TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH
---------oOo---------
CHUYÊN ĐỀ
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI NHN0 & PTNT HUYỆN NINH GIANG
Giáo viên hướng dẫn
:
TS. HOÀNG XUÂN QUẾ
Họ và tên sinh viên
:
PHÙNG DUY KHÁNH
Lớp
:
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 46B
HÀ NỘI - 2008
LỜI MỞ ĐẦU
Tiếp tục sự đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước thực hiện mục tiêu dân giàu nuớc mạnh xã hội dân chủ văn minh
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Ninh Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất nông nghiệp nước ta liên tục đạt được những thành công to lớn. Chúng ta đã áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật đưa vào sản xuất đua sản lượng lương thực, thực phẩm của nước ta không ngừng tăng trưởng. Từ chỗ là một nước thiếu lương thực, đến nay chúng ta đã trở thành những nước đứng hàng đầu thế giới về sản xuất lương thực thực phẩm. Có kết quả đó là có sự đóng góp đáng kể của kinh tế hộ gia đình. Trong đó trọng tâm là hộ nông dân sản xuất, nông - lâm – ngư - nghiệp. Từ định hướng về chính sách mở cửa phát triển kinh tế hộ sản xuất đã giúp cho ngành ngân hàng nói chung NHNo nói riêng thí điểm mở rộng, từng bước hoàn thiện cơ chế cho vay kinh tế hộ sản xuất, trong quá trình đầu tư vốn đã khẳng định được hiệu quả của đồng vốn cho vay và khả năng quản lý, sử dụng vốn của các hộ gia đình cho sản xuất kinh doanh, mở rộng thêm ngành nghề, tăng sản lượng cho xã hội, tăng thu nhập cho gia đình và hoàn trả được vốn cho Nhà nước. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại trong cơ chế thị trường đòi hỏi các cấp, các ngành tháo gỡ khó khăn để đáp ứng đầy đủ, kịp thời, có hiệu quả nhu cầu về vốn cho hộ sản xuất phát triển kinh tế.
Huyện Ninh Giang là một huyện nông nghiệp có vị trí địa lý thuận lợi, có tiềm năng về sản xuất nông nghiệp. Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp đã thu hút được những thành tựu to lớn, góp phần vào sự tăng trưởng chung của tỉnh cũng như cả nước. Thực hiện mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế- xã hội của đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XI đề ra: “ Phát huy mọi nguồn lực, tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tập chung phát triển sản xuất nông nghiệp kinh tế nông thôn toàn diện, vững chắc, tận dụng lợi thế địa phương phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả và phù hợp với nhu cầu thị trường, phát triển đa dạng các ngành dịch vụ sản xuất và đời sống ”.
Nhu cầu đòi hỏi rất lớn từ nội lực các gia đình, từ ngân sách và từ nguồn vốn tín dụng Ngân hàng. Do đó phải mở rộng đầu tư vốn cho kinh tế hộ để tận dụng khai thác những tiềm năng sẵn có về đất đai, mặt nước, lao động, tài nguyên làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, trong thực tế, việc mở rộng cho vay vốn đối với hộ sản xuất ngày càng khó khăn do món vay nhỏ, chi phí nghiệp vụ cao, hơn nữa đối tượng vay gắn liền với điều kiện thời tiết nên ảnh hưởng rất lớn đến đồng vốn vay, khả năng luôn tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động tín dụng. Với chủ trương công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới thì nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất ngày càng lớn. Có như vậy hoạt động kinh tế của Ngân hàng mới thực sự trở thành “ Đòn bẩy ” thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Nhận thức được vấn đề trên và xuất phát từ thực tế cho vay vốn đến hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Ninh Giang. Em chọn đề tài : “ Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với Hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Huyện Ninh Giang ”. Nhằm mục đích tìm hiểu tình hình thực tế và từ đó tìm ra giải pháp để đầu tư đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn huyện và đảm bảo an toàn vốn đầu tư.
Chuyên đề sử dụng các phương pháp: Duy vật biện chứng dựa trên cơ sở học thuyết kinh tế- chính trị Mác-Lênin . Mặt khác, chuyên đề cũng dùng các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích dựa trên những số liệu thống kê thực tế để luận chứng.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng hộ sản xuất của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Ninh Giang.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT huyện Ninh Giang
Ngoài kết cấu 3 chương như đã nêu, chuyên đề còn có phần Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
HỘ SẢN XUẤT CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác định là “ Mặt trận hàng đầu ” tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông nghiệp tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chính vì vậy, những năm gần đây, các nhà kinh tế bắt đầu quan tâm thực sự tới phát triển nông thôn, nông nghiệp và mô hình kinh tế hộ sản xuất. Sự quan tâm nghiên cứu về hộ sản xuất của các nhà khoa học đã đánh dấu thời kỳ thay đổi thái độ đối với sản xuất trong hệ thống lý thuyết chính thống và hệ thống chính sách kinh tế xã hội hiện thời.
1.1.1. Khái niệm hộ sản xuất:
Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần thấy rằng hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xuất nông nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất đã tồn tại qua nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục phát triển. Chúng ta có thể xem xét một số quan niệm khác nhau về hộ sản xuất.
Trong một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ : Hộ là tất cả những người cùng trong một mái nhà. Nhóm người đó bao gồm những người cùng chung huyết thống và những người làm công.
Liên Hợp Quốc cho rằng : Hộ là những người cùng sống chung duưới một mái nhà, cùng ăn và có chung một ngân quỹ.
Trên góc độ ngân hàng: “ Hộ sản xuất ” là một thuật ngữ được dùng trong hoạt động cung ứng vốn tín dụng cho hộ gia đình để làm kinh tế chung của cả hộ. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật Việt Nam, hộ đuợc xem như là một chủ thể trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được định nghĩa là một đơn vị mà cá nhân thành viên có hộ khẩu chung, tài sản chung và hoạt động kinh tế chung. Một số thuật ngữ khác được dùng để thay thế thuật ngữ “ Hộ sản xuất là ” là “Hộ”, “Gia đình”…. Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong quá trình xây dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Để phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, NHNo & PTNT Việt Nam ban hành phụ lục số 1 kèm theo quyết định số 499A ngày 2/9/1993, theo đó thì khái niệm hộ sản xuất đuợc hiểu như sau: “Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh , là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của mình”. Thành phần chủ yếu của hộ sản xuất bao gồm: Hộ nông dân, hộ tư nhân, cá thể, hộ gia đình xã viên, hộ nông - lâm trường viên.
Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn, hộ sản xuất trong nhiều ngành nghề hiện nay phần lớn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các hộ này tiến hành sản xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi và kinh doanh ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề mới trên đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta trong thời gian qua.
1.1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất.
Đối với Việt Nam nông nghiệp và nông thôn có vị trí đặc biệt quan trọng. Nông thôn là nơi làm việc sinh sống của gần 80% dân số, đa số còn nghèo, có thu nhập gần 43% GDP cả nước; là thị trường rộng lớn, tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm của mọi ngành nghề xã hội; là nơi cung cấp nguyên liệu và lao động cho công nghiệp và các ngành nghề khác phát triển. Nông nghiệp và nông thôn còn là nơi chủ yếu và quyết định sự phát triển bền vững và tính cân bằng môi trường sinh thái đảm bảo ổn định, đa dạng hóa tự nhiên. Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức rõ vai trò của nông nghiệp trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta từng buớc có những chủ trương, chính sách về nông nghiệp, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển làm nòng cốt để phát triển kinh tế nông thôn.
