LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang trên con đường bước vào thiên nhiên kỷ mới, con đường đổi mới và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Sự hội nhập đó đã khép lại một thời kỳ kinh tế tự cung tự cấp, phát triển chậm chạp và lạc hậu. Nhìn lại những năm qua tốc độ đầu tư trong nền kinh tế nước ta có sự tăng trưởng mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển cũng như cải thiện đời sống xã hội, trong đó không thể không kể đến vai trò của các NHTM với tư cách là nhà tài trợ lớn cho các sự án đầu tư, đặc bi
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Chi Nhánh Tây Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt là dự án trung và dài hạn. Phải khẳng định rằng, để đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước nhằm tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước khác, trong khi xuất phát điểm của chúng ta lại thấp hơn họ nhiều, đòi hỏi chúng ta phải có sự ưu tiên về đầu tư chiều sâu, đặc biệt cần bổ sung một lượng vốn đáng kể bao gồm vốn ngắn hạn và vốn trung dài hạn để đầu tư vào các dự án có khả năng tranh thủ “đi tắt, đón đầu” công nghệ.
Trong khi đó, khả năng về vốn tự có của các doanh nghiệp rất hạn chế, việc kinh huy động vốn của các doanh nghiệp qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu cũng rất khó khăn do thị trường chứng khoán của nước ta còn đang ở giai đoạn sơ khai, người dân còn chưa quen thuộc và tin tưởng vào loại hình đầu tư này. Dò vậy để có thể đáp ứng nhu cầu về vốn trung dài hạn, các doanh nghiệp chủ yếu đi vay các tổ chức tài chính trung gian trong đó hệ thống NHTM là nguồn huy động và cung cấp vốn trung dài hạn chủ yếu cho nền kinh tế.
Với tư cách là trung tâm tiền tệ tín dụng của nền kinh tế, để phù hợp với xu hướng đa dạng hoá các hoạt động của Ngân hàng nhằm phục vụ bổ sung vốn lưu động và vốn cố định cho doanh nghiệp, hệ thống NHTM Việt Nam cũng đã chủ trương đẩy mạnh hoạt động tín dụng trung dài hạn đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế bên cạnh hoạt động ngắn hạn truyền thống.
Tuy nhiên, cũng như mọi hoạt động kinh doanh tín dụng Ngân hàng là kinh doanh chủ yếu dựa vào tiền của người khác, kinh doanh qua tay người khác nên rủi ro trong hoạt động tín dụng cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp vì nó vừa phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hậu quả của nó dễ lan truyền trong cả hệ thống Ngân hàng gây ra những vụ hoảng loạn và sụp đổ của hàng loạt Ngân hàng khác đồng thời cũng gây ra hàng loạt các hậu quả nghiêm trọng khác về mọi mặt kinh tế, xã hội đặc biệt là lòng tin của người đân vào sự lãnh đạo của chính phủ bị suy giảm. Trong thời gian qua, những mất mát to lớn về tiền của tập trung qua công tác tín dụng là những hậu quả đáng quan tâm. Nhất là trong vài năm gần đây, số lượng dự án đầu tư trung – dài hạn trong nước và nước ngoài ngày càng gia tăng, mang lại một tỷ lệ lợi nhuận đáng kể trong tổng lợi nhuận của các Ngân hàng. Nhưng bên cạnh đó cũng không tránh khỏi một số vướng mắc sai sót trong quá trình thực hịên cho vay các dự án đặc biệt là các dự án đầu tư trung – dài hạn.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao hạn chế được rủi ro hoạt động tín dụng của Ngân hàng trong điều kiện để tiến tới công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì việc gia tăng số lượng các dự án đầu tư là điều tất yếu. Muốn vậy thì những dự án này phải đảm bảo chất lượng, tức là làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, trong đó có việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án. Chính vì vậy, vai trò to lớn của công tác thẩm định dự án đầu tư, đặc biệt là thẩm định tài chính dự án đầu tư là không thể phủ nhận được.
Hơn nữa, một yêu cầu có tính nguyên tắc đối với Ngân hàng trong hoạt động đầu tư tín dụng là phải xem xét, lựa chọn những dự án đầu tư thực sự có hiệu quả vừa mang lại lợi ích cho nền kinh tế, vừa phải đảm bảo lợi nhuận Ngân hàng, đồng thời hạn chế thấp nhất rủi ro và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Công tác thẩm định dự án là công cụ đắc lực giúp Ngân hàng thực hiện yêu cầu này.
Với ý nghĩa đó việc thẩm định dự án đầu tư góp phần cực kỳ quan trọng đối với sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Vì tính cấp bách, tầm quan trọng của công tác này đã tạo cho em một niềm say mê hứng thú đi sâu vào tìm tòi nghiên cứu. Đồng thời, có sự tận tình hướng dẫn và những ý kiến đóng góp quý báu của Thạc Sỹ Hoàng Minh Châu cùng sự giúp đỡ, chỉ đạo trực tiếp của anh Lê Hải Anh và chị Nguyễn Thị Thuận cán bộ tín dụng NHTMCP CT Tây Hà Nội đã tạo mọi điều kiện để em hoàn thiện chuyên đề tôt nghiệp, đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Chi Nhánh Tây Hà Nội”.
Đề tài được nghiên cứu và trình bầy ngoài phần mở đầu, kết luận. Chuyên đề đựơc chia thành 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về thẩm định tài chính dự án đầu tư của Ngân Hàng Thương Mại.
Chương II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt Nam Chi Nhánh Tây Hà Nội.
Chương III: Những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Chi Nhánh Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Tây Hà Nội.
Do thời gian thực tập có hạn, kiến thức thực tế chưa nhiều, trình độ lý luận và năng lực bản thân còn hạn chế, chuyên đề thực tập tốt nghiệp mà em trình bày không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo và các bạn để bài viết của em hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Các quan niệm về Ngân Hàng Thương Mại
Lịch sự hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Các NHTM (ngân hàng thương mại) xuất hiện trong nền kinh tế với tư cách là các tổ chức tín dụng trung gian, nhận tiền gửi nhàn rỗi của các tổ chức và các cá nhân trong nền kinh tế đồng thời sử dụng số tiền nhàn rỗi đó cho các tổ chức và cá nhân khác trong nền kinh tế có nhu cầu vay để đầu tư sinh lời. Hệ thống NHTM có phạm vi hoạt động rộng rãi vì nó cung cấp các dịch vụ tài chính cho tất cả các lĩnh vực, của nền kinh tế và các tầng lớp dân cư. Tuỳ theo cách tiếp cận của các vùng miền khác nhau mà ta có các cách hiểu khác nhau về NHTM, điều đó còn phụ thuộc vào tính chất và mục tiêu hoạt động của NHTM trên thị trường tài chính của từng quốc gia.
* Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại: NHTM là một loại hình doanh nghiệp (DN) đặc biệt, hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ.
* Theo quan điểm của các nhà kinh tế Mỹ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
* Theo quan điểm của các nhà kinh tế Pháp: NHTM được coi là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ và các nghiệp vụ chứng khoán tín dụng hay dịch vụ tài chính.
* Ở Ấn Độ luật NH năm 1950 và được bổ sung năm 1959 cho rằng: NHTM là cơ sở nhận các khoản tiền kí thác để cho vay, tài trợ đầu tư.
* Còn ở Đan Mạch thì năm 1930 lại cho rằng: Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận kí thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân và đứng ra bảo hiểm …”.
* Còn ở Việt Nam theo luật tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa X ngày 12 tháng 12 năm 1997 định nghĩa: “NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động của Ngân Hàng và các hoạt động khác liên quan”. Luật này còn định nghĩa: “Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ NH với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán”.
Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về NHTM nhưng chung quy lại có thể hiểu tổng quát như sau: NHTM là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với các hoạt động chính là huy động tiền gửi nhàn rỗi từ các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế trên cơ sở nguồn vốn huy động đó cùng với vốn tự có của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết khấu đồng thời thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, môi giới, tư vấn và một số dịch vụ khác cho các chủ thể trong nền kinh tế.
Chức năng của Ngân Hàng Thương Mại
Chức năng trung gian tài chính.
Khi NHTM làm nhiệm vụ huy động tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để cho vay hoặc làm môi giới cho người đầu tư thì mới thực hiện chức năng trung gian tài chính.
Cá nhân
Doanh nghiệp
Ngân hàng Thương mại
Cá nhân
Doanh nghiệp
NHTM nhận cho vay
Tiền gửi
Uỷ thác đầu tư Đầu tư
Thực hiện chức năng này, NHTM thực sự là “cầu nối” giữa người cho vay và người đi vay tạo lợi ích cho cả 3 bên: người gửi tiền, Ngân hàng, người đi vay.
Thực hiện chức năng này NHTM góp phần huy động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sản xuất và lưu thồng hàng hoá phát triển, NHTM là công cụ điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu hụt trong nền kinh tế quốc dân một cách hữu hiệu.
Chức năng trung gian thanh toán
Khi NHTM cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức kinh tế mở tài khoản và cho họ gửi tiền, thanh toán chi trả, chuyển tiền qua các tài khoản này thì NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán.
Thực hiện chức năng này, NHTM sử dụng các công cụ hoạch toán không dùng tiền mặt như: thanh toán bù trừ, thanh toán uỷ nhiệm chi, thanh toán séc, thanh toán bằng điện tử đã góp phần làm giảm bớt lưu thông tiền mặt, chu chuyển vốn nhanh, an toàn và tiến kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, NHTM tích tụ được nguồn vốn lớn để có thể mở rộng khả năng cho vay của mình.
Chức năng tạo tiền
Ngoài 2 chức năng trên NHTM còn có chức năng tạo tiền, tức là chức năng sáng tạo ra “bút tệ” góp phần gia tằng khôi phục tiền tệ phục vụ cho nhu cầu chu chuyển và phát triển nền kinh tế.
Khi NHTM sử dụng tiền “bút tệ” hay tiền ghi sổ để hoạch toán nợ, có vào các tài khoản tiền gửi, tài khoản cho vay …Thích ứng, làm cho vòng quay vốn tiền tệ tăng lên nhiều lần thì NHTM thực hiện chức năng tạo tiền.
NHTM không được phép phát hành tiền, không in tiền nhưng hàng ngày tại các Ngân hàng có khoản tiền cho vay (nghĩa là tín dụng tạo ra tiền), có khoản thu nợ (triệt tiêu khoản dư nợ tương ứng). Từ đó khối lượng tiền lưu thông tăng lên khi cấp tín dụng thường lớn hơn khối lượng tiền triệt tiêu do Ngân hàng thu nợ. Thông qua việc hạch toán bằng “bút tệ” ghi nợ tài khoản cho vay tại Ngân hàng mà Ngân hàng đã tạo ra thêm một lương tiền lớn hơn lượng tiền ngân hàng huy động trong nền kinh tế quốc dân, gọi là chức năng tạo tiền của NHTM.
Chức năng sản xuất
Trong kinh tế học, sản xuất được hiểu như là quá trình sử dụng các yếu tố nhập lượng bao gồm đất đai, lao động, vốn để tạo ra các sản phẩm dịch vụ. Chúng ta có thể liên hệ và thấy rằng NHTM cũng sử dụng các yếu tố đất đai, lao động và vốn để tạo ra các sản phẩm dịch vụ như các doanh nghiệp sản xuất khác. Tuy vậy việc NHTM sử dụng các yếu tố nhập lượng có tính chất rất đặc biệt.
- Đất đai: NHTM sử dụng đất đai ở các trung tâm thương mại để tiện cho giao dịch với khách hàng. Có thể nói đất đai của Ngân hàng sử dụng thuộc vào loại đất đai ở trung tâm đô thị và đắt tiền.
- Lao động: NHTM sử dụng lao động cũng khá khác biệt so với các doanh nghiệp ở chỗ lao động của NHTM là những lao động có kĩ năng được đào tạo ở một trình độ nhất định.
- Vốn: NHTM sử dụng đại bộ phận vốn từ nguồn vốn huy động của khách hàng. Có thể nói chưa có loại hình doanh nghiệp nào có tỷ số nợ cao như NHTM.
Trên cơ sở sử dụng các yếu tố nhập lượng hay yếu tố đầu vào đặc thù của quá trình sản xuất, NHTM tạo ra sản phẩm và dịch vụ đặc thù để cung cấp cho khách hàng
Ví dụ:
+ Các sản phẩm huy động vốn như gửi tiền và chứng từ có giá các loại
+ Các sản phẩm cấp tín dụng như cho vay doanh nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay tiêu dùng, cho vay sản xuất, tài chợ xuất nhập khẩu, tài chợ dự án, cho thuê tài chính…..
+ Các sản phẩm thẻ như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, thẻ ATM……
+ Các dịch vụ ngân hàng như dịch vụ chuyển tiền, thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán quốc tế…
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Khái niệm về tín dụng Ngân hàng
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ Ngân hàng cho khách hàng trong một thời gian nhất định với một khoản chi phí nhất định.
Cũng như các loại tín dụng khác, tín dụng Ngân hàng chứa đựng ba nội dung:
Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang người sử dụng.
Sự chuyển nhượng này có thời hạn mang tính tạm thời.
Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
Vai trò của tín dụng Ngân hàng
Trong nền kinh tế, ta thường xuyên thấy có một số các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh có một bộ phận tiền tệ tạm thời nhàn rỗi được tách ra khỏi quá trình tái sản xuất của các doanh nghiệp như: tiền khấu hao tài sản cố định nhưng chưa sử dụng; tiền mua nguyên vật liệu cho quá trình tái sản xuất nhưng chưa mua, vì có sự chênh lệch về thời gian giữa việc mua bán sản phẩm và việc mua nguyên vật liệu; tiền trả lương cho người lao động nhưng chưa đến hạn trả....Các khoản tiền tệ trên đây luôn được các doanh nghiệp đầu tư kiếm lời. Ngoài ra, còn có các khoản tiền để dành của dân cư, khi chưa có nhu cầu sử dụng, họ cũng muốn đầu tư để kiếm lời. Tất cả tạo thành nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế. Trong khi đó có một số doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của mình; một số cá nhân khác cần vốn để cải thiện đời sống hoặc đối phó với những rủi ro trong cuộc sống. Ngân sách nhà nước bị thâm hụt, Nhà nước cần vốn để bù đắp sự thâm hụt đó đảm bảo thu chi cho nền kinh tế…
Như vậy, ta thấy trong xã hội luôn có một số người thừa vốn cần đầu tư và một số người thiếu vốn muốn đi vay. Song những người này khó có thể trực tiếp gặp nhau để cho nhau vay. Hoặc có thể gặp nhau thì chi phí rất cao và không kịp thời, nên tín dung Ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn và để giải quyết nhu cầu thoả đáng trong mối quan hệ này. Nghĩa là tín dụng Ngân hàng thu hút tập trung mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, đáp ứng nhu cầu đầy đủ về vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, tăng tốc độ chu chuyển vốn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Thông qua tín dụng Ngân hàng, có thể nó kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của lưu thông tiền tệ. Mặt khác, tín dụng Ngân hàng còn thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ hoạch toán kinh doanh, giúp các doanh nghiệp khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tê trong hoạt động kinh doanh. Đồng thời, tín dụng Ngân hàng còn tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế nước ngoài, là cầu nối cho việc giao lưu kinh tế và là phương tiện để thắt chặt mối quan hệ kinh tế giữa các nước trên thế giới.
1.3. DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.3.1. Định nghĩa
Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng họăc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định, nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định (chỉ gồm các họat động đầu tư trực tiếp).
1.3.2. Phân loại Dự án đầu tư
Trên thực tế, các dự án rất đa dạng về cấp độ, loại hình, quy mô và thời hạn và được phân loại theo cấp độ khác nhau, theo các tiêu thức dưới dây.
Theo chủ thể dự án: dự án được chia thành dự án cá nhân, dự án tập thể, dự án quốc gia, dự án quốc tế.
Theo lĩnh vực của dự án: gồm dự án xã hội, dự án kinh tế, dự án kỹ thuật, dự án hỗn hợp.
Phân loại theo thời hạn: ngắn hạn (5 năm,10 năm).
1.4. THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.4.1. Định nghĩa
Thẩm định dự án là rà soát, kiểm tra lại một cách khoa học, khách quan và toàn diện mọi nội dụng của dự án và liên quan đến dự án nhằm khẳng định tính hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án trước khi quyết định đầu tư. Trong quá trình thẩm định dự án, nhiều khi phải phân tích lại dự án.
1.4.2. Mục tiêu thẩm định Dự án đầu tư
* Đối với chủ đầu tư
- Giúp chủ đầu tư lưa chọn phương án tốt nhất để ra quyết định đầu tư nhằm đạt được lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội cao nhất mà dự án mang lại.
- Giúp chủ đầu tư quản lý quá trình đầu tư dựa vào chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước, quy hoạch phát triển ngành và địa phương từng thời kỳ.
- Giúp chủ đầu tư thực thi pháp luật và các chính sách hiện hành.
- Giúp chủ đầu tư lưa chọn phương án khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước. Góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bảo đảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
* Đối với Ngân hàng:
Cho vay theo dự án có đặc điểm đem lại nguồn lợi nhuận lớn vì dự án thông thường là có thời hạn dài, quy mô lợn, tính phức tạp cao.
Bên cạnh đó, thông tin về dự án đều do người chủ đầu tư (người đi vay) lập nên, cung cấp nên không khỏi có những ý kiến chủ quan nhất định với dự án. Điều đó buộc Ngân hàng phải tiến hành thẩm định lại dự án một cách toàn diện về lợi ích cũng như rủi ro khi tham gia dự án của khách hàng, từ đó Ngân hàng mới quyết định có nên cho vay hay không.
1.4.3. Quan điểm thẩm định Dự Án Đầu tư
* Một dự án để được chấp nhận và cấp giấy phép đầu tư thì phải được xem xét và đánh giá trên góc độ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia và đáp ứng các lợi ích kinh tế - xã hội của Đất nước.
* Thẩm định dự án đầu tư nhằm thực hiện sự điều tiết của Nhà nước trong đầu tư, bảo đảm sự cân đối giữa lợi ích kinh tế - xã hội của quốc gia và lợi ích của chủ đầu tư.
* Thẩm định dự án đầu tư được thực hiện theo chế độ thẩm định của Nhà nước đối với các dự án có hoặc không có vốn đầu tư của đất nước; phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế.
1.4.4. Nội dung thẩm định Dự Án Đầu Tư
* Giới thiệu về dự án đầu tư:
- Tên dự án
- Tên doanh nghiệp
- Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp.
- Giấy phép đăng ký kinh doanh
- Người đại diện
- Người được uỷ quyền (nếu có)
- Mục tiêu và nghành nghề kinh doanh
- Tổng mức vốn đầu tư của dự án
* Thẩm định tư cách pháp lý của chủ đầu tư
- Thẩm định tư cách pháp nhân của chủ đầu tư: giấy phép thành lập, quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng, điều lệ hoạt động. Điều kiện thành lập doanh nghiệp, năng lực cán bộ quản lý của chủ đầu tư.
- Thẩm định tình hình tài chính của chủ đầu tư.
+ Bảng cân đối kế toán
+ Báo cáo kết quả kinh doanh
+ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
+ Thuyết minh báo cáo tài chính có liên quan
+ Báo cáo kiểm toán
* Thẩm định mục tiêu dự án đầu tư
* Thẩm định tài chính dự án đầu tư
* Thẩm định thời hạn dự án đầu tư
* Thẩm định biện pháp bảo đảm nợ vay
* Kết luận và đề xuất sau thẩm định
1.5. THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.5.1. Khái niệm
Thẩm định tài chính dự án là rà soát, đánh giá một cách khoa học và toàn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án trên góc độ của nhà đầu tư: doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác, các cá nhân. Nếu Chính phủ, các cơ quan quản lý vĩ mô quan tâm nhiều hơn tới hiệu quả kinh tế xã hội của dự án thì các nhà đầu tư này lại quan tâm nhiều hơn tới khả năng sinh lời của dự án. Thẩm định tài chính dự án là nội dung rất quan trọng trong thẩm định dự án. Cùng với thẩm định kinh tế, thẩm định tài chính giúp các nhà đầu tư có những thông tin cần thiết để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.
1.5.2. Sự cần thiết phải thẩm định tài chính Dự án đầu tư của Ngân hàng
Sự an toàn và sinh lời của đồng vốn là mục tiêu hàng đầu của Ngân hàng. Với một dự án sử dụng vốn vay của Ngân hàng thì bên cạnh việc thẩm định về các chỉ tiêu kỹ thuật, phương diện tổ chức, thẩm định tài chính được Ngân hàng đặc biệt coi trọng. Nó quyết định đến việc có cho vay vốn để đầu tư vào dự án đó hay không.
Thẩm định tài chính dự án giúp Ngân hàng xác định tổng vốn đầu tư, nguồn vốn đầu tư, nguồn cung cấp khả năng sinh lời, khả năng trả nợ, thời gian hoạt động của dự án…Căn cứ vào các chỉ tiêu và bằng phương pháp so sánh, phương pháp triệt tiêu rủi ro, hay phân tích độ nhạy của dự án mà đi đến kết luận dự án có khả thi hay không? Ngân hàng có thể cho vay hay không? Cho vay với số lượng bao nhiêu? Với lãi suất và thời hạn như thế nào?
Phân tích đánh giá tài chính dự án đầu tư là nhiệm vụ cần thiết và hết sức quan trọng trong công tác chuẩn bị đầu tư. Đây là một công việc hết sức phức tạp và khó khăn đòi hỏi phải có cơ sở lý luận và phương pháp khoa học.
1.5.3. Nội dung thẩm định tài chinh Dự án đầu tư
Thẩm định tài chính dự án bao gồm nhiều nội dung liên quan chặt chẽ với nhau. Những nội dung chủ yếu được các nhà thẩm định chú trọng tới đó là:
1.5.3.1. Xác định tổng dự toán vốn đầu tư và các nguồn tài trợ: (đứng dưới giác độ thẩm định tài chính dự án đầu tư, dự toán vốn đầu tư được hiểu là việc phân tích và xác định nhu cầu vốn đầu tư cho một dự án đang được xem xét). Cụ thể là: xác định vốn đầu tư vào tài sản cố định, vốn đầu tư vào tài sản lưu động, cách thức huy động vốn (vốn chủ sở hữu, vốn vay, thuê tài sản) từ các nguồn khác nhau; lựa chọn phương thức tài trợ dự án có lợi nhất.
Đây là một nội dung quan trọng đầu tiên cần xem xét khi tiến hành phân tích tài chính dự án. Tổng mức vốn đầu tư của dự án bao gồm toàn bộ số vốn cần thiết để thiết lập và đưa dự án vào hoạt động, tính toán chính xác tổng mức vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng đối với tính khả thi của dự án. Nếu vốn đầu tư quá thấp thì dự án không thực hiện được và ngược lại, nếu dự tính quá cao thì sẽ không phản ánh chính xác hiệu quả tài chính của dự án. Tổng mức vốn này được chia ra làm hai loại là vốn cố định và vốn lưu động ban đầu (chỉ tính cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên).
Ø Vốn cố định:
Vốn cố định bao gồm những chi phí sau đây:
- Chi phí chuẩn bị: là những chi phí trước khi thực hiện dự án (chi phí trước vận hành). Chi phí này không trực tiếp tạo ra tài sản cố định nhưng là chi phí gián tiếp hoặc liên quan đến việc tạo ra và vận hành khai thác các tài sản đó để đạt được mục tiêu đầu tư. Chi phí này bao gồm:
+ Chi phí cho điều tra, khảo sát để lập, trình duyệt dự án.
+ Chi phí cho tư vấn, thiết kế, chi phí cho quản lý dự án.
+ Chi phí đào tạo, huấn luyện…
Các chi phí này khó có thể tính toán chính xác được. Bởi vậy, cần phải được xem xét đầy đủ các khoản mục để dự trù cho chính xác.
Chi phí cho xây lắp và mua sắm thiết bị: bao gồm các khoản mục sau:
+ Chi phí ban đầu về mặt đất, mặt nước. Chi phí này phải phù hợp với các quy định của Bộ tài chính về tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển.
+ Chi phí chuẩn bị mặt bằng xây dựng.
+ Giá trị nhà xưởng và kết cấu hạ tầng sẵn có.
+ Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo nhà xưởng hoặc cấu trúc hạ tầng.
+ Chi phí về máy móc thiết bị (bao gồm cả lắp đặt và chạy thử), phương tiện vận tải.
+ Các chi phí khác…
Ø Vốn lưu động ban đầu:
Vốn lưu động ban đầu bao gồm các chi phí để tạo ra tài sản lưu động ban đầu cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên, nhằm đảm bảo cho dự án có thể đi vào hoạt động bình thường theo các điều kiện kinh tế kỹ thuật đã dự kiến. Nó bao gồm:
- Vốn sản xuất: chi phí nguyên vật liệu, điện, nước, nhiên liệu, phụ tùng…
- Vốn lưu thông: thành phần tồn kho, sản phẩm dở dang, hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền…
Ø Vốn dự phòng:
Là các khoản tiền dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp cũng như trong quá trình dự án đầu tư được thực hiện lại gặp phải những khó khăn về mặt tài chính.
1.5.3.2. Xác định chi phí và lợi ích của dự án, từ đó xác định dòng tiền của dự án.
Những chi phí trực tiếp liên quan đến dự án thường gồm: chi phí nguyên nhiên vật liệu, chi phí thuê máy móc thiết bị, chi phí lao động…Lợi ích của dự án, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, có thể là mức gia tăng doanh thu, cải tiến chất lượng sản phẩm, giảm chi phí.
Sau khi đã xác định được nguồn vốn cho dự án, Ngân hàng tiếp tục xác định tổng chi phí sản xuất và giá thành của sản phẩm dự kiến. Tổng doanh thu bao gồm cho phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất. Chi phí sản xuất bao gồm các loại chi phí vật chất, chi phí nhân công, chi phí quản lý, chi phí sử dụng vốn và khấu hao TSCĐ. Chi phí ngoài sản xuất bao gồm các loại như chi phí quảng cáo, chi phí dự phòng lưu thông sản phẩm và các chi phí khác… Ngân hàng cần xác định giá thành của từng loại sản phẩm, đánh giá các khoản mục chi phí tạo nên giá thành sản phẩm cao hay thấp, có hợp lý hay không, so sánh với giá thành sản phẩm của các loại sản phẩm tương tự trên thị trường và từ đó rút ra những kết luận cụ thể. Để tính giá thành sản phẩm cần căn cứ vào tổng mức chi phí, mức chênh lệch giá, xác định được các hao hụt ngoài dự kiến để tiến hành phân bổ cho số lượng thành phẩm một cách hợp lý. Khi đó trong quá trình thẩm định cần chú ý tới toàn bộ chi phí để sản xuất sản phẩm, các loại khấu hao (hữu hình và vô hình), kiểm tra chi phí nhân công, phân bổ các chi phí lãi vay ngân hành, tính toán lại các mức thuế phải nộp, tránh thừa thiếu hay áp dụng sai mức thuế.
