứng khoán Ngân hàng Công Thương. 40
Bảng 2.2.1 Nhân lực phòng Môi giới 52
Bảng 2.2.2. Phí giao dịch 52
Bảng 2.2.3.: Tình hình thu phí môi giới qua các năm( ĐV: VND) 53
Bảng 2.2.4: Bảng tỷ lệ doanh thu môi giới 54
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36636.doc