Tháng 01/1981 Ban Bí thư trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 100 về khoán trong nông nghiệp, thực chất là giải phòng (Tự do hóa) sức lao động của hàng chục hộ nông dân thoát khỏi sự ràng buộc của cơ chế tập trung.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với đuờng lối đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phòng lực luợng sản xuất nông thôn, chuyển nền nông nghiệp tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị truờng có sự điều tiết của Nhà nuớc, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và Nhà nuớc đã ban hành những chủ trương, chính sách để thực hiện định huướng nêu trên. Nhờ đó, nền kinh tế hộ sản xuất dần được đặt vào đúng vị trí của nó.
Tháng 4/1998- Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 10 nhằm cụ thể hóa một bước quan điểm đổi mới của Đại hội VI đối với lĩnh vực quản lý nông nghiệp, tạo điều kiện cho việc hình thành và thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất phát triển. Từ đó nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh và là đơn vị kinh tế ở nông thôn.
Sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị, rồi đến NQ 66 HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 02/03/1992, cùng Luật doanh ngiệp tư nhân NĐ 29 ngày 29/03/1998, luật Công ty… thì hộ sản xuất đã đuợc thừa nhận là một đơn vị kinh doanh bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Điều này được khẳng định tại Điều 21 Hiến pháp nước CHXH Việt Nam năm 1992: “ Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển ”.
Đại hội lần thứ VII của Đảng với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Chủ trương đúng đắn của Đại hội VII đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế nói chung và đặc biệt đối với kinh tế hộ gia đình nói riêng.
Tháng 6/1993 tại kỳ họp lần thứ 5 khóa VII, Đảng đã ban hành Nghị quyết TW5, tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một chủ thể kinh tế ở nông thôn được thừa nhận quyền sử dụng đất đai (5 quyền), quyền vay vốn tín dụng, quyền lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có lợi nhất, quyền tự do lưu thông tiêu thụ sản phẩm.,
Nghị quyết TW cùng với các văn bản pháp luật, Nghị định của Chính phủ đã tạo hành lang pháp lý, khơi dậy động lực cho hơn 12 triệu hộ nông dân phát triển. Từ đó phát triển mạnh nông nghiệp nông thôn nói chung, hộ sản xuất nói riêng đã được đặt lên vị trí hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII với chủ trương: “Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, nhất là công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ”. Đã khẳng định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Cùng với chính sách về các thành phần kinh tế, kinh tế hộ được khuyến khích phát triển: “ Kinh tế hộ gia đình được tồn tại và phát triển lâu dài, luôn có vị trí quan trọng ”.
1.1.3. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
Từ khi NQ 10 - Bộ Chính trị ban hành, hộ nông dân đuợc thừa nhận là một đơn vị kinh tế nông thôn, nhờ đó nguời nông dân gắn bó với ruộng đất hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm canh, tăng vụ, khai phá thêm hàng ngàn ha đất mới, đổi mới cơ cấu sản xuất. Việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã khơi dậy nhiều làng nghề truyền thống, mạnh dạn vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất có hiệu quả kinh tế lớn nhất. Điều đó khẳng định sự tồn tại khách quan của hộ sản xuất với vai trò là cầu nối trung gian giữa hai nền kinh tế là đơn vị tích tụ vốn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải pháp việc làm ở nông thôn.
* Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá.
Lịch sử phát triển sản xuất hàng hóa đã trải qua giai đoạn đầu tiên là kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa nhỏ trên quy mô hộ gia đình, tiếp theo là giai đoạn chuyển biến từ kinh tế hàng hóa nhỏ lên kinh tế hàng hóa quy mô lớn. Đó là nền kinh tế hoạt động mua bán trao đổi bằng trung gian tiền tệ.
Bước chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa nhỏ trên quy mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa trải qua thì khó có thể phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn, giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển.
* Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng lao động.
Lao động là một trong những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư, lao động góp phần làm tăng của cải vật chất cho mọi quốc gia. Việt Nam có 80% dân số ở nông thôn, nhưng việc khai thác và sử dụng nguồn nhân lực này còn đang ở mức thấp do trình độ thấp. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 15 triệu lao động chưa được sử dụng và quỹ thời gian ở nguời lao động ở nông thôn cũng chưa sử dụng hết. Các yếu tố sản xuất chỉ mang lại hiệu quả thấp. Do đó muốn sử dụng hợp lý nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn, chúng ta cần phát triển kinh tế hộ sản xuất. Thực tế đã cho thấy, trong những năm vừa qua hàng triệu cơ sở sản xuất được tạo ra bởi các hộ sản xuất trong khu vực nông nghiệp và nông thôn.
* Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản xuất hàng hoá.
Ngày nay, hộ sản xuất hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do cạnh tranh trong sản xuất hàng hóa, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản xuất phải quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì? Sản xuất nw thế nào để trực tiếp quan hệ với thị trường? Để đạt được điều này, các hộ sản xuất đều phải không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số biện pháp để kích thích cầu, từ đó mở rộng sản xuất đồng thời đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ dàng đáp ứng những thay đổi của nhu cầu thị trường, đồng thời cũng không gây tốn kém về mặt chi phí. Thêm vào đó là Đảng và Nhà nước có các chính sách khuyến khích tạo điều kiện để hộ sản xuất phát triển. Như vậy với khả năng nhạy bén trước nhu cầu của thị trường, hộ sản xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển cao hơn.
1.2. Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất
1.2.1 Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hóa. Bản chất của tín dụng hàng hóa là vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong nền kinh tế hàng hóa có nhiều loại hình tín dụng như: Tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, tín dụng Nhà nước, tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các ngân hàng, tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân khác, được thực hiện dưới hình thức tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Điều 20: Luật các tổ chức tín dụng quy định:
“ Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”
Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Do đặc điểm riêng của mình tín dụng Ngân hàng đạt đuợc ưu thế hơn các hình tức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm tín dụng bằng tiền, vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng đầu tư chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Vì vậy mà tín dụng Ngân hàng ngày càng trở thành hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có.
Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ tín dụng “ Hộ sản xuất ”. Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng Ngân hàng giữa một bên là Ngân hàng với một bên là hộ sản xuất hàng hóa. Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ xã hội, có thừa kế, có quyền sở hữu tài sản, có phương án kinh doanh hiệu quả, có tài sản thế chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Đây cũng là chính là điều kiện để hộ sản xuất đáp ứng đuợc điều kiện vay vốn Ngân hàng.
Đối với Ngân hàng, từ khi chuyển sang hệ thống Ngân hàng 2 cấp, hạch toán kinh tế và kinh doanh độc lập, các Ngân hàng phải tự tìm kiếm thị trường với mục tiêu an toàn và lợi nhuận. Thêm vào đó là Nghị định 14CP ngày 2/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư 01/TĐ-NH ngày 26/3/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn Nghị định 14CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển để phát triển nông lâm ngư nghiệp và gần đây là quy định số 67/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, văn bản số 320/CV-NHNN của Thống đốc NHNo Việt Nam về thực hiện một số chính sách Ngân hàng phục vụ phát triển nông thôn. Với các văn bản trên đã mở ra một thị trường mới trong hoạt động tín dụng. Trong khi đó hộ sản xuất đã cho thấy sản xuất có hiệu quả, nhưng còn thiếu vốn để mở rộng tiến hành sản xuất kinh doanh. Đứng truớc tình trạng đó, việc tồn tại một hình thức tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là một tất yếu và phù hợp với cung cầu trên thị trường được môi truờng xã hội, pháp luật cho phép.