Doanh thu của dự án là tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ thu được trong năm dự kiến. Doanh thu của dự án được xác định trên cơ sở chi phí sản xuất giá bán buôn sản phẩm dịch vụ của dự án. Cần chú ý tới các chỉ tiêu tổng sản lượng, tổng doanh thu, lợi nhuận trước thuế, công suất hoạt động… Doanh thu cần được xác định rõ từng nguồn dự kiến theo năm. Thông thường trong những năm đầu, hoạt động doanh thu đạt thấp hơn những năm sau (50 – 60% doanh thu khi ổn định).
Lợi nhuận của dự án là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí sản xuất các sản phẩm. Lợi nhuận của dự án mà người thẩm định quan tâm bao gồm lợi nhuận gộp, lợi nhuận ròng trước thuế, lợi nhuận ròng sau thuế…
1.5.3.3. Dự tính lãi suất chiết khấu:
Tuỳ theo các quan điểm khác nhau, cách dự tính lãi suất này có thể khác nhau. Song thực chất đó là dự tính lãi suất mong đợi của nhà đầu tư.
1.5.3.4. Đánh giá rủi ro trong dự án:
Đánh giá khả năng xảy ra của một biến cố không chắc chắn trong các giai đoạn của dự án. Rủi ro tiềm ẩn trong mọi giai đoạn của dự án. Do vậy, thẩm định đúng rủi ro sẽ tạo điều kiện thực hiện dự án đúng như đã định.
1.5.3.5. Xác đinh các chỉ tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả tài chính dự án gồm các chỉ tiêu sau:
► Giá trị hiện tại ròng (NPV)
Theo phương pháp này, tất cả các khoản thu nhập đạt được trong tương lai và vốn đầu tư bỏ ra ban đầu để thực hiện dự án đều phải quy về giá trị hiện tại theo một tỷ lệ chiết khấu nhất định, trên sơ sở đó so sánh giá trị hiện tại của thu nhập và giá trị hiện tại của vốn đầu tư để xác định giá trị hiện tại ròng của dự án.
Công thức:
Trong đó :
NPV : Giá trị hiện tại ròng của DAĐT
CFt : Dòng tiền ròng năm thứ t.
CFo : Vốn đầu tư ban đầu của dự án
n : Vòng đời của dự án
k : Tỷ lệ chiết khấu (%)
Cách xác định:
NPV < 0 Dự án bị loại bỏ.
NPV = 0 Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể và sự cần thiết của dự án mà doanh nghiệp có thể quyết đinh chấp thuận hay loại bỏ.
NPV > 0 Nếu các dự án độc lập thì chọn hết, nếu các dự án xung khắc nhau thì chọn NPV nào cao nhất.
Ý nghĩa:
Phương pháp xác định giá trị hiện tại ròng của dự án chính là đo lường phần giá trị tăng thêm dự tính mà dự án đem lại cho chủ đầu tư với mức độ rủi ro cụ thể của dự án. Việc xác minh chính xác tỷ lệ chiết khấu của mỗi dự án đầu tư là khó khăn. Người ta có thể lấy bằng lãi suất đầu vào, đầu ra thị trường. Nhưng thông thường là chi phí bình quân của vốn. Tuỳ từng trường hợp, người ta còn xem biến động lãi suất trên thị trường, và khả năng giới hạn về vốn của chủ đầu tư khi thực hiện dự án.
Ưu điểm:
Phương pháp này tính toán dựa trên cơ sở dòng tiền có chiết khấu (tức là hiện tại hoá dòng tiền) là hợp lý vì tiền có giá trị theo thời gian.
Lựa chọn dự án theo chỉ tiêu NPV là thích hợp vì nó cho phép lựa chọn dự án có khả năng mang lại lợi nhuận cao nhất cho chủ đầu tư.
Nhược điểm:
Phương pháp này phụ thuộc nhiều vào tỷ lệ chiết khấu r được lựa chọn. cụ thể r càng nhỏ thì NPV càng lớn và ngược lại. Trong khi đó, việc xác định đúng r là rất khó khăn.
Chỉ phản ánh được quy mô sinh lợi (số tương đối) cho biết hiệu quả của một đồng vốn bỏ ra là bao nhiêu).
Với các dự án có thời gian khác nhau, dùng NPV để lựa chọn dự án sẽ không được chính xác. Muốn so sánh được chính xác thì các dự án phải có thời gian gần bằng nhau.
Phương pháp NPV khó tính toán vì đòi hỏi phải xác định chính xác chi phí vốn.
► Tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR)
Tỷ suất doanh lợi nội bộ là một lãi suất mà chiết khấu với mức lãi suất đó làm cho NPV = 0.
Để xác định được IRR thì phải trải qua các bước sau;
Bước 1: Chọn một mức lãi suất tuỳ ý K1 sau đó tính NPV1 theo K1.
Bước 2: Chọn tiếp một mức lãi suất K2 thoả mán điều kiện:
Nếu giá trị hiện tại thuần (NPV1 > 0) thì chọn lái suất K2 > K1 sao cho với K2 làm cho giá trị hiện tại thuần (NPV2 < 0) và ngược lại.
Để đảm bảo cho mức độ chính xác cao hơn thì chênh lệch giữa K2 và K1 là 5%
Bước 3: Tìm tỷ suất doanh lợi nội bộ của dự án: tỷ suất doanh lợi nội bộ IRR của dự án sẽ nằm trong khoảng K1 và K2 và được xác định theo công thức sau
Theo phương pháp này, một dự án có được chấp nhận đầu tư hay không người ta thường so sánh IRR với chi phí sử dụng vốn cho dự án (r):
- IRR < r dự án loại bỏ.
- IRR = r tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể và sự cần thiết của dự án mà doanh nghiệp có thể quyết đinh chấp thuận hay loại bỏ.
- IRR > r nếu các dự án độc lập thì chọn hết, nếu các dự án xung khắc nhau thì chọn IRR cao nhất.
Ưu điểm:
Có tính đến giá trị thời gian của tiền.
Phương pháp này cho biết khả nằng sinh lợi của dự án tính bằng tỷ lệ phần trăm vì vậy thuận tiện cho việc so sánh các cơ hội đầu tư.
Nhược điểm:
Phương pháp này có thể cho kết quả sai lệch nếu có hai hoặc nhiều dự án loại trừ nhau đem so sánh vì IRR không xét đến quy mô dự án đầu tư.
Do không tính toán trên cơ sở chí phí vốn của dự án, phương pháp IRR có thể dẫn đến nhận định sai lệch về khả năng sinh lợi của dự án.
Phương pháp này có thể có mâu thẫn với phương pháp NPV khi chi phí vốn thay đổi.
► Chỉ số doanh lợi (PI).
Khái niệm:
Chỉ số doanh lợi (profit index) là chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi của dự án, tính bằng tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền trong tương lai chia cho vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.
Ý nghiã:
PI cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra sẽ tạo được bao nhiêu đồng thu nhập. Thu nhập này chưa tính đến chi phí vốn đầu tư đã bỏ ra.
Cách xác định:
PI : Chỉ số doanh lợi
CFt : Dòng tiền ròng năm thứ t.
CFo : Vốn đầu tư ban đầu của dự án
n : Vòng đời của dự án
k : Tỷ lệ chiết khấu (%)
Tiêu chuẩn lựa chọn:
PI càng cao thì dự án càng dễ._. chấp nhận, nhưng tối thiểu phải bằng lãi suất chiết khấu. Nếu không, chi phí cơ hội đã bỏ qua khi thực hiện dự án không được bù đắp bởi tỉ suất sinh lợi của dự án.
PI cũng khắc phục được nhược điểm của những dự án có thời hạn khác nhau hay vốn đầu tư khác nhau vì nó phản ánh khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư của cả vòng đời dự án. Tuy nhiên, vì là số tương đối nên nó không phản ánh được quy mô gia tăng giá trị cho chủ đầu tư như NPV.
► Thời gian hoàn vốn (PP):
Khái niệm: Thời gian hoàn vốn đầu tư là thơi để chủ đầu tư thu hồi được số vốn đã đầu tư vào dự án.
Ý nghĩa:
PP phản ánh thời gian thu hồi vốn đầu tư vào dự án, nó cho biết sao bao lâu thì dự án thu hồi đủ vốn đầu tư; do vậy, PP cho biết khả năng tạo thu nhập của dự án từ khi thực hiện cho đến khi thu hồi đủ vốn. Tuy nhiên, PP lại không xem xét để thực hiện khả năng tạo ra thu nhập sau khi đã thu hồi vốn đầu tư.
Cách xác định:
PP = n +
Số vốn đầu tư còn lại cần được thu hồi
Dòng tiền ngay sau mốc hoàn vốn
Trong đó: n là năm ngay trước năm thu hồi đủ vốn đầu tư.
Tiêu chuẩn lựa chọn dự án:
Nếu có 2 hay nhiều dự án để so sánh thì ta nên chọn dự án nào có PP nhỏ nhất.
Ưu điểm:
- Dễ làm dễ áp dụng cho các dự án nhỏ
- Có cái nhìn tương đối chính xác về mức độ rủi ro của dự án, do đó chọn được những dự án có rủi ro thấp nhất.
- Không cần tính đến dòng tiên những năm sau năm thu hồi dủ vốn đầu tư ban đầu, tránh lãng phí thời gian và chi phí.
- Sau thời gian thu hồi vốn có thể tận dụng các cơ hội khác đầu tư có lợi hợn.
Nhược điểm:
- Không tính đến giá trị thời gian của tiền.
- Không chú ý tới các dự án có tính chất chiến lược, dự án dài hạn.
- Yếu tố rủi ro của các luồng tiền trong tương lai không được xem xét.
► Xác định điểm hoà vốn của dự án:
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu bằng với chi phí đã bỏ ra. Tại điểm hoà vốn, doanh nghiệp không có lãi và cũng không bị thua lỗ.
Khi xem xét điểm hoà vốn, người ta còn phân biệt ra 2 trường hợp là điểm hoà vốn kinh tế và điểm hoà vốn tài chính.
Điểm hoà vốn kinh tế là điểm biểu thị doanh thu bằng tổng chi phí sản xuất kinh doanh gồm tổng chi phi biến đổi và tổng chi phí cố định kinh doanh (chưa tính lãi vay vốn kinh doanh phải trả). Tại điểm hoà vốn kinh tế, lợi nhuận trước lãi vay và thuế bằng 0.
Điểm hoà vốn tài chính: là điểm biểu thị doanh thu bằng tổng chi phí sản xuất và lãi vay vốn kinh doanh phải trả. Tại điểm hoà vốn này lợi nhuận trước thuế bằng 0.
+ Cách xác định:
Gọi Qh là sản lượng hoà vốn
Dh là doanh thu tại điểm hoà vốn
F là tổng chi phí cố định kinh doanh
V là chi phí biến đổi trên một đơn vị sản phẩm
P là giá bán đơn vị sản phẩm
Vì tại điểm hoà vốn tông doanh thu bằng tổng chi phí bỏ ra.
Ta tính được sản lượng hoà vốn dựa vào công thức sau
Qh x P = F + Qh x V
Qh ( P – V ) = F
Qh =
=> Xác định Doanh thu hoà vốn: Dh = Qh x P
Ưu điểm của phân tích điểm hoà vốn.
Cho biết doanh nghiệp cần sản xuất và tiêu thụ bao nhiêu sản phẩm hoặc cần thời gian bao lâu thì bù đắp được những chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra hoặc đạt được lợi nhuận theo dự kiến. Từ đó có thể đề ra các biện pháp để tránh rủi ro và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Trên cơ sở phân tích điểm hoà vốn có thể lựa chọn các phương án sản xuất khác nhau hoặc đưa ra các quyết định có tính chiến lược lâu dài cho doanh nghiệp như có nên tiếp tục sản xuất hay nhận những đơn đặt hàng với giá bán thấp hợn sau khi doanh nghiệp đã đạt được điểm hoà vốn..
Nhược điểm của phân tích điểm hoà vốn
Hầu hết các chi phí trong doanh nghiệp đều rất phức tạp và không thể phân chia một cách hoàn toàn rành mạch thành chi phí cố định hay chi phí biến đổi. Bởi vậy việc phân tích điểm hoà vốn sẽ gặp nhiều khó khăn.
Phân tích điểm hoà vốn không quan tâm đến giá trị thời gian của tiền. chẳng hạn, chi phí cố định có thể được phân bổ trước khi tính toán các chi phí biến đổi và trước khi tạo ra thu nhập. Khi phân tích điểm hoà vốn trong những khoảng thời gian ngắn, việc bỏ qua thời gian của tiền thường không ảnh hưởng lớn lắm. Nhưng nếu phân tích trong những khoảng thời gian dài, chi phí và doanh thu phải được thể hiện dưới hình thức giá trị hiện tại. Điều này đòi hỏi phải áp dụng hình thức phân tích độ nhạy với yếu cầu tích chính xác cao về doanh số hàng bán được và với mức doanh thu mà tại đó NPV > 0.
Mô hình phân tích điểm hoà vốn cơ bản đánh giá theo đường thẳng tức P và V không đổi, nhưng giá bán và chi phí biến đổi của mỗi đơn vị hàng bán có thể thay đổi theo mức sản xuất.
