Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO là một cơ hội lớn để nền kinh tế nước ta hội nhập sâu rộng, trong đó lĩnh vực tài chính ngân hàng là một lĩnh vực đặc thù có vai trò quan trọng. Cùng với sự ổn định về chính trị và tăng trưởng kinh tế tăng liên tục với mức tăng bình quân 8% một năm đã thúc đẩy các hoạt động đầu tư, xây dựng, kinh doanh, dịch vụ phát triển tạo việc làm tăng thu nhập,nâng cao chất lượng đ
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1539 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời sống người dân..Tuy nhiên với mức thu nhập như hiện nay, phần lớn người tiêu dùng không thể có khả năng chi trả ngay lập tức cho tất cả các khoản mua sắm đặc biệt là các vật dụng đắt tiền. Trước thực tế đó, các NHTM đã thực hiện cung cấp các khoản cho vay tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng và đồng thời nhằm mở rộng hoạt động và tăng khả năng cạnh tranh của mình. Chỉ trong một thời gian ngắn, cho vay tiêu dùng đã được tiếp cận đến người dân, số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng yêu cầu cung cấp dịch vụ này đã tăng lên đáng kể, tạo nguồn thu nhập lớn cho ngân hàng. Mặc dù vậy, với tiềm năng lớn nhưng khai thác chưa hiệu quả nên cho vay tiêu dùng vẫn chiếm một tỉ lệ nhỏ cả về doanh số lẫn dư nợ tại các NHTM hiện nay.
Nhận thức được xu hướng mới của thời đại,yêu cầu khách quan của nền kinh tế ,của ngân hàng và các tầng lớp dân cư đối với hoạt động tín dụng tiêu dùng, sau thời gian thực tế tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, kết hợp với kiến thức đã thu thập được trong quá trình hoạt động và nghiên cứu,em đã chọn đề tài: “ Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn kiếm” làm đề tài luận văn của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là những vẫn vấn đề lí luận về tín dụng tiêu dùng, đánh giá thực trạng tín dụng tiêu dùng và đề xuất những giảI pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn Kiếm.
3. Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động tín dụng tiêu dùng đối với các cá nhân và hộ gia đình tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm từ năm 2005 đến năm 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, các phương pháp chủ yếu được sử dụng bao gồm: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp và thống kê.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài bao gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về tín dụng tiêu dùng, mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm.
Chương 3: GiảI pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm
CHƯƠNG I: Lý luận cơ bản về Tín dụng tiêu dùng, mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng của
Ngân Hàng Thương mại
Tín dụng tiêu dùng của ngân hàng thương mại và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế xã hội
Khái niệm tín dụng tiêu dùng
Tín dụng tiêu dùng là một hình thức tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá và dịch vụ mà họ mong muốn trước khi họ có khả năng chi trả, tạo điều kiện cho họ có thể hưởng một cuộc sống tốt hơn. Các khoản cho vay như thế được sử dụng vào nhiều mục đích như: mua nhà, sửa nhà, mua sắm vật dụng cần thiết trong gia đình, mua xe hơi, du học, chi phí cho du lịch..
1.1.2 Đặc điểm của tín dụng tiêu dùng
Khách hàng mục tiêu:
Khách hàng mục tiêu của các NHTM đối với các loại hình tín dụng tiêu dùng là khách hàng cá nhân tức là chủ yếu là các cá nhân và hộ gia đình.
Mục đích :
Đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình. Các nhu cầu đó là : mua nhà, sửa chữa nhà cửa, mua sắm đồ dùng vật dụng gia đình, mua xe hơI, du hoc, du lịch..
Nguồn trả nợ :
Nguồn trả nợ của các khoản vay tiêu dùng không phảI từ kết quả sử dụng các khoản tiền đó mà là từ thu nhập của người vay- nguồn trả nợ độc lập so với việc sử dụng tiền vay: đó có thể là lương, thu nhập từ hoạt động kinh doanh, tiền cho thuê nhà..
Qui mô của các khoản vay:
Hầu hết các khoản vay tiêu dùng đều có giá trị không lớn, ngoại trừ các khoản vay mua bất động sản. Tuy nhiên số lượng các khoản vay có thể không nhỏ.
Thời hạn vay :
Ngắn, trung và dài hạn nhưng chủ yếu là trung và dài hạn.
Rủi ro :
Các khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro cao nhất trong các loại cho vay của ngân hàng vì tình hình tài chính của cá nhân và hộ gia đình có thể thay đổi theo tình trạng công việc và sức khoẻ của họ. Các cá nhân thì dễ dàng giữ kín các thông tin về triển vọng công việc hay sức khoẻ hơn là các doanh nghiệp vì các doanh nghiệp phảI cung cấp các báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Hơn nữa cho vay tiêu dùng thường nhạy cảm theo chu kì, tăng lên khi nền kinh tế mở rộng và giảm xuống khi nền kinh tế suy thoái. Mặt khác người tiêu dùng thường ít nhạy cảm so với lãI suất, họ quan tâm đến khoản tiền phảI trả hàng tháng hơn là mức lãI suất ghi trong hợp đồng,. Về cơ bản có hai loại rủi ro, đó là rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng.
+ Về rủi ro lãi suất: Cũng như đã nói ở trên do lãi suất cho vay tiêu dùng là cố định và nó thường được xác định giá dựa trên lãi suất cơ bản cộng với mức lãi suất cận biên và phần bù rủi ro. Nhưng khi lãi suất trên thị trường vốn tăng mà lãi suất của các khoản cho vay tiêu dùng là cố định và cứng nhắc như thế sẽ khiến cho ngân hàng phải bù đắp mức lãi suất huy động vốn mà không được thay đổi lãi suất cho vay tiêu dùng.
+ Về rủi ro tín dụng: Nguồn tài chính để chi trả cho khoản vay tiêu dùng không phải là dựa vào lợi nhuận hay bắt nguồn từ chính những khoản tiền vay đó đem lại mà nó lai phụ thuộc vào một nguồn khác độc lập hoàn toàn với nguồn vay đó chính là khoản thu nhập của người đó trong tương lai. Do đó nó sẽ bao gồm cả rủi ro khách quan và chủ quan. Ví dụ như tình trạng kinh tế tăng trưởng hay la suy thoái, bệnh tật, thiên tai, địch hoạ… nó đều làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ người vay, hoặc cac rủi ro mang tính cá nhân về sức khoẻ, tai nạn, công việc nó sẽ ảnh hưởng gian tiếp đến nguồn thu nhập của người đó và đương nhiên sẽ đe doạ đến nguồn trả nợ của ngân hàng.
Chi phí :
Các ngân hàng sẽ tốn nhiều thời gian và công sức để điều tra về mức thu nhập hàng tháng, tình trạng sức khỏe, đạo đức của các chủ thể vay tiền.. đồng thời việc quản lý các khoản vay có giá trị nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn cũng làm cho chi phí cao của khoản mục vay tiêu dùng cao hơn so với các loại hình cho vay khác.
Lãi suất của các khoản vay tiều dùng cao hơn các khoản cho vay khác:
Chính xuất phát từ đặc điểm các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí và rủi ro cao nên lãi suất mà các ngân hàng mong muốn có được từ các khoản vay này phảI cao hơn các khoản vay khác để bù đắp được các chi phí và tổn thất dự kiến. Lãi suất cho vay tiêu dùng thường khá cứng nhắc, nghĩa là nó được định giá trên cơ sở chi phí huy động vốn của ngân hàng, lợi nhuận kì vọng và phần bù rủi ro lãI suất. Nó không như hầu hết các khoản vay kinh doanh là lãI suất thay đổi theo điều kiện của thị trường.
Mặt khác cho vay tiêu dùng lại có tính nhạy cảm theo chu kì. Nó tăng lên khi nền kinh tế mở rộng, mọi người lạc quan về tương lai. Ngược lại khi nền kinh tế rơI vào suy thoáI, các cá nhân và hộ gia đình sẽ hạn chế vay mượn từ ngân hàng.
Hơn nữa khi vay tiền người tiêu dùng thường kém nhạy cảm với lãi suất, họ thường quan tâm đến khoản tiền phải trả hàng tháng hơn là mức lãi suất ghi trong hợp đồng mặc dù lãi suất ảnh hưởng đến khoản tiền phải trả của họ.
Tài sản đảm bảo :
Cho vay tiêu dùng thường yêu cầu có tài sản đảm bảo để hạn chế bớt rủi ro cho ngân hàng vì nguồn trả nợ độc lập với việc sủ dụng tiền vay nên việc kiểm soát các nguồn thu nhập khác của khách hàng là khó khăn đối với ngân hàng.
Lợi nhuận mang lại cho ngân hàng:
Tín dụng tiêu dùng là một trong những hoạt động mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng bởi mức lãI suất cố định đã phân tích ở trên. Mặc dù chịu rủi ro lãI suất khi chi phí huy động vốn tăng lên, tuy nhiên các khoản vay này đã được định giá khá cao đế mức mà bản thân lãI suất vay vốn trên thị trường lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phảI tăng lên đáng kể thì hầu hết các khoản tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận.
Như vậy qua phân tích trên có thể rút ra tín dụng tiêu dùng có những đặc điểm như sau:
- Quy mô của từng hợp đồng vay thường nhỏ, dẫn đến chi phí tổ chức cho vay cao, vì vậy lãi suất của tín dụng tiêu dùng thường cao hơn so với lãi suất của các loại cho vay trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp.
- Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế.
- Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng hầu như ít co dãn với lãi suất. Thông thường, người đi vay quan tâm tới số tiền phải thanh toán hơn là mức lãi suất mà họ phải gánh chịu.
- Mức thu nhập và trình độ học vấn là hai biến số có quan hệ rất mật thiết tới nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng.
- Chất lượng các thông tin tài chính của khách hàng vay thường không cao.
- Nguồn trả nợ chủ yếu của người đi vay có thể biến động lớn, phụ thuộc vào quá trình làm việc, kỹ năng và kinh nghiệm đối với công việc của những người này.
- Tư cách của khách hàng là yếu tố khó xác định song lại rất quan trọng, quyết định sự hoàn thành của khoản vay.
1.1.3 Các hình thức tín dụng tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng có thể được phân chia thành nhiều hình thức căn cứ vào mục đích vay, cách thức hoàn trả..
1.1.3.1 Căn cứ vào mục đích vay
Căn cứ vào mục đích vay thì có 2loại là tín dụng tiêu dùng cư trú và tín dụng tiêu dùng phi cư trú.
Tín dụng tiêu dùng cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hay cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hộ gia đình.Đây là khoản cho vay có giá trị lớn, thời gian cho vay dài và tài sản hình thành từ vốn vay thường là tài sản đảm bảo.
Tín dụng tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu trang trảI các khoản chi phí như mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, du học, du lịch, y tế.. Đây là khoản tín dụng nhỏ và thời hạn ngắn.
1.1.3.2 Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Căn cứ vào phương thức hoàn trả thì có 2loại là tín dụng tiêu dùng trả góp và tín dụng tiêu dùng trả một lần. Trong đó tín dụng tiêu dùng trả góp chiếm tỷ lệ lớn do người ta nhận thấy định kì trả một khoản gốc và lãi sẽ có lợi hơn là trả một lần.
Tín dụng tiêu dùng trả góp:
Đây là hình thức tín dụng tiêu dùng mà người đi vay trả nợ cho ngân hàng gồm số tiền gốc và lãi làm hai hoặc nhiều lần theo những kì hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này áp dụng cho những khoản vay có giá trị lớn và thu nhập định kì của người vay không đủ trả hết một lần số nợ vay.