1.2.2. Phân loại tín dụng Ngân hàng.
Có nhiều cách để phân loại tín dụng Ngân hàng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của Ngân hàng. Sự đa dạng các cách phân loại nhu vậy cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu huớng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Ví dụ cụ thể với NHNo & PTNT Việt Nam, bên cạnh việc đẩy mạnh sự đa dạng hoá các ngành tài trợ, vẫn tập trung tài trợ cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Cách phân loại như vậy đã giúp ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
Có thể phân loại tín dụng Ngân hàng như sau:
* Phân loại theo thời gian.
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:
- Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống.
- Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm.
- Tín dụng dài han: Trên 5 năm.
Tài sản lưu động thường có vòng quay trên 1 vòng trong một năm. Do vậy, ngân hàng cấp tín dụng với thời hạn từ 1 năm trở xuống.
Các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, thiết bị chóng hao mòn có yêu cầu đuợc tài trợ từ 1 năm đến 5 năm.
Công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu có yêu cầu tài trợ trên 5 năm.
Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể ( ngày, tháng, năm ) và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng.
* Phân loại theo hình thức: Gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ ).
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định, khách hành phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
* Phân loại theo tài sản đảm bảo.
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất ( từ quá trinh sản xuất kinh doanh ) không có hoặc không đủ.
Tín dụng có thể được phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
* Phân loại tín dụng theo rủi ro.
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Các ngân hàng chia các thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn cho các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh ( khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính... ).
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn so với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn...
Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì...
* Phân loại khác
Theo ngành kinh tế ( công. nông nghiệp....)
Theo đối tượng tín dụng ( tài sản lưu động, tài sản cố định...)
Theo mục đích ( sản xuất, tiêu dùng....)
1.2.3. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ giữa Ngân hàng và hộ sản xuất.
Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất một mặt cũng giống như các quan hệ tín dụng khác trong có chế thị trường, nhưng điều khác biệt ở đây còn là chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới quan hệ tín dụng này.
- Chính sách của Chính phủ: 80% dân số nước ta sống ở nông thôn, hình thức sản xuất chủ yếu là kinh tế ở quy mô gia đình. Do vậy sự phát triển kinh tế hộ sản xuất có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế đất nước. Vì thế, chính sách đối với hộ sản xuất kinh doanh của hầu hết các hộ sản xuất. Các chính sách của chính phủ sẽ tạo cơ sở để vốn tín dụng Ngân hàng tiếp cận đến các hộ sản xuất.
- Chính sách Ngân hàng: Trong sản xuất kinh doanh, mục tiêu hàng đầu là đạt được lợi, an toàn trong kinh doanh. Mức độ rủi ro đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn cao trong khi tỷ suất lợi nhuận không cao vì chi phí lớn, do đó hạn chế nhiều trong việc mở rộng cho vay và giảm hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Đối với NHNo, hộ gia đình là khách hàng truyền thống, là đối tượng phục vụ chính, do vậy chính sách cho vay của Ngân hàng có ảnh hưởng quyết định đến khối lượng cho vay các hộ sản xuất.
- Sự phát triển của hộ sản xuất: Mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng vay vốn là quan hệ hai chiều, vì vậy khả năng sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng cho vay của Ngân hàng đối với các hộ sản xuất.
1.2.4. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất
Với chức năng làm trung gian tín dụng, Ngân hàng nhận các khoản tiền nhàn rỗi tạm thời tiến hành đầu tư cho những hộ có khả năng phát triển, mở rộng sản xuất nhung thiếu vốn. Như vậy, tín dụng Ngân hàng đã đem lại khoản thu cho những người có vốn nhàn rỗi đồng thời tạo cơ hộ cho các hoạt động tốt mở rộng dây chuyền sản xuất, mua bán thiết bị máy móc đổi mới công nghệ và tiếp cận với thông tin môi trường sản xuất quản lý, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, tạo cho hộ sự chủ động và đa dạng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó tạo công ăn việc làm, thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, cải thiện đời sống nhân dân. Như vậy, tín dụng Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó trở thành “ Bà đỡ ” trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa.
Tín dụng Ngân hàng còn góp phần vào việc hạn chế cho vay nặng lãi ở nông thôn giúp kinh tế hộ sản xuất phát triển, làm ăn có hiệu quả. Thông qua vốn tín dụng Ngân hàng, các hộ sản xuất đã thực sự được giúp đỡ và có cơ hội tự khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Việc mở rộng kinh tế hộ sản xuất là hướng đi có tầm chiến lược đóng vai trò quan trọng đối với việc xây dựng một nền kinh tế toàn diện. Thúc đẩy công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo thế và lực mới cho sự phát triển của đất nước.
* Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho hộ sản xuất để duy trì quá tình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển kinh tế
Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất cùng với sự chuyên môn hóa sản xuất khi chưa thu hoạch sản phẩm, chưa có sản phẩm để bán thì chưa có thu nhập, nhưng trong khi đó họ vẫn cần tiền để trang trải cho các khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị và rất nhiều khoản chi phí khác. Trong điều kiện như vậy, các hộ sản xuất cần có sự trợ giúp của tín dụng Ngân hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất đã liên tục. Nhờ có sự hỗ trợ về vốn, các hộ sản xuất có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có khác như lao động, như tài nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy cho việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý từ đó nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho mọi nguời .
Ở Việt Nam , vai trò tín dụng càng trở nên quan trọng vì nuớc ta là nước kinh tế đang phát triển, do đó nhu cầu về vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, nhu cầu vốn để đổi mới trang thiết bị là rất lớn. Hơn thế là nước có nền kinh tế với đa phần vẫn là sản xuất nông nghiệp thì tín dụng sẽ khai thác triệt để nguồn lực tại chỗ (nguyên liệu, nhân công, địa bàn…). Cũng chính vì thế mà thị phần của hộ sản xuất trong dư nợ của Ngân hàng nông nghiệp ngày càng tăng một cách đáng kể.
* Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề truyền thống, ngành nghề mới, giải quyết việc làm cho người lao động.
Việt Nam là một nước có nhiều làng nghề truyền thống, nhưng chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Trong điều kiện hiện nay, bên cạnh việc thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo đúng huớng công nghiệp hóa, chúng ta cần phải quan tâm đến các ngành nghề truyền thống có khả năng đạt hiệu quả kinh tế đặc biệt trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Phát huy được làng nghề truyền thống, cũng chính là phát huy đuợc nội lực kinh tế hộ. Và tín dụng Ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành nghề mới thu hút đuợc đông đảo lực lượng lao động. Từ đó góp phần phát triển toàn diện, nông- lâm- thủy sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Do đó, tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành nghề này phát triển một cách nhịp nhàng đồng bộ.
* Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn sản xuất của tín dụng Ngân hàng đã được thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp cũ.
Hiệu quả kinh doanh là vấn đề sống còn, đối với các Ngân hàng phải đảm bảo đuợc độ an toàn và có lợi nhuận, tránh rủi ro trong cho vay.
Bằng cách tập trung vốn vào các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giúp cho các hộ sản xuất càng có điều kiện để sản xuất có hiệu quả hơn, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng thời Ngân hàng phải đảm bảo hạn chế được rủi ro tín dụng,
Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, Ngân hàng phải quan tâm đến nguồn vốn đã huy động đuợc để cho hộ sản xuất vay. Vì vậy, Ngân hàng sẽ thúc đẩy các hộ sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và cho lưu thông. Trên cơ sở đó, hộ sản xuất phải biết tập trung vốn như thế nào để sản xuất, góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
* Vai trò của tín dụng Ngân hàng về mặt chính trị xã hội:
Tín dụng Ngân hàng không những đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội. Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, đó là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay ở nước ta. Có việc làm, nguời lao động có thu nhập ,sẽ hạn chế những tiêu cực xã hội. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các ngành nghề phát triển, giải quyết việc làm cho lao động du thừa ở nông thôn, hạn chế luồng di dân vào thành phố. Thực hiện các ngành nghề này là do các nghề phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho nguời nông dân, đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị càng nhích lại gần nhau, hạn chế bớt sự phân hóa bất hợp lý trong xã hội, giữ vững an ninh chính trị.