► Phân tích độ nhạy của dự án:
Hiệu quả dự án đầu tư phụ thuộc vào yếu tố được dự báo khi lập dự án. Đã là dự báo thì rất có thể bị sai lệch, nhất là những giá cả dự kiến trong tương lai xa. Các dự kiến có thể có những sai lệch như giá cả, chi phí đầu tư…làm ảnh hưởng tới NPV, IRR. Do vậy, khi đánh giá để chọn một phương án đầu tư cần xem xét tới độ sai lệch của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính. Mức độ thay đổi của các chỉ tiêu, hiệu quả do sự thay đổi các yếu tố dự tính là độ nhạy của dự án.
Thông thường người ta dự kiến một số tình huống thay đổi, những bất trắc có thể xảy ra trong tương lai làm giảm sản lượng, giảm giá bán rồi từ đó tính lại các chỉ tiêu hiệu quả. Nếu các chỉ tiêu tính lại đó vẫn đạt thì dự án được xem là ổn định và sẽ được chấp nhận. Mức độ giảm giá dùng trong phân tích độ nhạy có thể đến 35% giá trị tính ban đầu. Có thể dùng phương pháp xác suất để đánh giá độ nhạy của dự án.
+ Ưu điểm của phân tích độ nhạy:
Phân tích độ nhạy là một quy trình rất hữu ích để nhận diện các biến số mà những thay đổi của chúng có thể gây tác động lớn đến NPV của một dự án. Nó cho phép người ra quyết định tính toán được những hậu quả của sự ước tính sai lầm và ảnh hưởng của chúng đối với NPV. Bởi vậy quá trình này cần nhấn mạnh sự cần thiết phải cải tiến phương pháp đánh gía và tiến hành những hoạt động nhằm giảm tính không chắc chắn liên quan những biến số chủ yếu.
+ Nhược điểm của phân tích độ nhạy:
Các giá trị của biến số được đưa ra dựa trên những phán đoán mang tính chủ quan rất cao. Mặc dù người ta có thể biện luận rằng mức độ kỳ vọng được nhận xét là rất tốt.
Sự phân tích khảo sát độ nhạy của NPV với nhiều biến số khác nhau, mỗi biến số tại một thời điểm, bở qua mối quan hệ bên trong giữa các biến số khi chúng cùng tác động vào một đối tượng. Chẳng hạn, sự cạnh tranh có thể gây ra sự giảm sút số lượng đợn vị hàng bán cũng như làm giảm giá bán. Bởi vậy, khi phân tích sự cần phải điều chỉnh tuỳ theo những dự báo bi quan chỉ rõ viễn cảnh mà trong đó mức kết hợp của tất cả các biến số liên quan được dự báo.
Những kết quả về phân tích độ nhạy không đem lại cho người ra quyết định một giải pháp rõ ràng đối với vấn đề lựa chọn dự án.
1.5.3.6. Thẩm định kế hoạch trả nợ của dự án:
Kế hoạch trả nợ của dự án được xây dựng trên cơ sở phương án nguồn vốn và điều kiện vay nợ của từng nguồn. Nó được chủ đầu tư đưa ra trong giai đoạn lập dự án, khi mà nhiều điều kiện vay trả nợ cụ thể chưa được khẳng định còn mang tính chủ quan dựa trên những dự định. Ngân hàng khi thẩm định sẽ xem xét tính hợp lý của kế hoạch trả nợ này dựa trên cơ sở phân tích dòng tiền thu của dự án. Nguồn thu của dự án phải đảm bảo phù hợp với kế hoạch trả nợ ngân hàng. Tính toán các chỉ tiêu nhằm đưa ra kỳ hạn vay, thời gian ra hạn, kỳ trả nợ…
1.5.3.7. Phân tích tổng quan tình hình tài chính của doanh nghiệp
Để có cái nhìn toàn diện hơn về tình hình tài chính và tính khả thi của dự án đầu tư thì bên cạnh việc thẩm định tình hình tài chính của dự án, ngân hàng còn phải thẩm định khía cạnh tài chính của doanh nghiệp. Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp các ngân hàng thường sử dụng các tỷ số tài chính. Thông qua các chỉ số này ngân hàng có thể đánh giá khá chính xác về tình hình tài chính của nhà đầu tư (chủ doanh nghiệp). Các tỷ số mà ngân hàng thường sử dụng để đánh giá tình hình tài chính của chủ dự án là :
► Các chỉ số về khả năng thanh toán:
Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi chúng đến hạn thanh toán, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau.
+ Hệ số khả năng thanh toán hiện thời hay khả năng thanh toán ngắn hạn:
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời =
Tổng tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền để trang trải các khoản nợ ngắn hạn, vì thế hệ số này cũng thể hiện mức độ đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Để đánh giá hệ số này cần dựa vào hệ số trung bình của các doanh nghiệp trong cùng ngành. Cần thấy rằng, hệ số này ở các ngành nghề kinh doanh khác nhau có sự khác nhau. Một căn cứ quan trọng để đánh giá là so sánh với các hệ số thanh toán ở các thời kỳ trước đó của doanh nghiệp.
Thông thường khi hệ số này thấp thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp là yếu kém và cũng là dấu hiệu báo trước khó khăn tiềm ẩn về tài chính của doanh nghiệp có thể gặp phải trong việc trả nợ. Hệ số này cao cho thấy doanh nghiệp có khả năng cao trong việc sẵn sàng thanh khoản nợ đến hạn.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp hệ số này cao chưa chắc đã phản ánh năng lực thanh toán của doanh nghiệp là tốt. Do vậy, để đánh giá đúng hơn cần xem xét thêm tình hình của doanh nghiệp.
+ Hệ số thanh toán nhanh:
Là một chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hợn khả năng thanh toán của doanh nghiệp, được xác định bằng công thức sau:
Hệ số thanh toán nhanh =
Tổng tài sản lưu động – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ (hàng tồn kho).
Nếu Hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp mà lớn hơn Hệ số trung bình ngành, thì cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp là tốt và ngược lại.
+ Hệ số thanh toán tức thời:
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ tức thời của doanh nghiệp. Hê số này đựơc xác định bằng công thức sau.
Hệ số thanh toán tức thời =
Tiền + các khoản tương đương tiền
Nợ ngắn hạn
Ở đây, tiền bao gồm tiền mặt, tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn về chứng khoán, các khoản đầu tư ngắn hạn khác có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền trong thời hạn 3 tháng và không gặp rủi ro lớn. Nếu hệ số thanh toán tức thời của doanh nghiệp mà lớn hơn hệ số trung bình nghành cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp là cao và ngược lại.
+ Hệ số thanh toán lãi vay:
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán lãi tiền vay của doanh nghiệp và cũng phản ánh mức độ rủi ro có thể gặp phải đối với chủ nợ. Hệ số này được xác định bằng công thức sau.
Hệ số thanh toán lãi vay =
Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
Số lãi tiền vay phải trả trong kỳ
Nếu hệ số thanh toán lãi vay của doanh nghiệp mà cao hơn hệ số thanh toan lãi vay trung bình ngành. Hệ số này cho biết khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp trong tình trạng tốt và ngược lại.
► Các chỉ số về hiệu suất hoạt động.
Các hệ số hoạt động kinh doanh có tác dụng đo lường năng lực quản lý và sử dụng số vốn hiện có của doanh nghiệp. Các hệ số thường được sử dụng để đánh gía mức độ hoạt động kinh doanh của Doanh Nghiệp.
+ Hệ số vòng quanh hàng tồn kho:
Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hiệu quả sủ dụng của doanh nghiệp và được xác định bằng công thức sau.
Số vòng quay hàng tồn kho =
Giá vốn hàng bán
Số hàng tồn kho bình quân trong kỳ
Số vòng quanh hàng tồn kho cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm của nghành kinh doanh.
Thông thường, số vòng quay hàng tồn kho cao so với hệ số trung bình ngành, điều này cho ta thấy rằng: việc tổ chức và quản lý dự trữ của doanh nghiệp là tốt, doanh nghiệp có thể rút ngắn được chu kỳ kinh doanh và giảm được lượng vốn bỏ ra vào hàng tồn kho. Nếu số vòng hàng tồn kho thấp, thường gợi lên doanh nghiệp có thể dự trữ vật tư quá mức đẫn đến tình trạng ứ đọng hoặc sản phẩm bị tiêu thụ chậm. Từ đó, có thể đẫn đến dòng tiền vào của doanh nghiệp bị giảm đi và có thể đặt doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn về tài chính trong tương lai. Tuy nhiên, để đánh giá thoả đáng cần xem xét cụ thể và sâu hơn tình thế của doanh nghiệp.
+ Kỳ thu tiền trung bình:
Hệ số này phản ánh độ dài thời gian thu tiền bán hàng của doanh nghiệp kể từ lúc xuất giao hàng cho đến khi thu được tiền bán hàng. Kỳ thu tiền trung bình của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào chính sách bán chịu và việc tổ chức thanh toán của doanh nghiệp. Do vậy, khi xem xét kỳ thu tiền trung bình cần xem xét trong mối liên hệ với sự tăng trưởng doanh thu của doanh nghiệp. Khi kỳ thu tiền trung bình quá dài so với các doanh nghiệp trong nghành thì dễ dẫn đến tình trạng nợ khó đòi. Kỳ thu tiền trung bình được tính theo công thức sau.
Kỳ thu tiền trung bình
=
Số dư bình quân các khoản phải thu
Doanh thu bình quân 1 ngày trong kỳ
+ Hệ số vòng quay vốn lưu động:
Hệ số này phản ánh khả năng luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm. Hệ số này càng cao càng tốt. Hệ số này thấp thì vốn đầu tư không được dử dụng một cách hiệu quả và có khả năng doanh nghiệp dự trữ hàng tồn kho quá nhiều hay tài sản không được sử dụng hoặc đang vay mượn quá mức. Hệ số này được xác định như sau.
Số vòng quay vốn lưu động =
Doanh thu thuần
Tài sản lưu động bình quân
Nếu doanh nghiệp có hệ số vòng quay vốn lưu động lớn hơn hệ số vòng quay trung bình ngành điều đó cho biết doanh nghiệp không bị ứ đọng hàng tồn kho. Ngược lại nếu nhỏ hơn hệ số vòng quay trung bình ngành cho thấy doanh nghiệp có khả năng bị ứ đọng hàng tồn kho.
► Các chỉ số cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu tài sản.
- Hệ số cơ cấu nguồn vốn: là một hệ số tài chính hết sức quan trọng đối với nhà quản lý doanh nghiệp, với các chủ nợ cũng như các nhà đầu tư.
Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp thông qua hệ số nợ cho thấy sự độc lập về tài chính, mức độ sử dụng dòn bẩy tài chính và rủi ro tài chính có thể gặp phải để từ đó có sự điều chỉnh về chính sách tài chính phù hợp.
Đối với các chủ nợ qua xem xét hệ số nợ của doanh nghiệp thấy được sự an toàn của khoản cho vay để đưa ra quyết định cho vay hoặc thu hồi nợ.
Nhà đầu tư có thể đánh giá mức độ rủi ro tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở đó cân nhắc các khoản đầu tư.
Hệ số cơ cấu nguồn vốn được thể hiện chủ yếu qua hệ số nợ
+ Hệ số nợ: thể hiện việc sử dụng nợ của doanh nghiệp trong việc tổ chức nguồn vốn và điều đó cũng cho thấy mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp.
Hệ số nợ =
Tổng số nợ
Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp
Tổng số nợ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ số nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Tổng nguồn vốn bao gồm tổng các nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng. Nếu hệ số nợ của doanh nghiệp cao hơn hệ số nợ của ngành điều này cho thấy nếu doanh nghiệp không sử dụng vốn vay có hiệu quả thì sẽ làm tăng rủi ro cho doanh nghiệp.
Cùng với hệ số nợ, có thể xác định hệ số vốn chủ sở hưu theo công thức sau:
Hệ số vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hưu
Tổng nguồn vốn
+ Hệ số cơ cấu tài sản: phản ánh mức độ đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp: Tài sản lưu động, tài sản cố định và tài sản dài hạn khác.
Tỷ suất Đầu tư vào tài sản dài hạn:
Tỷ suất đầu tư vào tài sản ngắn hạn =
Tài sản ngắn hạn
Tổng tài sản
Tỷ suất đầu tư vào tài sản dài hạn:
Tỷ suất đầu tư vào tài sản dài hạn =
Tài sản dài hạn
Tổng tài sản
Căn cứ vào ngành kinh doanh và tình hình kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp để đánh giá mức độ đầu tư vào các loại tài sản doanh nghiêp.
► Các chỉ số về khả năng sinh lãi.
+ Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
Doanh lợi doanh thu
=
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Tỷ số này cho ta biết trong 100 đồng doanh thu thì tao ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ số này càng cao càng tốt.
+ Tỷ số doanh lợi tổng tài sản
Doanh lợi tổng tài sản (ROA)
=
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản bình quân
Chỉ tiêu này cho thấy tính hiệu quả của việc sủ dụng các tài sản hiện hữu của doanh nghiệp, tỷ lệ càng cao càng tốt..
+ Tỷ số doanh lợi trên vốn chủ sở hữu
Doanh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE)
=
Lợi nhuận sau thuế
Nguồn vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu này cho biết trong 100 đồng vốn chủ sở hữu thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt. Nó phản ánh khả năng quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
► Chỉ tiêu đánh giá sự tăng trưởng của khách hàng
Tốc độ tăng
trưởng doanh thu
=
Doanh thu kỳ hiện tại
Doanh thu kỳ trước
1.6. CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.6.1. Khái niệm về chất lượng thẩm định tài chính Dự án đầu tư
Chất lượng của thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của Ngân hàng, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận và sự an toàn của ngân hàng.