Thông thường, Ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một phần giá trị cần mua sắm, số tiền này được gọi là số tiền trả trước, phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền trả trước (khoảng 20-30% giá trị tài sản cần mua sắm) để một mặt làm cho người đi vay nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu của tài sản, mặt khác lại có tác dụng hạn chế rủi ro cho Ngân hàng. Khi không cảm nhận được rằng mình là chủ sở hữu của tài sản hình thành từ tiền vay thì người đi vay có thể sẽ có thái độ miễn cưỡng trong việc trả nợ. Ngoài ra, khi khách hàng không trả nợ, trong nhiều trường hợp, Ngân hàng đành phải tiếp nhận và phát mại tài sản để thu hồi nợ. Hầu hết các tài sản đã qua sử dụng đều bị giảm giá trị, tức là giá trị thị trường nhỏ hơn giá trị hạch toán của tài sản, cho nên số tiền trả trước có một vai trò rất quan trọng giúp cho Ngân hàng hạn chế rủi ro.
Tín dụng tiêu dùng trả một lần:
Đây là các khoản tài trợ ngắn hạn cho cá nhân và hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời và được thanh toán một lần khi khoản vay đáo hạn. Qui mô của những khoản vay này tương đối là nhỏ, bao gồm cả phí tài khoản với yêu cầu thanh toán trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Phần lớn các khoản vay loại này được dùng để chi trả cho các chuyến đi nghỉ, tiền nằm viện, mua các vật dụng gia đình hoặc sửa chữa ôtô, nhà ở.
Tín dụng tiêu dùng tuần hoàn:
Đây là các khoản tín dụng tiêu dùng trong đó Ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng thời kỳ, khách hàng được Ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
Lãi phải trả mỗi kỳ có thể tính dựa trên một trong ba cách sau:
Một là: Lãi được tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh. Theo phương pháp này số dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của một kỳ sau khi khách hàng đã thanh toán nợ cho Ngân hàng.
Hai là: Lãi được tính dựa trên số dư trước khi được điều chỉnh: Theo cách này số dư nợ dùng để tính lãi là số dư nợ mỗi kỳ có trước khi khoản nợ được thanh toán.
Ba là: Lãi được tính trên cơ sở dư nợ bình quân.
1.1.3.3 Căn cứ vào hình thức đảm bảo tiền vay
- Cho vay cầm đồ: là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay tiền và giữ tài sản của khách hàng để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ của khách hàng trong hợp đồng cầm đồ.
- Cho vay đảm bảo bằng lương hay thu nhập: ngân hàng cho khách hàng vay tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu trên cơ sở thế chấp bằng lương hay thu nhập. Nó chủ yếu áp dụng cho các khách hàng có việc làm ổn định thu nhập ngoài việc đủ trang trảI cho các chi tiêu thường xuyên còn có đủ tích luỹ để trả nợ vay.
- Cho vay có đảm bảo hình thành từ tiền vay: Hình thức này chủ yếu áp dụng với những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài như: cho vay sửa chữa, mua nhà, mua quyền sử dụng đất. Mức cho vay của ngân hàng trong hình thức này phụ thuộc vào tình hình tài chínhm khả năng trả nợ của khách hàng, giá trị tài sản mua sắm, mức tối đa thường là 50-60% giá trị tài sản mua sắm.
1.1.3.4 Căn cứ vào nguồn gốc của khoản tín dụng tiêu dùng
* Tín dụng tiêu dùng gián tiếp.
Tín dụng tiêu dùng gián tiếp là hình thức tín dụng trong đó Ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do những Công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho người tiêu dùng.
Ngân hàng
Công ty bán lẻ
Người tiêu dùng
(1)
(4)
(5)
(6) (2) (3)
(1): Ngân hàng và Công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng, Ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu...
(2): Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị của tài sản.
(3): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4): Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho Ngân hàng.
(5): Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.
(6): Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho Ngân hàng.
Tín dụng tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm sau:
- Tín dụng tiêu dùng gián tiếp tạo điều kiện để ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng .
- Tín dụng tiêu dùng gián tiếp cũng cho phép Ngân hàng tiết kiệm và giảm bớt chi phí trong hoạt động cho vay.
- Đây cũng là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động Ngân hàng khác.
- Nếu áp dụng phương thức có truy đòi thì việc cho vay tiêu dùng gián tiếp có độ an toàn cao.
Bên cạnh những điểm như trên, tín dụng tiêu dùng gián tiếp còn có một số nhược điểm như sau:
- Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng, mà chỉ được biết thông qua Công ty bán lẻ. Bên cạnh đó ta nhận thấy rằng, các công ty bán lẻ không còn chuyên môn sâu để thẩm định khách hàng một cách chi tiết và chính xác.
- Thiếu sự kiểm soát của Ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hoá cho người tiêu dùng.
- Các Công ty bán lẻ thực hiện phương thức này không nhằm cấp tín dụng cho khách hàng mà chỉ nhằm tăng doanh số bán hàng.
- Kỹ thuật nghiệp vụ trong tín dụng tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm kể trên nên có rất nhiều Ngân hàng không mặn mà với tín dụng tiêu dùng gián tiếp. Còn những Ngân hàng nào tham gia vào hoạt động này thì đều có các cơ chế kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ.
Tín dụng tiêu dùng gián tiếp thường được thực hiện thông qua các phương thức sau:
- Tài trợ truy đòi toàn bộ: Theo phương thức này khi bán cho Ngân hàng các khoản nợ mà người tiêu dùng đã mua chịu, Công ty bán lẻ cam kết thanh toán cho Ngân hàng toàn bộ các khoản nợ nếu khi đến hạn, người tiêu dùng không thanh toán cho Ngân hàng.
- Tài trợ đòi hạn chế: Theo phương thức này, trách nhệm của Công ty bán lẻ với các khoản mà người tiêu dùng mua chịu không thanh toán chỉ giới hạn trong một chừng mực nhất định, phụ thuộc vào các điều khoản đã được thoả thuận giữa ngân hàng với công ty bán lẻ . dưới đây là các thoả thuận thường gặp trong trường hợp truy đòi hạn chế:
-> Công ty bán lẻ phải chịu trách nhiệm thanh toán một phần nợ trong trường hợp nếu người mua không đủ tiền để trả trước một số tiền nhất định khi mua hoặc khách hàng không đủ các tiêu chuẩn tín dụng do Ngân hàng đề ra.
-> Công ty bán lẻ cam kết chịu trách nhiệm cho toàn bộ số nợ đã bán chịu cho đến khi ngân hàng thu hồi được một số lượng các khoản nợ nhất định đúng hạn.
-> Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của Công ty bán lẻ được giới hạn trong phạm vi số tiền dự phòng ký gửi tại Ngân hàng. Thường số tiền dự phòng được trích từ chênh lệch giữa chi phí tài trợ mà Công ty bán lẻ cho người mua chịu và chi phí tài trợ mà Ngân hàng tính cho Công ty bán lẻ. Đây là trường hợp được các Ngân hàng áp dụng phổ biến nhất.
Số tiền dự phòng ký gửi tại Ngân hàng có tác dụng hạn chế rủi ro cho Ngân hàng khi người mua chịu không trả nợ hoặc trả nợ không đúng hạn .
Tài trợ miễn tuy đòi: Theo phương thức này sau khi bán các khoản nợ cho ngân hàng, Công ty bán lẻ không còn chịu trách nhiệm cho việc chúng có được hoàn trả hay không. Phương thức này chứa đựng rủi ro so với các phương thức nói trên và các khoản nợ được mua cũng được lựa chọn rất kỹ. Ngoài ra, chỉ có những Công ty rất được Ngân hàng tin cậy mới được áp dụng phương thức này.
- Tài trợ có mua lại: Khi thực hiện tín dụng tiêu dùng gián tiếp theo phương thức miễn truy đòi hoặc truy đòi một phần, nếu rủi ro xảy ra, người tiêu dùng không trả nợ thì Ngân hàng thường phải thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Trong trường hợp này, nếu có thoả thuận trước thì Ngân hàng có thể bán trở lại cho Công ty bán lẻ nợ mình chưa thanh toán, kèm với tài sản được đắc thụ trong một thời hạn nhất định.
* Tín dụng tiêu dùng trực tiếp.
Tín dụng tiêu dùng trực tiếp là các khoản tín dụng tiêu dùng trong đó Ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người này.
Ngân hàng
Người tiêu dùng
Công ty bán lẻ
(1)
(5)
(3) (4)
(2)
(1): Ngân hàng ký kết hợp đồng tín dụng cho người tiêu dùng và cung cấp thẻ tín dụng cho họ.
(2): Khách hàng dùng thẻ tín dụng để mua hàng hoá.
(3): Ngân hàng trả tiền cho Công ty bán lẻ.
(4): Công ty bán lẻ giao hàng hoá cho khách hàng.
(5): Khách hàng trả nợ cho Ngân hàng.
So với tín dụng tiêu dùng gián tiếp, tín dụng tiêu dùng trực tiếp có một số ưu điểm như sau:
- Trong tín dụng tiêu dùng trực tiếp Ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của cán bộ tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín dụng trực tiếp của Ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi những công ty bán lẻ hoặc những cán bộ tín dụng của các công ty bán lẻ. Ngoài ra, trong hoạt động của mình, cán bộ tín dụng Ngân hàng thường xuyên có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra khoản tín dụng có chất lượng tốt trong khi cán bộ của Công ty bán lẻ thường trú trọng đến việc bán nhiều hàng hoá. Bên cạnh đó, tại các điểm bán hàng, các quyết định tín dụng thường được đưa ra vội vàng và như vậy có thể có nhiều khoản tín dụng được cấp ra một cách không chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp, do quyết định nhanh, Công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với khách hàng của mình. Nếu như người cấp tín dụng là Ngân hàng, những điều này có thể được hạn chế.
- Tín dụng tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn tín dụng tiêu dùng gián tiếp vì dễ có sự đàm phán giữa Ngân hàng và khách hàng để có quyết định một khoản tín dụng với lãi suất, thời hạn phù hợp với cả hai bên.
- Tín dụng tiêu dùng trực tiếp có độ an toàn cao vì Ngân hàng trực tiếp thẩm định và giám sát tín dụng.
Ngoài những ưu điểm như trên, tín dụng tiêu dùng trực tiếp còn tồn tại một số nhược điểm:
- Đối với phương thức tín dụng này, Ngân hàng thường khó tăng doanh số cho vay.
- Ngân hàng khó mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng vì Ngân hàng phải trực tiếp tiếp xúc với khách hàng mà cán bộ tín dụng của Ngân hàng không đủ số lượng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
- Với những lý do trên nên tín dụng tiêu dùng trực tiếp có chi phí cao.
Vai trò của tín dụng tiêu dùng đối với phát triển kinh tế- xã hội
1.1.4.1 Vai trò của tín dụng tiêu dùng đối với người tiêu dùng
Đối với người tiêu dùng, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình, thông qua nghiệp vụ tín dụng tiêu dùng sẽ giúp cho họ có khả năng mua sắm những hàng hoá cần thiết có giá trị cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và cải thiện đời sống.
Trên thực tế có nhiều nhu cầu thiết yếu, có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống đối với các cá nhân và hộ gia đình, những nhu cầu này không sớm thì muộn cũng cần phải được thoả mãn. Ví dụ như nhu cầu về mua sắm, sửa chữa nhà cửa, mua các đồ dùng tiện nghi sinh hoạt, mua sắm các phương tiện như xe máy, ô tô, chuẩn bị hôn lễ, ma chay, du lịch, học hành...Nhưng những nhu cầu thiết yếu thì nhiều mà để đáp ứng được thì cần thời gian dài do khả năng tài chính thường bị giới hạn. Vì vậy mà người ta thường mua sắm nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt,... khi lớn tuổi. Khi đó lợi ích thu được từ sự hưởng thụ đều có xu hướng giảm xuống. Do đó người tiêu dùng sẽ tìm cách để phối hợp khéo léo giữa việc thoả mãn các nhu cầu với yếu tố thời gian và khả năng thanh toán của hiện tại và tương lai. Điều này có nghĩa là người tiêu dùng sẽ tìm cách để hưởng thụ trước số tiền sẽ có trong tương lai. Nếu phân tích theo khía cạnh tài chính, việc mượn tiền trước của Ngân hàng để tiêu dùng phải trả lãi thực chất cũng chỉ là cách quy đổi luồng tiền mà ta sẽ có tại một thời điểm nào đó trong tương lai về thời điểm hiện tại.
