LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2008 có thể coi là dấu mốc quan trọng trong lịch sử kinh tế thế giới. Nếu như trước đây, thế giới đã từng được chứng kiến những cuộc đại suy thoái kinh tế 29-33, khủng hoảng tài chính 1997 thì năm 2008 cả thế giới không khỏi bàng hoàng khi lại một lần nữa được chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cơn bão tài chính thế giới cùng với những bất ổn tiềm tàng đã đẩy hệ thống ngân hàng – mạch máu của nền kinh tế vào một vòng xoáy nghiệt ngã. Chí
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1491 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay Doanh nghiệp tại Sở Giao dịch Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh sách tiền tệ có công lớn trong việc kiểm soát lạm phát, song đã tạo những cú sốc với doanh nghiệp và chính các ngân hàng. Phần lớn các ngân hàng phải điều chỉnh kế hoạch lợi nhuận, thậm chí sẵn sàng đối mặt với nguy cơ thua lỗ. Tuy nhiên, lỗ lãi không hẳn đã là vấn đề đáng ngại nhất mà trở ngại lớn nhất hiện nay là bước sang năm 2009 các ngân hàng chắc hẳn sẽ phải đối mặt với nỗi lo canh cánh về các khoản nợ xấu khó đòi.
Được coi là một trong năm Ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam, với 45 năm xây dựng và trưởng thành, Ngân hàng Ngoại Thương ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình đối với nền kinh tế. Kế thừa những truyền thống tốt đẹp đó đồng thời không ngừng hoàn thiện và vươn lên, Sở Giao Dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã xây dựng được uy tín và niềm tin cho các khách hàng đặc biệt là các khách hàng doanh nghiệp với quy mô lớn nhỏ đến với mình và đã được coi là một trong những chi nhánh hoạt động hiệu quả nhất trong hệ thống NHNT VN. Năm 2008 sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, hệ thống ngân hàng trong nước và thế giới đã phải trả giá rất lớn đồng thời thu được nhiều bài học quý giá. Bài học từ tài chính Mỹ có lẽ là bài học đắt giá cho ngành ngân hàng. Lợi nhuận cao luôn đi kèm với rủi ro cao – bài học ngàn năm muôn thuở. Sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng và tập đoàn tài chính lớn của Mỹ đã cảnh báo cho các ngân hàng trên toàn cầu nói chung và Sở Giao Dịch NHNT VN nói riêng cần quan tâm tới chất lượng các khoản vay nhất là khoản vay của các doanh nghiệp lớn nhỏ đang ngày một gia tăng về số lượng.
Chính vì vậy vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng vốn đã được coi là vấn đề đáng quan tâm trong bất cứ giai đoạn phát triển nào của nền kinh tế nay càng trở nên “nóng bỏng” và cấp thiết hơn bao giờ hết trong giai đoạn nền kinh tế gặp khó khăn của cuộc đại suy thoái hiện nay. Xuất phát từ thực tế đó, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài
“Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp tại Sở Giao Dịch Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình với mong muốn góp phần giúp SGD NHNT ngày một phát triển nhanh, ổn định và bền vững trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
2.Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến chất lượng cho vay của NHTM trong nền kinh tế.
- Phân tích thực trạng hoạt động cho vay Doanh nghiệp tại SGD NHNT VN.
- Đề suất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay Doanh nghiệp tại Sở Giao Dịch Ngân Hàng Ngoại Thương trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu đề ra, chuyên đề có kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, so sánh, phân tích, logic…
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: chuyên đề chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu chất lượng cho vay doanh nghiệp tại Sở Giao Dịch Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam, chủ yếu từ năm 2006-2008.
5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
+ Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại
+ Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay doanh nghiệp tại Sở Giao Dịch Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
+ Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp tại Sở Giao Dịch Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
Chương I: Những vấn đề cơ bản về chất lượng cho vay của ngân hàng thương mại.
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái quát chung về ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm NHTM
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Trên thế giới có rất nhiều cách hiểu khác nhau về NHTM. Ở một số nước thì khái niệm này dùng để chỉ một tổ chức tiền tệ mà hoạt động kinh doanh chủ yếu của nó là nhận tiền gửi từ các cá nhân hay tổ chức kinh tế sau đó để cho các cá nhân hay tổ chức khác vay lại. Một số nước quan niệm phạm vi hoạt động của các NHTM có thể không được phép kinh doanh tổng hợp các dịch vụ khác như đầu tư tài chính, cung cấp dịch vụ cho các nhóm ngành nghề riêng biệt. Trong khi đó, một số nước khác thì lại cho rằng NHTM là NH được phép kinh doanh tổng hợp tất cả các dịch vụ NH.
Theo pháp luật nước Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một NHTM.
Theo Luật NH của Pháp năm 1941: NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ và các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay tài chính.
Luật pháp của Đan Mạch lại coi: NHTM là nơi thực hiện các nghiệp vụ thiết yếu bao gồm: thu nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu; bảo lãnh các món nợ; thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân; đứng ra bảo hiểm, bảo đảm ký quỹ; tham dự và thiết lập các xí nghiệp.
Theo Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam thì: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Trên thực tế, các NHTM ở nước ta ngoài việc thực hiện các hoạt động ghi trong luật trên thì còn phải thực hiện các hoạt động khác phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội thực hiện theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy có thể nói Ngân hàng là một trong những định chế tài chính trung gian quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ được huy động, tập trung lại, đồng thời sử dụng số vốn đó để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân để phát triển kinh tế xã hội. Ngoài việc cung cấp các dịch vụ tài chính thì chúng còn thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế. Với những lý do đó, chúng ta cần phải nghiên cứu và hiểu một cách cặn kẽ về loại hình tổ chức này để có thể vận hành và quản lý nó có hiệu quả.
1.1.1.2. Phân loại NHTM
Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình NHTM được hình thành đa dạng, căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, quy mô và nghiệp vụ, các loại hình này được tổ chức theo các mô hình chủ yếu:
Căn cứ vào nghiệp vụ
- NHTM đa năng là loại hình NHTM được tiến hành tất cả các nghiệp vụ kinh doanh NH như: nhận tất cả các loại tiền gửi, cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, các nghiệp vụ giấy tờ có giá và cung ứng các dịch vụ liên quan tới NH. Ngân hàng đa năng thường là ngân hàng lớn (hoặc sở hữu công ty). Tính đa dạng sẽ giúp NH tăng thu nhập và hạn chế rủi ro.
- NHTM chuyên doanh là loại hình ngược lại với NHTM đa năng, nó chỉ thực hiện một hoặc số ít các nghiệp vụ NH. Tính chuyên môn hóa cao cho phép ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Tuy nhiên loại NH này thường gặp rủi ro lớn khi ngành hoặc lĩnh vực hoạt động mà ngân hàng phục vụ sa sút.
Căn cứ vào quy mô và lĩnh vực hoạt động, bao gồm
- NHTM bán buôn, là NHTM mà hoạt động của nó chủ yếu với khách hàng lớn với số lượng giao dịch nhỏ nhưng giá trị giao dịch lại rất lớn và thường tập trung tại các trung tâm thương mại.
- NHTM bán lẻ, là NHTM mà hoạt động chủ yếu của nó với các khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các khách hàng cá nhân.
Căn cứ vào cơ cấu tổ chức
- Ngân hàng sở hữu công ty: là ngân hàng nắm giữ phần vốn chi phối của công ty, cho phép ngân hàng được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của công ty.
- Công ty sở hữu ngân hàng: một số tập đoàn kinh tế thường tổ chức thành lập ngân hàng nhằm cung cấp dịch vụ tài chính cho các đơn vị thành viên của tập đoàn và ngoài tập đoàn.
Căn cứ vào tính chất sở hữu:Các NHTM tồn tại dưới nhiều dạng sở hữu khác nhau như NHTM quốc doanh, NHTM tư nhân, NHTMCP, NHTM liên doanh và chi nhánh NHTM nước ngoài.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn được coi là hoạt động cơ bản, thường xuyên và quan trọng, mang tính chất sống còn đối với bất kỳ một NHTM nào. Huy động vốn không những tạo ra nguồn vốn lớn và chủ yếu cho NHTM mà còn tạo ra nguồn vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Theo luật pháp cho phép, các NHTM được phép huy động vốn thông qua các hình thức sau đây:
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn và không kì hạn của các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế
- Phát hành giấy tờ có giá để huy động có kỳ hạn và có mục đích sử dụng
- Thực hiện các hình thức huy động vốn khác như vay vốn ở các NHTM, vay vốn tại NHNN..
Để có nguồn vốn lớn đáp ứng nhu cầu vốn vay ngày càng tăng lên từ phía khách hàng, các NHTM áp dụng nhiều biện pháp phong phú, đa dạng để huy động vốn:
- Phong phú về kỳ hạn huy động: nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn.
- Phong phú về công cụ huy động: phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Phong phú về nguồn huy động: vay trên thị trường tiền tệ, huy động trong dân chúng, các tổ chức kinh tế trong nước, vay trên thị trường vốn quốc tế.
- Phong phú về cách thức hấp dẫn người gửi tiền: tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm gửi một nơi lấy ra ở nhiều nơi.
Thực hiện hoạt động huy động huy động vốn, NHTM quản lý một khối lượng lớn tiền của nền kinh tế. Đấy chính là nguồn vốn để NH tài trợ trở lại đối với nền kinh tế.
1.1.2.2. Hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay là hoạt động sử dụng nguồn tiền mà NHTM đã huy động được trong nền kinh tế. Đây là hoạt động cơ bản có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế xã hội vì thông qua hoạt động này mà hệ thống NHTM cung cấp một khối lượng vốn rất lớn cho nền kinh tế, nhờ khối lượng vốn này mà nền kinh tế sẽ phát triển nhanh hơn, bền vững hơn.Cụ thế NH sẽ cấp cho khách hàng một số tiền khi khách hàng thoả mãn các điều kiện của ngân hàng, sau một thời gian nhất định khách hàng phải hoàn trả cho NH bao gồm cả vốn gốc và tiền lãi. NH huy động được nguồn vốn với khối lượng lớn, đa dạng về thời hạn nên có thể đáp ứng nhu cầu vay của nhiều đối tượng thông qua nhiều phương thức, hình thức cho vay khác nhau.
1.1.2.3. Cung cấp tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
NH thực hiện mở tài khoản giao dịch cho các khách hàng gửi tiền và thực hiện chi trả theo lệnh của khách hàng thông qua tài khoản séc. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt như an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí đã góp phần rút ngắn chu kỳ kinh doanh, tăng hiệu quả sử dụng vốn. Chính điều này đã thu hút khách hàng, mở ra một loại hình dịch vụ mới, quan trọng nhất đó là tài khoản tiền gửi giao dịch, cho phép người gửi tiền có thể phát hành séc thanh toán cho việc mua hàng hoá dịch vụ. Đây được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp NH và cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin thì nhiều thể thức thanh toán được phát triển như uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…
Đây là hoạt động quan trọng và có tính đặc thù của NHTM, nhờ hoạt động này mà các giao dịch thanh toán của toàn bộ nền kinh tế được thực hiện thông suốt và thuận lợi, đồng thời thông qua hoạt động này mà góp phần làm giảm lượng tiền mặt lưu hành trong nền kinh tế.
1.1.2.4. Các loại hình dịch vụ khác
Bên cạnh các mảng hoạt động chính nói trên, các NHTM còn thực hiện các dịch vụ khác theo yêu cầu của khách hàng như: quản lý ngân quỹ, bảo lãnh, cho thuê tài chính, góp vốn mua cổ phần, kinh doanh ngoại tệ, vàng, chứng khoán, bảo quản vật có giá, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và đại lý, cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính tiền tệ, bảo hiểm…
1.2. Hoạt động cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Cho vay là hoạt động chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Trong đó, cho vay doanh nghiệp có thể nói là hoạt động quan trọng nhất trong hoạt động của NHTM, vì vậy chúng ta cần nắm rõ về hoạt động này tại NHTM.
Có thể hiểu hoạt động cho vay doanh nghiệp là hình thức cấp tín dụng, theo đó, tổ chức tín dụng giao cho doanh nghiệp vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thoả thuận và nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Hoạt động cho vay luôn tạo ra lượng tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của NH. Đây là hoạt động sinh lời chủ yếu nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro mà nếu không quản lý tốt danh mục cho vay có thể gây ra tổn thất tới vốn và tài sản của NH.