Chất lượng thẩm định tài chính dự án dưới góc độ Ngân hang là xem xét dự án đó có đáp ứng tốt nhất những yêu cầu của Ngân hang, thông qua các chỉ tiêu như quy trình thẩm định có tính khoa học và toàn diện không? Thời gian thẩm định nhanh hay chậm, chi phí thẩm định cao hay thấp, việc lựa chọn các phương pháp thẩm định có phù hợp với dự án không…?
Một dự án đạt hiệu quả về mặt tài chính khi dự án đó đã thẩm định phải có khả năng trả nợ (cả gốc và lãi) theo dự kiến, thời gian thẩm định nhanh, có hiệu quả về mặt xã hội, rủi ro tín dụng thấp, không phát sinh các khoản nợ khó đòi, quá hạn, từ đó giúp ngân hàng có lợi nhuận. Một dự án thẩm định tồi không có hiệu quả về mặt tài chính không chỉ làm cho Ngân hàng không thu được vốn, suy giảm lợi nhuận mà còn có khả năng dẫn đến bờ vực phá sản. Do đó nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là nhiệm vụ quan trọng của mỗi ngân hàng, nó đòi hỏi phải đựơc làm thường xuyên có khoa học và nghiêm túc.
1.6.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính Dự án đầu tư
Chất lượng của thẩm định dự án phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Để có được kết quả tốt nhất về thẩm định tài chính dự án trên cơ sở tin cậy để ra quyếtt định đầu tư dúng đắn, ta cần phải nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng sau:
+ Đội ngũ cán bộ: yếu tố con người là nhân tố quyết định trực tiếp đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Nếu nhà quản lý nhận thức đúng ý nghĩa của thẩm định tài chính dự án thì họ mới tạo ra những điều kiện thuân lợi cho cán bộ thẩm định. Nếu cán bộ thẩm định có năng lực chuyên môn tốt, thực hiện tốt quy trình thẩm định thì kết quả thẩm định tài chính dự án mới đáng được tin cậy. Do tính chất phức tạp và phạm vi liên quan của dự án, các bộ thẩm định nói chung và cán bộ thẩm định tài chính dự án nói riêng không những phải có kiến thức chuyên sâu mà còn phải có hiểu biết rộng, có phẩm chất đạo đức tốt.
+ Trang thiết bị, công nghệ: Đây là nhân tố ảnh hưởng tới thời gian và độ chính xác của kết quả thẩm định tài chính dự án. Với trang thiết bị hiện đại, việc thu thập và xủ lý các thông tin sẽ được tiến hành một cách nhanh chóng và chính xác, các cơ hội đầu tư sẽ được nắm bắt kịp thời.
+ Thông tin: Thẩm định dự án tài chính được tiến hành trên cơ sở phân tích các thông tin trực tiếp và gián tiếp và gián tiếp liên quan đến dự án. Đó là các thông tin về thị trường trong nước và quốc tế; thông tin về kỹ thuật, quy hoạch phát triển kinh tế của Nhà nước….Nếu những thông tin này không được thu thập đầy đủ và chính xác thì kết quả thẩm định tài chính dự án sẽ bị hạn chế đẫn đến quyết định đầu tư sai.
+ Tổ chức công tác thẩm đinh tài chính dự án: Do thẩm định tài chính dự án được tiến hành theo nhiều giai đoạn nên tổ chức công tác thẩm định có ảnh hưởng không nhỏ tới thẩm định tài chính dự án. Nếu công tác này được tổ chức một cách khoa học, hợp lý trên cơ sở phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cá nhân, kiểm tra giam sát chặt chẽ, kết quả thẩm định tài chính dự án sẽ cao.
+ Môi trường kinh tế - xã hội: Một nền kinh tế của một quốc gia phát triển thiếu đồng bộ, không ổn định, chưa phát triển sẽ hạn chế trong việc cung cấp những thông tin chính xác cho viêc thẩm định. Đồng thời những định hướng, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế, xã hội theo vùng, lãnh thổ, ngành … chưa đựơc xây dựng cụ thể, đồng bộ và ổn định cũng là một yếu tố gây rủi ro trong phân tích, đánh giá và đi đến chấp nhận dự án. Nhiều yếu tố nằm ngoài tầm dự báo của ngân hàng như: thiên tai, chiến tranh, khủng bố… làm cho ngân hàng không thể thu hồi được vốn bởi vì rủi ro này ảnh hưởng nghiêm trọng đến dự án và doanh nghiệp không thể chống dỡ được.
+ Môi trường pháp lý: Với những khiếm khuyết trong tính hợp lý, tính đồng bộ và hiệu lực của các văn bản pháp lý, chính sách quản lý của Nhà nước đều tác động xấu đến chất lượng thẩm định tài chính dự án cũng như kết quả hoạt động của dự án. Các dự án thường có thời gian kéo dài và thường liên quan đến nhiều văn bản luật, dưới luật về các lĩnh vực như văn bản về quản lý tài chính trong các doanh nghiệp, các văn bản vê thuế, luật doanh nghiệp… Do đó nếu các văn bản này không có tính ổn định trong thời gian dài cũng như không rõ ràng, minh bạch… thì sẽ làm thay đổi tính khả thi của dự án theo thời gian cũng như gây khó khăn cho ngân hàng trong việc phân tích, đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả, dự báo rủi ro, làm ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng và khả năng thu hồi nợ của ngân hàng.
+ Nhân tố từ chủ đầu tư (các doanh nghiệp)
Đối với khách hàng, các dự án mà khách hàng mang tới ngân hàng phải đưa ra các con số tương đối chính xác về khoản chi phí, doanh thu của khách hàng bởi nhiều khi khách hàng đưa ra những con số không chính xác về giá cả, chi phí, doanh thu, các cán bộ ngân hàng phải mất nhiều thời gian và công sức điều tra lại để có những con số chính xác hoặc ít nhất là tương đối chính xác. Nhưng nếu gặp những cán bộ không có trách nhiệm nghề nghiệp họ sẽ chẳng cần phải kiểm tra lại khi đó tính thiếu chính xác trong những con số mà khách hàng đưa ra sẽ dẫn đến một hậu quả nghiêm trọng là kết luận sai về tính khả thi của dự án và nếu ngân hàng cho vay thì sẽ dẫn đến thua lỗ. Do đó chất lượng thẩm định dự án của ngân hàng sẽ bị đánh giá là thấp.
+ Về phía cơ quan hữu quan:
Cơ quan hữu quan – đó là những cơ quan quản lý ngân hàng hoặc những văn bản chính sách của các cơ quan này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng. Khi các cơ quan này đưa ra những văn bản mới thì sự kịp thời, tính hợp lý của chúng và của các văn bản hướng dẫn kèm theo có ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng nói chung và công tác thẩm định của ngân hàng nói riêng. Các văn bản này có thể kể tới các văn bản hướng dẫn tính khấu hao, tính tiền thuế đất đai của nhà nước, tính giá trị của tài sản, hay những hướng dẫn về thuế là những văn bản có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác thẩm định của ngân hàng.
Các yếu tố về phía ngân hàng, khách hàng hay cơ quan hữu quan dù có mức độ ảnh hưởng khác nhau tới chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư của ngân hàng nhưng chúng đều là cơ sở để đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án của các ngân hàng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH TÂY HÀ NỘI
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHI NHANH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG (NHTM CP CT) TÂY HÀ NỘI
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh NHTM CP Công Thương Tây Hà Nội.
Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Tây Hà Nội là một đơn vị thuộc trong hệ thống chi nhánh của Ngân hàng công thương Việt Nam tên giao dịch là Vietinbank. Sau đó đổi tên thành NHTM CP Công thương VN - Chi nhánh Tây HN vào ngày 04/8/2009. Tiền thân của chi nhánh NHCT Tây HN là chi nhánh NHCT Cầu Giấy có trụ sở tại 117A Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy, Tp Hà Nội, hoạt động với mã Shift là ICBVVNVX140, được thành lập vào ngày 27/03/1993 theo Quyết định số 67/QĐ -NH5 của Thống đốc NHNN Việt Nam.
Chi nhánh NHCT Tây HN được thành lập từ ngày 24/02/2006 Theo Quyết định số 054 QĐ/HĐQT-NHCT1 của Hội đồng quản trị NHCT Việt Nam trên cơ sở tách từ chi nhánh NHCT Cầu Giấy. Chi nhánh NHTM CP CT Tây Hà Nội hoạt động với mã Shift là ICBVVNVX146. Trụ sở tại 72A Đường Hồ Tùng Mậu, huyện Từ Liêm, Tp Hà Nội.
Chi nhánh NHTM CP CT Tây Hà Nội mới chính thức hoạt động độc lập từ ngày 01/05/2006. Tuy nhiên, hòa chung vào xu thế phát triển kinh tế của cả nước, Chi nhánh NHCT Tây Hà Nội mặc dù còn non trẻ song đã đạt được những thành tựu nhất định và trở thành một chi nhánh hoạt động hiệu quả trong hệ thống chi nhánh của NHCT Việt Nam.
2.1.2. Hệ thống bộ máy tổ chức và quản lý của chi nhánh NHTM CP Công Thương Tây Hà Nội.
Chi nhánh NHCT Tây Hà Nội gồm có 9 phòng ban nghiệp vụ với 1 giám đốc và 2 phó giám đốc. Trong đó giám đốc điều hành toàn bộ guồng máy hoạt động của Chi nhánh, 2 phó giám đốc chia nhau phụ trách các phòng ban. Các phòng ban hoạt động, hỗ trợ cho ban điều hành Chi nhánh trong từng công việc, gắn kết lại thành một thể thống nhất. Tạo nên một bộ máy làm việc chuyên nghiệp, tổ chức vững chắc không có gì có thể lay chuyển nổi. Mới chỉ 4 năm hoạt động nhưng với một tổ chức hoạt động, một cơ cấu chắc chắn đã chinh phục được thị trường đã và đang phát triển một cách chóng mặt và hiện nay nước ta tham gia vào WTO, thị trường càng có nhiều biến động, và nhất là trong lĩnh vực Ngân hàng, Chi nhánh sẽ phải đương đầu với không ít các đối thủ cạnh tranh hoạt động chuyên nghiệp hơn từ nước ngoài sang. Nhưng không vì thế mà bộ máy này hoạt động lùi lại. Cụ thể sơ đồ cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHCT Tây Hà Nội như sau:
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
P.KH
CÁ NHÂN
P.TÀI TRỢ TM
P.TC HÀNH CHÍNH
P.KẾ TOÁN
TỔ QUẢN LÝ RỦI RO
P.KHO QUỸ
PHÓ GIÁM ĐỐC
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
CHI NHÁNH TÂY HÀ NỘI
P.KH
DN
PGD CẤP 1
PGD CẤP 2
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHTM CP Công Thương Tây Hà Nội.
Do những năm đầu mới thành lập, chi nhánh NHTMCP Công thương Tây Hà Nội gặp nhiều khó khăn do thương hiệu mới, cơ sở vật chất chưa được hoàn thiện, khách hàng chưa ổn định. Trong khi đó, lực lượng cán bộ lại mỏng, chỉ khoảng hơn 50 người. Địa bàn hoạt động tuy rộng nhưng lại có nhiều NHTM và các tổ chức tín dụng cùng hoạt động. Tuy nhiên, Chi nhánh cũng có những lợi thế nhất định, đó là có lượng khách hàng quen thuộc thường xuyên đến giao dịch không ngại phải đi xa, có đội ngũ lãnh đạo dầy dạn kinh nghiệm, nhiệt tình với công việc, và tâm huyết với nghề. Bên cạnh đó, Chi nhanh còn nhận được sự quan tâm hỗ trợ của NHCT Việt Nam về cơ sở vật chất kỹ thuật như máy móc, trang thiết bị công nghệ thồng tin cũng như các công cụ khác phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Chi nhánh đã mạnh dạn mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh như mở thêm nhiều điểm giao dịch mới trên địa bàn đăc biệt là điểm giao dịch số B1/24 đường Lê Đức Thọ….đã tạo điều kiện thu hút được một lượng đông đảo khách hàng đến giao dịch, từng bước chiếm lĩnh thị trường, tăng thị phần hoạt động kinh doanh. Nhờ vậy, hoạt động kinh doanh của Chi nhánh không ngừng phát triển cả về mạng lưới, quy mô, chất lượng. Chi nhánh luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch được giao. Huy động vốn tăng trưởng bình quân hàng năm trên 15%. Tổng nguồn vốn huy động tính đến 31/12/2009 đạt 1.920 tỷ đồng. Cơ cấu nguồn vốn hợp lý, đảm bảo khả năng thanh khoản và hiệu quả trong kinh doanh. Dư nợ tín dụng cũng tăng trưởng bình quân hàng năm trên 11% tính đến 31/12/2009 dư nợ đạt 1.477 tỷ đồng. Dư nợ tăng trưởng lành mạnh tập trung vào các dự án trọng điểm của quốc gia và các tập doàn kinh tế mạnh. Đặc biệt, Chi nhánh đã mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tư nhân, cá thể, hộ gia đình, cho vay các khu công nghiệp, làng nghề truyền thống…… đến nay đã có hàng nghìn khách hàng phát triển sản xuất kinh doanh ổn định từ vốn vay ngân hàng và tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DAĐT TẠI CHI NHÁNH NHTM CP CÔNG THƯƠNG TÂY HÀ NỘI
2.2.1. Qui trình thẩm định tài chính DAĐT tại chi nhánh NHTM CP Công Thương Tây Hà Nội.
Thẩm định dự án đầu tư nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng là một phần không thể thiếu trong quá trình nghiệp vụ cho vay của Ngân hang và đây cũng là công đoạn khá phức tạp đòi hỏi kiến thức tổng hợp và chuyên sâu, kinh nghiệm và sự nhạy cảm của cán bộ thẩm định. Các dự án đầu tư thường có quy mô vốn lớn và thời gian kéo dài, do đó việc thẩm định trước khi cho vay là công việc đòi hỏi một quy trình chặt chẽ . Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Tây Hà Nội là một chi nhánh coi trọng khâu thẩm định trước khi cho vay, luôn tuân thủ theo các bước trong quy trình thẩm định của NHTM CP CT Việt Nam.