1.1.4.2. Vai trò của tín dụng tiêu dùng đối với ngân hàng thương mại.
Với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi và sử dụng tiền đó để cho vay kiếm lời, các NHTM cần nỗ lực huy động vốn, bên cạnh đó phải khai thác thị trường tín dụng một cách triệt để, nghĩa là tìm cách để đảm bảo khả năng đáp ứng thoả mãn tốt nhất, nhiều nhất các nhu cầu về tín dụng của nền kinh tế. Vì vậy, sẽ là sai lầm nếu bỏ qua thị trường tín dụng tiêu dùng mà tại đó quy mô của một số nhu cầu nhỏ nhưng số lượng nhu cầu về tín dụng xét theo lượng khách hàng tiềm năng và theo sự đa dạng của nhu cầu tiêu dùng lại vô cùng lớn.
Bên cạnh đó, nguồn thu của Ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng tiêu dùng này là đáng kể do lãi suất tín dụng tiêu dùng là cứng nhắc, không giống với các khoản cho vay kinh doanh khi mà lãI suất là thả nổi theo điều kiện của thị trường, đặc biệt là lãi suất thực cho vay trả góp rất cao, điều này khiến cho thu nhập từ hoạt động tín dụng tiêu dùng chiếm tỷ trọng không nhỏ trong cơ cấu lợi nhuận của Ngân hàng. Do vậy việc mở rộng hoạt động tín dụng tiêu dùng cho các cá nhân và hộ gia đình là một hướng kinh tế có triển vọng và an toàn cho Ngân hàng.
Hơn nữa, xu hướng hoạt động của các NHTM là phát triển đa năng tổng hợp, luôn tìm cách mở rộng các nghiệp vụ cũng như đưa ra các sản phẩm mới. Việc thực hiện và phát triển hoạt động tín dụng tiêu dùng vừa mở rộng được khách hàng cho vay, tận dụng được nguồn vốn huy động một cách hiệu quả, vừa đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng. Từ đó Ngân hàng tăng được cạnh tranh trong một thị trường càng ngày càng khó khăn.
1.1.3.3. Vai trò của tín dụng tiêu dùng đối với nền kinh tế.
Sự tăng trưởng của một nền kinh tế được thể hiện rất rõ qua mức cầu về hàng hoá tiêu dùng của dân cư, chính là số lượng và mức độ của các nhu cầu có khả năng thanh toán về các mặt hàng tiêu dùng khác nhau. Cho nên làm tăng số lượng nhu cầu có khả năng thanh toán sẽ là đòn bảy hữu hiệu để kích cầu, từ đó tác động tích cực đến nhiều phát triển kinh tế xã hội.
Việc mở rộng hoạt động tín dụng tiêu dùng có thể góp phần đáng kể trong chính sách kích cầu của Nhà nước, nó cũng giúp Nhà nước đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định, chẳng hạn như tăng mức sống cho dân cư, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh, tăng GDP hay tăng thu nhập bình quân đầu người...
Đối với sản xuất kinh doanh, sự phát triển của tín dụng tiêu dùng đồng nghĩa với việc tăng trưởng của cầu, tức là sức mua của người dân tăng lên, từ đó tạo nên sự sôi động cho thị trường hàng hoá tiêu dùng, tạo nguồn sống cho khu vực sản xuất trong nước, năng lực sản xuất của quốc gia sẽ được cải thiện rõ rệt, đồng thời tạo sức hút cho đầu tư nước ngoài. Cũng qua đó, Nhà nước đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội là giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giảm thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội.
1.2 Nội dung cơ bản của mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng của NHTM
1.2.1 Các khái niệm:
1.2.1.1 Mở rộng tín dụng tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là qui luật tất yếu, bất cứ một doanh nghiệp nào muốn đứng vững và phát triển trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đòi hỏi phải không ngừng mở rộng và cải thiện chất lượng các sản phẩm dịch vụ của mình nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu đặt ra của nền kinh tế. Ta có thể hiểu, mở rộng tín dụng tiêu dùng là sự đáp ứng các yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng về quy mô tín dụng tiêu dùng hay nói cách khác đó là việc làm tăng tỷ trọng tín dụng tiêu dùng trong tài sản có của các NHTM.
Mở rộng tín dụng tiêu dùng được thể hiện:
-Đối với khách hàng: Tín dụng tiêu dùng phải thoả mãn được tối đa yêu cầu hợp lý của khách hàng về khối lượng tín dụng tiêu dùng cung cấp, đa dạng hoá các hình thức và loại hình tín dụng tiêu dùng cũng như các loại dịch vụ bảo lãnh.
-Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng tiêu dùng phải đáp ứng được các yêu cầu bức xúc về vốn kinh tế, là kênh dẫn vốn gián tiếp đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc chuyển dịch một khối lượng lớn các nguồn lực tài chính, trợ giúp Ngân sách Nhà nước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
-Đối với ngân hàng thương mại: Tín dụng tiêu dùng phảI được coi là loại hình tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động tín dụng của các NHTM.
Qua đó có thể rút ra:
- Mở rộng tín dụng tiêu dùng phản ánh khả năng đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về vốn cho nền kinh tế, theo một cơ cấu hợp lý, phù hợp với tốc độ phát triển của xã hội trong từng thời kỳ, qua đó nó cho thấy sự tăng trưởng và phát triển của tín dụng tiêu dùng nói riêng và của Ngân hàng thương mại nói chung trong quá trình cạnh tranh.
- Mở rộng tín dụng tiêu dùng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan như: khả năng quản lý, trình độ cán bộ, nguồn vốn Ngân hàng... và khách quan như: sự phát triển kinh tế - xã hội, cơ chế chính sách của Nhà nước..., tốc độ phát triển của nền kinh tế, sự thay đổi cơ cấu đầu tư cũng như môi trường pháp lý đều tác động đến việc mở rộng tín dụng tiêu dùng.
- Mở rộng tín dụng tiêu dùng được xác định trên cơ sở việc thực hiện đa dạng hoá khách hàng, các loại hình dịch vụ Ngân hàng, cũng như các đối tượng cho vay. Việc xây dựng được các mức lãi suất hợp lý cũng như xác định các kỳ hạn nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng đi đôi với việc cung cấp các loại hình bảo lãnh thích hợp cũng góp phần mở rộng tín dụng tiêu dùng.
- Mở rộng tín dụng tiêu dùng là một khái niệm cụ thể, song để thực hiện được đòi hỏi chúng ta phải đánh giá một cách đầy đủ và chính xác về nó, đặt nó trong mối quan hệ tổng hợp với các chỉ tiêu tài chính khác. quá trình phân tích đánh giá mở rộng tín dụng tiêu dùng hiện tại, sẽ tạo điều kiện tìm hiểu chính xác các nguyên nhân tồn tại, vướng mắc về mở rộng tín dụng tiêu dùng, từ đó giúp Ngân hàng lựa chọn được các giải pháp thích hợp, để có thể thực hiện mở rộng tín dụng tiêu dùng trong từng thời kỳ, phù hợp với tốc độ phát triển của nền kinh tế.
1.2.1.2 Hiệu quả tín dụng tiêu dùng
Hiệu quả là một kháI niệm dùng để đánh giá tổng hợp kết quả với chi phí lao động trong một quá trình hoạt động hoặc so sánh kết quả với chi phí của các hoạt động khác nhau hoặc một hoạt động nhưng trong các giai đoạn khác nhau mà thực chất là thực hiện qui luật tiết kiệm thời gian huy động và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực xã hội như tài nguyên, khoa học và công nghệ.
Như vậy để đánh giá hiệu quả tín dụng nói chung và hiệu quả tín dụng tiêu dùng nói riêng ta phảI xem xét mối quan hệ giữa thu nhập từ hoạt động tín dụng với chi phí bỏ ra từ hoạt động đó, so sánh và đưa ra kết luận.
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng và hiệu quả tín dụng tiêu dùng
1.2.2.1 Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng tín dụng tiêu dùng
* Chỉ tiêu phản ánh về số lượng khách hàng: Nhu cầu đời sống con người càng cao, vì thế hoạt động tín dụng tiêu dùng ngày càng phát triển, người dân đến với ngân hàng nhằm phục vụ cho mục đích của mình như cải thiện cuộc sống về mặt vật chất, tinh thần, mua sắm sửa chữa nhà cửa... Càng nhiều khách hàng đến với Ngân hàng đồng nghĩa với việc uy tín, quy mô của Ngân hàng ngày càng được tăng lên. Chính điều này đã thúc đẩy Ngân hàng cần mở rộng về quy mô, cơ cấu tổ chức, chất lượng phục vụ. Một Ngân hàng không thể thực hiện mở rộng tín dụng tiêu dùng nếu số lượng khách hàng đến với Ngân hàng luôn là một số cố định. Vì vậy có thể nói trong tín dụng tiêu dùng, số lượng khách hàng tăng lên đồng nghĩa với việc tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng được mở rộng.
Có thể phản ánh sự tăng lên của số lượng khách hàng qua công thức:
- Về sự tăng trưởng tuyệt đối (1)
Giá trị tăng trưởng tuyệt đối
=
Số lượng khách hàng năm (n)
-
Số lượng khách
hàng năm (n - 1).
Về giá trị tăng trưởng tương đối:
Giá trị tăng trưởng tương đối
=
Giá trị tăng trưởng tuyệt đối (1)
Số lượng khách hàng năm (n – 1)
* Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng về doanh số cho vay tiêu dùng:
Khi nói đến hoạt động tín dụng nói chung cũng như hoạt động tín dụng tiêu dùng nói riêng, khi nói đến tăng trưởng và mở rộng, vấn đề là tổng mức cho vay trong năm là bao nhiêu. Hoạt động tín dụng tiêu dùng của một Ngân hàng sẽ k._.hông thể nói là đã được mở rộng nếu số lượng khách hàng đã tăng nhưng doanh số cho khách hàng vay lại giảm. Như vậy, Ngân hàng đã chưa thực sự phát triển và mở rộng tín dụng tiêu dùng một cách toàn diện cả về số lượng và chất lượng.
Đo lường giá trị tăng trưởng doanh số về giá trị tuyệt đối (2):
Giá trị tăng trưởng tuyệt đối
=
Doanh số cho vay năm (n)
-
Doanh số cho vay năm (n - 1)
Về giá trị tăng trưởng tương đối:
Giá trị tăng trưởng tương đối
=
Giá trị tăng trưởng tuyệt đối (2)
Doanh số cho vay năm (n - 1)
Về tỷ trọng:
Tỷ trọng
=
Doanh số từ hoạt động TDTD năm (n)
Doanh số từ hoạt động tín dụng năm (n)
* Chỉ tiêu phản ánh về dư nợ cho vay tiêu dùng:
Chỉ tiêu dư nợ cho vay được đánh giá trên ba khía cạnh sau:
Đo lường giá trị tăng trưởng dư nợ về giá trị tuyệt đối (3):
Giá trị tăng trưởng tuyệt đối
=
Tổng dư nợ TDTD
Năm (n)
-
Tổng dư nợ TDTD
năm (n - 1)
Về giá trị tăng trưởng tương đối:
Giá trị tăng trưởng tương đối
=
Giá trị tăng trưởng tuyệt đối (3)
Tổng dư nợ TDTD năm (n - 1)
Về tỷ trọng:
Tỷ trọng
=
Dư nợ từ hoạt động TDTD năm (n)
Dư nợ từ hoạt động tín dụng năm (n)
1.2.3.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng tiêu dùng
* Chỉ tiêu về lợi nhuận:
Các chỉ tiêu lợi nhuận phản ánh kết quả thu được từ hoạt động tín dụng tiêu dùng
Lợi nhuận tuyệt đối = Hiệu số giữa tổng doanh thu từ hoạt động tín dụng tiêu dùng- Tổng chi phí từ hoạt động đó
Lợi nhuận tương đối = Tỉ lệ phần trăm giữa tổng lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng tiêu dùng với tổng vốn đầu tư vào hoạt động này
Các chỉ tiêu về lợi nhuận từ hoạt động tín dụng tiêu dùng cho ta biết, hoạt động tín dụng tiêu dùng mang lại kết quả bao nhiêu và đóng góp trong kết quả kinh doanh của ngân hàng bao nhiêu. Hơn nữa, lợi nhuận tương đối còn cho ta biết 1đồng vốn đầu tư vào hoạt động này mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho ngân hàng. Chỉ tiêu về lợi nhuận cho ta cáI nhìn sơ bộ về lượng để đánh giá hiệu quả tín dụng tiêu dùng của ngân hàng.