1.2.2. Nguyên tắc cho vay doanh nghiệp của ngân hàng thương mại
Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định của NH Nhà nước và các NHTM. Các nguyên tắc đó là:
Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Theo nguyên tắc này, mọi khoản vay đều được xác định trước về mục đích kinh tế, khi xin vay khách hàng phải trình với NH dự án, kế hoạch sử dụng vốn vay để NH xem xét. Khi NH đồng ý cho vay khách hàng phải sử dụng tiền vay đúng mục đích như đã cam kết. Đảm bảo nguyên tắc này đóng vai trò hết sức quan trọng vì nó đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ vay sau này của NH.
Tiền vay phải được hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi: Hoàn trả nợ gốc và lãi là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động cho vay. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay. Đại đa số nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay là vốn huy động từ khách hàng gửi tiền, do đó, sau khi cho vay trong một thời hạn nhất định, khách hàng vay tiền phải hoàn trả lại cho ngân hàng để ngân hàng hoàn trả lại cho khách hàng gửi tiền. Hơn nữa bản chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi.
Nguyên tắc thứ ba trong hoạt động cho vay doanh nghiệp của NHTM là Ngân hàng tài trợ trên phương án (hoặc dự án) khả thi, có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ hai. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay.
1.2.3. Phân loại hoạt động cho vay doanh nghiệp của NHTM
Hoạt động cho vay của NHTM rất đa dạng, tuỳ theo góc độ nhìn nhận khác nhau mà hoạt động này được phân chia theo các tiêu thức khác nhau:
Căn cứ vào thời hạn cho vay: chia ra thành
- Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 12 tháng, được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân.
-Cho vay trung, dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 12 tháng, chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho tài sản cố định, hình thành vốn lưu động thường xuyên cho các doanh nghiệp, đáp ứng các nhu cầu như xây dựng nhà ở, các thiết bị có thời gian thu hồi, sử dụng lâu, xây dựng các xí nghiệp mới.
Việc phân chia các khoản cho vay theo thời hạn cho vay như trên cũng chỉ mang tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Phân chia khoản cho vay theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lợi của tài sản.
Căn cứ vào mục đích: bao gồm
Cho vay bất động sản: là loại cho vay dài hạn liên quan tới mua sắm và xây dựng bất động sản, nhà ở trong lĩnh vực thương mại, công nghiệp và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
Cho vay nông nghiệp: là loại hình cho vay để trang trải các chi phí về phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc.
…v.v…
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm với khách hàng: bao gồm
Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng trong cho vay với khách hàng có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả do đó NH không cần đến nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Sự bảo đảm này là cần thiết đối với khách hàng chưa khẳng định được uy tín, NH sẽ có căn cứ pháp lý để có thêm nguồn thu thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất không chắc chắn.
Căn cứ theo phương thức cho vay: bao gồm các hình thức
Cho vay từng lần
Cho vay theo hạn mức thấu chi
Cho vay theo hạn mức tín dụng
…v.v…
1.2.4. Quy trình cho vay doanh nghiệp của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt – hàng hoá tiền tệ. Đa phần trong đó là các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Mà việc trả nợ này lại phụ thuộc rất lớn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Điều mà ngân hàng quan tâm nhất khi cho các doanh nghiệp vay vốn là liệu doanh nghiệp có trả gốc và lãi đầy đủ và đúng hạn như đã cam kết hay không. Vậy thì điều này là phụ thuộc vào doanh nghiệp vay vốn? Nhưng không hẳn là như vậy. Đúng là vấn đề trả nợ đầy đủ và đúng hạn phụ thuộc rất lớn vào khách hàng. Tuy nhiên, ngân hàng lại hoàn toàn có thể kiểm soát được các khoản vay vì việc quyết định có cho vay hay không là do NH quyết định. Để có được quyết định cho vay đúng đắn và kịp thời, NH cần xây dựng một quy trình tín dụng hợp lý. Việc thiết lập và không ngừng hoàng thiện quy trình tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro tín dụng khi cho vay.
Tuỳ theo đặc điểm tổ chức và quản trị, mỗi ngân hàng đều tự thiết kế và xây dựng cho mình một quy trình tín dụng riêng song về cơ bản quy trình cho vay doanh nghiệp của các NH đều gồm có các bước sau:
Lập hồ sơ cấp tín dụng
Đây là khâu căn bản đầu tiên của quy trình tín dụng, nó được thực hiện ngay sau khi cán bộ tín dụng tiếp xúc với khách hàng có nhu cầu vay vốn. Lập hồ sơ tín dụng là khâu quan trọng vì nó là khâu thu thập thông tin làm cơ sở để thực hiện các khâu sau, đặc biệt là khâu phân tích và ra quyết định cho vay.
Nhìn chung, một bộ hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cần thu thập từ khách hàng những thông tin sau:
♦ Thông tin về năng lực pháp lý và năng lực hành vi của khách hàng
♦ Thông tin về khả năng sử dụng và hoàn trả vốn của khách hàng
♦ Thông tin về bảo đảm tín dụng
(2) Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách hàng về sử dụng vốn tín dụng, khả năng hoàn trả và khả năng thu hồi vốn vay cả gốc và lãi. Phân tích tín dụng lại bao gồm các bước khác nhau nhằm mục tiêu phát hiện ra những trường hợp có thể gây ra rủi ro cho ngân hàng, tiên lượng khả năng kiểm soát những loại rủi ro đó và dự kiến những biện pháp phòng ngừa và hạn chế thiệt hại có thể xảy ra. Bên cạnh đó, việc phân tích tín dụng còn quan tâm tới việc kiểm tra tính chân thực của hồ sơ vay vốn mà khách hàng cung cấp, từ đó nhận định về thái độ trả nợ của khách hàng nhằm làm cơ sở quyết định cho vay.
Đây có thể coi là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay.
NH có thể sử dụng các phương pháp chủ yếu để thu thập và xử lý thông tin như: phỏng vấn trực tiếp, mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian hoặc thông qua các thông tin có được từ báo cáo của doanh nghiệp.
NH thực hiện các nội dung phân tích sau:
♦ Đánh giá tài sản của khách hàng
♦ Đánh giá các khoản nợ
♦ Phân tích luồng tiền
♦ Sử dụng các tỷ lệ
Các kết quả phân tích trên cho ngân hàng thấy một phần quá khứ và hiện tại của khách hàng. Song điều mà ngân hàng quan tâm hơn là khả năng trong tương lai của khách hàng, có thể là trong mấy tháng hoặc mấy năm. Thời gian càng dài, dự đoán càng khó chính xác, đó là do tác động của các điều kiện kinh tế. Thiên tai, các thay đổi bất thường trong đời sống chính trị, khủng hoảng kinh tế vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành…làm thay đổi các tính toán ban đầu dẫn đến giảm hoặc mất khả năng trả nợ của khách hàng. Tổn thất của khách hàng đến tổn thất của ngân hàng chỉ trong gang tấc. Chính vì vậy khi phân tích tín dụng NH không những chỉ căn cứ vào báo cáo tài chính từ phía khách hàng mà phải tổng hợp nhiều yếu tố cả bên trong lẫn bên ngoài trong quá trình phân tích để có được quyết định tín dụng đúng đắn.
(3) Quyết định và ký kết hợp đồng tín dụng
Quyết định tín dụng là quyết định cho vay hoặc từ chối đối với một hồ sơ vay vốn của khách hàng. Đây được coi là một khâu hết sức quan trọng trong quy trình tín dụng vì nó có ảnh hưởng rất lớn đến các khâu sau và ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Đây đồng thời cũng được coi là là khâu khó xử lý nhất và NH thường dễ phạm phải sai lầm nhất. Hai loại sai lầm cơ bản thường xảy ra trong quá trình ra quyết định và ký kết hợp đồng tín dụng đó là:
Quyết định chấp thuận cho vay đối với một khách hàng không tốt
Từ chối cho vay đối với một khách hàng tốt.
Hai loại sai lầm này đều dẫn đến thiệt hại đáng kể cho NH. Quyết định cho vay thứ nhất sẽ khiến NH gặp phải rủi ro tín dụng do khả năng khách hàng không trả được nợ đầy đủ và đúng hạn dẫn đến tình trạng nợ quá hạn hoặc nợ không thể thu hồi gây thiệt hại về tài chính. Trong khi loại sai lầm thứ hai lại khiến NH mất đi cơ hội cho vay và thiệt hại về uy tín.
Chính vì vậy để đưa ra được quyết định đúng đắn trong cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp, ngân hàng cần phải chú trọng tới hai vấn đề:
Thu thập và xử lý thông tin một cách đầy đủ và chính xác làm làm cơ sở để ra quyết định
Trao quyền quyết định cho một hội động tín dụng hoặc những người có năng lực phân tích và phán quyết
(4) Giải ngân
Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, NH sẽ tiến hành giải ngân . Giải ngân là phát tiền vay cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết trong hợp đồng. Mặc dù là khâu kế tiếp của quyết định tín dụng nhưng giải ngân cũng được coi là một khâu quan trọng vì có thể góp phần phát hiện và chấn chỉnh kịp thời nếu có sai sót ở các khâu trước. Cách thức giải ngân cũng góp phần kiểm tra và kiểm soát xem vốn tín dụng có được sử dụng đúng mục đích cam kết không. Nguyên tắc giải ngân luôn gắn liền vận động tiền tệ với vận động hàng hoá hoặc dịch vụ đối ứng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ sau này. Mặc dù vậy, quá trình giải ngân của ngân hàng cũng phải tuân thủ nguyên tắc đảm bảo thuận lợi tránh gây khó khăn và phiền hà cho khách hàng.
(5) Giám sát tín dụng
Giám sát tín dụng nhằm đảm bảo cho các khoản vay được khách hàng sử dụng đúng mục đích đã cam kết. Đây được coi là khâu khá quan trọng, thực hiện khâu này cũng có nghĩa là giúp NH phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm có thể ảnh hưởng tới khả năng thu hồi nợ sau này. NH có thể áp dụng các phương pháp giám sát tín dụng khác nhau như:
Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng
Phân tích các báo cáo tài chính của khách hàng theo định kỳ
Giám sát khách hàng thông qua việc trả lãi định kỳ
Viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nơi cư ngụ của khách hàng đứng tên vay vốn
Kiểm tra các hình thức bảo đảm tiền vay
Giám sát hoạt động khách hàng thông qua mối quan hệ với khách hàng khác
Giám sát khách hàng thông qua những thông tin thu thập khác
(6) Thanh lý hợp đồng tín dụng
Đây là khâu kết thúc của quy trình tín dụng. Thanh lý hợp đồng tín dụng xảy ra do khách hàng vi phạm hợp đồng hoặc do khoản vay đã đến hạn. Khâu này bao gồm các công việc:
Thu nợ: Ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ khách hàng theo đúng những điều khoản đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Cả NH và KH đều có thể thoả thuận và lựa chọn các hình thức thu nợ : thu gốc và lãi một lần khi đáo hạn, thu nợ gốc một lần khi đáo hạn và thu lãi theo định kỳ, thu gốc và lãi theo nhiều kỳ hạn. Nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng không có khả năng trả nợ thì NH có thể xem xét cho gia hạn nợ hoặc chuyển sang nợ quá hạn để sau này có biện pháp xử lý thích hợp nhằm đảm bảo thu hồi nợ.
Tái xét hợp đồng tín dụng: nghĩa là phân tích tín dụng trong điều kiện khoản tín dụng đã được cấp nhằm mục tiêu đánh giá chất lượng tín dụng và phát hiện rủi ro để có hướng giải quyết xử lý kịp thời.
Thanh lý hợp đồng tín dụng: Khi hết thời hạn của hợp đồng tín dụng và khách hàng đã hoàn tất nghĩa vụ trả nợ cả gốc và lãi thì NH và khách hàng làm thủ tục thanh lý hợp đồng tín dụng mặc nhiên, giải chấp tài sản nếu có và lưu hồ sơ vay vốn của khách hàng vào kho lưu trữ. Trường hợp ngân hàng giám sát và phát hiện thấy khách hàng vi phạm những cam kết ghi trong hợp đồng tín dụng nghiêm trọng có thể ảnh hưởng tới khả năng thu hồi nợ vay sau này, ngân hàng có thể đề nghị và tiến hành thanh lý hợp đồng tín dụng bắt buộc.
1.2.5. Vai trò hoạt động cho vay doanh nghiệp của NHTM
Hoạt động cho vay doanh nghiệp của NHTM là hoạt động cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế. NHTM đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ mọi cá nhân, tổ chức và các thành phần kinh tế, từ đó cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất. Nhờ có vốn vay của NHTM mà các doanh nghiệp lớn nhỏ trong nền kinh tế có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Hoạt động cho vay đặc biệt là hoạt động cho vay doanh nghiệp là hoạt động cơ bản, tạo ra thu nhập chủ yếu cho NHTM. Thông qua nghiệp vụ cho vay doanh nghiệp, các NH thu được tiền lãi vay, là nguồn bù đắp cho chi phí huy động vốn, tạo ra nguồn thu nhập lãi ròng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của NH. Với các NHTM hiện đại, sự tăng lên của thu nhập từ các hoạt động cung ứng dịch vụ khác đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong thu nhập của NH. Tuy nhiên, các nghiệp vụ truyền thống của NH vẫn giữ vai trò chủ chốt vì đây là hoạt động thiết lập quan hệ giữa NH và khách hàng, là cơ sở để khách hàng sử dụng các dịch vụ tài chính cung ứng từ NH.