* Quy trình thẩm định dự án đầu tư của Chi Nhánh:
=> Thẩm định năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
=> Thẩm định năng lực tài chính của chủ đầu tư.
=> Thẩm định dự án vay vốn dài hạn:
- Mô tả về dự án
- Mục đích đầu tư của dự án
- Các căn cứ pháp lý của dự án
- Sự cần thiết đầu tư cảu dự án
- Quy mô vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn của dự án
- Phân tích sản phẩm – thị trường
- Đánh giá kỹ thuật – công việc và môi trường
- Đánh giá lao động – tiền lương
- Xác định kế hoạch vay và trả nợ của nguồn vốn đầu tư (biểu bảng kèm theo)
- Đánh giá về tiến độ xây dự và quản lý thi công
=> Thẩm định hình thức bảo đảm tiền vay.
Trên cơ sở đó, tổ thẩm định đựa ra kết luận và đề xuất rồi trình trưởng phòng. Trưởng phòng xem xét rồi trình Giám đốc về việc cho vay hay không cho vay đối với dự án.
* Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư của Chi nhánh:
Đây là bước quan trọng và là mục tiêu quan tâm hang đầu của chi nhánh nó ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cho vay của chi nhanh. Bao gồm các phần chủ yếu sau:
=> Thẩm định về tổng mức vốn đầu tư và các nguồn tài trợ cũng như các phương thức tài chợ dự án.
=> Thẩm định chi phí và lợi nhuận của dự án, từ đó xác định dòng tiền của dự án.
=> Thẩm định về hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án.
=> Thẩm định tình hình tài chính của chủ đầu tư
=> Thẩm định khả năng rủi ro của dự án.
2.2.2. TÌNH HÌNH THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG TÂY HÀ NỘI.
* BẢNG TÌNH HÌNH CHO VAY THEO DADT CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG TÂY HÀ NỘI.
TT
CHỈ TIÊU
Đơn vị
1
Tổng số dự án đang cho vay
35 (dự án)
2
Tổng vốn cho vay
168.079 (triệu đồng)
3
Dư nơ đến ngày thanh toán
27.765 (triệu đồng)
4
Nợ xấu
Để hiểu rõ hơn về quy trình thẩm định dự án đầu tư của Chi nhánh, chúng ta xem xét thực trạ._.hế giới, Chi nhánh nên nghiên cứu, học tập và vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tế của mình. Điều này hết sức cần thiết bởi vì trong thời điểm mở cửa nền kinh tế và hội nhập kinh tế khu vực như hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế đang du nhập vào Việt Nam với những phương pháp thẩm định ở các giác độ khác nhau, góc nhìn khác nhau. Do đó, Chi nhanh cần chủ động lựa chọn phương pháp thẩm định tài chính có hiệu quả nhất, hợp lý nhất và phù hợp nhất với toàn cảnh thực tế để ứng dụng công tác thẩm định vào thực tiễn. Chi nhanh cần tiến hành kiểm tra và ra soát lại toàn bộ cách tính toán các chỉ tiêu được sử dụng để phân tích nhằm tìm ra những thiếu sót, bất hợp lý để bổ sung, thay đổi cho phù hợp. Việc này phải được tiến hành bởi những người trực tiếp tham gia thẩm định và tiến hành song song với việc tăng cường tham khảo các phương pháp hiện đại, và vấn đề chỉ còn là ứng dụng đến đâu, ứng dụng như thế nào cho phù hợp với Chi nhanh, bởi mỗi dự án đều có đặc thù riêng. Do đó, cách thẩm định ở mỗi dự án là khác nhau, cán bộ thẩm định cần phải lựa chọn phương pháp thẩm định cho phù hợp với từng dự án.
Ø Thứ nhất, thẩm định một cách kỹ lưỡng vốn đầu tư.
Đây là vấn đề quan trọng, việc thẩm định đòi hỏi các cán bộ thẩm định phải thẩm định chính xác vốn đầu tư và các chi phí liên quan, tránh tình trạng chủ đầu tư có thể tính toán mức vốn quá cao để tránh thủ vốn, gây lãng phí, ứ đọng vốn làm giảm hiệu quả đầu tư; hay chủ đầu tư lập dự án tính mức vốn quá thấp để tăng hiệu quả đầu tư giả tạo dẫn đến quyết định đầu tư sai lệch. Việc xác định tổng vốn đầu tư sát với thực tế là cơ sở để tính toán hiệu quả tài chính và dự kiến khả năng trả nợ của dự án.
Muốn vậy, các cán bộ thẩm định phải tích cực tìm hiểu thị trường, căn cứ vào các định mức kinh tế kỹ thuật của các ngành, các đơn giá của nhà nước hay qua viện nghiên cứu mức độ hiện đại của công nghệ, tình hình giá cả ở thị trường trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, cần tích cực tìm hiểu, lưu trữ các thông tin của các dự án điển hình trong cả nước làm cơ sở cho việc kiểm tra, thẩm định tổng mức vốn đầu tư, trong một số trường hợp có thể thuê cơ quan tư vấn nếu cần thiết.
Đối với các dự án xây dựng, đặc biệt là các dự án xây dựng có nhiều hạng mục công trình, kéo dài trong nhiều năm, ngoài việc tính các chi phí liên quan còn phải tính đến các yếu tố lạm phát, tỷ giá (nếu dự án mua máy móc từ bên ngoài) được áp dụng của dự án. Đã có không ít những dự án gặp phải khó khăn về tiến độ thi công do giá vật liệu tăng mà trước đó khi thẩm định không được tính toán đến. Việc xác định, đánh giá và tính toán trước những yếu tố trên sẽ giúp chủ đầu tư có thể phản ứng nhanh hơn trước những biến đổi bất lợi của thị trường.
Ø Thứ hai, cần tính toán doanh thu và chi phí của dự án một cách sát thực và thực tế.
Để thẩm định về doanh thu và chi phí chính xác cần phải có kết quả ở khâu thẩm định thị trường tốt, Ngân hàng phải quan tâm đến nguồn cung cấp nguyên vật liệu và khả năng tiêu thụ của sản phẩm hay nói cách khác, Ngân hàng phải xem xét đến các yếu tố đầu vào và đầu ra của dự án. Nghiên cứu vấn đề này là một việc khó khăn nhưng hết sức cần thiết, bên cạnh việc Chi nhanh phải dự toán doanh thu và chi phí trong tương lai. Muốn vậy, Chi nhánh cần phải nghiên cứu thị trường trên các mặt như: quan hệ cung cầu của sản phẩm, điểm mạnh, điểm yếu của sản phẩm, đối tượng, phương thức tiêu thụ sản phẩm và đặc biệt là tình hình cạnh tranh trên thị trường. Do đó, phòng thẩm định cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu điểm mạnh điểm yếu, cơ hội và sự đe doạ của sản phẩm, và cách tốt nhất để thực hiện được điều này là Chi nhánh đẩy mạnh và chi tiết hoá các mô hình đánh giá chủ yếu như: mô hình SWOT, mô hình PORTER.
Việc tính toán chi phí sản phẩm kinh doanh phải được tham khảo quy định của Bộ Tài chính, cơ quan chủ quản của doanh nghiệp và trên thị trường. Các loại chi phí như: quản lý doanh nghiệp, lãi vay vốn lưu động, chi phí thuê đất, thuê chuyên gia Chi nhanh không nên chấp nhận mặc nhiên theo cách tính toán của doanh nghiệp hay tuỳ tiện nâng lên để an toàn hơn. Đối với các dự án mở rộng hoặc dự án mới của doanh nghiệp đã hoạt động trong ngành đó, cán bộ có thể lấy các chỉ tiêu cũ làm cơ sở. Nếu là các dự án và doanh nghiệp mới hoàn toàn, các chỉ tiêu của các doanh nghiệp tương tự cũng là những yếu tố tham khảo tốt cho công tác thẩm định.
Xuất phát từ thực tế, các chủ đầu tư do mong muốn có được quyết định đầu tư và được vay vốn ngân hàng một cách nhanh chóng, mặt khác họ lại đoán được tâm lý của ngân hàng hay quan tâm đến nhiều các chỉ số NPV, IRR, PP, nguồn trả nợ nên họ thường tính chi phí cao, đặc biệt là chi phí mua máy móc thiết bị và xây dựng nhà xưởng. Vì vậy khi tính khấu hao tài sản cố định Doanh nghiệp luôn tính cao hơn thực tế, vì nếu thế, doanh nghiệp vừa giảm được thuế thu nhập Doanh nghiệp lại vừa có nguồn trả nợ từ khấu hao cao. Do đó khi thẩm định, Chi nhanh phải xem xét một cách kỹ lưỡng để đảm bảo tính chính xác của khoản mục chi phí này. Khi tính khấu hao, nếu doanh nghiệp tính sai so với quy định về khấu hao của Bộ tài chính thì Chi nhanh nên tính lại và có ý kiến với doanh nghiệp. Khi xem xét, tính toán khấu hao cơ bản cũng phải xem xét trong mối quan hệ đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, đến tính khả thi của dự án, bởi khấu hao cơ bản không phải là nguồn trả nợ sẵn có hiển nhiên. Trên thực tế nó chỉ là con số trên sổ sách, nó rất có thể là con số vô nghĩa nếu dự án không khả thi, sản phẩm không tiêu thụ được. Chi nhanh cũng cần phải lập bảng tính giá thành sản phẩm dịch vụ. Bước này rất quan trọng vì giá thành là cơ sở để xác định giá bán, liên quan chặt chẽ đến căn cứ dự kiến doanh thu, lỗ, lãi của Doanh nghiệp. Dựa vào các chỉ tiêu này, cán bộ thẩm định có thể chỉ ra được các chi phí bất hợp lý được kê khai trong dự án, các chi phí không được công nhận trong chế độ kế toán thống kê của dự án.
Muốn tính chính xác doanh thu của dự án, các cán bộ thẩm định phải xác định được xu hướng mức biến động về lợi nhuận, sự bảo đảm nguồn cung cấp, nguồn tiêu thụ, những yếu tố này đảm bảo cho việc tính toán doanh thu một cách chính xác hơn. Muốn vậy, các cán bộ thẩm định phải nâng cao hơn nữa chất lượng nghiên cứu thị trường, đặc biệt là chú ý tới các sản phẩm cùng loại, tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm về chất lượng, lợi nhuận và uy tín. Đẩy mạnh sử dụng phương pháp phân tích SWOT và PORTER, Chi nhanh cũng nên nghĩ đến việc áp dụng các mô hình kinh tế lượng trong dự báo khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng phát triển cho những dự án quan trọng. Dự báo chính xác xu hướng phát triển cung cầu thị trường trong nước cũng như khu vực và trên thế giới là điều rất quan trọng và cần thiết trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế như hiện nay. Bên cạnh đó, một yếu tố khác có ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu của dự án, đó là công nghệ của dự án. Vấn đề đặt ra ở đây đối với các dự án là phải có được công nghệ phù hợp với dự án, ở đây, công nghệ phù hợp không bắt buộc phải là công nghệ hiện đại nhất, tiên tiến nhất có trên thế giới. Bởi vì nếu là hiện đại quá trong khi mà trình độ và năng lực của công nhân Việt Nam chưa đủ để sử dụng thì sẽ sử dụng không hết công suất lãng phí, giá thành lại cao; mặt khác, nhiều công nghệ thải của nước ngoài vẫn hiện đại hơn của chúng ta nhưng nếu đầu tư vào thì sản phẩm lại có khả năng cạnh tranh kém trên thị trường. Điều này cần được các Doanh nghiệp nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng trước khi tiến hành đầu tư.
Sau khi tính toán được doanh thu và chi phí của dự án, Chi nhanh cần tính được dòng tiền ròng (NCF) hàng năm của dự án. Chi nhanh nên xây dựng bảng lưu chuyển tiền tệ của dự án, trên cơ sở đó phản ánh đầy đủ các khoản thu chi của dự án, từ đó xác định được các dòng tiền vào ra của dự án. Khi xác định NCF của dự án, Chi nhanh cần lưu ý đến việc thu hồi giá trị thanh lý khi dự án chấm dứt hoạt động kinh doanh. Thực tế cho thấy, một số máy móc thiết bị vẫn còn giá trị sử dụng khi dự án kết thúc, khi bán sẽ xuất hiện một luồng tiền thu cuối dự án, tuỳ theo từng trường hợp, luồng tiền này có thể phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp hay không. Theo chế độ kế toán hiện hành thì nếu giá bán lớn hơn chi phí thanh lý cộng với giá trị còn lại của tài sản cố định thì phần chênh lệch này phải chịu thuế thu nhập, ngược lại nếu nhỏ hơn thì doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được một khoản thuế:
CF thanh lý tài sản cố định = S - (S - B)*T
Trong đó: S: giá bán TSCĐ.