* Hệ thống chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng:
Thể hiện ở 3nhóm chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Huy động vốn: Xuất phát từ quan điểm hiệu quả về chi phí: khi huy động được nguồn vốn lớn, lãI suất huy động thấp sẽ tạo điều kiện tăng lợi nhuận cho ngân hàng vì với một lượng thu nhập như nhau, chi phí càng thấp thì hiệu số giữa thu nhập và chi phí sẽ càng lớn. Mặt khác tốc độ tăng trưởng nguồn vốn còn thể hiện uy tín và khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Nhóm chỉ tiêu thể hiện hiệu quả nguồn vốn gồm:
+ Mức tăng trưởng nguồn vốn huy động: số liệu tăng tuyệt đối và tương đối qua số liệu báo cáo hàng năm.
+ Mức lãI suất huy động vốn bình quân
+ Tỷ lệ huy động vốn trên vốn tự có
Tăng trưởng dư nợ : Phản ánh tốc độ tăng trưởng tín dụng và khả năng mở rộng tín dụng nói chung và tín dụng tiêu dùng nói riêng. Để đánh gía được hiệu quả tín dụng ta phảI xem xét đến cơ cấu dư nợ tín dụng tiêu dùng trên tổng dư nợ qua chỉ tiêu tỉ lệ dư nợ tín dụng tiêu dùng trên tổng dư nợ.
- Doanh số cho vay tiêu dùng và doanh số thu nợ qua các năm và tỉ lệ tăng trưởng của doanh số cho vay và doanh số thu nợ.
Chỉ tiêu phân tích hiệu quả tín dụng tiêu dùng là Tỉ lệ doanh số cho vay và thu nợ tín dụng tiêu dùng trên tổng doanh số cho vay và thu nợ của ngân hàng trong kì.
* Chỉ tiêu chất lượng tín dụng:
Thể hiện hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng: được đánh giá chủ yếu thông qua chỉ tiêu nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng. và chỉ tiêu tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng thể hiện về mặt chất đánh giá hiệu quả tín dụng tiêu dùng của ngân hàng.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng.
1.2.3.1. Những nhân tố vĩ mô.
Một số nhân tố vĩ mô ảnh hưởng đến tín dụng tiêu dùng là môi trường kinh tế - xã hội, yếu tố văn hóa, môi trường pháp lý, các chính sách kinh tế của Nhà nước và sự liên hệ giữa các phần tử của hệ thống kinh tế.
* Môi trường kinh tế - xã hội mà đặc trưng của nó là trình độ phát triển kinh tế, thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người và mức sống của dân cư cùng với yếu tố kinh tế - xã hội khác. Môi trường kinh tế thể hiện thông qua những biến số kinh tế như thu nhập quốc dân(GDP), tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân, mức thu nhập bình quân đầu người và tốc độ tăng, tỷ lệ thất nghiệp. Chính môi trường kinh tế - xã hội này có những tác động đáng kể đến tín dụng tiêu dùng.
* Môi trường văn hóa thể hiện ở những tập quán xã hội, bản sắc dân tộc, tâm lý tiêu dùng giữa các vùng và văn hoá cộng đồng.Môi trường văn hóa có những tác động đáng kể đến tín dụng tiêu dùng, đặc biệt là quyết định của người tiêu dùng. Quyết định vay tiêu dùng của dân cư phụ thuộc vào các yếu tố như: thói quen tâm lý, trình độ dân trí, bản sắc dân tộc (thể hiện qua các nét tính cách tiêu biểu của người dân như tính cần cù, ham lao động và tằn tiện hay là ưa thích hưởng thụ...).
* Môi trường pháp lý : Tất cả mọi hoạt động của các cá nhân và tổ chức đều bị chi phối bởi pháp luật của quốc gia nơi diễn ra hoạt động đó. Đây là một nhân tố có tác động sâu sắc đến tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng. Môi trường pháp lý tác động đến tính trật tự, tính ổn định và tạo điều kiện để hoạt động tín dụng tiêu dùng được diễn ra thông suốt, phát triển vững chắc, hạn chế những rắc rối có thể nảy sinh tổn hại đến lợi ích của các bên tham gia quan hệ tín dụng và thậm chí còn tổn hại đến lợi ích quốc gia. ở nhiều nước, đặc biệt là nước phát triển đã có luật tín dụng tiêu dùng, tại các nước này, hoạt động tín dụng tiêu dùng rất phát triển. Đầy đủ, cụ thể, kín kẽ, hợp lý khi lập pháp cũng như nghiêm minh trong hành pháp, tư pháp, giảm các quy định rườm rà không cần thiết sẽ tạo nền tảng thuận lợi cho việc phát triển tín dụng tiêu dùng. Ngược lại, một môi trường pháp lý kém, các quy định chồng chéo, chung chung tạo điều kiện cho tiêu cực phát triển,kìm hãm sự phát triển.
* Các chính sách của Nhà nước: Trước hết là các chính sách và chương trình kinh tế. Nếu Nhà nước tăng đầu tư hay đưa ra các chính sách, biện pháp thông thoáng để khuyến khích đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài như hạ trần lãi suất cho vay, giảm các thủ tục rườm rà cho các nhà đầu tư, giảm thuế cho những công ty mới thành lập... Một mặt mục tiêu phát triển kinh tế, tăng GDP; mặt khác làm giảm thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, tăng khả năng tài chính và do đó tăng mức sống cho người dân. Đây rõ ràng là một tiền đề thuận lợi để phát triển tín dụng tiêu dùng. Ngoài ra, các chính sách, chương trình kinh tế như chính sách thuế thu nhập chính sách ưu đãi lãi suất, đối với hộ nghèo vay vốn, tín dụng tín chấp nông dân, chương trình phát triển kinh tế vùng sâu vùng xa... với mục tiêu xoá đói giảm nghèo và công bằng xã hội, tạo sự phát triển cân đối giữa khu vực thị thành và nông thôn, giữa các vùng kinh tế; vừa có ý nghĩa rút ngắn khoảng cách giầu nghèo, vừa là điều kiện để nâng cao mặt bằng dân trí. Những yếu tố này, trước mắt và lâu dài, đều ảnh hưởng đến mức cầu về tín dụng tiêu dùng.
* Trình độ dân trí: Cũng có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của hoạt động tín dụng tiêu dùng. Những người có trình độ học vấn cao đều coi vay mượn để tiêu dùng là một công cụ để đạt được mức sống như mong muốn hơn là chỉ dùng trong trường hợp khẩn cấp. Vì vậy,một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, nâng cao trình độ dân trí như hợp lý hoá chương trình học tập ở các cấp, loại bỏ các môn không cần thiết và bổ sung các môn cần thiết, mở rộng và phát triển các thư viện, phòng đọc sách báo tại các khu dân cư,... sẽ làm cho người dân nhanh chóng tiếp cận và hoà chung với cái mới, xu thế mới.
1.2.3.2. Những nhân tố vi mô.
Đó là các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng tiêu dùng trong phạm vi Ngân hàng bao gồm các nhân tố khách quan đến từ phía khách hàng như là đạo đức của người vay, khả năng tài chính của khách hàng, tài sản đảm bảo và những nhân tố chủ quan từ phía Ngân hàng như là chất lượng cán bộ tín dụng, kỹ thuật và thủ tục thẩm định.
* Các nhân tố khách quan đến từ phía khách hàng:
+ Đạo đức của người vay:
Khách hàng vay tiêu dùng của ngân hàng là các cá nhân và hộ gia đình có nhu cầu rất đa dạng, tư các nhu cầu thiết yếu đến các nhu cầu cao cấp. Trong nhóm nhân tố khách quan này, trước hết phải kể đến đạo đức của người vay, được đánh gía dựa trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm. Đây được coi là yếu tố tiên quyết tác động đến hành vi trả nợ. Vì rằng, ngay cả khi người vay thực sự có thu nhập khả quan để trả nợ, thậm chí đưa ra những tài sản đảm bảo tốt nhưng đạo đức được xem là không tốt thì cũng không hứa hẹn một thái độ thiện chí khi thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Điều lưu ý ở đây là đạo đức của khách hàng trong lĩnh vực tín dụng Ngân hàng, tức là ngoài các đức tính tốt của khách hàng thì Ngân hàng có quan tâm tới sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng, ý muốn kiên quyết của khách hàng trong việc thực hiện tất cả các giao ước trong hợp đồng tín dụng.
Năng lực pháp lý là những năng lực được quy định cụ thể về mặt pháp lý mà người vay cần phải có. Đây là cơ sở để hình thành nghĩa vụ trả nợ của khách hàng trong quan hệ tín dụng. Độ tín nhiệm là một yếu tố khó đong đếm, liên quan đến sự sẵn lòng và quyết tâm trả nợ. Độ tín nhiệm được xây dựng trên cơ sở tính thật thà, liêm chính của con người, được phản ánh khá rõ trong hồ sơ quá khứ của cá nhân xin vay.
+ Khả năng tài chính của người vay:
Khả năng tài chính của khách hàng là nhân tố có ảnh hưởng rất quan trọng đến hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng nói riêng. Phần lớn các khoản tín dụng tiêu dùng được quy định nguồn hoàn trả là thu nhập thường xuyên của khách hàng trong tương lai, ngoại trừ tín dụng ngắn hạn. Khách hàng có thu nhập càng cao, việc thanh toán nợ Ngân hàng càng ít ảnh hưởng đến các chi tiết khác, đặc biệt các chi tiêu thông thường hay thiết yếu của gia đình người vay, và ít ảnh hưởng tới tình hình tài chính của gia đình, thì khoản tín dụng tiêu dùng càng trở lên an toàn hơn. khi cho vay tiêu dùng, việc quyết định mức cho vay nhất thiết phải căn cứ trên các nguồn hoàn trả của khách hàng, nó tổng quát hơn là tình hình tài chính của khách hàng.
+ Tài sản đảm bảo tín dụng :
Tài sản đảm bảo tín dụng là những cơ sở pháp lý để có thêm một nguồn thu nợ thứ hai ngoài nguồn thu nợ thứ nhất, mang tính dự phòng rủi ro, do vậy nó cũng góp phần làm tăng mức độ an toàn cho khoản tín dụng của Ngân hàng, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Tuy tài sản đảm bảo tín dụng là một trong những tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhưng không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất, không phải là yếu tố quyết định trong việc vay.
* Các nhân tố chủ quan.
Đây là nhóm nhân tố phụ thuộc vào chính bản thân ngân hàng. Do đó nó sẽ là những nhân tố ngân hàng có thể chi phối được. Nếu ngân hàng có một chính sách chiến lược tổng thể và lâu dài cho hoạt động cho vay tiêu dùng thì hoạt động này sẽ có điều kiện để phát triển và ngày một hoàn thiện hơn.
* Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng chính là mức giới hạn cho vay đối với một khách hàng, lãi suất cho vay và mức phí, tài sản đảm bảo và hướng giải quyết những khoản nợ khó đòi. Do đó một chính sách tín dụng phù hợp và đa dạng sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến xin vay, và khi nó đáp ứng được mong muốn nhu cầu của người tiêu dùng thì chắc chắn ngân hàng sẽ thành công trong việc mở rộng cho vay tiêu dùng. Ngược lại với chính sách tín dụng cứng nhắc kém linh hoạt thi sẽ hạn chế việc đi vay giảm tính canh tranh trong hoạt động giữa các ngân hàng.
*Quá trình thẩm định khách hàng
Quá trình này là rất quan trọng đối với việc xem xét có cho khách hàng vay hay không, nhưng chính nó cũng là rào cản nếu nó quá phức tạp và rườm rà. Nó làm người di vay nản lòng trong khi quá trình này làm họ mất nhiều thời gian và công sức. Và để hạn chế được điều này thì việc thẩm định phải dựa trên các thủ tục cơ sở khoa học hợp lý và song song với nó thì việc thực hiện phải nghiêm chỉnh, nó là yếu tố quyết định chất lượng thẩm định và chất lượng khoản tín dụng . Ngoài ra vốn huy động và vốn tự có giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình, nó cũng thể hiện phần nào độ tin cậy và khả năng sức mạnh của ngân hàng đó.
* Thông tin tín dụng
Bản chất của ngân hàng là đi vay và cho vay, mà hoạt động cho vay lại phụ thuộc vào lòng tin của ngân hàng với khách hàng đó: họ có tình hình tài chính ra sao, có thể hoàn trả lãi và gốc trong khoảng thời gian nào. Mà để ra quyết định có cho vay hay không thì ngân hàng phải có được nhưng thông tin có thể tin cậy được nói khác đi đó chính là chất lượng thông tin tín dụng. Ví dụ: tư cách, uy tín, năng lực quản lý, tình hình xã hội, xu hướng phát triển kinh tế... Và việc yêu cầu của thông tin tín dụng đó phải chính xác, kịp thời và đầy đủ, vì mọi thông tin chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian xác định và một số ngân hàng do không nắm bắt được thông tin kịp thời nên đã không đáp ứng được nhu cầu về vốn cho khách hàng, hạn chế việc mở rộng cho vay tiêu dùng.
* Chất lượng cán bộ tín dụng
Chất lượng cán bộ tín dụng thể hiện qua trình độ nghiệp vụ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, cũng như khả năng giao tiếp của cán bộ tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn giỏi mà không có đạo đức nghề nghiệp thì lợi ích của ngân hàng sẽ bị tổn hại nhiều hơn là ích lợi mà họ mang lại. Nhưng bên cạnh đó, cán bộ tín dụng nhất thiết cần phải có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết sâu rộng, có như vậy thì việc thẩm định khách hàng mới chính xác, từ đó đưa ra quyết định mới đúng đắn, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Do khách hàng là người tiếp xúc trực tiếp với cán bộ tín dụng nên theo họ thì cán bộ tín dụng sẽ chính là bộ mặt của ngân hàng. Sự thân thiện và cởi mở đúng mực sẽ làm cho khách hàng hài lòng và tin tưởng hơn vào ngân hàng và từ đó dễ trở thành khách hàng quen thuộc của ngân hàng.
* Cơ sở vật chất thiết bị
Cơ sở vật chất thiết bị cũng ảnh hưởng lớn đến việc thu hút khách hàng. Việc trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, phù hợp đáp ứng được nhu cầu của khách hàng sẽ giúp ngân hàng gia tăng khả năng cạnh tranh, thu hút được nhiều khách hàng hơn. Mặt khác việc áp dụng các công nghệ tiên tiến giúp hoạt động của ngân hàng diễn ra chính xác và trôi chảy hơn rất nhiều.
1.3 Kinh nghiệm phát triển tín dụng tiêu dùng của một số ngân hàng trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho các NHTM Việt Nam
1.3.1 Kinh nghiệm phát triển tín dụng tiêu dùng của Trung Quốc
Tín dụng tiêu dùng là một trong những mảng hoạt động dịch vụ ngân hàng được hầu hết các ngân hàng thương mại trên thế giới phát triển vì thông qua nghiệp vụ này các NHTM đa dạng hoá kinh doanh để vừa tăng thu nhập, giảm thiểu rủi ro, đáp ứng nhu cầu tín dụng ngày càng tăng lên.
ở Trung Quốc sức ép cạnh tranh đối với các Ngân hàng thương mại Trung Quốc gia tăng sau khi nước này chính thức gia nhập WTO vào cuối năm 2001. Theo các nhà phân tích, tương lai của các Ngân hàng Trung Quốc phụ thuộc vào việc xây dựng một mô hình kinh doanh thực sự và mang tính thương mại cao. Cơ hội tốt nhất để các Ngân hàng Trung Quốc có thể thành công là phát triển lĩnh vực tín dụng tiêu dùng.
Thực tế, các điều kiện để phát triển tín dụng tiêu dùng của Trung Quốc đã chín muồi. Thu nhập quốc nội đầu người Trung Quốc đạt 800 USD/ nằm ở nhu cầu nhà ở tư nhân dự kiến tăng trong tương lai. Tiêu dùng ô tô cũng sẽ tăng sau khi Trung Quốc xóa bỏ những thuế quan quan trọng phù hợp với các tiêu chuẩn của WTO. Về mặt kỹ thuật, công nghệ xử lý số liệu đã được sử dụng rộng rãi và có thể hỗ trợ cho việc xây dựng một hệ thống báo cáo tín dụng quốc gia. Mặc dù các Ngân hàng đã quan tâm đến tín dụng tiêu dùng, nhưng đây vẫn là "mảnh đất" chưa được khai phá mạnh ở Trung Quốc.
* Sự phát triển tín dụng tiêu dùng ở Trung Quốc.
Các khoản tín dụng tiêu dùng được bắt đầu ở Trung Quốc vào giữa những năm 1980 và đã phát triển nhanh kể từ năm 1998. Vào năm 1998, Chính phủ bắt đầu thực hiện một chính sách tài chính chủ động và chính sách tiền tệ nới lỏng vừa phải để thúc đẩy nhu cầu trong nước và khuyến khích phát triển các khoản tín dụng tiêu dùng, bao gồm các khoản cho vay mua nhà ở cho vay sinh viên.
Phù hợp với sự khuyến khích của Chính phủ, NHTW Trung Quốc đã ban hành những quy địnhh cụ thể về các khoản tín dụng tiêu dùng. Kể từ năm 1998, Ngân hàng đã ban hành 18 văn bản chính sách để phát triển các khoản tín dụng tiêu dùng.
Với những rào cản đã được dỡ bỏ và điều kiện bên ngoài chín muồi, các khoản tín dụng tiêu dùng đã phát triển với tốc độ rất nhanh. Vào cuối năm 1997, các khoản tín dụng tiêu dùng của Trung Quốc đạt 17,2 tỷ NDT (2,007 tỷ USD), chiếm 0,3% tổng dư nợ tín dụng của cả hệ thống Ngân hàng. Số lượng các khoản tín dụng tiêu dùng lên tới 646,4 tỷ NDT (77,88 tỷ USD) vào tháng 10/2001 - gấp 38 lần con số của năm 1997 . Tỷ trọng tín dụng tiêu dùng cũng tăng lên tới 6% trong tổng dư nợ tín dụng của hệ thống Ngân hàng.
Nhưng so với các nước phát triển, dịch vụ tín dụng tiêu dùng của Trung Quốc vẫn còn thấp. ở Mỹ và châu Âu, các khoản tín dụng tiêu dùng thường chiếm từ 20-40% tổng số dư nợ của hệ thống Ngân hàng, có trường hợp tỷ lệ này lên tới 60%. Các khoản tín dụng tiêu dùng cũng đã trở thành nguồn thu nhập chính của các Ngân hàng ở các nước này, 44% thu nhập của Ngân hàng Citibank ở Mỹ trong năm 2000 là từ các khoản tín dụng tiêu dùng.
Tại Trung Quốc, các khoản tín dụng tiêu dùng cũng đã được sử dụng ngày càng nhiều để mua hàng hoá, trong đó chủ yếu là để mua nhà ở, 5 năm qua, trong chương trình mở rộng chi tiêu để chống lạm phát, Chính phủ Trung Quốc đã đầu tư khá nhiều vào việc phát triển nhà ở tại các đô thị. Đồng thời, do thu nhập của người dân tăng lên và hàng triệu người có nhu cầu mua nhà ở, nên các khoản cho vay mua nhà ở trả chậm chiếm tới 90% tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng ở Trung Quốc đã đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 30%/năm. vào tháng 10/2001, số dư của các khoản cho vay mua nhà ở tại Trung Quốc là 511,8 tỷ NDT (1,66 tỷ USD). Theo ước tính, với tốc độ tăng trưởng Trung Quốc sẽ đạt 1,6 tỷ NDT. Giả sử, mức chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay mua nhà trả chậm vẫn được duy trì như hiện nay thì các Ngân hàng có thể thu lợi khoảng 100 triệu NDT mỗi năm. Đây là một lĩnh vực kinh doanh khá lớn, tự do và ít chịu những tác động chính trị, là một trong những lĩnh vực mà các Ngân hàng Trung Quốc có thể dựa vào để bắt đầu xây dựng mô hình kinh doanh thực sự cho 5 năm tới.
Các khoản cho vay sinh viên chiếm vị trí thứ hai trong các loại hình tín dụng tiêu dùng. Vào tháng 9/2001, dư nợ 4,03 tỷ NDT (485,5 tỷ USD) các khoản cho vay sinh viên đã được cấp cho 1,074 triệu sinh viên tốt nghiệp. Bên cạnh đó, các khoản tín dụng tiêu dùng cũng được sử dụng để mua ô tô và nhiều vật dụng khác trong nhà.
Cho vay mua nhà trả chậm sẽ được ưu tiên hơn vì chúng ít rủi ro hơn so với các hình thức khác của tín dụng tiêu dùng. Các NHTM đang được khuyến khích cấp các khoản vay cho các gia đình có mức thu nhập trung bình và thu nhập thấp. NHTW cũng yêu cầu các NHTM phải cải thiện dịch vụ của họ bằng cách củng cố công tác quản lý nội bộ và cải thiện dịch vụ khách hàng.
Do ngày càng có nhiều Ngân hàng cung cấp dịch vụ này nên số lượng các công cụ tài chính được sử dụng ngày càng tăng, như thế chấp bằng trái phiếu kho bạc, thư tiền gửi hay các thẻ tín dụng.
* Những khó khăn trong việc phát triển tín dụng tiêu dùng ở Trung Quốc.
Sự phát triển tín dụng tiêu dùng ở Trung Quốc đang gặp phải 5 khó khăn lớn:
Thứ nhất: là thu nhập không ổn định. Sự giảm sút trong thu nhập của những người nông dân và một bộ phận dân thành thị trong những năm gần đây đã làm giảm kỳ vọng của họ vào thu nhập trong tương lai, do đó tác động tiêu cực đến sự phát triển của lĩnh vực tín dụng tiêu dùng.
Thứ hai: cho đến nay, Trung Quốc chưa thành lập hệ thống tín dụng cá nhân,
chưa có các hệ thống xác nhận chứng minh của người dân, hệ thống đánh giá tài khoản cá nhân, nguồn thu nhập, tài sản cá nhân cũng như tình trạng tín dụng trong quá khứ. Ngoài ra, Trung Quốc chưa có hệ thống đăng ký tài sản gia đình.
Thứ ba: hệ thống bảo hiểm thương mại chưa tham gia vào lĩnh vực tín dụng tiêu dùng.