Ngoài ra, tín dụng Ngân hàng góp phần thực hiện tốt các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, điển hình là chính sách xóa đói giảm nghèo. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, giúp cho hộ sử dụng có hiệu quả hơn đồng vốn của mình, nắm bắt đuợc cơ hội và thời cơ kinh doanh, các hộ nghèo trở nên khá hơn, hộ khá trở nên giàu hơn. Do đó tệ nạn xã hội dần được xóa bỏ như: ruợu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan nâng cao dân trí, trình độ chuyên môn của lực lượng lao động. Qua đây, chúng ta thấy được vai trò to lớn của tín dụng Ngân hàng trong việc củng cố lòng tin của nông dân nói chung và hộ sản xuất nói riêng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước.
1.3. Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất
1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố cạnh tranh trong sản xuất là rất cao. Điều này có nghĩa là mọi sản phẩm sản xuất ra đều phải có chất lượng.
Danh từ “ tín dụng ” xuất phát từ gốc Latinh “credium” có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng là phạm trù kinh tế mang tính lịch sử, ra đời và tồn tại trong nền kinh tế sản xuất và trao đổi hàng hóa. Nó là một trong những sản phẩm chính của Ngân hàng. Đây là hình thức sản phẩm mang hình thái phi vật chất, là dịch vụ đặc biệt. Sản phẩm này chỉ có khả năng đánh giá được sau khi khách hàng đã sử dụng. Do vậy có thể quan niệm chất lượng tính dụng Ngân hàng là việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển Ngân hàng và mục tiêu phát triển kinh tế xã ._.hội.
Như vậy, đối với khách hàng thì chất lượng tín dụng Ngân hàng được thể hiện qua các điểm sau:
- Đối với khách hàng: tín dụng Ngân hàng đưa ra các hình thức cho vay phù hợp với phạm vi mức độ, giới hạn với bản thân Ngân hàng để luôn đảm bảo tính cạnh tranh, an toàn, sinh lời theo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ và có lợi nhuận.
Các nhà kinh tế đã nhận xét rằng: “ Chất lượng là phù hợp mục đích của nguời sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hóa nào đó ” hay “Chất lượng là một sản phẩm hoặc dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của khách hàng ”.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất .
Hiện nay, hầu hết các NHTM tín dụng vẫn chiếm khoản 70%-76% trong tổng tài sản có của Ngân hàng. Vì thế sự tồn tại và hưng thịnh của Ngân hàng thường đánh giá chất lượng tín dụng khoản vay thông qua một số chỉ tiêu cơ bản sau:
1.3.2.1 Chỉ tiêu định tính.
a/ Cho vay đảm bảo có điều kiện:
Chỉ tiêu đính tính thứ nhất để đánh giá tín dụng Ngân hàng đó phải là cho vay đảm bảo có điều kiện, cũng theo Quyết định 1627/QĐ- Chính phủ, tại Điều 7 Điều kiện vay vốn ghi rõ : Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ điều kiện sau.
- Một là: Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với hộ sản xuất phải thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh NHNo đóng tại trụ sở có xác nhận hộ khẩu nơi thường trú và có xác nhận của UBND xã, phường nơi cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh .
- Hai là : Khả năng tài chính đảm bảo nợ trong thời hạn cam kết. Hộ sản xuất vay vốn phải có vốn tự có tham gia và dự án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Hộ sản xuất phải kinh doanh có hiệu quả, không có nợ quá hạn trên 6 tháng với Ngân hàng.
- Ba là : Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp , không vi phạm pháp luật, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
- Bốn là : Hộ sản xuất có dự án đầu tu hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả.
- Năm là : Hộ sản xuất thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay.
+ Đối với hộ vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản.
+ Đối với hộ vay trên 10 triệu đồng phải thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản, quyền sử dụng đất (Bao gồm cả công trình, giá trị cây lâu năm, thủy hải sản nuôi trồng đã đến kỳ thu hoạch gắn liền với đất).
Bất cứ một khoản cho vay hộ sản xuất nào đều phải xem xét đến 5 điều kiện cho vay để đánh giá chất lượng khoản vay.
b/ Đảm bảo nguyên tắc cho vay:
Nguyên tắc cho vay là một nguyên tắc quan trọng đối với mỗi Ngân hàng.
Để đánh giá chất lượng một khoản cho vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó phải đảm bảo nguyên tắc cho vay hay không. Theo quyết định 1627/QĐ ngày 15/01/2002, tại Điều 6 Nguyên tắc vay vốn ghi rõ: Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo hai nguyên tắc cơ bản cho vay.
- Thứ nhất : Sử dụng đúng mục đích theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Thứ hai : Hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Mọi tổ chức kinh tế hoạt động đều được dựa trên một nguyên tắc nhất định. Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó có ảnh hưởng sâu sắc đến tình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Hai nguyên tắc cho vay trên là nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một khoản cho vay có chất lượng nào cũng phải đảm bảo.
c/ Quá trình thẩm định :
Quá trình thẩm định là chỉ tiêu đính tính quan trọng nhất quyết định tới chất lượng khoản cho vay. Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để Ngân hàng nắm đuợc thông tin về khách hàng về năng lực pháp luật, đạo đức của khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng….
Đây là khâu không thể thiếu được trong quá trình quyết định cho vay và theo dõi khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các quy định và nội dung thẩm định cho vay của từng Ngân hàng... Một khoản vay có chất luợng là khoản vay đã được thẩm định và phải đảm bảo các bước của quá trình thẩm định . Quá trình thẩm định cho vay hộ sản xuất rất phức tạp do đặc điểm sản xuất kinh doanh của hộ là sản xuất kinh doanh tổng hợp. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay là bắt buộc để một khoản vay đạt chất lượng
1.3.2.2. Chỉ tiêu định lượng.
Không giống chỉ tiêu định tính, chỉ tiêu định lượng giúp cho Ngân hàng có biện pháp xử lí kịp thời những khoản vay kém chất lượng. Các chỉ tiêu mà ngân hàng thường dùng là:
a/ Doanh số cho vay hộ sản xuất.
Doanh số vay hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng thể số tiền ngân hàng cho hộ sản xuất vay trong thời kỳ nhất định ( thường là một năm ).
Ngoài ra, Ngân hàng còn dùng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng cho vay hộ sản xuất trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng trong một năm
TỶ TRỌNG CHO VAY HSX
=
Doanh số cho vay HSX
Tổng doanh số cho vay
b/ Doanh số thu nợ hộ sản xuất:
Doanh số thu nợ hộ sản xuất chỉ là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền ngân hàng thu hồi đuợc sau khi đã giải ngân cho hộ sản xuất trong một thời kỳ.
TỶ LỆ THU NỢ HSX
=
Doanh số thu nợ HSX
Tổng dư nợ của HSX
x
100%
Để phản ánh tình hình thu nợ hộ sản xuất, Ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng thu hồi được trong tổng doanh số cho vay hộ sản xuất của ngân hàng trong thời kỳ. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
Doanh số thu nợ HSX
x
100%
Doanh số cho vay hộ sản xuất
c/ Dư nợ quá hạn hộ sản xuất:
Dư nợ quá hạn hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng thể số tiền Ngân hàng chưa thu hồi được sau một thời gian nhất định kể từ ngày khoản cho vay đến hạn thanh toán tại thời điểm đang xem xét.
Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối, Ngân hàng thường xuyên sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất:
TỶ LỆ NỢ QUỎ HẠN HSX
=
Dư nợ quá hạn HSX
Tổng dư nợ của HSX
x
100%
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả tín dụng hộ sản xuất và chất lượng tín dụng đầu tư cho vay với hộ sản xuất. Dư nợ quá hạn càng nhỏ, tổng dư nợ quá hạn thấp, chất lượng tín dụng càng cao. Hoạt động Ngân hàng nói chung là hoạt động tín dụng Ngân hàng nói riêng đều chứa đựng nhiều rủi ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn kinh doanh của Ngân hàng. Do vậy, việc đảm bảo thu hồi vốn vay đúng hạn, thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý Ngân hàng liên quan đến sự sống còn của Ngân hàng. Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ nguời ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ khó đòi.
Tỷ lệ khó đŨI
=
Tổng nợ khó đòi
Tổng nợ quá hạn
x
100%
Đây cũng là một chi tiêu tương đối. Tỷ lệ này ở mức độ cao là dấu hệu cho thấy nguy cơ mất vốn cao do các khoản vay có vấn đề.
d/ Vòng quay tín dụng Hộ sản xuất:
VŨNG QUAY VỐN TỚN DỤNG HSX
=
Doanh số thu nợ HSX
Dư nợ bình quân HSX
Trong đó:
Dư nợ bình quân HSX = (Dư nợ đầu năm + Dư nợ cuối năm) / 2
Đây là một chỉ tiêu quan trọng xem xét chất luợng tín dụng hộ sản xuất, phản ánh tần suất sử dụng vốn. Vòng quay càng lớn với số dư nợ luôn tăng, chứng tỏ đồng vốn ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một cách hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn cho ngân hàng.
e/ Lợi nhuận của Ngân hàng.
Lợi nhuận = Tổng thu - tổng chi - thuế
Trong tổng thu, thu từ cho vay là chủ yếu, mà đối tượng hộ sản xuất là khách hàng chính của Ngân hàng, cho nên lợi nhuận Ngân hàng là thước đo hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng cũng như chất luượng cho vay hộ sản xuất.
1.3.2.3 Một số chỉ tiêu khác:
* Chỉ tiêu 1: Tốc độ tăng truởng dư nợ hộ sản xuất hàng năm.
Đây là dấu hiệu cho thấy kết quả hoạt động tín dụng. Sử dụng kết hợp với chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn có thể đánh giá đuợc chất lượng cũng như hiệu quả của tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Từ chỉ tiêu này có thể tính tốc độ tăng trưởng bình quân một giai đoạn cho đánh giá toàn diện hơn chất lượng tín dụng một thời kỳ nào đó.
* Chỉ tiêu 2
Doanh số cho vay HSX
Tổng số lượt HSX vay vốn
Chỉ tiêu này phản ánh số tiền vay mỗi lượt của Hộ sản xuất. Số tiền vay càng cao chứng tỏ hiệu quả cũng như chất lượng cho vay tăng lên. Điều đó thể hiện sức sản xuất cũng nhu quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tăng lên cao. Đồng thời thể hiện chất lượng cho vay có xu hướng tăng, bởi thế Ngân hàng cho một lượt hộ sản xuất vay nhiều hơn mà vẫn đảm bảo khả năng thu hồi và có lãi.
* Chỉ tiêu 3:
Tỷ l ệ cho vay
trung - dài hạn HSX
=
Dư nợ cho vay HSX trung - dài hạn HSX
x 100%
Tổng số dư nợ HSX
Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu vốn trung- dài hạn của hộ sản xuất để mở rộng sản xuất kinh doanh. Cho vay trung - dài hạn hộ sản xuất phải đạt tỷ trọng cao hơn cho vay ngắn hạn thì hộ mới có đủ vốn để cải tạo, xây dựng cơ sở cho sản xuất. Từ đó tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngắn hạn. Theo đánh giá, tỷ lệ tối thiểu là 30% tổng dư nợ ( Mục tiêu của NHNo & PTNT Việt Nam ). Tuy vậy, tỷ lệ này có thể cao, thấp tùy thuộc vào nhu cầu vốn trung, dài hạn tại địa phương cũng như chính sách tín dụng của từng NHTM. Hai chỉ tiêu 2 và 3 phản ánh hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với việc phát triển kinh tế hộ sản xuất, qua đó đánh giá được chất lượng tín dụng Ngân hàng.
* Chỉ tiêu 4:
SỐ HỘ CBTD QUẢN LÝ
=
Tổng số hộ vay vốn
Tổng số cán bộ tín dụng
Do năng lực của mỗi con người có hạn, do địa bàn nông thôn rộng lớn và tính phức tạp trong cho vay nông nghiệp và nông thôn, nếu CBTD quản lý quá nhiều hộ vay vốn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Việt Nam chỉ tiêu này chưa đuợc coi trọng, thường mỗi CBTD ở NHNo&PTNT Việt Nam quản lý khoảng 600 - 800 hộ, trong khi đó ở các nước con số này chỉ vào khoảng 200 - 300 hộ cho mỗi người CBTD.
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
Việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất có ý nghĩa rất lớn với Ngân hàng, hộ sản xuất và nền kinh tế, nó mang tính quyết định sự thành bại của Ngân hàng. Do vậy, yêu cầu phải nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất là một yêu cầu thường xuyên đối với Ngân hàng. Để làm tốt điều đó, trước hết phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất
1.3.3.1- Yếu tố môi trường:
Môi trường là nhóm yếu tố có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Đặc biệt trong điều kiện sản xuất của nước ta còn phụ thuộc vào thiên nhiên thì môi trường tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn.
a/ Môi trường tự nhiên.
Môi trường tự nhiên tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất. Nhất là những hộ sản xuất nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự nhiên. Nếu “ Mưa thuận gió hòa ” họ sẽ bội thu, sản xuất kinh doanh suôn sẻ thì hộ sản xuất có khả năng tài chính dồi dào để trả nợ Ngân hàng. Ngược lại, nếu thiên tai bất ngờ xảy ra thì hộ sản xuất sẽ bị thiệt hại lớn về kinh tế, dẫn đến gặp khó khăn trong việc trả nợ Ngân hàng. Diễn biến tự nhiên là bất khả kháng, con người khó có thể đoán trước hay thay đổi được nó. Cho nên, môi trường tự nhiên là yếu tố ảnh hưởng rõ rệt đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
b/ Môi trường kinh tế- xã hội
Môi trường kinh tế - xã hội có ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Môi trường kinh tế ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện cho hộ sản xuất làm ăn có hiệu quả, do vậy hộ sản xuất vay nhiều hơn, các khoản vay đều được hộ sản xuất sử dụng đúng mục đích mang lại hiệu quả kinh tế. Từ đó, các khoản vay được hoàn trả đúng thời hạn cả tiền gốc và lãi. Trên cơ sở đó, chất lượng tín dụng hộ sản xuất được nâng lên.
c/ Môi trường chính trị - pháp lý.