B: Tổng giá trị còn lại và CF thanh lý.
Luồng tiền này được cộng vào năm cuối của dự án. Ngoài ra Chi nhánh cũng cần tính tới khoản thu hồi vốn lưu động ròng, khoản này cũng sẽ được cộng vào dòng tiền ở năm cuối cùng của dự án.
Ø Thứ ba, Chi nhanh cần coi việc tính các chỉ tiêu hiệu quả dự án: NPV, IRR, PP, DSCR là bắt buộc khi thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Có khá nhiều chỉ tiêu để thẩm định tài chính dự án, tuy nhiên ngân hàng nên áp dụng các chỉ tiêu: NPV, IRR, PP, DSCR và coi đây là chỉ tiêu cơ bản, bắt buộc trong thẩm định tài chính dự án bởi các chỉ tiêu này là những chỉ tiêu tổng hợp cơ bản, phản ánh hiệu quả, tính chất của doanh nghiệp, chúng được xây dựng, tính toán dựa trên số liệu từ bảng dự trù cân đối thu chi của dự án hàng năm. Tuy nhiên, khi kết hợp hai chỉ tiêu này để ra quyết định đối với một dự án thì nhiều khi nó cho biết tỷ lệ sinh lời của dự án mà không quan tâm đến quy mô nguồn vốn và lợi nhuận tuyệt đối của dự án. Nhiều dự án có IRR cao nhưng lợi nhuận tuyệt đối lại thấp, lúc này IRR không phản ánh trực tiếp sự gia tăng này. Hơn nữa, NPV được giả định rằng các luồng tiền của dự án được chiết khấu theo chi phí vốn của dự án, nhưng IRR lại chiết khấu các luồng tiền theo IRR của dự án và điều này là không hợp lý. Tuy IRR đơn giản hơn thông qua việc so sánh tỷ lệ phần trăm, do đó nó có sức hấp dẫn, dễ hiểu hơn nhưng ta cũng phải thừa nhận rằng phương pháp IRR không hoàn thiện bằng phương pháp NPV, vì nó không đề cập đến độ lớn của dự án và không giả định đúng tỷ lệ tái đầu tư. Lựa chọn một trong nhiều dự án đầu tư loại trừ nhau theo đó phải dựa trên phương pháp NPV. Để đảm bảo độ tin cậy cho các chỉ tiêu tính toán, điều quan trọng là phải xác định được thời điểm phát sinh các dòng tiền và quy mô của nó. Dòng tiền của dự án không nhất thiết phải là chi phí, có những khoản mục kế toán đưa vào chi phí nhưng trong thẩm định dự án nó không được coi là dòng tiền vì không liên quan đến hoạt động thu chi tiền thực sự (chẳng hạn như khoản mục khấu hao). Dòng tiền cũng độc lập một cách tương đối với doanh thu từ dự án, doanh thu có thể tăng, giảm nhưng dòng tiền mặt vẫn không thay đổi (trường hợp biến động các khoản phải thu, hàng gửi bán). Do đó, khi xác định dòng tiền phát sinh cần lưu ý những điểm sau:
- Các dòng tiền phát sinh ở bất kỳ thời điểm nào được giả định phát sinh ở cuối kỳ.
- Xử lý các khoản thu hồi: Vốn đầu tư vào TSCĐ được thu hồi dẫn qua KHTSCĐ. Nếu TSCĐ đã trích hết khấu hao nhưng vẫn bán được thì khoản tiền đó được tính là dòng vào ở thời điểm phát sinh và chịu thuế TNDN theo quy định. Trường hợp TSCĐ chưa trích hết khấu hao, phải thanh lý thì thu nhập từ hoạt động thanh lý cũng là một dòng vào của dự án, vẫn phải chịu thuế TNDN. Giá trị còn lại của TSCĐ theo sổ sách kế toán được đưa vào cho phí trong kỳ, làm giảm thuế TNDN. Bản thân giá trị còn lại không được coi là dòng ra vì đó không phải là một khoản chi tiền thật sự.
Vốn đầu tư vào TSLĐ sẽ được thu hồi khi dự án kết thúc, được tính như một dòng vào tại kỳ cuối cùng và không phải chịu thuế TNDN.
- Đối với các dự án đầu tư thay thế, dòng tiền có một số điểm khác biệt:
Dự án đầu tư mới có thể không làm tăng doanh thu nhưng làm giảm chi phí. Khoản giảm chi phí đó phải được coi như một dòng vào của dự án mới.
Khi mua thiết bị mới về thay thế thiết bị cũ, tiền thu được do bán tài sản cũ cũng là một dòng vào của dự án. Tiền bán tài sản và giá trị còn lại của nó đều có ảnh hưởng đến thuế TNDN phải nộp. Nếu tiền bán lớn hơn giá trị còn lại làm tăng thuế, sẽ xuất hiện mộg dòng ra có độ lớn bằng chênh lệch giữa tiền bán TSCĐ và giá trị còn lại theo sổ sách nhân với thuế suất thuế TNDN. Ngược lại sẽ là một dòng vào có độ lớn là chênh lệch giữa giá trị còn lại và tiền bán TSCĐ nhân với thuế suất.
- Các dòng tiền ròng có thể bao gồm hoặc không bao gồm các dòng tài chính. Việc đưa hay không đưa các dòng tài chính vào tính toán phụ thuộc vào vị trí của người xem xét: là doanh nghiệp hay là ngân hàng. Nếu không đưa các dòng tài chính vào (các dòng vay, trả nợ gốc, trả lãi vay) việc tính chỉ tiêu thời gian hoàn vốn trở nên chính xác hơn.
Số vốn đầu tư có thể được hiểu là số vốn của bản thân dự án (không tính tiền vay tại thời điểm đầu tư) hoặc là số vốn chủ đầu tư bỏ ra (có tính đến tiền vay tại thời điểm đầu tư). Với cách hiểu thứ nhất, thời gian hoàn vốn sẽ là thời gian để dự án thu hồi được số vốn đầu tư ban đầu. Với cách hiểu thứ hai, thời gian hoàn vốn là khoảng thời gian chủ đầu tư thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra (ngân hàng thu được vốn cho vay). Điều này được khẳng định rằng, trong các dự án được đầu tư bằng 100% vốn vay ngân hàng, chủ đầu tư sẽ không lo lắng đến hiệu quả dự án bằng Chi nhánh, Chi nhánh sẽ là người gánh chịu nhiều rủi ro nhất.
Ø Thứ tư: xác định lãi chiết khấu hợp lý đối với từng dự án.
Xác định LSCK của dự án đầu tư là việc làm không đơn giản. Có thể hiểu LSCK là phần lợi nhuận thích hợp bù đắp rủi ro, khi rủi ro của dự án bằng với mức rủi ro của doanh nghiệp và chính sách tài trợ của doanh nghiệp phù hợp với dự án thì LSCK bằng với chi phí bình quân của vốn (WACC), nó thể hiện chi phí cơ hội của các nguồn vốn tham gia vào dự án. Các nguồn vốn thường có trong dự án là vốn vay và vốn chủ sở hữu (VCSH).
- Nếu nguồn vốn vay được dùng để đầu tư thì:
LSCK = Lãi suất vay trước thuế * (1 - thuế suất TNDN)
- Nếu nguồn vốn chủ sở hữu được dùng để đầu tư thì:
LSCK = Chi phí trung bình của vốn.
- Nếu nguồn gồm cả vốn cho vay và chủ vốn sở hữu dùng để đầu tư thì
LSCK = Chi phí bình quân gia quyền.
Trên thực tế, các ngân hàng thường lấy lãi suất cho vay dài hạn của ngân hàng làm LSCK, điều này chỉ chính xác khi toàn bộ vốn của dự án là vốn vay từ ngân hàng, nhưng vốn cho dự án lại vừa là vốn của doanh nghiệp, vừa là vốn vay của ngân hàng. Do vậy, sử dụng LSCK như vậy là không hợp lý, LSCK hợp lý là lãi suất được xác định theo công thức trên.
Ngoài ra Chi nhánh có thể lấy lãi suất trái phiếu kho bạc nhà nước làm tỷ lệ chiết khấu cộng thêm một số mức độ rủi ro tương ứng của ngành nghề sản xuất kinh doanh mà dự án hoạt động. Chi nhánh phải xem xét mức độ rủi ro ảnh hưởng đến lãi suất của các yếu tố sau:
+ Tỷ lệ làm phát hàng năm: tỷ lệ ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất, nếu tỷ lệ lạm phát tăng thì LSCK cũng tăng và ngược lại, nếu tỷ lệ làm phát giảm thì LSCK cũng giảm một cách tương ứng.
+ Tỷ lệ gia tăng do sử dụng phương án này mà không sử dụng phương án khác, hay nói cách khác là chi phí cơ hội. Tỷ lệ gia tăng này xuất hiện khi cùng một kế hoạch đầu tư nhưng có nhiều phương án khác nhau.
+ Chi nhánh cũng có thể sử dụng các lãi suất không cố định để phản ánh kẹp thời các điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới quá trình thực hiện dự án sao cho giá trị hiện tại thực của dự án không bị quá thổi phồng hoặc giảm đi.
Ø Thứ năm: Chi nhánh cần coi dòng tiền của dự án là nguồn trả nợ duy nhất cho mình.
Điều này Chi nhánh quan tâm nhất khi thẩm định tài chính dự án đầu tư là khi nào dự án, doanh nghiệp có tiền và có khả năng trả nợ, do vậy phải thực sự quan tâm tới dòng tiền dự tính của dự án. Đây phải là tiền mặt chứ không phải là nguồn từ khấu hao TSCĐ hay từ lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, bởi vì đó chỉ là những số liệu trên sổ sách kế toán, lợi nhuận cao chưa chắc khả năng thanh toán cao, nhiều doanh nghiệp có lợi cao nhưng thực sự vẫn có nguy cơ bị phá sản vì tình trạng lãi giả, lỗ thật thì làm sao họ có thể thanh toán nợ với ngân hàng. Trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp, doanh thu được ghi khi khách hàng chấp nhận thanh toán nhưng thời điểm từ khi doanh thu được ghi cho tới khi doanh nghiệp được nhận tiền là cả một thời gian dài, thậm chí là vô hạn. Vì vậy, quan điểm nguồn trả nợ duy nhát của doanh nghiệp là dòng tiền mặt cần được tiêu chuẩn hoá trong toàn Chi nhanh. Theo đó, số liệu mà Chi nhánh quan tâm là tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp và căn cứ để lập lịch trình trả nợ cần dựa vào chu kỳ tiền mặt của doanh nghiệp.
Dòng tiền của dự án:
CF = Dòng tiền vào - Dòng tiền ra.
Dòng vào: là toàn bộ khoản thực thu bằng tiền mặt từ việc bán sản phẩm, dịch vụ (chỉ tính phần thu được) và giá trị khoản phải thu (thực sự thu được).
Dòng ra: là tất cả chi phí sản xuất, vận hành chi trả lãi vay và các khoản thực phải chi.
Trên cơ sở luồng tiền mặt vào và ra của dự án, doanh nghiệp sẽ xác định được tình trạng tiền mặt của dự án để kiểm tra nhu cầu tiền vay doanh nghiệp cho đủ.
Trong công tác thẩm định, Chi nhánh cần chú trọng tới việc phân tích kế hoạch tài chính ngắn hạn. Chi nhánh phải xem xét nhu cầu vốn lưu động, tính hợp lý của chính sách quản lý tiền mặt, chính sách dự trữ, chính sách tín dụng khách hàng để xác định khả năng thanh toán. Kế hoạch ngắn hạn đảm bảo giữa nguồn và sử dụng vốn của Chi nhánh, nâng cao tính chủ động của Chi nhánh trong thời gian tới.
Ø Thứ sáu, Chi nhanh cần tính toán chính xác vòng đời của dự án.
Một nội dung nữa cần quan tâm trong đánh giá tài chính dự án tại Chi nhánh là cần hoàn thiện nội dung tính toán đời dự án, vòng đời công nghệ và các tiêu chí phân tích cung cầu thị trường. Vòng đời dự án là một tiêu chí quan trọng, nó cho biết thời gian dự án tồn tại từ khi hoàn thiện công tác thực hiện đầu tư, vận hành kết quả đầu tư cho đến khi thanh lý dự án. Tiêu chí này giúp cán bộ thẩm định có cái nhìn tổng thể và sát thực về dự án, xác định được tổng thu nhập của dự án cũng như dự kiến những biến đổi bất thường của môi trường đầu tư tác động tới dự án, dự trù chi phí bổ sung cần thiết. Tuổi thọ công nghệ được xem như một yếu tố hữu cơ tác động đến đời dự án, trong phân tích tài chính cán bộ thẩm định cần hình thành hệ thống các chỉ tiêu đánh giá tuổi thọ công nghệ dựa trên các quy định của nhà nước cũng như các tiêu chuẩn kỹ thuật, công suất của công nghệ. Trong việc xác định nhu cầu của thị trường về sản phẩm dự án cần tiến hành xem xét trong trạng thái “động”, tức là phân tích dựa trên các giả thuyết biến động của thị trường, trong sức ép của cạnh tranh.
Ø Thứ bảy, Chi nhánh cần đẩy mạnh hơn nữa công tác phân tích tài chính dự án trong các dự án đầu tư.