Thứ tư: các chính sách, qui định liên quan đến tín dụng tiêu dùng chưa hoàn thiện. Ví dụ, những quy định hiện hành về bảo lãnh chưa có đủ các điều khoản liên quan đến tín dụng tiêu dùng, gây khó khăn cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn cách thức bảo lãnh khi muốn vay một khoản tín dụng tiêu dùng. Sự phát triển chậm của thị trường bất động sản thứ cấp và phí đăng ký quá cao cũng cản trở người tiêu dùng. Ngoài ra, việc bán các quyền tài sản đối với những ngôi nhà đã được dùng làm tài sản thế chấp cũng rất khó khăn. Bên cạnh đó, thuế và phí đối với ô tô cũng rất cao, ở một chừng mực nào đó đã hạn chế nhu cầu tín dụng tiêu dùng.
Thứ năm: cấu trúc tài sản của các Ngân hàng vẫn chưa hợp lý. Thời hạn của các khoản cho vay mua nhà thường trên 10 năm, thậm chí tới 30 năm, trong khi nguồn vốn của các Ngân hàng chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn hoặc kỳ hạn lớn nhất cũng là 5 năm.
* Các chính sách cần tăng cường.
Để phát triển tín dụng tiêu dùng, NHTW Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng cường xây dựng các hệ thống thích hợp và các chính sách hỗ trợ. NHTW sẽ thúc đẩy việc xây dựng hệ thống này trong toàn hệ thống tài chính ở Trung Quốc và sẽ sớm đưa ra việc phát hành trái phiếu. Trên cơ sở này, những NHTM có đủ tiêu chuẩn sẽ được phép phát hành trái phiếu nhà ở để mở rộng tín dụng mua nhà trả chậm đồng thời hạ thấp rủi ro khả năng thanh toán của các Ngân hàng.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần phải tiến hành các biện pháp để tăng thu nhập cho người dân, đặc biệt là nông dân, phát triển cơ sở hạ tầng để giảm giá điện và giá dịch vụ viễn thông.
1.3.2 Bài học kinh nghiệm cho các NHTM Việt Nam
Qua những kinh nghiệm trên của Trung Quốc thì Việt Nam đã rút ra được bài học rất quý báu, áp dụng vào thực tế đối với môi trường kinh tế xã hội của Việt Nam để từ đó mở rộng cho vay tiêu dùng có hiệu quả, tăng tỷ trọng cho ngành ngân hàng nói riêng và cho nền kinh tế đất nước nói chung. Đó là:
Thứ nhất: Về điều kiện vay:
Các NHTM Việt Nam nên đặt ra các điều kiện vay thông thoáng hơn để mở rộng đối tượng khách hàng được vay. Việc mở rộng điều kiện vay vốn theo hướng đáp ứng phong phú đa dạng các nhu cầu vay tín dụng của khách hàng miễn là khách hàng chứng minh được khả năng tài chính để trả nợ.
Thứ hai: Về xác định lãi suất cho vay
Hiện nay các lãI suất cho vay tiêu dùng của các NHTM Việt Nam đều là cố định, thống nhất trong suốt thời hạn có hiệu lực của hợp đồng đối với mọi người. Học tập kinh nghiệm của các NHTM Trung Quốc, các NHTM Việt Nam có thể nghiên cứu áp dụng tính điểm tín dụng khách hàng để đưa ra mức lãI suất phù hợp với từng khách hàng, từ đó sẽ lựa chọn được những khách hàng tốt và giảm thiểu rủi ro cho Ngân hàng.
Thứ ba: Để hoạt động tín dụng tiêu dùng đạt hiệu quả cao hơn nữa thì Chính Phủ Việt Nam, NHNN cần hoàn thiện các văn bản pháp quy, cố gắng đưa ra hệ thống pháp lý đầy đủ, thông thoáng về hoạt động tín dụng tiêu dùng một cách sớm nhất để nó hoạt động có hiệu quả, tránh được những rủi ro không đáng có.
Tóm lại:Chương 1 đã nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động tín dụng tiêu dùng, mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng ở các Ngân hàng thương mại. Chúng ta đã thấy được hoạt động tín dụng tiêu dùng là một trong những hoạt động quan trọng của các Ngân hàng thương mại, nhất là trong điều kiện hiện nay, mức sống của người dân ngày một tăng lên, xu hướng hiện đại hoá hoạt động ngân hàng và chủ trương đa dạng hoá hoạt động của các ngân hàng để khẳng định vị thế trong môI trường cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt. Chúng ta cũng được tìm hiểu các chỉ tiêu đo lường mức độ mở rộng và nâng cao hiệu quả trong hoạt động tín dụng tiêu dùng của ngân hàng và biết đến những kinh nghiệm vô cùng chân thực và quí báu của các Ngân hàng thương mại Trung Quốc trong quá trình phát triển hoạt động tín dụng tiêu dùng của mình để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm đối với việc phát triển hoạt động này tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Vấn đề đặt ra tiếp theo sẽ là đI nghiên cứu thực trạng phát triển hoạt động tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm.
CHương ii: Thực trạng mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng công thương Việt Nam chi nhánh Hoàn kiếm
2.1 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Công thương chi nhánh Hoàn Kiếm
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng công thương Chi nhánh Hoàn kiếm
Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm được thành lập từ năm 1985 dưới tên Ngân hàng kinh tế quận Hoàn Kiếm.
Năm 1988 trở thành chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm trực thuộc Ngân hàng Công Thương Hà Nội và chịu sự quản lí của Ngân hàng Công Thương Việt Nam
Năm 1993 Ngân hàng Công Thương Hà Nội giải thể, chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm trực thuộc Ngân Hàng Công Thương Việt Nam và chịu sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm
GĐ.
Hà Huy Hùng
PGĐ.
Lê Tuyết Mai
PGĐ.
Phạm Thị Mai
PGĐ.
Phạm Vân Như
PGĐ.
Nguyễn T. Thanh Nga Thanh
Phòng Tổ chức - Hành chính
Phòng Giao dịch Hồ Gươm
Phòng Kế toán
Phòng Khách hàng lớn
Phòng Tài trợ thương mại
Phòng Giao dịch Đồng Xuân
Phòng Quản lý nợ có vấn đề
Phòng Tổng hợp tiếp thị
Phòng Khách hàng cá nhân
Phòng Thanh toán XNK
Phòng Kiểm tra nội bộ
Phòng Thông tin điện toán
Phòng Khách hàng DNVVN
Phòng Tiền tệ kho quỹ
Phòng Quản lý rủi ro
2.1.3. Chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban
* Phòng Khách hàng doanh nghiệp lớn: là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các Doanh nghiệp lớn, để khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ. Thực hiện các nghiệp vụ liên quan dến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT VN. Trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phảm dịch vụ Ngân hàng cho các Doanh nghiệp lớn.
* Phòng Khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ: là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, để khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ. Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT VN. Trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
* Phòng khách hàng cá nhân: là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân, để khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ. Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT VN. Trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các khách hàng cá nhân.
* Phòng Quản lý rủi ro: có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc chi nhánh về công tác quản lý rủi ro của chi nhánh; Quản lý giám sát thực hiện danh mục cho vay, đầu tư đảm bảo tuân thủ các giới hạn tín dụng cho từng khách hàng. Thẩm định hoặc tái thẩm định khách hàng, dự án, phương án đề nghị cấp tín dụng. Thực hiện chức năng đánh giá, quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động ngân hàng theo chỉ đạo của NHCT Việt Nam.
* Phòng Kế toán tài chính: là phòng nghiệp vụ tham mưu cho Ban giám đốc thực hiện các nghiệp vụ và các công việc liên quan đến công tác quản lý tài chính, chi tiêu nội bộ tại chi nhánh, theo đúng quy định của Nhà nước và NHCT Việt Nam.
* Phòng Kế toán giao dịch: là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng; Cung cấp các dịch vụ ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ thanh toán, xử lý hạnh toán các giao dịch. Quản lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch trên máy, quản lý quỹ tiền mặt đến từng giao dịch viên theo đúng quy định của Nhà nước và của NHCT Việt Nam. Thực hiện nhiêm vụ tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản phẩm ngân hàng.
* Phòng Thanh toán xuất nhập khẩu: là phòng nghiệp vụ tổ chức thực hiện nghiệp vụ về thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh theo quy định của NHCT Việt Nam.
* Phòng Tiền tệ kho quỹ: là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của NHNN và NHCT Việt Nam. ứng và thu tiền cho các Quỹ tiết kiệm, các Điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các Doanh nghiệp có thu, chi tiền mặt lớn.
* Phòng Thông tin điện toán: thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại chi nhánh. Bảo trì bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy tính của chi nhánh.
* Phòng tổ chức hành chính: là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại Chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định của NHCT Việt Nam. Thực hiện công tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh, thực hiện công tác bảo vệ, an ninh, an toàn chi nhánh.
* Phòng Tổng hợp: là phòng nghiệp vụ tham mưu cho Giám đốc Chi nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của chi nhánh.
* Phòng Quản lý nợ có vấn đề: chịu trách nhiệm về quản lý, xử lý nợ xấu, nợ đã xử lý rủi ro, nợ được Chính phủ xử lý; là đầu mối khai thác và xử lý tài sản đảm bảo tiền vay theo quy định của Nhà nước nhằm thu hồi nợ xấu.
* Phòng Giao dịch Đồng Xuân: phòng bao gồm: bộ phận cho vay, bộ phận kế toán, bộ phận quỹ. Nhiệm vụ của phòng này là thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, nhận tiền gửi, thanh toán.
2.1.4 Khái quát hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương chi nhánh Hoàn Kiếm
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm thực hiện kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ Ngân hàng theo phân cấp của Ngân hàng Công thương Việt Nam
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là huy động vốn để cho vay. Hiện nay nhờ việc hiện đại hoá mô hình Chi nhánh, mô hình tổ chức kinh doanh, các khoản thu của Ngân hàng không chỉ có lãi từ cho vay tín dụng, tài trợ thương mại, đầu tư chứng khoán…, và các khoản phí từ cung cấp các dịch vụ Ngân hàng như: Uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, mở L/C…. Đồng thời với các trang thiết bị hiện đại, địa._.sách sản phẩm, chính sách giá cả ưu việt thì khách hàng sẽ đến với Ngân hàng đông hơn.
Như vậy hạn chế trong cho vay tiêu dùng của NHCT Hoàn Kiếm xuất phát từ nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan. Cán bộ lãnh đạo cần tìm cách khắc phục cả 2 yếu tố trên để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng cũng như tiện ích cho khách hàng.
Tóm lại: Chương 2 dựa trên những số liệu thực tế và cụ thể về hoạt động tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã đưa ra những phân tích tổng quan về tình hình hoạt động tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh thể hiện ở khách hàng và đối tượng vay tiêu dùng, doanh số cho vay tiêu dùng và dư nợ tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh. Hơn nữa, dựa trên các chỉ tiêu mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng đã đưa ra ở chương 1, chương 2 đã tiến hành đánh giá thực trạng mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tại chi nhánh thời gian qua. Mặc dù đã thu được những kết quả rất đáng khích lệ nhưng còn tồn tại nhiều hạn chế làm giảm khả năng phát triển hoạt động tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh.
Do vậy, trên cơ sở đó, chương 3 dưới đây sẽ đề ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và củng cố những thành tựu trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm.
Chương iii: Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại ngân hàng công thương
chi nhánh hoàn kiếm
3.1 Định hướng mở rộng tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm
3.1.1 Định hướng hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm
Với sự chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn hội nhập toàn cầu của nền kinh tế, giai đoạn mở cửa thị trường tài chính Ngân hàng. Ngân hàng Thương Mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng Công Thương Việt nam nói riêng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, sự cạnh tranh gay gắt hơn. Quán triệt chỉ đạo của NHCT VN theo định hướng:
+Tăng trưởng mạnh về nguồn vốn, đầu tư cho vay trên nguyên tắc an toàn, hiệu quả, bền vững
+Hoàn thiện và phát triển bộ máy, mạng lưới kinh doanh, phát triển thị trường và phát triển khách hàng
+Đảm bảo an ninh tài chính, an toàn tuyệt đối trong hoạt động của NHCT
+Thực hiện cải cách hành chính, phong cách giao dịch, xây dựng văn hóa doanh nghiệp, thương hiệu của NHCT, tạo ra môi rường kinh doanh tốt, đem lại lợi ích cho NHCT cũng như lợi ích của khách hàng,…
Chi nhánh Hoàn Kiếm đã có xây dựng chương trình hành động, cụ thể:
- Chú trọng tiếp thị và mở rộng mạng lưới khách hàng.