Ngân hàng là một trong những ngành phải chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan pháp luật và cơ quan chức năng. Do vậy việc tạo ra môi trường tín dụng hoàn thiện sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Môi trường chính trị ổn định, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý để hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tiến hành thuận lợi. Những quy định cụ thể của pháp luật về tín dụng Ngân hàng và các lĩnh vực khác có liên quan đến hoạt động tín dụng là cơ sở để xử lý, giải quyết khi xảy ra các tranh chấp tín dụng một cách hữu hiệu nhất. Vì vậy, môi trường chính trị- pháp luật có ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
1.3.3.2. Yếu tố thuộc về khách hàng:
Ngoài yếu tố môi trường ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất thì còn có rất nhiều yếu tố từ chính khách hàng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng.
a/ Trình độ của khách hàng:
Trình độ của khách hàng bao gồm cả trình độ sản xuất và trình độ quản lý của khách hàng. Với một trình độ sản xuất phù hợp và khả năng quản lý khoa học, khách hàng có thể đạt đuợc kết quả sản xuất kinh doanh tốt, sẽ có khả năng tài chính để trả ngân hàng. Trình độ của khách hàng rõ ràng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
b/ Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích:
Đây là yếu tố phụ thuộc về chủ quan của khách hàng. Yếu tố này Ngân hàng rất khó kiểm soát từ đầu. Việc sử dụng vốn sai mục đích là ý định của khách hàng, ý định này có thể xuất hiện ngay từ khi vay hoặc sau khi đã vay được. Tụy nhiên, việc sử dụng vốn sai mục đích đã vi phạm nguyên tắc cho vay, vì vậy đã ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
c/ Lừa đảo Ngân hàng:
Đây là yếu tố phụ thuộc phạm trù đạo đức, khách hàng có ý định lừa đảo Ngân hàng để lấy tiền. Đạo đức của khách hàng là yếu tố vô cùng quan trọng ảnh trực tiếp tới chất lượng khoản vay. Khoản vay có được sử dụng đúng mục đích hay không, khoản vay có đuợc hoàn trả hay không là phụ thuộc vào hành vi đạo đức của khách hàng.
1.3.3.3. Yếu tố phụ thuộc vào Ngân hàng.
Quan hệ tín dụng Ngân hàng hiện nay giữa Ngân hàng và khách hàng là vô cùng mật thiết, nguời ta ví quan hệ này như quan hệ “ chân tay ”. Do đó, chất lượng tín dụng Ngân hàng còn phụ thuộc nhiều vào bản thân Ngân hàng.
a/ Chính sách tín dụng ngân hàng:
Chính sách tín dụng Ngân hàng: Là một trong những chính sách sản phẩm quan trọng nhất của Ngân hàng. Có chính sách tín dụng đúng đắn sẽ đưa ra đuợc hình thức cho vay phù hợp với nhu cầu, thu hút được khách hàng, đồng thời khuyến khích khách hàng trả nợ đúng hạn. Do đó chính sách tín dụng Ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng.
Trong quy định của hoạt động tài chính Ngân hàng có những thể chế tín dụng cần được nghiêm chỉnh chấp hành.Việc chấp hành quy định thể chế tín dụng của CBTD tốt hay không tốt là nguyên nhân để các chỉ tiêu định tính đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng có thực hiện được hay không. Mỗi cán bộ tín dụng khi cho vay đều phải tuân theo Luật các tổ chức tín dụng. Các quy định thể lệ tín dụng khi cho vay đều phải tuân theo Luật các tổ chức tín dụng và các quy định thể lệ tín dụng riêng của từng Ngân hàng.
b/ Cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn khiến khách hàng khó có thể đủ khả năng tài chính để trả nợ Ngân hàng, đồng thời phạm vị điều kiện về đảm bảo tiền vay, làm cho chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng.
c/ Trình độ CBTD sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản cho vay. Chất lượng một cho vay đuợc xác định ngay từ khi khoản cho vay được quyết định qua các chỉ tiêu định tính.
d/ Kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng chưa kịp thời, do đó không kịp thời nắm bắt được các thông tin về một khoản cho vay, không biết được các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng nào đã, đang và sẽ xảy ra để có biện pháp kịp thời không làm cho chất lượng tín dụng bị giảm sút
e/ Hệ thống thông tin Ngân hàng sẽ tạo điều kiện để Ngân hàng nắm bắt được các thông tin về khách hàng trước khi quyết định một khoản cho vay.
Yếu tố này rất quan trọng bởi vì nó góp phần ngăn chặn những khoản cho vay chất lượng không tốt ngay từ khi chưa xảy ra.
Như vậy, có thể khẳng định rằng tín dụng Ngân hàng có vai trò hết sức to lớn đối với hộ sản xuất cả về mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Nó được coi là công cụ đắc lực của Nhà nước, là đòn bẩy kinh tế, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển một cách toàn diện, từ đó phát huy hết đợc vai trò to lớn của mình đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn cũng nhu đối với nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực tế cho thấy, chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất còn nhiều vấn đề cần giải quyết và tháo gỡ. Do đó việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là điều rất quan trọng với Ngân hàng nói chung và NHNo nói riêng.
1.3.4. Sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng bao gồm cả huy động vốn và cho vay. Mục tiêu của NHTM khi đầu tư tín dụng phải thu đuợc cả gốc lẫn lãi đúng hạn. Nhưng thực tế hoạt động của Ngân hàng luôn phát sinh nhiều rủi ro, đặc biệt là đối với tín dụng hộ sản xuất vì cho vay hộ sản xuất chủ yếu là sản xuất nông nghiệp mà sản xuất nông nghiệp lại phụ thuộc nhiều bởi điều kiện tự nhiên - điều kiện nằm ngoài vùng khống chế của Ngân hàng. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng là cần thiết để khắc phục rủi ro chủ quan đồng thời hạn chế tối đa những rủi ro khách quan.
Nâng cao chất lượng tín dụng thể hiện qua yêu cầu quản lý danh mục tài sản của Ngân hàng. Quản lý việc sử dụng nguồn vốn là vấn đề quan trọng cả trước mắt và lâu dài trong đảm bảo cũng như phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Chất lượng tín dụng là cơ sở để đánh giá việc thực hiện tốt hay xấu các quy trình tín dụng từ khi nhận hồ sơ vay vốn cho tới khi thu hồi đuợc cả gốc lẫn lãi. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay thì việc nâng cao chất lượng tín dụng lại càng trở nên cần thiết.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI NHNo VÀ PTNT HUYỆN NINH GIANG.
2.1. Khái quát về NHNo & PTNT huyện Ninh Giang.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng.
Là một chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT Tỉnh Hải Dương, với chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng trên mặt trận nông nghiệp, nông thôn và các thành phần kinh tế trên địa bàn.
Được hình thành sau khi tái lập huyện năm 1996 theo Quyết định số 107/QĐ-NHNo ngày 28/12/1996 của Tổng Giám đốc NHNo & PTNT Việt Nam .
Từ một chi nhánh Ngân hàng còn nhiều khó khăn… Nhờ kiên trị khắc phục khó khăn, quyết tâm đổi mới, chi nhánh NHNo&PTNT Ninh Giang không đã khẳng định được mình, mà còn vươn lên phát triển trong cơ chế thị trường. Thật sự là một chi nhánh của một NHTM Quốc doanh lớn, kinh doanh tổng hợp, có xu hướng mở rộng tới tất cả các dịch vụ Tài chính - Ngân hàng .
Hiện nay, NHNo & PTNT huyện Ninh Giang có một hội sở NHNo huyện, một ngân hàng cấp III và phòng giao dịch trực thuộc. Là một chi nhánh Ngân hàng duy nhất trên địa bàn huyện có sự phân phối đồng đều rộng khắp tới tất cả các xã trong huyện. Khách hàng của Ngân hàng chủ yếu là hộ nông dân, hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp, công ty TNHH thuộc các thành phần kinh tế.