1.3. Chất lượng cho vay doanh nghiệp của ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm
Chất lượng cho vay doanh nghiệp là tổng hợp của nhiều yếu tố cấu thành nên và vì vậy nó được coi là một tiêu chí khó mà đạt được. Trước tiên để hiểu thế nào là chất lượng cho vay doanh nghiệp chúng ta phải tìm hiểu rõ thế nào là chất lượng.
Chúng ta đều được nghe rất nhiều về khái niệm “chất lượng” trong cuộc sống hàng ngày. Khi đời sống ngày càng được cải thiện thì từng cá nhân có nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống, khi thị trường ngày càng có nhiều doanh nghiệp cạnh tranh lẫn nhau thì các doanh nghiệp có nhu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm.Vậy chất lượng là gì, nó được đo lường bằng cách nào và việc đo lường chúng có ý nghĩa ra sao?
Đã có rất nhiều các quan niệm khác nhau về chất lượng:
Quan niệm siêu việt cho rằng chất lượng là sự tuyệt vời và hoàn hảo nhất của sản phẩm
Philip Crosby trong cuốn “Chất lượng là thứ không cho không” đưa ra định nghĩa: “Chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu”
Theo Tiến sĩ W. Edwards Deming thì cho rằng: “Chất lượng là sự phù hợp với mục đích sử dụng”
Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5814 – 199 phù hợp với ISO/DIS 8402 quan niệm “Chất lượng là tập hợp những đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra và nhu cầu tiềm ẩn.”
Trong giai đoạn hiện nay, cũng giống như doanh nghiệp, các ngân hàng luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trong xu thế hội nhập và phát triển và muốn tồn tại, phát triển bền vững thì buộc các NH phải nâng cao chất lượng sản phẩm của mình đặc biệt là chất lượng hoạt động cho vay doanh nghiệp - một trong những hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho NH. Đưa ra khái niệm về chất lượng cho vay doanh nghiệp chúng ta đồng thời phải phân biệt với chất lượng tín dụng của NHTM.
■ Chất lượng tín dụng:
Do đặc thù của hoạt động của ngân hàng là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên thường tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể gây ra tổn thất tới tài sản và uy tín của NHTM. Do đó, chất lượng hoạt động của NH được hiểu là sự đánh giá về khả năng đảm bảo an toàn vốn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Mức độ an toàn và hiệu quả trong hoạt động được thể hiện trong chất lượng tín dụng của NH.
Có thể hiểu chất lượng tín dụng trên hai phương diện:
* Ở tầm vĩ mô là đảm bảo lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế
* Ở tầm vi mô trong hoạt động của các NHTM là đảm bảo cho hoạt động tín dụng của NHTM được an toàn và hiệu quả (bao gồm cả vốn tiền gửi và vốn cho vay). Chất lượng tín dụng của NHTM đồng nghĩa với việc quản lý, đảm bảo an toàn tài sản thể hiện trên bảng cân đối kế toán của NHTM.
■ Chất lượng cho vay doanh nghiệp
Có thể hiểu chất lượng cho vay doanh nghiệp là một khái niệm tổng hợp.
Trước đây, chất lượng cho vay doanh nghiệp chỉ được hiểu là sự an toàn trong cho vay tức là khả năng thu hồi vốn gốc và lãi đầy đủ và đúng hạn. Chất lượng cho vay cao khi khả năng thu hồi vốn của các khoản vay lớn, tổn thất do các khoản vay gây ra nhỏ.
Tuy nhiên khi nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ trong xu thế hội nhập với nền kinh tế quốc tế thì quan niệm về chất lượng cho vay doanh nghiệp cũng được thay đổi theo để phản ánh đầy đủ, chính xác và toàn diện hơn, khái niệm về chất lượng cho vay doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo an toàn cho các khoản vay tức là nhìn nhận trên giác độ ngân hàng mà chất lượng cho vay doanh nghiệp đã được nhìn nhận và đánh giá trên nhiều mặt khác như sự đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của khách hàng, sự hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro tín dụng đảm bảo sự tồn tại, phát triển ._.của ngân hàng và phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội.
Trên giác độ ngân hàng: Chất lượng cho vay doanh nghiệp được hiểu trước hết là các khoản cho vay phải đáp ứng được yêu cầu của khách hàng trên cơ sở tuân thủ mọi nguyên tắc cho vay, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng nhưng vẫn đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó chất lượng cho vay còn thể hiện ở lợi nhuận gia tăng, tỷ lệ NQH, nợ xấu ngày càng giảm, sự phù hợp về cơ cấu giữa tín dụng ngắn, trung và dài hạn…
Trên giác độ khách hàng: Chất lượng cho vay doanh nghiệp thể hiện ở chỗ đáp ứng tốt nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với mức lãi suất và thời hạn cho vay hợp lý, thủ tục đơn giản gọn nhẹ, tiết kiệm thời gian và tiền bạc đem đến sự hài lòng, tin cậy cho khách hàng doanh nghiệp đồng thời thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng.
Trên giác độ nền kinh tế: Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn nhằm mở rộng sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận và tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác giúp doanh nghiệp không những đứng vững trên thị trường mà còn nâng cao vị thế trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, sự lớn mạnh của các doanh nghiệp còn góp phần tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, khai thác tố đa tiềm năng của nền kinh tế, góp phần nâng cao đời sống của người dân. Như vậy trên giác độ nền kinh tế thì chất lượng cho vay doanh nghiệp thể hiện ở việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động và cải thiện đời sống nhân dân.
Nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp là mục tiêu cơ bản trong quản trị danh mục tiền vay, đây được coi là một chỉ tiêu tổng hợp được nhìn nhận từ nhiều giác độ khác nhau làm cơ sở để đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng giúp ngân hàng không ngừng cải thiện, nâng cao năng lực cạnh tranh với các ngân hàng khác trên thị trường thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Và để làm được điều đó đòi hỏi ngân hàng cần quan tâm sát sao tới ý kiến và những đánh giá của khách hàng về dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cũng như những tồn tại hạn chế trong hoạt động cho vay để tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục kịp thời.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay doanh nghiệp tại NHTM
Chất lượng tài sản nói chung hay chất lượng cho vay nói riêng là yếu tố quan trọng hàng đầu và cũng là yếu tố phức tạp nhất khi phân tích hoạt động NH. Vấn đề là khi đánh giá chất lượng thường chứa yếu tố chủ quan. Nhiều NH sụp đổ là do các khoản cho vay có chất lượng thấp nhưng NH lại không sẵn sàng thừa nhận chúng, đôi khi còn che dấu vấn đề cho dù là nghiêm trọng hoặc vì mục tiêu sinh lời mà mạo hiểm bất chấp rủi ro. Chính vì vậy để có thể đánh giá chính xác chất lượng cho vay cũng như mức độ rủi ro của các khoản vay người ta phải sử dụng cả hai hệ thống chỉ tiêu định tính và định lượng.
1.3.2.1. Nhóm chỉ tiêu định tính
Mức độ phân bố các khoản tín dụng giữa các khách hàng thuộc các nhóm khác nhau
Mức độ phân bổ các khoản tín dụng giữa các khách hàng thuộc các nhóm khác nhau thể hiện mức độ đa dạng trong lĩnh vực cho vay doanh nghiệp. Sự đa dạng này có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng cho vay của NH. Danh mục cho vay càng đa dạng và hợp lý thì càng góp phần phân tán rủi ro trong cho vay doanh nghiệp đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động của NH.
Sự tuân thủ các quy định và chính sách tín dụng của NHNN và của chính Ngân hàng
Sự tuân thủ các quy định và chính sách tín dụng thể hiện sự chấp hành nghiêm túc của NH, điều này giúp NH giảm thiểu nợ xấu tránh được nguy cơ rủi ro bởi các quy định và chính sách tín dụng mà NHNN và bản thân NH đưa ra vốn được xây dựng cặn kẽ, cẩn thận, tỉ mỉ và đồng thời được đúc rút, sửa đổi sau nhiều năm hoạt động của NH, chỉ cần cán bộ NH không chú trọng hoặc vì lợi ích trước mắt mà cho vay bỏ qua các quy định hay thủ tục cần thiết đều đẩy NH gặp rủi ro bất cứ lúc nào. Nhìn vào sự tuân thủ nghiêm ngặt chặt chẽ của các cán bộ tín dụng trong NH, KH có thể đánh giá được chất lượng hoạt động của NH đó. Làm được điều đó có nghĩa là NH đã đảm bảo được sự tin cậy cho KH đi vay, KH gửi tiền và các KH sử dụng các dịch vụ khác của NH cũng như đảm bảo được sự an toàn và hiệu quả trong cho vay. Chính vì lý do đó mà việc tuân thủ các quy định và chính sách tín dụng của NHNN và của bản thân NH được coi là một trong những chỉ tiêu định tính đánh giá chất lượng cho vay của NH.
Sự đáp ứng các yêu cầu của khách hàng về chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng
Một ngân hàng được coi là có chất lượng cho vay tốt là NH luôn phục vụ hết mình vì khách hàng của mình, đáp ứng nhu cầu tốt nhất cho khách hàng. Sự đáp ứng các yêu cầu của khách hàng về chất lượng dịch vụ cho vay thể hiện ở chỗ NH đảm bảo được vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn với thủ tục đơn giản, gọn nhẹ, tiết kiệm thời gian và chi phí cho khách hàng với lãi suất, thời hạn cho vay và kỳ hạn cho vay hợp lý, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
Đây là chỉ tiêu phản ánh mức độ thoả mãn của khách hàng khi sử dụng dịch vụ cho vay của ngân hàng. Ngoài việc đáp ứng những nhu cầu trên thì chỉ tiêu này còn được phản ánh thông qua phong cách phục vụ khách hàng của NH, cách tiếp đón KH, thái độ phục vụ khách hàng của nhân viên NH đối với Khách hàng có niềm nở, cởi mở tận tình hay không, quy trình tiến hành thẩm định khoản vay vốn có nhanh hay không, các điều kiện vay vốn NH đưa ra có khắt khe hay không, quyết định giải ngân có theo đúng hợp đồng vay vốn của khách hàng hay không. Bên cạnh đó chỉ tiêu này còn được đánh giá thông qua việc sau khi vay vốn, khách hàng có cảm thấy hài lòng và tiếp tục sử dụng thêm các dịch vụ khác cũng như quan hệ lâu dài với NH hay không. Việc khách hàng thoả mãn hài lòng với dịch vụ mà ngân hàng cung cấp hay thậm chí còn quảng bá rộng rãi hình ảnh NH đối với cộng đồng thể hiện độ tín nhiệm của khách hàng cũng như là một trong những tiêu chí định tính tốt để đánh giá chất lượng cho vay của một NH.
1.3.2.2. Nhóm chỉ tiêu định lượng
Chỉ tiêu về tổng dư nợ cho vay so với vốn tự có của tổ chức tín dụng
Một trong những chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay của NHTM là căn cứ vào tỷ lệ tổng dư nợ cho vay so với vốn tự có của NHTM. Một ngân hàng có chất lượng cho vay tốt là NH đó phải đảm bảo tỷ lệ về tổng dư nợ cho vay so với vốn tự có theo quy định của NHNN. Các tỷ lệ này bao gồm:
- Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
- Tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
- Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trong đó mức cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
- Tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
Chỉ tiêu Nợ quá hạn
NQH là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành NQH. Chỉ tiêu này được sử dụng rất phổ biến và phản ánh cơ bản về chất lượng cho vay của NH.
Rủi ro từ các khoản vay không được hoàn trả đúng hạn có thể từ các nguyên nhân khác nhau NH phải chấp nhận trong quá trình đáp ứng các nhu cầu tín dụng. Ngoài ra, theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận NH luôn mong muốn mở rộng quy mô cho vay, do vậy nếu NH không chấp nhận một tỷ lệ NQH cũng có nghĩa là bỏ qua các cơ hội sinh lời. Vì vậy đánh giá chất lượng cho vay của từng NH dựa trên số dư hay tỷ lệ NQH đòi hỏi phải xem xét gắn liền với các điều kiện hoạt động của NH.