- Tích cực tăng trưởng tín dụng, phát triển dư nợ mới, khách hàng mới đảm bảo chất lượng an toàn, hiệu quả, bền vững. Nghiên cứu và triển khai thực hiện các giải pháp mạnh để khai thác và mở rộng, đa dạng hoá đội ngũ khách hàng hướng tới đối tượng là các DNNVV, khách hàng tư nhân, tăng trưởng cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
- Đẩy mạnh khai thác tăng trưởng nguồn vốn.
- Gắn kết và nâng cao công tác phát triển dịch vụ Ngân hàng.
- Thành lập các tổ nghiên cứu áp dụng từng loại sản phẩm dịch vụ.
- Phát huy phong trào tự nâng cao kiến thức, phát huy tinh thần tập thể.
- Tăng cường công tác quản trị và điều hành.
3.1.2 Định hướng mở rộng tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm thời gian tới
Trong những năm vừa qua, hoạt động tín dụng tiêu dùng đã đem lại cho Ngân hàng một nguồn thu lớn. Để triển khai thực hiện tốt và việc mở rộng hoạt động tín dụng tiêu dùng có hiệu quả trong những năm tới, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã đưa ra những định hướng, phương hướng hoàn thiện, cụ thể:
Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ tín dụng tiêu dùng đến tận các cơ quan, đơn vị kinh tế trong địa bàn, gửi tờ rơi, thông báo cho người dân, tuyên truyền trên đài phát thanh của thị xã để cho người dân có nhu cầu hiểu rõ, tìm đến với Ngân hàng và thực hiện các thủ tục vay, nợ đúng hạn.
Trong thời gian tới, Ngân hàng sẽ nỗ lực thực hiện công tác cho vay theo hình thức tổ nhóm, đến từng cơ quan, đơn vị để vận động và phổ biến cho khách hàng hiểu rõ hơn về phương thức cho vay phục vụ đời sống và tổ chức cho vay theo từng cơ quan, đơn vị với hình thức giải ngân trực tiếp đến từng hộ vay, thu nợ tập trung tại cơ quan đơn vị.
Thực hiện mở rộng cho vay tiêu dùng không chỉ tập trung trong địa bàn, mà còn cho vay đối với các dự án ở địa bàn khác.
3.2 Một số giảI pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm
3.2.1 Cần xây dựng một chiến lược mở rộng tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh
Chiến lược chính là mục tiêu dài hạn, mà ở đó mỗi ngân hàng lựa chọn con đường của mình phù hợp với nguồn lực sẵn có để đạt được một mục tiêu nào đó. Trong môi trường cạnh tranh ngày một gay gắt như hiện nay thì để chiến thắng và tồn tại thì việc vạch ra một mục tiêu dài hạn là vô cùng cần thiết nó sẽ đưa ra chiến lược kinh doanh hiệu quả hơn. Do đó để mở rộng cho vay tiêu dùng trong những năm tới chi nhánh cần phải có chính sách cụ thể về cho vay tiêu dùng sao cho chính sách này vừa hợp với nhu cầu thực tế vừa phù hợp với điều kiện của riêng ngân hàng. Các chính sách cụ thể này phải chú ý đến một số đặc điểm sau.
Cần mở rộng nhiều hơn nữa các loại hình sản phẩm dịch vu cho vay tiêu dùng, trong đó các loại sản phẩm cần trở nên phong phú không nên chỉ dừng lại ở các sản phẩm như: cho vay mua nhà, mua xe hay là vật dụng trong gia đình mà nên mở rộng ra các sản phẩm khác nữa như cho vay du học hay để xuất khẩu lao động… Bên cạnh đó ngân hàng cũng nên mở rộng đối tượng cho vay cho những người có thu nhập ổn định như cán bộ công nhân viên. Đây là thị trường rất lớn và đầy tiềm năng, họ cũng có nhu cầu rât lớn về thoả mãn nhu cầu tiêu dùng nên cần phải khuyến khích ngân hàng mở rộng đối với thị trường này. Ngân hàng có thể gửi giấy thông báo đến các cơ quan tổ chức này nhằm vừa quảng cáo cho hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng và vừa có tác dụng giới thiệu các loại sản phẩm và dịch vụ khác đến mọi người. Đi cùng với thông báo thì ngân hàng nên có những qui định chi tiết và cụ thể để mọi người có thể nhận biết và thực hiện như: đối tượng vay vốn, điều kiện vay vốn, thủ tục sồ sơ vay vốn, lãi suất… Do ngân hàng cũng có nhiều mối quan hệ với các công ty lớn nên mối quan hệ tín dụng giữa công ty và chi nhánh cũng tương đối nhiều do đó có thể giảm thiểu được rủi ro khi ngân hàng thiết lập quan hệ cho vay tiêu dung với khách hàng là nhân viên của các cơ quan này.Ngoài ra đây cũng là cơ sở để ngân hàng có thể huy động thêm tiền gửi của dân cư.
Cũng do những đối tượng này không có tài sản đảm bảo nên số tiền mà ngân hàng cho các đối tượng này vay cũng không lớn vì nếu không trả được thì ngân hàng không có bất cứ tài sản nào để xử lý. Để giải quyết khó khăn này thì ngân hàng nên xem xét phát triển cho vay thông qua người đại diện. Giải pháp này được đưa ra trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi mỗi bên ( ngân hàng, người đại diện, người vay) cũng như có dự phối hợp chặt chẽ giữa các bên trong quá trình thẩm định, giải ngân và thu nợ. Để làm được việc đó thì ngân hàng nên có các chính sách ưu đãi đối với người đại diện, từ đó tiết kiệm được thời gian chi phí cho vay và thu hồi nợ, hạn chế rủi ro.
Đây là phương thức cho vay có hiệu quả do đó chi nhánh cần phải mở rộng chính sách cho vay tiêu dùng. Và việc ngân hàng đưa ra một lãi suất hợp lý và phù hợp cũng là vấn đề có ý nghĩa cho việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng. Nó sẽ vừa thoản mãn nhu cầu của một số lượng lớn các cán bộ công nhân viên và vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
3.2.2 Đẩy mạnh hoạt động Maketing ngân hàng
Việc làm cho người dân hiểu biết về Ngân hàng và những lợi ích mà Ngân hàng mang lại cho họ là điều rất cần thiết để mở rộng cho vay. Nếu như công tác tuyên truyền được thực hiện tốt thì sẽ có tác dụng trong việc thay đổi thói quen tích luỹ để tiêu dùng và tâm lý sợ đi vay của người dân,qua đó sẽ tăng số lượng khách hàng góp phần thúc đẩy cho vay tiêu dùng phát triển. Muốn vậy, Ngân hàng cần mở rộng hoạt động Marketing ngân hàng và cần thực hiện những vấn đề sau:
- Xây dựng những chiến lược marketing phù hợp, xây dựng các chương trình khuyến mại, quà tặng hấp dẫn: tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến đông đảo khách hàng để tạo điều kiện cho khách hàng làm quen với các dịch vụ ngân hàng và nhận thức được tiện ích của những sản phẩm dịch vụ này. Phát động những chiến dịch bán hàng như phát hành thẻ ATM nhân dịp khai giảng, hội chợ,…
- Đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo rộng rãi về các dịch vụ ngân hàng, các hình thức và chính sách huy động vốn, cho vay tiêu dùng, dân doanh. Quan sát tại một số Điểm giao dịch, nhiều khách hàng đang sử dụng các sản phẩm thu hút tiền gửi, sản phẩm huy động vốn, sản phẩm cho vay của các NHTM nhưng cũng chưa biết hết các tiện ích của sản phẩm đó. Vì vậy, trước mắt, nên đa dạng các loại tờ rơi, sách giới thiệu để sẵn phía ngoài quầy giao dịch để khách hàng có thể đọc khi đến giao dịch. Tìm kiếm phương tiện truyền thông marketing phù hợp để Ngân hàng truyền tải những thông điệp tiếp thị như: tổ chức hội thảo, bảng hiệu, quảng cáo trên truyền thanh, xây dựng mạng lưới, liên kết các sự kiện đặc biệt, thư chào hàng, tờ rơi, quà tặng, truyền khẩu, chương trình giới thiệu, xúc tiến tại các hội nghị, danh thiếp kinh doanh... Điều quan trọng nhất chính là việc sử dụng phương tiện, cách thức truyền thông thích hợp sao cho thông điệp Marketing của Ngân hàng đi vào lòng người nghe.
- Tổ chức bộ phận chăm sóc khách hàng, tạo cho các khách hàng cảm giác được tiếp đón tận tình mỗi khi đến ngân hàng. Bộ phận này có chức năng hướng dẫn khách hàng lần đầu giao dịch khai báo thông tin, trả lời thắc mắc của khách hàng, tư vấn, giới thiệu về các sản phẩm của ngân hàng cho khách hàng. Xây dựng văn hoá giao dịch của chính NHCT Hoàn Kiếm thể hiện qua phong cách, thái độ văn minh, lịch sự của đội ngũ nhân viên bán lẻ, cách trang phục riêng, đặc trưng.
- Hoạt động quản trị và điều hành kinh doanh thực sự theo mô hình quản lý hướng vào khách hàng. Việc quản lý được thực hiện đồng bộ theo từng nghiệp vụ kinh doanh và nhóm khách hàng trên cơ sở nắm bắt nhu cầu khách hàng để phát triển sản phẩm, dịch vụ cũng như phát triển ra thị trường mới. Sự phối hợp giữa các bộ phận quản lý, các phòng nghiệp vụ phải đồng bộ, nhịp nhàng để không gây phiền hà, mất thời gian cho khách hàng.
3.2.2 áp dụng biểu phí dịch vụ, lãI suất cạnh tranh
Các phòng khách hàng phải thường xuyên khảo sát các biểu phí dịch vụ của các NHTM trên địa bàn để từ đó tham mưu kịp thời với Ban lãnh đạo ban hành biểu phí dịch vụ của NHCT Hoàn Kiếm mang tính cạnh tranh và phù hợp theo từng nhóm khách hàng. Với đặc thù địa bàn là trung tâm kinh tế sầm uất, tập trung nhiều chợ đầu mối và trung tâm thương mại, hoạt động chuyển tiền đa dạng, bà con kinh doanh rất nhạy cảm với mọi biến động về tăng hay giảm phí. Mặt khác, Ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ để không chỉ cạnh tranh với các NHTM trên địa bàn và ngay cả với các tư nhân tại các phố Hàng Bạc, Hà Trung.... đang áp dụng mức phí hợp lý, thời gian chuyển tiền nhanh chóng, thủ tục đơn giản.
Đối với việc mở rộng cho vay tiêu dùng đối với khách hàng hiện nay trong khi các NHTM khác đang áp dụng những điều kiện thông thoáng hơn (điều kiện tín dụng, hình thức bảo đảm tiền vay, tỷ lệ ký quỹ, hồ sơ thủ tục đơn giản...), nhưng lãi suất và phí tương đối cao. Do vậy, ưu thế để tiếp thị khách hàng hiện nay của NHCT Hoàn Kiếm tập trung 3 yếu tố đó là: lãi suất hợp lý, sự minh bạch và sự tận tình của đội ngũ CBTD. Đồng thời việc tăng trưởng tín dụng đối các khách hàng này đòi hỏi sự quyết tâm, dám làm của đội ngũ cán bộ tín dụng do sự thận trọng và cần thời gian để thiết lập mối quan hệ, đánh giá uy tín, khả năng sản xuất kinh doanh của khách hàng. Vì lẽ đó, phải có động lực triệt để và toàn diện hơn đối với đội ngũ CBTD để làm đòn bẩy tăng trưởng tín dụng hiện nay. Đồng thời gắn kết các sản phẩm dịch vụ với tín dụng nhiều hơn, làm cơ sở ưu đãi lãi suất và áp dụng mức phí hợp lý với các khách hàng.