Nhờ hoạt động ngày càng có hiệu quả uy tín của NHNo & PTNT huyện Ninh Giang ngày càng trở thành nguời bạn đồng hành không thể thiếu được của bà con nông dân.
Với trách nhiệm của một ngành cung ứng vốn cho phát triển kinh tế địa phương. Ngành Ngân hàng nói chung, NHNo & PTNT huyện Ninh Giang nói riêng đã có những đóng góp tích cực phục vụ cho chương trình phát triển kinh tế xã hội của toàn tỉnh nói chung và huyện nhà nói riêng. Nhất là những năm gần đây, trên lĩnh vực huy động vốn và cho vay các chương trình chuyển dịch cơ cấu của huyện, thể hiện thông qua tăng trưởng khối tín dụng và thay đổi cơ cấu dần qua các năm.
2.1.2. Bộ máy tổ chức của Ngân hàng.
Hiện nay, NHNo & PTNT huyện Ninh Giang có 35 cán bộ công nhân viên độ tuổi trung bình là 35 tuổi.
Trình độ Đại học là : 18 chiếm 51,43%
Trình độ Cao đẳng là: 8 chiếm 22,80%
Trình độ Trung cấp là : 9 chiếm 25,77%
GIÁM ĐỐC
Mô hình tổ chức:
PHÓ GIÁM ĐỐC PHỤ TRÁCH KẾ TOÁN – NGÂN QUỸ
PHÓ GIÁM ĐỐC PHỤ TRÁCH KINH DOANH
Phòng Giao dịch
Ngân hàng cấp III
Phòng Kế toán
Ngân quỹ
Phòng nghiệp vụ
Kinh doanh
2.1.3. Tình hình kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Ninh Giang trong 4 năm gần đây ( 2004-2007).
a/ Công tác huy động vốn.
* Phương pháp huy động vốn
Xác định rõ chức năng của NHTM là : “ Đi vay để cho vay” do đó không thể trông chờ vào nguồn vốn cấp trên mà phải tìm mọi biện pháp để khai thác nguồn vốn để đảm bảo hoạt động của mình thực hiện đa dạng hóa cả về hình thức huy động vốn, cả về hình thức lãi suất huy động. Kết hợp giữa huy động vốn trong địa bàn với huy động vốn ngoài địa bản, sử dụng các hình thức huy động vốn: Tiền gửi tiết kiệm các loại, kỳ phiếu tiền gửi kho bạc, tiền gửi các tổ chức kinh tế… Với thời hạn và mức lãi suất khách nhau. Vận động mở tài khoản cá nhân và thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng.. Vừa qua NHNo & PTNT huyện Ninh Giang áp dụng hình thức tiết kiệm bậc thang với cách tính lãi linh hoạt được khách hàng nhiệt tình hưởng ứng. Ngoài ra Ngân hàng còn sử dụng hoạt động Marketing trong việc huy động vốn bằng các hình thức tặng quà tặng theo giá trị khoản tiền gửi vào Ngân hàng, khen thưởng tuyên dương các hộ sản xuất kinh doanh làm ăn hiệu quả từ đồng vốn của Ngân hàng…
Với mạng lưới đồng đều rộng khắp 1 trụ sở chính, 2 chi nhánh trực thuộc và các tổ chức hội, các tổ làm đại lý dịch vụ cho Ngân hàng xuống tận thôn xã để cho vay và huy động, cho vay, thu nợ, lãi…
Trong những năm qua NHNo & PTNT huyện Ninh Giang, luôn là một trong những huyện có thành tích xuất sắc về công tác huy động vốn, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu vay vốn của nhân dân địa phương.
Vốn đầu tư cho nông nghiệp được huy động vốn trong nước có tính chất quyết định, vốn nước ngoài có vị trí quan trọng.
* Kết quả huy động vốn .
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của NHNo & PTNT huyện Ninh Giang
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
1- Số HĐV tại địa phương
82,811
115,875
156,630
206,026
Tiền gửi không kỳ hạn
21,795
34,320
47,145
54,018
Tiền gửi có kỳ hạn 1 năm
7,939
8,116
15,984
40,420
Tiền gửi có kỳ hạn trên 1 năm
53,377
73,439
93,501
111,500
2 – Vốn ủy thác đầu tu
26,179
26,725
22,450
25,3500
Nguồn vốn ủy thác đầu tu
26,179
26,725
22,450
25,350
Tổng nguồn
108,990
142,600
179,080
231,376
(Nguồn: Báo cáo kết quả công tác tín dụng 4 năm 2004 - 2007 )
Qua số liệu 4 năm ta thấy: Tổng nguồn huy động tăng nhanh từ 108,990 tỷ đồng năm 2004 lên 231,376 tỷ đồng năm 2007.
Trong đó nguồn vốn huy động tại địa phương đến 31/12/2007 đạt 206,026 triệu đồng tức là tăng 31,54% so với năm 2006.
Cơ cấu nguồn vốn như sau:
- Tiền gửi không kỳ hạn 54,018 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 26,22% trong tổng nguồn vốn huy động tại địa phương tăng 6,873 tỷ đồng so với năm 2006.
- Tiền gửi có kỳ hạn dưới 1 năm: 40,420 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 19,62% trong tổng nguồn vốn huy động tại địa phương tăng 24,436 tỷ đồng so với năm 2006.
- Tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên 111,588 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 54,16% so với nguồn vốn huy động tại địa phương tăng 18,087 tỷ đồng so với năm 2006 tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng đầu tư cho vay trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn vay nhằm chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho hộ sản xuất trong tình hình hiện nay.
- Nguồn ủy thác đầu tư: Nguồn ủy thác đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng 9,56% trong tổng nguồn, về số tuyệt đối tăng 2,900 tỷ đồng so với năm 2006.
Qua số liệu trên ta thấy, cơ cấu nguồn vốn của NHNo huyện Ninh Giang có xu hướng tăng các nguồn huy động dài hạn do NHNo&PTNT huyện Ninh Giang đã chú trọng tăng cuờng huy động từ các nguồn vốn trong khu vực dân cư, tạo điều kiện nhanh chóng, thuận tiện, chính xác cho khách hàng yên tâm gửi tiền.
Trong thời gian qua, nguồn vốn huy động của NHNo huyện Ninh Giang tăng trưởng ngày càng nhanh và mạnh là yếu tố đầu vào quan trọng để đảm bảo các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
b/ - Tình hình sử dụng vốn
* Về dư nợ cho vay.
- NHNo huyện Ninh Giang cho vay các Hộ sản xuất là chủ yếu. Tín dụng cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng.
Bảng 2: Tình hình dư nợ của NHNo & PTNT huyện Ninh Giang.
Đơn vị: Tỷ VNĐ.
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Tổng dư nợ
98,492
135,421
160,989
204,160
( Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác tín dụng năm 2004 - 2007 )
Qua số liệu 4 năm ta thấy kết quả hoạt động tín dụng của NHNo & PTNT huyện Ninh Giang đã đạt được những kết quả khá nổi bật.
Tổng dư nợ năm sau cao hơn năm trước. Năm 2004 chỉ đạt 98,492 tỷ đồng thì đến năm 2005 đã đạt 135,421 tỷ đồng và đến năm 2006 là 160,989 tỷ đồng. NHNo & PTNT huyện Ninh Giang đã tham gia vào câu lạc bộ Ngân hàng trên 100 tỷ . Đến năm 2007, tổng dư nợ của NHNo & PTNT huyện Ninh Giang là 204,160 tỷ đồng tăng so với năm 2006 về số tuyệt đối là 43,171 tỷ đồng tức là tăng 26,82%.