Các chỉ tiêu này được sử dụng bao gồm các số đo tuyệt đối về tổng dư NQH và các tỷ lệ của số dư NQH với tổng số tiền cho vay, có thể gắn với từng nhóm khách hàng, từng lĩnh vực, nhóm ngành nghề mà NH tài trợ. Nếu tính theo tỷ lệ có các chỉ tiêu sau:
- Chỉ tiêu về tỷ lệ Nợ quá hạn trên Tổng dư nợ
NQH
Tỷ lệ NQH = ×100%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này càng nhỏ thể hiện chất lượng cho vay càng cao. Thông thường, một NH đảm bảo an toàn trong cho vay thì tỷ lệ này không vượt quá 5% so với tổng dư nợ.
Chỉ tiêu về tỷ lệ Nợ xấu trên Tổng dư nợ
Dư nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = ×100%
Tổng dư nợ
Theo quyết định 493 của NHNN Việt Nam, việc đánh giá chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM có thể sử dụng chỉ tiêu nợ xấu là các khoản nợ bị xếp vào nhóm 3; 4; 5.
Mức độ đảm bảo của các khoản vay
Để đánh giá chất lượng cho vay người ta còn căn cứ vào mức độ đảm bảo của các khoản vay dựa vào chỉ tiêu sau:
- Chỉ tiêu về tỷ lệ Nợ có bảo đảm trên Tổng dư nợ
Tỷ lệ dư nợ có TSĐB
=
Dư nợ có TSĐB
×100%
Trên TDN
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này càng lớn thì mức độ an toàn càng cao. Tuy nhiên, chỉ tiêu này chưa phản ánh rõ ràng chất lượng cho vay của NH. Vì một NH cho vay yêu cầu về TSĐB càng cao thì khả năng đi vay của khách hàng càng khó khăn. Ngoài ra chất lượng cho vay thể hiện ở khả năng hoàn trả của khách hàng, ở tính khả thi của phương án sử dụng vốn vay, còn TSĐB chỉ là nguồn thu nợ thứ hai với NH.
Số ngày khách hàng phải chờ trước khi nhận được quyết định tín dụng của ngân hàng
Đây cũng là một trong những chỉ tiêu định lượng đánh giá chất lượng cho vay của NH. Số ngày khách hàng phải chờ trước khi nhận được quyết định tín dụng của NH càng ngắn thì càng thể hiện chất lượng cho vay cao. Tuy nhiên khi đánh giá chỉ tiêu này cần căn cứ vào nhiều yếu tố như dự án vay vốn, tính khả thi của dự án, mức độ khó khăn khi thẩm định và các chỉ tiêu khác mới có thể đánh giá chính xác chất lượng tín dụng của NH.
Chỉ tiêu về khả năng sinh lãi từ hoạt động cho vay doanh nghiệp
Để đánh giá chất lượng tín dụng người ta dựa vào các tỷ số về khả năng sinh lãi sau đây:
(1) Thu lãi từ cho vay doanh nghiệp trên tổng dư nợ
=
Thu lãi từ hoạt động cho vay DN
Dư nợ cho vay DN
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng dư nợ trong hoạt động cho vay doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng thu lãi từ hoạt động cho vay doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao càng phản ánh các khoản cho vay doanh nghiệp có chất lượng tốt. Thu lãi cao là dấu hiệu tốt nhưng chưa thể khẳng định ngân hàng kinh doanh có hiệu quả nếu thu lãi thấp hơn chi lãi. Chính vì vậy khi đánh giá khả năng sinh lãi từ hoạt động cho vay doanh nghiệp làm cơ sở đánh giá chất lượng cho vay của NHTM thì ngoài việc căn cứ vào chỉ tiêu thu lãi từ cho vay doanh nghiệp thì cần phải căn cứ vào chỉ tiêu thứ hai đó là chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay doanh nghiệp của NHTM.
Thu lãi từ hoạt động CV DN- Chi lãi từ hoạt động CVDN
(2) Lợi nhuận =
từ hoạt động CVDN Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng dư nợ trong hoạt động cho vay doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao càng phản ánh các khoản cho vay doanh nghiệp càng có chất lượng tốt.
Khả năng sinh lãi trong hoạt động cho vay doanh nghiệp là một trong những chỉ tiêu định lượng quan trọng để đánh giá chất lượng cho vay doanh nghiệp của ngân hàng thương mại. Khả năng sinh lãi trong hoạt động cho vay doanh nghiệp được đo lường bởi hai tỷ số cơ bản trên. Tuy nhiên muốn đánh giá một cách khoa học và toàn diện chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM thì chúng ta cần kết hợp tất cả các chỉ tiêu định tính và định lượng kể trên để có thể đưa ra được một kết luận chính xác.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại
1.4.1. Nhân tố thuộc về ngân hàng
Chính sách tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của NH. Với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Chính sách tín dụng bao gồm chính sách khách hàng, lãi suất và phí suất tín dụng, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng, thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ, các khoản đảm bảo, điều kiện giải ngân và điều kiện thanh toán, chính sách đối với tài sản có vấn đề… Như vậy có thể nói chính sách tín dụng đóng vai trò quan trọng, là xương sống trong hoạt động của NHTM. Chính sách tín dụng được xây dựng nhằm mục tiêu giảm thiểu rủi ro tín dụng và tăng khả năng sinh lời. Nội dung của chính sách tín dụng là tài trợ cho khách hàng, phục vụ cho khách hàng trên cơ sở an toàn, do đó ngân hàng xây dựng chính sách tín dụng càng rõ ràng, chi tiết và dễ hiểu bao nhiêu thì càng thuận lợi cho việc áp dụng của cán bộ tín dụng và nâng cao chất lượng cho vay của NH bấy nhiêu.
Tổ chức bộ máy và quy trình quản lý tín dụng
Đây là điều kiện rất quan trọng trong việc đảm bảo an toàn cho vay xét từ góc độ NH. Nếu không tổ chức bộ máy hoạt động, quy trình hợp lý, thuận tiện, đầy đủ và đảm bảo giám sát chặt chẽ cũng như việc xây dựng chiến lược, chính sách không phù hợp thì chắc chắn NH sẽ gặp không ít rủi ro từ hoạt động cho vay.
Tổ chức bộ máy và quy trình tín dụng sẽ quy định quyền hạn, trách nhiệm của từng bộ phận, từng khâu, mối quan hệ tác nghiệp từng bộ phận trong suốt quá trình thực hiện từ khâu thẩm định đến khi thiết lập quan hệ tín dụng, thu hồi vốn tín dụng.
Trình độ năng lực của cán bộ tín dụng
Con người bao giờ cũng là yếu tố quyết định chất lượng cho vay nói riêng và hoạt động NH nói chung. Do đặc thù của hoạt động cho vay liên quan đến mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế, nên đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ hiểu biết về chính trị, kinh tế - xã hội.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ được hiểu là trình độ nắm bắt chủ trương, chính sách của nhà nước, của bản thân NH, khả năng thẩm định khách hàng, phương án sản xuất kinh doanh để có thể thực hiện đúng và đủ để đảm bảo chất lượng cho hoạt động cho vay.
Công nghệ ngân hàng
Công nghệ ngân hàng ảnh hưởng không nhỏ tới tất cả các hoạt động của NH, bao gồm cả hoạt động tín dụng. Những ngân hàng có cơ sở vật chất kỹ thuật tốt, các giao dịch diễn ra nhanh chóng, thuận lợi sẽ tạo được uy tín tốt và thu hút được nhiều khách hàng. Do đó hoạt động cho vay cũng được tiến hành nhanh chóng và hiệu quả hơn.
1.4.2. Nhân tố thuộc về khách hàng
Năng lực pháp lý, tư cách đạo đức và năng lực tài chính của khách hàng vay vốn
Đây là điều kiện đầu tiên của việc xác lập một khoản vay. Một khách hàng chưa đủ năng lực pháp lý, tư cách đạo đức cũng như yếu về năng lực tài chính thì chắc chắn sẽ mang lại rủi ro cho NH. Một khi khách hàng chưa đủ năng lực pháp lý, dẫn đến việc vay mượn giữa hai bên không được pháp luật thừa nhận thì việc thu hồi khoản vay sẽ rất khó khăn.
Tính khả thi trong phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng
Khi khách hàng đã xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh khả thi thì bản thân khách hàng cũng thấy được đường hướng công việc của mình, đảm bảo vững chắc nguồn trả nợ gốc và lãi cho NH. Tỷ lệ vốn tự có của khách hàng tham gia vào phương án càng cao thể hiện năng lực tài chính của khách hàng càng tốt, phương án càng ít rủi ro.
TSĐB cho khoản vay
Bảo đảm cho khoản vay bao gồm các hình thức sau
- Cầm cố tài sản: là việc bên cầm cố(bên vay, bên bảo lãnh) giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên nhận cầm cố(bên cho vay) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ với bên nhận cầm cố(bên cho vay). Nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố với yêu cầu bảo quản hoặc giao cho bên thứ ba giữ.
Tài sản cầm cố có thể thuộc các nhóm sau: các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, chứng khoán, cổ phiếu, các loại giấy tờ có giá, hợp đồng bảo hiểm, hàng hoá và các động sản khác.
- Thế chấp tài sản: là việc bên thế chấp (bên vay hoặc bên bảo lãnh) dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên nhận thế chấp(bên cho vay)
- Bảo lãnh: là việc bên thứ ba(người bảo lãnh) cam kết với bên cho vay(bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay(bên được bảo lãnh), nếu khi đến hạn trả nợ mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Các bên thoả thuận có thể thoả thuận về việc người bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Bảo lãnh có hai loại là Bảo lãnh bằng tài sản và Bảo lãnh không bằng tài sản(tín chấp)
1.4.3. Nhân tố khác
Môi trường kinh tế xã hội
Đây là tổng hoà các mối quan hệ về kinh tế và xã hội khác tác động lên hoạt động của doanh nghiệp.
Môi trường kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện cho lưu thông hàng hóa, thúc đẩy sản xuất phát triển làm cho hoạt động cho vay sẽ thuận lợi hơn. Kinh tế phát triển ổn định khiến cho các luồng tài chính luân chuyển nhanh, hàng hoá tiêu thụ tốt và khả năng hoàn trả vốn của các doanh nghiệp được đảm bảo.
Môi trường pháp lý
Sự đồng bộ của các văn bản pháp lý sẽ tạo thuận lợi và an toàn cho hoạt động NH. Hoạt động kinh doanh của NHTM nói chung và hoạt động cho vay nói riêng liên quan đến nhiều chủ thể trong nền kinh tế. Do đó việc ban hành và thực thi các bộ luật như thế nào để có thể điều chỉnh các quan hệ giữa NH và khách hàng, có thể tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động NH là một vấn đề có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cho vay của NHTM.
Điều kiện tự nhiên xã hội
Điều kiện tự nhiên là những thuận lợi khó khăn về thời tiết, đất đai, khí hậu…Khi điều kiện tự nhiên thuận lợi có tác dụng giúp cho các doanh nghiệp tăng năng suất, tăng lợi nhuận và khi đó doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ cho NH đầy đủ và đúng hạn hoặc thậm chí doanh nghiệp có khả năng mở rộng quy mô giúp ngân hàng gia tăng được doanh số cho vay đối với các doanh nghiệp này. Ngược lại, trong điều kiện tự nhiên bất ổn, thiên tai thường xuyên, các doanh nghiệp gặp phải khó khăn trở ngại trong sản xuất, tiêu thụ giảm sút khiến cho các doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ ngân hàng làm gia tăng nợ xấu, suy giảm lợi nhuận của NH. Như vậy điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng lớn và khó kiểm soát đối với hoạt động của mọi đơn vị sản xuất kinh doanh trong đó có NH.
Điều kiện xã hội là trình độ dân trí, phong tục tập quán, trật tự an ninh xã hội, trình độ phát triển kinh tế xã hội,…Trong khu vực có trình độ dân trí cao, an ninh tốt, có nhiều chính sách ưu tiên phát triển kinh tế thì NH đó hoạt động có hiệu quả cao, doanh số cho vay lớn và lợi nhuận cao và ngược lại hoạt động trong khu vực có trình độ dan trí thấp NH có nguy cơ mất vốn cao, nợ xấu có khả năng gia tăng, phản ánh chất lượng cho vay doanh nghiệp còn thấp.