Một mục tiêu quan trọng Chi nhánh cần chú trọng hơn nữa là việc phân tích tài chính dự án hàng năm. Để thuận lợi cho việc này, tốt nhất Chi nhánh nên lập thêm các bảng dự trù cân đối tài sản, bảng dự trù cân đối thu chi của các doanh nghiệp. Trong việc phân tích này, Chi nhánh có thể sử dụng phương pháp tỷ lệ với một số chỉ tiêu chủ yếu: khả năng thanh toán, hiệu suất sử dụng tài sản, doanh lợi tiêu thụ sản phẩm, bảng thử độ nhạy của công suất, của sản phẩm. Ngoài phương pháp tỷ lệ, Chi nhánh còn có thể sử dụng cả phương pháp phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, phân tích luồng tiền mặt để đánh giá tài chính dự án. Đặc biệt, trong phân tích tài chính dự án, Chi nhánh nên quan tâm đến phân tích cơ cấu vốn và khả năng thanh toán.
Mục đích của phân tích cơ cấu vốn là đánh giá nhu cầu và sự đảm bảo các nguồn tài chính cho việc thực hiện liên tục và hiệu quả các dự án đầu tư. Do đó, Chi nhánh cần phải xem xét từng hoạt động kinh doanh hoàn trả được nợ hay không, có mức lãi suất cho phép hoạt động kinh doanh có hoàn trả được nợ hay không, có được cam kết bằng hợp đồng tín dụng của bên cung ứng vốn không. Chi nhánh cũng cần đánh giá tài chính dự án trên các khía cạnh: chi phí của dự án về vốn cố định và vốn lưu động vận hành như thế nào? Chúng được tài trợ bằng nguồn vay ngắn hạn hay dài hạn? Nếu một phần vốn cố định được tài trợ bằng vay ngắn hạn thì sẽ gây khó khăn như thế nào trong việc cân đối thu chi? Việc xác định một cơ cấu vốn hợp lý cho dự án là điều rất cần thiết. Chi nhánh phải phân tích tỷ trọng giữa hai nguồn vốn: Vốn tự có và nợ.
Tỷ trọng giữa nguồn vốn tự có và vốn đi vay ngân hàng cho phép xác định trạng thái tài chính của dự án, một dự án được đánh giá là có tình trạng tài chính lành mạnh nếu dự án có tỷ lệ nợ vừa phải, có khả năng trả nợ ngân hàng và có một mức độ rủi ro dự tính là có thể chấp nhận được. Vì vậy, một cơ cấu vốn hợp lý là tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu bằng 1.
Một cơ cấu vốn tối ưu cũng cần được xác định trên cơ sở cân nhắc mức doanh lợi và khả năng thanh toán của dự án. Một dự án có khả năng sinh lợi cao và khả năng thanh toán tốt có thể chấp nhận một tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu cao hơn các dự án bình thường khác. Phân tích khả năng thanh toán có nhiệm vụ đánh giá tình trạng tiền mặt trong suốt quá trình hoạt động của dự án. Nó giúp cho việc xem xét liệu vốn tự có và các khoản vay dài hạn có thích hợp với các điều kiện vay trả đã ký kết trong hợp đồng tín dụng hay không, liệu sự thiếu hụt tiền mặt có xảy ra không và nếu xảy ra thì sẽ đựơc gải quyết như thế nào.
Chi nhánh phải tính toán chi tiết khả năng hoàn trả đối với từng khoản nợ theo kỳ hạn trả nợ thực tế, không nên làm tròn số, nên tính cho từng năm của dự án. Trong những năm lợi nhuận âm, Chi nhánh phải tính đến việc khấu trừ khoản đó khỏi nguồn trả nợ nếu doanh nghiệp không chắc chắn huy động được nguồn vốn khác để thay thế. Nếu dự án thực sự có hiệu quả nhưng trong suốt một số năm đầu dự án thiếu nguồn trả nợ thì Chi nhánh nên hỗ trợ doanh nghiệp trả nợ cho năm đó. Với DNNN, khi tính toán khả năng trả nợ, Chi nhánh cần phải loại trừ phần thu sử dụng vốn NSNN ra khỏi phần lợi nhuận sau thuế để xác định khoản lợi nhuận ròng dùng trả nợ cho chính xác.
3.3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ
Thẩm định tài chính dự án đầu tư là công việc rất phức tạp, khối lượng công việc nhiều, liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, là công việc đòi hỏi tính chính xác cao. Để công tác thẩm định tài chính được tốt, có chất lượng cao, cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận có liên quan thì mới đáp ứng được yêu cầu của công tác thẩm định. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, em xin đề ra một số kiến nghị sau:
3.3.1. Với Nhà nước:
Nhà nước cần phải nhanh chóng tạo lập môi trường pháp lý ổn định để tạo điều kiện cho các ngân hàng có cơ sở phân tích, đánh giá mức độ thành công của dự án. Nhà nước cần thành lập tập đoàn kiểm toán liên ngành nhằm phát hiện ra những sai sót trong quá trình sản xuất kinh doanh hay đầu tư vào dự án khi sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp. Khi thực hiện điều này sẽ giảm bớt được việc cấp giấy phép đầu tư không hiệu quả và sẽ giúp cho các NHTM và các TCTD tránh được rủi ro, tổn thất về tiền bạc và thời gian thẩm định. Nhà nước cũng cần phải tách bạch giữa tín dụng chỉ định và tín dụng uỷ thác một cách minh bạch.
3.3.2. Với ngân hàng Nhà nước:
Đề nghị ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường hỗ trợ cho việc nâng cao trình độ thẩm định, phát triển đội ngũ nhân viên, trợ giúp thông tin, kinh nghiệm cho các ngân hàng, hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về thẩm định dự án, mở rộng phạm vi thông tin tín dụng về các doanh nghiệp, giúp cho các tổ chức tín dụng nhận định đúng và có những cơ sở thẩm định trước khi đầu tư vốn cho doanh nghiệp.
- Đề nghị ngân hàng Nhà nước có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro (CIC), cần đưa ra mức độ rủi ro về từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp để làm căn cứ cho các ngân hàng phân loại, xếp hạng doanh nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư.
- Cần chính thức hoá tài liệu nghiệp vụ Ngân hàng Nhà nước về thẩm định dự án đầu tư để các cấp cơ sở thực hiện. Với chủ trương cải cách hành chính hiện nay của Đảng và Nhà nước, tài liệu này cần được rút gọn vào một số điểm và có sự phân công giữa các Bộ, ngành, các cấp.
- Đề nghị các Ngân hàng thương mại quốc doanh khác toàn quốc tăng cường hợp tác trong việc xử lý thông tin và trao đổi kinh nghiệm, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.
3.3.3. Với NHTM CP Công Thương chi nhánh Tây Hà Nội
Thứ nhất, ban lãnh đạo cần phải xây dựng được chiến lược đầu tư cụ thể cho từng giai đoạn, am hiểu tình hình kinh tế thị trường cũng như môi trừơng chung trong kinh doanh để quyết định đầu tư đúng đắn, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai, sau khi có chiến lược đầu tư rồi, phải tổ chức thực hiện tốt các công việc như thẩm định khách hàng vay vốn một cách toàn diện, thực hiện lựa chọn, sang lọc khách hàng theo ngành nghề kinh doanh, đối tượng khách hàng, đảm bảo khách hàng có dự án phương án có tính khả thi và phải xác định được mức độ đầu tư cho phương án dự án thế nào, hiệu quả mang lại ra sao? Thực hiện kiểm tra giám sát vốn vay đúng quy định, định kỳ, thường xuyên, đảm bảo vốn cho vay đúng đối tượng, kiểm soát được vốn cho vay nhằm thu hồi nợ đúng hạn. Trong kinh doanh ngân hàng, việc không để phát sinh nợ quá hạn, nợ xấu là rất khó. Điều này đòi hỏi người lãnh đạo phải sâu sát, nắm bắt được các khách hàng để có các giải pháp đung đắn khi có vấn đề xảy ra. Những trường hợp khách hàng có khó khăn, Ngân hàng phải biết cách tư vấn tìm ra hướng giải quyết nhằm đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và lợi ích của ngân hàng. Trong từng trường hợp cụ thể, cần có các giải pháp và những bước đi thích hợp để thu hồi nợ. Khi giải quyết nợ quá hạn, nợ xấu phải dựa trên nguyên tắc: Giải quyết hài hòa, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng thoát khỏi khó khăn và tiếp tục trả nợ Ngân hàng, điều này là hết sức quan trọng.
Thứ ba, Tăng cường tổ chức các khoá học ngắn hạn, các lớp tập huấn chuyên để thẩm định dự án đầu tư, tổ chức đi tập huấn, trao đổi kinh nghiệm công tác thẩm định cho các chi nhánh nhằm nâng cao năng lực thẩm định nói chung và thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng trong toàn hệ thống.
Thứ tư, Ngân hàng cũng luôn phải trú trọng tới vấn đề tuyển nhân viên mới. Hiện tại số lượng những người tốt nghiệp các khoá học về Ngân hàng thì quá nhiều so với nhu cầu tuyển dụng. Nhưng trên thực tế để làm được việc thì không phải học tập nhiều trong thực tế công việc. Vì vậy, trong tuyển dụng cần áp dụng những biện pháp tuyển dụng tiên tiến đã thực hiện ở một số Ngân hàng là đánh giá nhân viên trên cơ sở năng lực trí tuệ của chính bản thân nhân viên đó. Nghĩa là, đánh giá cao năng lực làm việc của nhân viên trong tương lai hơn là xem nhân viên đó biết được những gì.
KẾT LUẬN:
Thẩm định tài chính dự án đầu tư chỉ là một trong những khía cạnh cần phải tiến hành xem xét đối với mỗi dự án trước khi ra quyết định đầu tư, cho phép đầu tư dự án, đặc biệt dưới góc độ NHTM (nhà tài trợ lớn). Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong việc thực hiện mở rộng tín dụng an toàn hiệu quả của các NHTM. Những đây cũng là vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng, vì vậy phải có sự nghiên cứu sâu sắc, toàn diện trước khi có thể đưa ra những giải pháp đồng bộ phối hợp nỗ lực của các biện pháp liên quan.
Trong thời gian thực tập tại NHTMCP CT Việt Nam Chi nhánh Tây Hà Nội. em đã đi tìm hiểu, nghiên cứu kỹ và viết chuyên đề “Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại NHTMCP CT Việt Nam Chi nhánh Tây Hà Nội”. Em nhận thấy rằng những kiến thức được biết trong sách vở và trên nghế nhà trương khác xa với thực tiễn, trình độ công nghệ thẩm định dự án ở Việt Nam còn hạn chế và lạc hậu so với công nghệ thẩm định của các nước trên thế giới. Nhưng sự phát triển của nghành Ngân hàng nói chung và công tác thẩm định nói riêng phải ánh trình độ phát triển của nền kinh tế. Trong điều kịên kinh tế của chúng ta hiện nay chưa thích ứng với những phương pháp thẩm định tiên tiến, nhưng không hẳn là chúng ta bỏ qua những phương pháp thẩm định đó mà cần phải nắm vững nhằm đáp ứng nhu cầu trong tương lai.
Chủ để nghiên cứu này không hoàn toàn mới, song nó luôn là vấn đề cấp thiết và sự quan tâm hàng đầu trong quá trình kinh doanh của Ngân hàng nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Từ những kiến thức đã tổng hợp và phân tích đã được diễn giải thành bài viết, do đó bài viết chứa đựng những kiến thức cơ bản được học tại trường và thực tiễn tại NHTMCP CT Việt Nam Chi nhánh Tây Hà Nội, bên cạnh đó là những đề xuất mang tính chủ quan được xuất phát từ phương pháp nghiên cứu tư duy biện chứng, được gắn với thực tiến NHCT Việt Nam. Những điểm yếu của NHTMCP CT Chi nhánh Tây Hà Nội cũng là những khó khăn chung của NHTM Việt Nam. Mặc dù có sự hạn chế kinh nghiệm, cách tiếp cận thực tế cũng như khả năng phân tích, đánh giá song em cũng mạnh dạn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại NHTMCP CT Chi nhánh Tây Hà Nội dù những giải pháp và kiến nghi được đưa ra trong bài viết này chỉ la một phần trong hàng loạt các giải pháp đồng bộ cần được thực hiện trong thời gian tới nhằm đổi mới hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
Chuyên đề thực tập tuy khá hạn hẹp song rất có ý nghĩa bởi tính phức tạp cũng như tầm quan trọng của thẩm định tài chính dự án đầu tư đối với hoạt động của NHTM. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo nhiệt tình và những đóng góp quý báu để chuyên đề của em hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn những người đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này!
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng Thương mại (Ts. Nguyễn Minh Kiều), xuất bản năm 2009, Nhà xuất bản Thống kê
Giáo trình Ngân hàng Thương mại (Ts. Tô Ngọc Hưng), Nhà xuất bản Thống Kê 2009
Báo cáo thường niên NHTM CP Công Thương Việt Nam năm 2009
Giáo trình Thẩm định Tài chính Dự án (PGS,Ts. Lưu Thị Hương), Nhà xuất bản Tài chính 2004
Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp (Ts. Bạch Đức Hiền), Nhà xuất bản Tài chính năm 2008
Tạp chí Ngân hàng, Thời báo kinh tế, Thị trường tài chính tiền tệ.
Hồ sơ thẩm định dự án của cán bộ tín dụng NHTMCP CT Việt Nam Chi nhánh Tây Hà Nội
MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Hà Nội, ngày......tháng......năm 2010
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Hà Nội, ngày......tháng......năm 2010
Giáo viên hướng dẫn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25525.doc