Năm 2007 là năm có mức độ tăng trưởng dư nợ khá cao, dư nợ bình quân/1 cán bộ 6,58 triệu đồng năm. Đây là mức dư nợ cao nhất từ trước tới nay mà NHNo & PTNT huyện Ninh Giang đạt được.
* Về cơ cấu cho vay:
Có rất nhiều cách phân loại cơ cấu cho vay, với mỗi cách phân loại có thể đánh giá thực trạng cho vay của Ngân hàng
Bảng 3: Cơ cấu dư nợ theo thời hạn cho vay.
Đơn vị: %
Năm
Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn
Tỷ trọng dư nợ trung-dài hạn
2004
47,22
52,78
2005
44,7
55,3
2006
48,7
51,3
2007
51,62
48,4
( Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác tín dụng năm 2004 - 2007)
Xét về kỳ hạn cho vay, hoạt động tín dụng có nhiều biến đổi tích cực, phù hợp với yêu cầu phát triển của các thành phần kinh tế. Nhìn vào bảng tổng hợp kết quả tín dụng qua 4 năm ( 2004 - 2007 ) có thể thấy tỷ trọng cho vay trung, dài hạn các năm 2004 - 2006 đạt tỷ lệ cao. Riêng năm 2007, chịu ảnh hưởng của những biến động kinh tế - chính trị trong và ngoài nước như: xu hướng hội nhập kinh tế, tình hình lạm pháp khá cao...Do đó ảnh hưởng tới xu hướng vay trung - dài hạn, cụ thể là tỷ trọng vay nhóm này tạm thời giảm nhẹ. Từ những kết quả trên cho thấy, dư nợ có tính ổn định hơn, chi phí cho việc thiết lập hồ sơ xin vay giảm đi, giảm tải khó khăn cho cán bộ tín dụng. Tuy nhiên NHNo & PTNT huyện Ninh Giang cần phải có biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng vì rủi ro tín dụng trung- dài hạn lớn hơn ngắn hạn và là các yếu tố tiềm ẩn trong tương lai nên rất khó đoán biết
* Chất lượng tín dụng.
Đây là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả hoạt động tín dụng trong một giai đoạn nhất định của NHTM.
Bảng 4: Tình hình dư nợ quá hạn của NHNo & PTNT huyện Ninh Giang.
Đơn vị: Tỷ VNĐ.
Năm
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ % so với tổng dư nợ
2004
102
0,1
2005
125
0,09
2006
255
0,16
2007
305
0,15
(Nguồn : Báo cáo tổng kết công tác tín dụng năm 2004 - 2007)
Từ năm 2005, thực hiện Quy định số 493/2005 QĐ- NHNN của Thống đốc NHNN và Quyết định số 165/QĐ- HĐQD ngày 06/06/2005 của Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về trích quỹ dự phòng rủi ro đối với các khoản nợ cơ cấu và quá hạn từ nhóm 2 đến nhóm 5 để phù hợp với thông lệ quốc tế, cùng với các biện pháp quyết liệt trong xử lý, nợ quá hạn đã có chiều hướng giảm xuống. Qua số lượng nợ quá hạn trong 4 năm ( 2004 -2007) có thể thấy tình hình nợ quá hạn chiếm tỷ lệ rất thấp. Điều này cho thấy công tác thu hồi và thanh toán nợ của đơn vị đuợc thực hiện tương đối tốt.
c/ Về kết quả tài chính.
Bảng 5: Kết quả tài chính của NHNo huyện Ninh Giang.
Đơn vị: Tỷ VNĐ.
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Tổng thu
9,854
15,350
21,898
31,298
Tổng chi
6,562
10,672
16,072
24,349
Lợi nhuận
3,292
4,678
5,826
6,949
(Nguồn : Báo cáo tổng kết công tác tín dụng năm 2004-2007)
Từ kết quả tài chính trên cho thấy một cách toàn diện hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Trong những năm gần đây, NHNo & PTNT huyện Ninh Giang đã tăng tối đa nguồn thu, giảm tối đa chi phí trên cơ sở lợi nhuận hợp lý bằng các biện pháp thích hợp.
Qua bản số liệu ta thấy lợi nhuận thu đuợc tăng dều qua các năm:
Lợi nhuận của ngân hàng tăng từ 3,292 tỷ đồng lên 4,678 tỷ đồng năm 2005. Về số tuyệt đối tăng 1,386 tỷ đồng, đạt 41,2%.
Lợi nhuận của Ngân hàng tăng từ 4,678 tỷ đồng năm 2005 lên 5,826 tỷ đồng năm 2006, về tuyệt đối tăng 1,148 tỷ đồng, đạt 24,54%.
Lợi nhuận tăng từ 5,826 tỷ đồng năm 2006 lên 6,949 tỷ đồng năm 2007. Về số tuyệt đối tăng 1,123 tỷ đồng, đạt 19,27%.
Lợi nhuận của NHNo tăng chủ yếu do doanh thu từ hoạt động Ngân hàng tăng, mà nguồn thu chủ yếu của Ngân hàng là từ lãi của hoạt động cho vay. Chứng tỏ hoạt động tín dụng với hộ sản xuất rất có hiệu quả, chất lượng khoản vay tốt. Mặt khác, lợi nhuận cũng tăng do chi phí qua các năm thấp, chứng tỏ đơn vị đã cân đối đuợc nguồn thu, chi … đây là biểu hiện tích cực. Điều đó cho thấy những định hướng và chính sách của Ngân hàng là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của thị trường.
d/ Hoạt động ngân quỹ.
Bảng 6: Kết quả hoạt động ngân quỹ huyện 2004 - 2007
Đơn vị: Tỷ VNĐ.
Năm
Tổng thu
Tổng chi
2004
272,487
372,026
2005
324,760
451,872
2006
539,366
601,748
2007
949,940
949,145
(Nguồn : Báo cáo tổng kết công tác tín dụng năm 2004 - 2007)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, khối lượng tiền mặt đưa vào lưu thông hợp lý tương ứng với tăng trưởng dư nợ và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt tuy đã phát triển nhưng còn ở mức độ khiêm tốn, do thói quen và nhu cầu chi trả bằng tiền mặt của nguời dân địa phương nói riêng và nhân dân nói chung.
Tổng kết năm 2006, toàn chi nhánh đã phát hiện 87 tờ tiền giả với số tiền 4.570.000 đồng, lập biên bản thu giữ và nộp tiêu hủy. Trả tiền thừa cho khách hàng 72 món với số tiền là 58.600.000 đồng. Trong đó món lớn nhất của chị Nguyễn Thị Tuyết trả tiền thừa cho anh Hà Văn Soi số tiền là 10 triệu đồng. Qua đó đã tạo được niềm tin và tín nhiệm của khách hàng đối với Ngân hàng.
Công tác an toàn kho quỹ đuợc đảm bảo chấp hành tốt quy trình thu chi, giao nhận, kiểm tra, đóng gói, niêm phong tiền mặt theo đúng văn bản 269/2002/QĐ-NHNN. Kiểm kê tiền mặt cuối ngày đảm bảo đủ thành phần quy định. Điều chuyển hàng đặc biệt đảm bảo đúng quy định, an toàn. Hệ thống kho tiền mặt chất lượng tốt do mới xây dựng cơ bản theo đúng quy chuẩn. Hệ thống két sắt được trang bị mới đầy đủ khóa mã số. Canh gác bảo vệ an toàn kho quỹ tốt. Năm 2007 thu tiền mặt 949,940 tỷ đồng so với 2006 tăng 76%. Tổng chi tiền mặt 949,145 tỷ đồng so với 2006 tăng 57,73%
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28608.doc