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay doanh nghiệp tại Sở Giao Dịch Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
2.1. Tổng quan về Sở Giao Dịch Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của SGD NHNT VN
Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam chính thức được thành lập từ ngày 1/4/1963 theo Quyết định số 115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 30/10/1962 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Nhà nước.Trong giai đoạn này Ngân hàng ngoại thương được coi là ngân hàng chuyên doanh và duy nhất của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Trải qua cả một giai đoạn dài với những biến động sâu sắc và mạnh mẽ của nền kinh tế, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam vẫn luôn khẳng định được vai trò chủ lực của mình và ngày càng lớn mạnh. NHNT đã được các tổ chức quốc tế đánh giá là NHTM VN có uy tín nhất đồng thời được công nhận và xếp hạng là một trong 23 Doanh nghiệp đặc biệt với thế mạnh nổi trội trong các lĩnh vực kinh doanh ngoại hối, tài trợ thương mại, thanh toán quốc tế, thanh toán thẻ và các dịch vụ Tài chính, quốc tế. Luôn đặt uy tín lên hàng đầu đồng thời không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý cũng như coi trọng vấn đề công nghệ trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới, NHNT ngày càng khẳng định tầm quan trọng của mình và Ngân hàng đã trở thành sự lựa chọn hàng đầu của khách hàng trong hoạt động Ngân hàng bán lẻ.
Sở giao dịch NHNT Việt Nam được thành lập và quá trình hoạt động gắn liền với Hội Sở chính NHNT Việt Nam.Với chức năng là đầu mối thực thi chiến lược phát triển các sản phẩm dịch vụ đồng thời là cầu nối cho NHNT VN với khách hàng của NHNT VN, Sở giao dịch đã có đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của hệ thống NHNT VN.
Sở giao dịch NHNT VN được thành lập từ ngày 1/4/1991 theo quyết định số 34/TCCB ngày 25/3/1991 của Tổng Giám đốc NHNT VN với chức năng là đơn vị kinh doanh tại Hội sở chính NHNTVN. Trong hơn 14 năm hoạt động, SGD đã không ngừng phát triển cả về quy mô và doanh số hoạt động và là đơn vị có nguồn vốn lớn nhất trong hệ thống NHNT. Luôn dẫn đầu trong việc thực hiện chương trình hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng trong hoạt động thanh toán, kế toán và dịch vụ ngân hàng, SGD khẳng định vị trí quan trọng của mình trong hệ thống ngân hàng Ngoại Thương nói riêng và trong nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Cho tới ngày 28/12/2005, theo Quyết định số 1215/QĐ- NHNN, Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam chính thức được tách ra khỏi hội sở chính và hoạt động như một chi nhánh độc lập.
Kể từ ngày 01/01/2006, sau khi được tách ra khỏi Hội sở chính, hoạt động như một chi nhánh, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng, SGD được thực hiện tất cả các nghiệp vụ ngân hàng của NHNTVN. Khi tách ra hoạt động một cách độc lập, ban đầu SGD cũng gặp khá nhiều khó khăn như xáo trộn về tổ chức, nghiệp vụ… nhưng với sự cố gắng của đội ngũ cán bộ và Ban lãnh đạo, SGD không những nhanh chóng đi vào ổn định mà còn từng bước mở rộng hoạt động, áp dụng công nghệ tiên tiến, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ và tích cực phấn đấu để trở thành một ngân hàng hiện đại phục vụ mọi thành phần kinh tế.
2.1.2. Bộ máy tổ chức, chức năng, nhiệm vụ các phòng ban tại SGD NHNT VN
2.1.2.1. Bộ máy tổ chức
SGD NHNT VN trước đây là đơn vị trực thuộc, hạch toán chung với NHNT VN, đến ngày 01/01/2006 mới tách ra hạch toán riêng. Cơ cấu bộ máy tổ chức của SGD bao gồm 1 Giám Đốc và 4 Phó Giám Đốc chịu trách nhiệm quản lý các phòng ban của SGD. Hiện nay, SGD NHNT VN có 24 phòng ban và 19 phòng giao dịch đặt tại các vị trí khác nhau trên địa bàn TP Hà Nội.
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức của Sở Giao Dịch NHNT Việt Nam
Tổ Nghiên cứu Phát triển Nghiệp vụ Ngân hàng Bán lẻ
P. Kiểm tra nội bộ
P. Quản lý nhân sự
P. Kế toán tài chính
P. Vốn & KD
Ngoại tệ
P. Đầu tư dự án
P. Tín dụng DN
Nhỏ & Vừa
Phó Giám Đốc
Nguyễn Thị Bảo
Giám Đốc
Nguyễn Danh Lương
Phó Giám Đốc
Nguyễn Thị Bảo
Phó Giám Đốc
Nguyễn Hùng Sơn
Phó Giám Đốc
Nguyễn Thị Bảo
Phó Giám Đốc
Ngô Quang Trung
Phó Giám Đốc
Nguyễn Thị Bảo
Tổ Đảng Đoàn
Phó Giám Đốc
Phạm Thị Mai
P. Thanh toán Xuất khẩu
P. Thanh toán Nhập khẩu
P. Quản lý rủi ro tín dụng
P. Vay nợ viện trợ
P. Hối đoái
P. Khách hàng đặc biệt
P. Ngân Quỹ
P. Quản lý Quỹ ATM
Phòng Giao dịch số 16
P. Tiết kiệm
P. Bảo lãnh
P. Quản lý nợ
P. Kế toán giao dịch
Các PGD (trừ PGD số 16)
Tín dụng trả góp&tiêu dùng
P. Hành chính quản trị
P. Quan hệ khách hàng
P. Thanh toán thẻ
P. Tin học
2.1.2.2. Chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban
Mỗi phòng ban của SGD đảm nhiệm một chức năng, nhiệm vụ nhất định. Cụ thể như sau:
♦ Phòng Bảo Lãnh:
Phòng bảo lãnh là phòng nghiệp vụ thuộc Sở giao dịch NHNT có chức năng tham mưu và giúp Ban giám đốc thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh của Sở giao dịch NHNT đối với khách hàng theo các văn bản quy định hiện hành về công tác bảo lãnh của Nhà nước, NHNN và NHNT VN, đồng thời tuân thủ các thỏa ước quốc tế, các thông lệ quốc tế và các điều lệ quốc tế về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng mà Việt Nam là nước thành viên hoặc đã cam kết tham gia.
♦ Phòng Đầu Tư Dự Án:
Phòng Đầu tư dự án là phòng nghiệp vụ thuộc Sở giao dịch có chức năng tham mưu và giúp Ban giám đốc Sở giao dịch trong việc thực hiện cấp tín dụng trung và dài hạn cho các khách hàng tại Sở giao dịch NHNT theo đúng các quy định, quy chế, thể lệ về cho vay hiện hành của NHNN VN và NHNT VN.
♦ Phòng Kế Toán Tài Chính
Phòng Kế toán tài chính là phòng chuyên môn nghiệp vụ thuộc Sở giao dịch có chức năng tham mưu và giúp Ban giám đốc Sở giao dịch trong việc triển khai thực hiện chế độ kế toán – tài chính, chế độ báo cáo kế toán và hạch toán kế toán tại Sở giao dịch theo đúng Luật Kế toán, thống kê của Nhà nước, quy định của Bộ tài chính, của NHNN và của NHNT VN.
♦ Phòng Kế Toán Giao Dịch
Phòng Kế Toán Giao Dịch là phòng nghiệp vụ thuộc Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam có chức năng phục vụ đối tượng khách hàng là tổ chức (cư trú và không cư trú) có quan hệ với Sở giao dịch NHNT theo đúng quy định, quy chế về hạch toán, kế toán thanh toán và quy trình nghiệp vụ của Nhà nước, NHNN và NHNT VN.
♦ Phòng Khách Hàng Đặc Biệt
Phòng Khách Hàng Đặc Biệt là phòng nghiệp vụ thuộc Sở giao dịch NHNT VN có chức năng tham mưu cho Ban giám đốc trong việc xây dựng chính sách khách hàng đối với khách hàng thể nhân và cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng cho khách hàng đặc biệt của Sở giao dịch ( là những khách hàng có số dư tiền gửi lớn, doanh số giao dịch cao hoặc là cán bộ cao cấp của Nhà nước, cán bộ lãnh đạo các ngành, …) theo đúng quy định, quy chế, quy trình nghiệp vụ hiện hành của Nhà nước, NHNN VN và NHNT VN đồng thời tuân thủ các quy ước quốc tế về nghiệp vụ ngân hàng mà NHNT tham gia.
♦ Phòng kiểm tra nội bộ
Phòng kiểm tra nội bộ là phòng chuyên môn thuộc Sở giao dịch NHNT VN có chức năng tham mưu và giúp Ban giám đốc trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản của Pháp luật, quy chế của NHNN VN, quy định của NHNT VN nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng của Sở giao dịch NHNT VN nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của ngân hàng và khách hàng tại Sở giao dịch.
♦ Phòng hành chính quản trị
Phòng Hành chính quản trị là phòng chuyên môn thuộc Sở giao dịch NHNT VN có chức năng tham mưu và giúp Ban giám đốc Sở giao dịch trong công tác hành chính, quản trị tại Sở giao dịch. Nghiên cứu xây dựng mở rộng và phát triển hệ thống mạng lưới hoạt động của Sở giao dịch NHNT VN trên địa bàn Hà Nội và các vùng lân cận theo phương hướng, kế hoạch phát triển Ngân hàng Ngoại Thương của Ban lãnh đạo theo từng giai đoạn nhằm tăng cường sức cạnh tranh, thu hút và mở
rộng khách hàng, khẳng định uy tín của Ngân hàng Ngoại Thương với khách hàng trên thị trường.
♦ Phòng hối đoái
Phòng hối đoái là phòng nghiệp vụ thuộc Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương có chức năng phục vụ đối tượng khách hàng là cá nhân (cư trú và không cư trú), cụ thể như sau:
Quản lý hồ sơ thông tin tài khoản, thông tin khách hàng
Quản lý và thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tài khoản tiền gửi, tiền vay của các khách hàng là cá nhân
Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tiền tệ
Thực hiện việc chuyển tiền trong nước của khách hàng là cá nhân
Quản lý các chứng từ có giá, phục vụ nghiệp vụ của phòng
♦ Phòng ngân quỹ:
Phòng ngân quỹ là phòng nghiệp vụ thuộc Sở giao dịch NHNT có chức năng triển khai thực hiện công tác quản lý giấy tờ có giá tại SGD NHNT, thu chi tiền mặt VNĐ và ngoại tệ đảm bảo đúng quy trình, chế độ quản lý kho quỹ của Nhà nước, của Ngành Ngân hàng và NHNT.
♦Phòng quản lý nhân sự
Phòng quản lý nhân sự là phòng chuyên môn thuộc Sở giao dịch NHNT VN có chức năng tham mưu và giúp Ban giám đốc Sở giao dịch trong công tác tổ chức bộ máy và công tác cán bộ tại Sở giao dịch theo đúng Bộ luật lao động, quy định hiện hành của NHNN VN và NHNT VN.
♦ Phòng thanh toán nhập khẩu
Phòng thanh toán Nhập khẩu là phòng nghiệp vụ thuộc Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương có chức năng thực hiện công tác thanh toán quốc tế hàng nhập khẩu mậu dịch và dịch vụ đối ngoại liên quan tới hàng hóa nhập khẩu tại Sở giao dịch NHNT theo đúng quy định, quy chế, quy trình nghiệp vụ hiện hành của Nhà nước, NHNN VN và NHNT VN đồng thời tuân thủ các quy ước quốc tế về nghiệp vụ thanh toán quốc tế qua ngân hàng mà NHNT tham gia.
♦ Phòng Thanh toán Xuất khẩu
Phòng Thanh toán Xuất khẩu là phòng nghiệp vụ của SGD NHNT có chức năng thực hiện toàn bộ công tác thanh toán hàng hóa xuất khẩu và dịch vụ đối ngoại của các đơn vị trong nước với nước ngoài qua SGD NHNT, theo đúng quy định, quy chế, quy trình nghiệp vụ hiện hành của Nhà nước, NHNN VN và NHNT VN đồng thời tuân thủ các quy ước quốc tế về nghiệp vụ thanh toán quốc tế qua ngân hàng mà NHNT tham gia.
♦ Phòng thanh toán thẻ
Phòng thanh toán thẻ là phòng nghiệp vụ của Sở giao dịch NHNT có chức năng thực hiện phát hành và thanh toán các loại thẻ quốc tế, thẻ Vietcombank tại SGD NHNT theo đúng quy định, quy chế, quy trình nghiệp vụ hiện hành của Nhà nước, NHNN VN và NHNT VN đồng thời tuân thủ các quy ước quốc tế về nghiệp vụ thẻ mà NHNT tham gia.
♦ Phòng quan hệ khách hàng
Phòng quan hệ khách hàng có chức năng là đầu mối thiết lập quan hệ khách hàng, duy trì và không ngừng mở rộng mối quan hệ đối với khách hàng trên tất cả các mặt hoạt động, tất cả các sản phẩm ngân hàng nhằm đạt mục tiêu phát triển kinh doanh một cách an toàn, hiệu quả và tăng thị phần của NHNT. Phòng cũng thực hiện chức năng triển khai nghiệp vụ tín dụng đối với những phương án kinh doanh của đối tượng khách hàng là các tổ chức theo đúng các quy định, quy chế, thể lệ về cho vay hiện hành của NHNN VN và NHNT VN.
♦ Phòng Tín dụng trả góp tiêu dùng
Phòng Tín dụng trả góp và tiêu dùng là phòng nghiệp vụ thuộc SGD NHNT có chức năng triển khai nghiệp vụ trả góp, tiêu dùng đối với đối tượng khách hàng là thể nhân( trừ nghiệp vụ tín dụng thông qua nghiệp vụ thanh toán thẻ) theo đúng các quy định, quy chế về cho vay hiện hành của NHNN VN và NHNT VN.
♦ Phòng Tin học
Phòng tin học là phòng chuyên môn thuộc Sở giao dịch NHNT có chức năng giúp Ban Giám đốc SGD trong việc quản lý, duy trì hệ thống công nghệ thông tin liên quan đến quản lý hoạt động kinh doanh tại SGD NHNT.
♦ Phòng Tiết kiệm
._. sự bó hẹp trong việc chỉ cho vay một số ngành mà còn khiến NH gia tăng rủi ro bởi không đa dạng hoá trong hoạt động cho vay.
Chính vì vậy xây dựng chiến lược ngành hàng cho vay và mở rộng thị trường cho vay nhằm nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp là cần thiết cần xác định cụ thể và cần xây dựng các ngành hàng cho vay theo hướng:
Đa dạng hoá, mở rộng các ngành hàng cho vay, mức độ tập trung vào mỗi ngành hàng không quá lớn.
Lựa chọn các ngành hàng cho vay có hiệu quả sản xuất kinh doanh cao, có thị trường tiêu thụ chắc chắn.
Hiện tại SGD thực hiện cho vay khá đa dạng các ngành hàng tuy nhiên vẫn chủ yếu tập trung vào các ngành sản xuất chế biến và thương mại dịch vụ, vì vậy SGD nên mở rộng cho vay các ngành khác có hiệu quả hoạt động tốt và có chất lượng cho vay cao như : Bưu chính, Dầu khí, May mặc… Bên cạnh đó SGD cũng cần chú ý đến việc cho vay căn cứ vào từng giai đoạn của nền kinh tế. Chẳng hạn như giai đoạn kinh tế khó khăn vừa qua khi mà thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản đang gặp nhiều cản trở thì nên chú trọng vào các ngành hàng thiết yếu như thực phẩm, dược phẩm…Bên cạnh đó cần thiết lập quan hệ với các ngành hàng mới có hiệu quả cao, có lợi thế về công nghệ, sản phẩm có thể cung ứng ra thị trường tiêu thụ chắc chắn và ổn định như chế tạo máy, công nghệ thông tin…Với chiến lược này, NH có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ở các DN từ đó có thể nâng cao chất lượng cho vay của NH.
Đối với thị trường cho vay, cần phải thực hiện mở rộng theo hướng đáp ứng nhu cầu vốn cho các DN có quy mô lơn, mở rộng cho vay DN vừa và nhỏ nhằm gia tăng số lượng các DN vay vốn tại NH. Làm được như vậy sẽ giúp NH tăng doanh số cho vay, số lượng các khách hàng trong mỗi ngành hàng lớn cộng với thị trường cho vay mở rộng làm cơ sở giúp NH phân tán rủi ro trong cho vay.
Để thực hiện chiến lược nêu trên, SGD cần thực hiện các giải pháp cụ thể như sau:
- Mở rộng hệ thống các phòng giao dịch và chi nhánh trong toàn quốc đặc biệt là các tỉnh thành xa trung tâm thương mại từ đó thiết lập quan hệ với các DN có địa bàn phân bố rộng không nằm gần các khu trung tâm.
- SGD cần chủ động thiết lập mối quan hệ với các DN mới thông qua việc quảng bá hình ảnh NH trên các phương tiện thông tin đại chúng, thực hiện chính sách ưu đãi với khách hàng hoặc ưu tiên cho một số ngành hàng mới.
- Hỗ trợ các DN trong việc sản xuất không chỉ về vốn mà cả bằng tư vấn về nghiên cứu thị trường, giới thiệu các nhà cung ứng và các đại lý phân phối.
- Tận dụng vị thế và uy tín của SGD NHNT trong nhiều năm qua để liên hệ với các cơ quan quản lý của DN nhằm thiết lập quan hệ với các DN.
Xây dựng chiến lược ngành hàng và thị trường cho vay thông qua mở rộng, cơ cấu lại ngành hàng và thị trường cho vay nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và nâng cao chất lượng cho vay DN.
3.2.2. Thực hiện tốt công tác bảo đảm tiền vay đồng thời đa dạng hóa tài sản đảm bảo
Mặc dù công tác bảo đảm tiền vay chỉ được ưu tiên sau công tác đánh giá khách hàng và thẩm định phương án kinh doanh song đây là biện pháp cũng không thể xem nhẹ. Trên thực tế, tại Sở giao dịch trong thời gian qua không mấy chú trọng tới công tác bảo đảm tiền vay. Mặc dù biết rằng dựa vào phương án kinh doanh khả thi để căn cứ ra quyết định tín dụng là một chính sách rất đúng đắn song cũng không nên đánh giá thấp vấn đề về TSĐB vì đây là biện pháp chống đỡ một phần khi NH gặp rủi ro và nó cũng góp phần giúp NH hạn chế tổn thất khi tình hình kinh doanh rơi vào tình trạng bất ổn, biến động khó lường đặc biệt như thời gian qua. Mặt khác TSĐB cũng góp phần nâng cao trách nhiệm của DN trong việc thực hiện trả nợ đúng hạn. Từ tình hình thực tế công tác bảo đảm tại SGD NHNT VN trong thời gian qua cho thấy SGD cần áp dụng bổ sung các biện pháp sau:
Thực hiện đa dạng hoá các loại hình TSĐB. Ngoài các TSĐB như động sản, bất động sản, giấy tờ có giá, chứng từ có giá thì SGD có thể mở rộng cho vay có bảo đảm bằng có tài sản khác như tài sản hình thành từ vốn vay, hàng tồn kho và các khoản phải thu và các loại hình chưa thực hiện ở NH như bao thanh toán hay bảo lãnh của bên thứ ba. Yêu cầu với các TSĐB này là tính khả mại cao vì vậy NH cần xem xét tỷ lệ cho vay trên giá trị TSĐB hợp lý. Ví dụ các khoản phải thu tỷ lệ thông thường từ 40-90%, hàng tồn kho là từ 30-80%.
Thẩm định TSĐB, trong những nội dung thẩm định NH cần chú ý đặc biệt về khả năng phát mại TSĐB, sự biến động giá trị TSĐB trong điều kiện thị trường có biến động lớn hiện nay.
Các hợp đồng thế chấp và cầm cố tài sản cần thực hiện đầy đủ thủ tục đảm bảo tính pháp lý
Công tác bảo đảm tiền vay đảm bảo an toàn cho NH trong khi việc đa dạng hoá TSĐB lại là hình thức nâng cao mức độ hài lòng cho khách hàng . Đa dạng hoá TSĐB cũng góp phần giúp doanh số cho vay tăng cao, tuy nhiên việc đa dạng hoá tài sản đảm bảo phải đồng bộ với trình độ thẩm định các tài sản đảm bảo. Có như vậy thì việc thẩm định mới có thể chính xác, tránh tổn thất cho NH, đem lại sự hài lòng cho khách hàng và nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp.
3.2.3. Phát triển nguồn nhân lực - Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
Con người đóng vai trò vô cùng quan trọng và là nhân tố quyết định hàng đầu tới sự thành bại trên tất cả mọi lĩnh vực. Và mặc dù hoạt động ngân hàng đang ngày càng được hiện đại hoá với sự phát triển của cá dịch vụ NH qua mạng như dịch vụ E-Banking thì yếu tố con người vẫn luôn được coi là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ của ngân hàng.
Chính vì lẽ đó, các ngân hàng nói chung và Sở Giao Dịch NHNT VN nói riêng cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực lâu dài, có kế hoạch đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đảm bảo cán bộ ngân hàng có nghiệp vụ chuyên môn chuyên môn giỏi, đáp ứng được yêu cầu hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Có chính sách hợp lý và xây dựng môi trường văn hoá làm việc phù hợp để ổn định và khai thác được các ưu thế tối đa của nguồn nhân lực. SGD cũng cần phải xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có tính dài hạn thông qua hình thức đào tạo tại nước ngoài về các vấn đề chuyên môn nghiệp vụ cần thiết nhất. Ngoài ra có thể tham gia các chương trình đào tạo do các tổ chức quốc tế tổ chức tại Việt Nam, học tập kinh nghiệm quản lý điều hành thông qua các cổ đông nước ngoài.
Để phát triển nguồn nhân lực như vậy, SGD cần thực hiện các biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ như sau:
Tiêu chuẩn hoá cán bộ được lựa chọn làm công tác tín dụng gắn liền với thu nhập
- Ngay từ khâu tuyển dụng: Sở cần phải chọn lựa những cán bộ có năng lực chuyên môn vững vàng, được đào tạo bài bản, am hiểu thị trường, pháp luật, ưu tiên những cá nhân có kinh nghiệm từng hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng hay có sự chuyên môn hoá trong thẩm định từng ngành nghề, từng đối tượng khách hàng. SGD cũng như các NH khác cần tránh việc vì sự quen biết mà tuyển dụng những cá nhân có năng lực hay trình độ chuyên môn thấp, số lượng này tuy nhỏ nhưng lại có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động NH về lâu dài. Bên cạnh đó Sở cũng cần có chính sách sử dụng và khuyến khích thoả đáng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao về làm việc tại Sở đồng thời có chính sách đãi ngộ thu nhập tương xứng.
- Trong quá trình công tác: Khâu tuyển dụng tốt đã giúp Sở sàng lọc ra được những cá nhân xuất sắc để giúp SGD hoạt động hiệu quả, tuy nhiên có năng lực mà không có đạo đức thì còn nguy hiểm hơn. Chính vì thế qua quá trình công tác SGD cần chọn lọc, đánh giá những cán bộ được chọn có phải là những người có đạo đức nghề nghiệp, trung thực, có trách nhiệm và tâm huyết với NH hay không. Đồng thời NH cũng cần kiên quyết loại bỏ những cán bộ yếu về tư cách đạo đức, thuyên chuyển sang bộ phận khác hoặc có hình thức kiểm điểm, phê bình rõ ràng.
Thường xuyên tổ chức tập huấn và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn
- SGD cần thường xuyên tổ chức các buổi báo cáo sinh hoạt chuyên môn để phổ biến chế độ, quy chế của Sở, của các ngành có liên quan, truyền đạt kinh nghiệm với các cán bộ mới tuyển. Gắn lý luận với thực tiễn để cán bộ vận dụng khi thẩm định cho vay.
- Tăng cường đào tạo cử cán bộ đi học sau đại học, các lớp ngắn hạn, hội thảo để nghiên cứu thêm về kiến thức pháp luật, ngoại ngữ, phân tích thị trường, phân tích dự án.
- Phối hợp với các NHTM nước ngoài để cử các cán bộ chủ chốt tham gia các khoá đào tạo nước ngoài về chuyên môn tín dụng
- Sở cần thực hiện các buổi tập huấn định kỳ về chuyên môn nghiệp vụ cho tất cả các bộ phận chẳng hạn như về nhận biết tiền giả theo định kỳ 3 tháng/1lần cho các thủ quỹ…
- Thực hiện kiểm tra bất ngờ hoặc định kỳ chuyên môn nghiệp vụ tín dụng của cán bộ nhằm đánh giá toàn diện năng lực cán bộ.
- Xây dựng chế độ thưởng phạt rõ ràng với kết quả hoạt động dựa trên kết quả về chất lượng cho vay và kết quả kiểm tra chuyên môn nghiệp vụ.
→Tất cả các công việc nêu trên đều nhằm mục tiêu giúp NH có được đội ngũ cán bộ nắm vững các kỹ năng trong cho vay nói chung và cho vay DN nói riêng: kỹ năng phục vụ khách hàng, kỹ năng tìm hiểu thông tin, kỹ năng đàm phán với khách hàng, kỹ năng phân tích tổng hợp và suy diễn.
3.2.4. Xây dựng hệ thống thu thập thông tin đầy đủ và hiệu quả
Hệ thống thông tin của NH là tổng hợp các thông tin, cách thức và các nguồn NH thu thập thông tin cần thiết để phục vụ cho quá trình cho vay của NH. Thông tin có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó làm cơ sở giúp NH đánh giá được khách hàng một cách chính xác, làm giảm rủi ro cho khoản vay, nâng cao chất lượng cho vay. Chính vì vậy xây dựng được một hệ thống thu thập thông tin là một vấn đề cần được NH hết sức quan tâm, coi trọng đúng mức.
Cụ thể SGD cần áp dụng các biện pháp sau:
Yêu cầu đối với DN vay vốn:
Yêu cầu khi DN cung cấp thông tin phải được kiểm toán, đảm bảo tính xác thực của thông tin.
Yêu cầu DN ngoài các thông tin thông báo trên hồ sơ vay vốn cần phải cung cấp định kỳ về báo cáo tổ chức, tình hình hoạt động kinh doanh và các vấn đề trong quan hệ với DN khác. Cụ thể
+ Bộ máy tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu có sự thay đổi quản lý phải báo ngay
+ Tình hình tài chính, năng lực thanh toán, hiệu quả kinh doanh
+ Các dự án phát triển sản phẩm mới, thị trường tiêu thụ, nhà cung cấp
+ Tình hình, tiến độ thực hiện dự án sử dụng vốn vay, các hợp đồng với nhà cung cấp
+ Các vụ kiện tụng, khiếu nại, thiếu nợ thuế, vi phạm hợp đồng với nhà cung cấp…
+ Với các thông tin yêu cầu nhưng khách hàng ngại cung cấp NH phải chủ động thuyết phục.
+ Các TSĐB có quyền sử dụng và tính hợp pháp khi sử dụng làm đảm bảo đã được làm đảm bảo cho các mục đích khác hay chưa
→ Nếu như các thông tin DN cung cấp còn hạn chế thì NH cũng cần cẩn trọng khi quyết định cho vay
Thu thập thông tin bên ngoài
DN cung cấp thông tin cho NH nhằm mục đích có thể vay vốn vì thế các thông tin cung cấp nhiều khi đã được cải biên, báo cáo tài chính có thể đã qua xử lý khiến NH khó mà đánh giá chính xác tình hình hoạt động của DN. Bên cạnh đó, các báo cáo thường là số liệu quá khứ vì thế muốn đánh giá năng lực tài chính và phương án kinh doanh một cách chính xác và đầy đủ NH cần xây dựng một kênh thu thập thông tin bên ngoài khác về DN. Cụ thể NH cần thực hiện các biện pháp như sau:
+ NH cần chủ động liên hệ với các đối tác làm ăn của DN hoặc cơ quan quản lý DN để khái thác thông tin có thể thông qua văn bản hay quan hệ. Các thông tin khai thác cần tập trung vào cơ cấu và hoạt động tổ chức quản lý, đánh giá hiệu quả, cán bộ quản lý, sự đoàn kết thống nhất tổ chức, mức độ hiệu quả cũng như các vấn đề cần tháo gỡ, phương hướng phát triển DN trong tương lai…
+ Khai thác thông tin từ cá phòng ban khác có liên quan tới phòng tín dụng như phòng huy động vốn, phòng thanh toán và phân tích thị trường hoặc thông tin từ các NH khác mà DN từng có quan hệ vay vốn. Vấn đề này nằm trong khâu tổ chức hoạt động của NH và quan hệ giữa NH với NHTM khác và NHNN. Những thông tin này đóng vai trò quan trọng giúp NH đánh giá chính xác và hiệu quả về các khoản vay.
Thông tin có được từ phía các DN đóng vai trò quan trọng làm cơ sở ra quyết định cho vay của NH, chính vì thế SGD trong thời gian tới cần có kế hoạch xây dựng một bộ phận chuyên môn thu thập thông tin bên trong về tình hình hoạt động thực tế của DN cũng như các thông tin bên ngoài DN như thông tin về thị trường, ngành kinh tế, các lĩnh vực đang hoạt động, thông tin giá cả thị trường, sự biến động các ngành trong nền kinh tế…để làm cơ sở ra quyết định tín dụng nhanh chóng, chính xác và hiệu quả cho SGD.
3.2.5. Tăng cường công tác phân loại nợ và theo dõi rủi ro
Tất cả các NHTM đều không phủ nhận ý nghĩa của việc cảnh báo sớm các dấu hiệu của các khoản vay có vấn đề. Tuy nhiên điều này chỉ thực hiện được khi NH xây dựng được hệ thống phân loại nợ và công tác theo dõi danh mục cho vay thường xuyên và chặt chẽ. Để thực hiện được điều này, xin đề suất một số giải pháp sau đây với SGD:
(1) Phân loại nợ
Hiện nay NH mới chỉ thực hiện phân loại nợ theo kỳ hạn. Nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu này thì chưa thể đánh giá chính xác chất lượng các khoản vay. Vì vậy SGD cần sớm xây dựng hệ thống xếp hạng nội bộ thông qua bổ sung các chỉ tiêu định tính ngoài các chỉ tiêu định lượng như:
Nhóm khả năng trả nợ từ lưu chuyển tiền tệ: khả năng trả nợ gốc trung- dài hạn, nguồn trả nợ theo đánh giá của cán bộ tín dụng
Nhóm trình độ quản lý và môi trường nội bộ: lý lịch của người đứng đầu DN và kế toán trưởng, chuyên môn của người quản lý, trình độ của người quản lý, năng lực điều hành, tính năng động và độ nhạy bén của ban lãnh đạo với thị trường, môi trường kiểm soát nội bộ
Nhóm quan hệ với khách hàng: lịch trả nợ, số lần cơ cấu lại, nợ gốc cơ cấu lại trên tổng dư nợ, NQH trên tổng dư nợ hiện tại, lịch sử quan hệ với các cam kết ngoại bảng, mức sử dụng dịch vụ của NH, thời gian quan hệ với NH, tình trạng NQH tại các NH khác, định hướng quan hệ tín dụng của khách hàng
Nhóm các nhân tố bên ngoài: triển vọng ngành, khả năng gia nhập thị trường, tính ổn định nguyên liệu đầu vào, mức độ phụ thuộc hoạt động kinh doanh vào tự nhiên.
Nhóm các đặc điểm hoạt động khác: sự phụ thuộc vào số ít các nhà cung cấp hoặc số ít người tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng bình quân về doanh thu, lợi nhuận trong 3 năm, số năm hoạt động trong ngành, uy tín trong lĩnh vực hoạt động, mức độ bảo hiểm tài sản, ảnh hưởng biến động nhân sự đến hoạt động kinh doanh, khả năng tiếp cận nguồn vốn, triển vọng phát triển DN.
SGD có thể phân loại nợ thành nhiều hơn 5 nhóm như hiện nay. Thực tế, trong hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, các NHTM hiện đại có thể chia ra tối thiểu 5 nhóm, nhưng thậm chí có NH chia ra thành trên dưới 10 nhóm.
Việc phân loại nợ hay phân loại rủi ro không chỉ thực hiện với các khoản vay đã được thực hiện mà cần xếp hạng ngay tại thời điểm khoản vay được thực hiện và giám sát lại trong suốt vòng đời của nó
Cán bộ phân loại nợ cần phải loại bỏ yếu tố chủ quan trong đánh giá chất lượng, đặc biệt là các chỉ tiêu định tính, điều này đòi hỏi bố trí cán bộ phân loại có trình độ cao và kinh nghiệm.
Bộ phận phân loại nợ tham khảo và khai thác thông tin từ phía cán bộ trực tiếp cho vay vì cán bộ cho vay là người nắm rõ nhất các thông tin đánh giá chất lượng khoản vay mình thực hiện.
(2)Đối với việc giám sát và theo dõi danh mục cho vay: được coi là hoạt động quan trọng bậc nhát trong việc phát hiện các dấu hiệu bất thường của cá khoản vay từ đó giúp NH sớm có biện pháp khắc phục. Để hoàn thiện công tác này SGD cần thực hiện
Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung kiểm tra thận trọng, chi tiết và tập trung vào các vấn đề chính như kế hoạch trả nợ của khách hàng, chất lượng của TSĐB, điều kiện tài chính của DN, sự thay đổi nhu cầu vốn vay, khoản tín dụng có tuân thủ các điều kiện trong hợp đồng tín dụng và chính sách cho vay của NH.
Tăng cường kiểm tra các khoản nợ khi nền kinh tế có dấu hiệu đi xuống, thị trường có biến động ảnh hưởng tiêu cực hoặc ngành hàng kinh doanh của DN đang gặp bất lợi bởi điều kiện kinh tế
Phối hợp với các bộ phận khác trong NH để phát hiện sớm các dấu hiệu cảnh báo như bộ phận thanh toán, phân tích, huy động vốn.
3.2.6. Phát triển hệ thống công nghệ ngân hàng
Việt Nam đang ở thời kỳ đầu của quá trình hội nhập nên đòi hỏi nền kinh tế phải không ngừng đổi mới cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình độ công nghệ để nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm trong thị trường nội địa cũng như trên thị trường quốc tế. Đặc biệt là ngành NH mạch máu của nền kinh tế nên càng đòi hỏi phải đi đầu trong lĩnh vực này.
Phát triển hệ thống công nghệ NH có tác động tới tất cả mọi mặt hoạt động của NH kể cả công tác cho vay và nâng cao chất lượng cho vay. Vì vậy SGD cần phải lưu ý tới các vấn đề sau:
- Nâng cấp hệ thống trang thiết bị hiện đại một cách đồng bộ ở tất cả các phòng ban
- Tiếp cận với các công nghệ mới từ các nước tiên tiến trên thế giới
- Trong cho vay, hệ thống quản lý cần trang bị khả năng tra cứu thông tin cho cán bộ thẩm định cho vay về các dữ liệu có liên quan của khách hàng ở các phòng ban khác, các trung tâm thông tin tín dụng và các thông tin về thị trường
- Đơn giản hoá các thủ tục giấy tờ, số hoá các văn bản tác nghiệp và phê duyệt trên mạng nội bộ với các cấp.
- Tăng cường bồi dưỡng cán bộ về công nghệ, đặc biệt là các cán bộ thẩm định và cho vay.
Phát triển công nghệ và ứng dụng vào hoạt động ngân hàng phục vụ cho công tác điều hành, kinh doanh, quản lý nguồn vốn, quản lý rủi ro, hệ thống thánh toán liên ngân hàng, hệ thống giao dịch điện tử… sẽ góp phần tạo được cách làm việc và quản lý khoa học đảm bảo dịch vụ được cung cấp chính xác, an toàn, đem lại lợi ích cho khách hàng và nâng cao chất lượng hoạt động của NH.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
Sau hai năm gia nhập WTO, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có bước chuyển biến rõ rệt theo hướng tạo ra một thị trường mở cửa và có tính cạnh tranh cao hơn, thúc đẩy khu vực dịch vụ ngân hàng tăng trưởng cả về quy mô và loại hình hoạt động, thích ứng nhanh hơn với những tác động từ bên ngoài, từ đó có khả năng đóng góp nhiều hơn và chủ động hơn vào sự phát triển chung của nền kinh tế.. Tất nhiên, bêncạnh những tác động tích cực, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra khá nhiều thách thức cho hệ thống ngân hàng. Trước những khó khăn, thách thức đó cần phải có sự hỗ trợ, mở đường và định hướng hoạt động từ Chính phủ đó là hoàn thiện môi trường pháp lý trong hoạt động tín dụng và tạo ra môi trường kinh doanh ổn định và bình đẳng cho hoạt động NH nhằm tạo điều kiện thúc đẩy các NH có điều kiện hoạt động tốt nhất sánh ngang tầm với các ngân hàng và các tập đoàn tài chính lớn trên thế giới.
Thứ nhất, hoàn thiện môi trường pháp lý trong hoạt động tín dụng
Trong thời gian qua, môi trường pháp lý cho hoạt động cho vay đã được hoàn thiện, đầy đủ, rõ ràng và phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đảm bảo an toàn tín dụng của các NHTM. Tuy nhiên, trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng theo hướng:
Hoàn thiện hành lang pháp lý và xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho NH hoạt động. Nền kinh tế ngày càng phát triển, các NH không ngừng gia tăng, cạnh tranh lẫn nhau, mối quan hệ giữa NH và DN thì ngày càng có nhiều vấn đề phát sinh rắc rối và phức tạp. Chính vì thế việc hoàn thiện hành lang pháp lý, xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ là vô cùng cần thiết. Hơn nữa, hệ thống pháp luật của nước ta chưa ổn định hay bị sửa đổi song vẫn chưa thực sự hoàn thiện đã gây khó khăn, cản trở hoạt động NH trong quá trình hoạt động. Ví dụ như Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật đất đai,… khiến cho các giấy tờ liên quan như giấy phép kinh doanh, giấy sở hữu nhà đất … không rõ ràng. Điều này gây khó khăn lớn cho NH trong quá trình xem xét các dự án để có thể cho vay.
Sớm ban hành luật sở hữu và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm xác định rõ chủ sở hữu tài sản liên quan tới thế chấp, cầm cố. Nghiêm cấm việc cấp phát và sử dụng nhiều giấy đăng ký quyền sử dụng để thế chấp, cầm cố tại nhiều NH.
Thứ hai, tạo môi trường kinh doanh ổn định và bình đẳng cho hoạt động NH
- Tăng cường giám sát công tác thông tin báo cáo, chế độ hạch toán kinh doanh của các DN đảm bảo tính tuân thủ nghiêm ngặt luật kế toán.
- Tách bạch chức năng quản lý, giám sát của một số cơ quan Nhà nước với chức năng kinh doanh.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam
Thứ nhất, Hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, trong đó bao gồm các vấn đề liên quan đến điều hành chính sách tiền tệ (chú trọng lãi suất, tỷ giá, thị trường mở…), đến thanh tra giám sát (chuyển từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro theo các quy định của Basel), cho tới việc quản lý rủi ro của NHTM, việc quản lý và cấp phép thành lập ngân hàng mới.
Thứ hai, Tăng cường năng lực thanh tra giám sát theo yêu cầu mới. Cùng với việc này là chỉ đạo các TCTD hoàn thiện mô hình tổ chức kiểm soát, kiểm toán nội bộ cũng như các quy định liên quan nhằm tăng cường năng lực quản trị rủi ro.
Thứ ba, NHNN cần đẩy nhanh tiến độ hiện đại hoá hệ thống NH, nhất là dịch vụ thanh toán qua NH, bảo đảm nhanh chóng, kịp thời và chính xác. Xúc tiến nhanh và có hiệu quả dự án hiện đại hoá NH nhằm nâng cao năng lực quản lý, điều hành kinh doanh, phát triển các dịch vụ, sản phẩm mới.
Thứ tư, Nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng NHNN(CIC), cập nhật khách hàng vay vốn, mở rộng phạm vi hoạt động của CIC - Thành lập bộ phận đánh giá, xếp hạng tín dụng của các khách hàng có dư nợ tại các NH, quy định chặt chẽ hơn nữa chế độ bắt buộc cung cấp thông tin về các khách hàng của NH, đồng thời cho phép các NH khai thác thông tin về lịch sử tín dụng của khách hàng - Xây dựng trung tâm thực sự trở thành nơi cung cấp thông tin đầy đủ nhất phục vụ công tác cho vay của các NH.
Thứ năm là bên cạnh Trung tâm thông tin tín dụng, NHNN nên thành lập thêm trung tâm mới, hoặc mở rộng phạm vi cung cấp thông tin cho phép các NH khai thác các thông tin về các tài khoản, giao dịch tài khoản của khách hàng tại các NH. NHNN cần thực hiện cho phép các NHTM có thể khấu trừ tài khoản của khách hàng tại bất cứ TCTD nào để thanh toán nợ vay khi các khoản vay đã đáo hạn nhưng chưa hoàn trả.
Thứ sáu, Cần coi trọng và nâng cao vai trò của Hiệp Hội Ngân hàng Việt Nam để các NHTM có thể đưa ra kiến nghị, tiếng nói chung đồng thời tránh những động cơ cạnh tranh thiếu lành mạnh gây hậu quả xấu cho hoạt động của các NH Bên cạnh đó tiếng nói của Hiệp Hội NH sẽ đại diện cho hệ thống NH phản ánh kiến nghị tới các cơ quan quản lý Nhà nước.
3.3.2. Kiến nghị với Hội sở chính NHNT VN
Để hoạt động cho vay doanh nghiệp tại SGD NHNT VN có thể phát triển lành mạnh và vững bền thì ngoài sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ nhân viên của SGD thì cần phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ của hội sở chính NHNT VN. Cụ thể:
Thường xuyên cập nhật thông tin từ thị trường trong nước và trên thế giới để có thể ban hành chính sách phù hợp, kịp thời trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế giúp cho các chi nhánh trong đó có SGD NHNT có thể xác định được những công việc phải thực hiện đặc biệt như thời gian kinh tế gặp khó khăn trong năm 2008 vừa qua.
Hội sở cần xây dựng mạng lưới thông tin toàn hệ thống NHNT để Hội sở NHNT có thể dễ dàng cung cấp thông tin ngành, thị trường, các lĩnh vực khác trong nền kinh tế, các thông tin vĩ mô của Nhà nước cũng như chiến lược của Hệ thống trong từng thời kỳ tạo điều kiện không những giúp ban chỉ đạo chi nhánh mà cả các nhân viên cũng có thể nắm được chủ trương, chính sách của hệ thống một cách nhanh chóng, hiệu quả.
Bên cạnh đó, Hội Sở cần xây dựng bộ phận kiểm tra độc lập theo dõi tình hình hoạt động của chi nhánh, cắt cử cán bộ tín dụng trên hội sở xuống giúp đỡ cán bộ chi nhánh thẩm định các món vay mà gặp nhiều vấn đề khó khăn tạo điều kiện cho các chi nhánh làm việc hiệu quả. Một vấn đề nữa là vấn đề điều chuyển vốn của Hội Sở cần tiến hành nhanh chóng, kịp thời đảm bảo khả năng thanh khoản, giảm rủi ro, nâng cao chất lượng cho vay.
KẾT LUẬN
Trên đây là toàn bộ nội dung chuyên đề của em được hoàn thành sau một quá trình học tập rèn luyện ở trường cùng với một quãng thời gian thực tập tuy không dài nhưng vô cùng bổ ích tại tại SGD NHNT VN . Điều đó đã giúp em xây dựng chuyên đề tốt nghiệp của mình về vấn đề “Nâng cao chất lượng cho vay DN tại Sở Giao Dịch Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam” - một trong những yếu tố sống còn quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi NH trong quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới.
Trong thời gian thực tập, em nhận thấy thời gian vừa qua SGD NHNT VN không những phải đương đầu với cơn bão tài chính Mỹ mà còn cả những hạn chế ngay trong nội bộ nền kinh tế cùng với sự cạnh tranh gay gắt, quyết luyệt với các NHTM khác song SGD NHNT VN vẫn luôn khẳng định được vị thế vai trò của mình trong hệ thống NH bằng việc đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong việc huy động, cho vay và trở thành một NH có quy mô nguồn vốn lớn nhất đồng thời cũng là chi nhánh hoạt động có hiệu quả nhất trong hệ thống NHNT VN. Có được những thành tựu to lớn đó không thể không kể đến sự phấn đấu nỗ lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên cũng như sự quản lý khoa học, hợp lý của ban lãnh đạo SGD và sự phối kết chặt chẽ, nhịp nhàng của các phòng ban của SGD.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, SGD cũng bộc lộ nhiều mặt còn hạn chế. Chúng ta đều biết rằng cho vay DN chiếm tỷ trọng rất lớn và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động cho vay của SGD tuy nhiên tỷ trọng cơ cấu ngành cho vay DN còn chưa phân bổ đều, vấn đề TSĐB còn hạn chế, đội ngũ cán bộ nhân viên còn non trẻ thiếu kinh nghiệm, một số dịch vụ chưa được quan tâm phát triển, nợ quá hạn, nợ xấu trong cho vay DN vẫn chiếm tỷ trọng cao, vấn đề công nghệ NH còn hạn chế…
Chính vì những lý do đó, em mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay DN tại SGD NHNT với mong muốn khắc phục những hạn chế nêu trên góp phần giúp SGD có thể phát triển ngày càng mạnh mẽ và bền vững trên con đường hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Để các giải pháp được thực thi và thực sự phát huy tác dụng thì cần ngoài sự nỗ lực của bản thân NH và DN thì cần phải có sự quan tâm hỗ trợ của Chính phủ, NHNN cũng như các cấp, các ngành có liên quan.
Đây là một vấn đề rất phức tạp và luôn được đặt ra trong thực tế kinh doanh của NH song với thời gian nghiên cứu có hạn và kiến thức hiểu biết còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô và bạn đọc giúp bài viết của em được hoàn thiện hơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS. Phan Thị Thu Hà(2007), “Giáo trình Ngân Hàng Thương Mại”, NXB ĐH Kinh Tế Quốc Dân
Lê Văn Tư, “Các nghiệp vụ ngân hàng thương mại”
GS.TS. Nguyễn Đình Phan(2005), “Giáo trình quản trị chất lượng trong các tổ chức”, ĐH Kinh Tế Quốc Dân
TS. Nguyễn Minh Kiều (2007), “Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại”, NXB Thống kê
PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn, “Nghiệp vụ ngân hàng thương mại”
Peter S.Rose, “Nghiệp vụ ngân hàng thương mại”
Ths. Đàm Hồng Phương, “Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn Hà Nội”, Tạp chí ngân hàng số 3 tháng 2 năm 2009
PGS.TS. Nguyễn Đình Tự, “Ngành ngân hàng Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO”, Tạp chí ngân hàng số 21 tháng 11 năm 2008
Báo cáo thường niên của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam các năm 2006-2008
website: www.google.com.vn
website: www.mof.gov.vn
website: www.sbv.gov.vn
website: vneconomy.com.vn
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức của Sở Giao Dịch NHNT VN 28
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của SGD NHNT VN trong 3 năm 39
Bảng 2.2: Tình hình cho vay nền kinh tế của SGD NHNT VN trong 3năm 41
Bảng 2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh của SGD NHNT VN trong 3 năm 43
Bảng 2.4: Doanh số cho vay DN tại SGD NHNT VN 46
Bảng 2.5:Tình hình dư nợ cho vay DN tại SGD NHNT VN 47
Bảng 2.6: Cơ cấu dư nợ cho vay DN theo thời gian từ 2006 - 2008 40
Bảng 2.7: Cơ cấu dư nợ cho vay DN theo ngành hàng từ 2006 - 2008 50
Bảng 2.8: Một số chỉ tiêu về tỷ lệ nợ quá hạn tại SGD NHNT VN 56
Bảng 2.9: Tỷ lệ cho vay có bảo đảm trong cho vay DN tại SGD NHNT VN 57
Bảng 2.10: Tình hình lợi nhuận từ hoạt động cho vay DN tại SGD NHNT VN 59
Biểu đồ 2.1: Tình hình huy động vốn của SGD NHNT từ 2006 - 2008 40
Biểu đồ 2.2: Tình hình hoạt động cho vay của SGD NHNT VN 42
Biểu đồ 2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh của SGD giai đoạn 2006-2008 44
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay theo thời gian tại SGD NHNT VN từ 2006-2008 49
Biều đồ 2.5 : Cơ cấu dư nợ cho vay doanh nghiệp tại SGD NHNT VN năm 2006-2008 51
Biều đồ 2.6 : Tình hình thu lãi cho vay DN từ năm 2006-2008 60
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DN : Doanh nghiệp
SGD : Sở giao dịch
NHNT : Ngân hàng ngoại thương
VN : Việt Nam
NHTM : Ngân hàng thương mại
KH : Khách hàng
BGĐ : Ban giám đốc
BCTC : Báo cáo tài chính
BTC : Bộ tài chính
XK : Xuất khẩu
NK : Nhập khẩu
NV : Nghiệp vụ
NH : Ngân hàng
TCKT : Tổ chức kinh tế
LSCB : Lãi suất cơ bản
HSC : Hội sở chính
TG : Tiền gửi
TG KKH : Tiền gửi không kì hạn
TG CKH : Tiền gửi có kì hạn
TK KKH : Tiết kiệm không kì hạn
TK CKH : Tiết kiệm có kì hạn
TCKT : Tổ chức kinh tế
NQH : Nợ quá hạn
TCTD : Tổ chức tín dụng
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Th.s Lê Phong Châu đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thiện chuyên đề tốt nghiệp, cảm ơn tập thể các thầy cô giáo trong trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân, đặc biệt là các thầy cô giáo trong khoa Ngân Hàng - Tài Chính đã cung cấp những kiến thức cơ sở và chuyên ngành chỉ bảo em trong suốt bốn năm học tập, nghiên cứu tại trường.
Xin cảm ơn các anh chị phòng Khách hàng tại Sở Giao Dịch Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam luôn nhiệt tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em được tiếp cận thực tiễn trong quá trình thực tập tại ngân hàng.
Em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã luôn bên cạnh cổ vũ động viên em giúp em hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Hà nội, ngày 5 tháng 5 năm 2009
Sinh viên
Nguyễn Thị Thu Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21981.doc