3.2.3 Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Đổi mới công nghệ Ngân hàng đòi hỏi phải đào tạo lại nhân viên để có khả năng làm chủ công nghệ, mặt khác yêu cầu nâng cao trình độ hoạt động Ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế cũng đòi hỏi một đội ngũ nhân viên có năng lực ở tầm cao hơn nữa. Hơn nữa, trong lĩnh vực Ngân hàng, một đặc điểm đáng chú ý đó là việc tạo ra sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm diễn ra trực tiếp, trong đó nổi lên là vai trò của nhân viên Ngân hàng với tư cách là người hướng dẫn, giải thích cho khách hàng hiểu và sử dụng sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng. Vì vậy, sản phẩm, dịch vụ có được khách hàng sử dụng hay không là do năng lực của nhân viên có tốt hay không, có đủ trình độ để thu hút khách hàng hay không. Do vậy, công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một trong những mục tiêu chủ chốt mà Ngân hàng cần quan tâm tới.
Có thể khái quát những yếu tố, điều kiện cần thiết của người cán bộ tín dụng là:
- Có năng lực để giải quyết các vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ. Muốn vậy họ phả có kiến thức, được đào tạo, có kỹ năng và chuyên môn để xử lý các thông tin liên quan đến công việc của mình.
- Có năng lực dự đoán đầy đủ các vấn đề kinh tế về sự phát triển cũng như triển vọng của các hoạt động tín dụng.
- Có uy tín trong quan hệ xã hội, có khả năng giao tiếp tốt, hoà đồng với mọi người.
- Có khả năng tự nghiên cứu, tìm tòi, có chính kiến. Điều này thể hiện ý chí vươn lên, muốn thể hiện khả năng, năng lực của mình.
Với đội ngũ cán bộ tín dụng cho vay tiêu dùng đối với khách hàng cá nhân ở chi nhánh hiện nay phần nhiều là cán bộ trẻ hoặc chuyển tới từ nhiều bộ phận khác nhau nên còn nhiều hạn chế trong chuyên môn cũng như kinh nghiệm, chưa am hiểu hết các lĩnh vực mà khách hàng vay vốn yêu cầu. Đây cũng là một khó khăn không nhỏ ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay tiêu dùng và phát triển các dịch vụ tại Chi nhánh.
Vì vậy, Chi nhánh cần thường xuyên tổ chức tập huấn và thông qua các trung tâm để mở các lớp đào tạo về tin học, ngoại ngữ, kỹ năng bán hàng, kiến thức luật và chuyên ngành liên quan đến thẩm định các dự án,… nâng cao trình độ cán bộ cũng như khuyến khích các cán bộ tín dụng đi nghiên cứu, học tập các Ngân hàng bạn.
3.2.4 Đổi mới phong cách giao dịch, nâng cao tinh thần thái độ làm việc, phục vụ khách hàng văn minh lịch sự, xây dựng văn hoá giao dịch Ngân hàng Công thương.
Con người luôn là nhân tố có tính chất quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá,... trong mọi hoạt động kinh doanh sản xuất nói chung và trong lĩnh vực Ngân hàng nói riêng, yếu tố con người vẫn là yếu tố quyết định đến hiệu quả công việc, tất cả các mục tiêu của Ngân hàng sẽ không thể đạt được nếu bản thân mỗi cán bộ không có lòng yêu nghề, tính trung thực thẳng thắn trong công việc.
Trong tình hình hiện nay hoạt động của NHCTVN nói chung và Chi nhánh Hoàn Kiếm nói riêng chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các Ngân hàng thương mại khác, Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng nước ngoài,…do vậy, cần tạo ra sự khác biệt, tạo phong cách riêng trong giao tiếp với khách hàng. Giao tiếp với khách hàng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thu hút khách hàng đến với Ngân hàng đồng thời góp phần tạo nên hình ảnh của Ngân hàng, là phương thức quảng cáo tốt nhất cho Ngân hàng, tạo nên hình ảnh tốt đẹp cho Ngân hàng với chi phí thấp nhất. Những bộ đồng phục cho nhân viên nhằm tạo nên ấn tượng tốt về tác phong, thái độ nghiêm túc và chuyên nghiệp cho khách hàng. Khách hàng nhiều khi dễ bị ảnh hưởng với những yếu tố ban đầu do vậy việc thiết kế các bộ đồng phục cùng với thái độ giao tiếp sẽ tạo nên thiện cảm ban đầu đối với khách hàng. Điều quan trọng nhất trong chính sách giao tiếp với khách hàng, đó là thái độ phục vụ, tác phong của nhân viên Ngân hàng nói chung và nhân viên tín dụng nói riêng, dưới con mắt của khách hàng, nhân viên chính là hình ảnh của Ngân hàng. Do vậy, với thái độ phục vụ tận tình, chu đáo, cùng với tác phong chuyên nghiệp nhanh chóng, chính xác, nhân viên Ngân hàng sẽ tạo nên ấn tượng tốt đẹp đối với khách hàng, góp phần xây dựng hình ảnh của Ngân hàng.
Thực chất văn hoá giao dịch là sự vận dụng các yếu tố văn hoá vào giao tiếp với khách hàng. Để đạt được những chuẩn mực về văn hoá giao dịch là một quá trình mà toàn thể cán bộ công nhân việc phải nỗ lực hết mình, Các cán bộ công nhân viên phải luôn luôn xác định cho mình và tuân thủ nguyên tắc “ thành công của khách hàng là thành công của Ngân hàng” để từ đó xác định mỗi nhân viên phải có “Nụ cười thương mại”, luôn luôn niềm nở nhiệt tình hướng dẫn tư vấn về thủ tục, hồ sơ vay, gửi, thanh toán,…Mối quan hệ hữu cơ giữa khách hàng và Ngân hàng sẽ chi phối và quyết định đến sự tồn tại và phát triển Ngân hàng.
3.3. Một số kiến nghị.
3.3.1. Kiến nghị đối với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước
Do xu thế phát triển tất yếu của tín dụng tiêu dùng, cùng với những lợi ích mà Nhà nước đạt được từ sự phát triển đó, Nhà nước cũng cần có những nỗ lực nhằm hỗ trợ cho mục tiêu phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng, khuyến khích và tạo ra những điều kiện thuận lợi để sự phát triển của loại hình cho vay này diễn ra một cách lành mạnh tốt đẹp.
- Thứ nhất: Nhà nước cần phải ổn định môi trường vĩ mô của nền kinh tế Nhà nước cần xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế, hướng đầu tư, có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần một cách ổn định, lâu dài, đúng định hướng. Cụ thể, mục tiêu ổn định thị trường, ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý được coi là nhiệm vụ hàng đầu thường xuyên. Chính việc Nhà nước tạo ra một môi trường kinh tế- chính trị- xã hội ổn định và lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho quá trình phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư, khiến cho khả năng tích luỹ và tiêu dùng của công chúng ngày càng tăng lên, thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu về hàng hoá- dịch vụ tiêu dùng. Hơn nữa, việc có được môi trường ổn định cũng giúp cho các doanh nghiệp an tâm tiến hành sản xuất kinh doanh, đáp ứng các nhu cầu đa dạng, phong phú về hàng hoá- dịch vụ tiêu dùng của dân cư.
- Thứ hai: Nhà nước cần tiếp tục củng cố cơ cấu ngành trong nền kinh tế theo hướng ưu tiên cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá tiêu dùng và các ngành dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân, từ đó sẽ góp phần đáng kể vào việc gia tăng mức cung về hàng hoá- dịch vụ, nhằm thoả mãn các nhu cầu của công chúng. Đồng thời, việc củng cố cơ cấu ngành một cách hợp lí, toàn diện sẽ giảm, bớt tình trạng thất nghiệp, tạo thêm nhiều công ăn vịêc làm cho người lao động, đồng thời nâng cao chất lượng đời sống của dân cư.
- Thứ ba : Nhà nước cần sớm ban hành luật tín dụng tiêu dùng, tạo điều kiện cho hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng.
Ngay từ bây giờ, Nhà nước cần sớm chỉ thị cho cơ quan lập pháp và các ban ngành có liên quan nghiên cứu về Luật tín dụng tiêu dùng. Học hỏi, nghiên cứu Luật tín dụng tiêu dùng của các nước khác, vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tế của Việt Nam là một việc hết sức cần thiết trong thời gian tới. Dù cho hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt Nam còn hạn chế và cần có nỗ lực từ nhiều phía trong một thời gian không ngắn, mọi sự chuẩn bị, chu tất đều không thừa.Vì vậy những nội dung pháp lý này cần phải đề cập về tín dụng tiêu dùng, đặc biệt là cơ chế cấp tín dụng và cách tính điểm khi đánh giá khách hàng, từ đó các cán bộ tín dụng có thể ra quyết định chính xác là cho khách hàng đó vay hay không và tránh được rủi ro cho ngân hàng. Đây cũng là những điều mà cán bộ tín dụng luôn quan tâm và lưu ý tới.
- Thứ tư: Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho hệ thống Giáo Dục
Đầu tư cho hệ thống giáo dục là đầu tư phát triển nhân tố con người. Vấn đề này phải nằm trong chiến lược phát triển chung của một quốc gia. Do vậy, muốn có một đội ngũ lao động có trình độ, đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển, đặc biệt trong một ngành áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào bậc nhất trên thế giới như Ngân hàng thì cần có một đường lối chiến lược chỉ đạo của Nhà nước. Do vậy, Nhà nước cần có khuyến khích, hỗ trợ các trường đại học trong khối ngành kinh tế chung để tập trung vào giáo dục cho cho hệ thống các NHTM những vấn đề cần thiết và cơ bản liên quan đến ngân hàng, nắm rõ những quy luật ngân hàng, biết ứng biến những luật đó một cách nhanh nhất, linh hoạt nhất trong mọi tình huống có thể xảy ra đồng thời các NHTM thường xuyên cử các đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng của mình đi học những lớp nghiệp vụ mới để họ có thể nắm bắt thông tin và ứng dụng những gì mới nhất, hiện đại nhất mà mình học được vào công việc của mình nhằm đạt được kết quả cao nhất, hoàn thành công việc xuất sắc nhất.
- Thứ năm : Nhà nước nên tiếp tục xúc tiến các chương trình phát triển kinh tế vùng sâu vùng xa, các chương trình hỗ trợ nông dân và các hộ gia đình nghèo để cải thiện mức thu nhập cho nhóm người có thu nhập thấp ở Việt Nam, thu hẹp dần hố sâu ngăn cách giàu nghèo, tránh tình trạng có sự phân hóa sâu sắc giữa các tầng lớp trong xã hội, để từ đó người dân có cuộc sống tốt hơn, được tiếp xúc với với một nền kinh tế ngày càng phát triển , hiện đại nâng cao mức sống cho người dân, cải thiện đời sống vật chất tinh thần giúp người dân có nhận thức mới về một xã hội văn minh, hiện đại từ đó họ có ý thức phấn đấu vươn lên làm giàu, biết áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật vào công việc của mình giúp công việc của họ có kết quả cao, tăng năng suất lao động, kích thích tiêu dùng, kích thích cho phát triển kinh tế, tạo thu nhập ổn định cho họ, tăng GDP cho nền kinh tế đất nước. Đây cũng là việc mà Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến
- Thứ sáu : Nhà nước nên hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong việc phổ cập kiến thức, thông tin về hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng. Cụ thể, Nhà nước có thể chỉ thị cho các cơ quan truyền hình, truyền thanh, báo chí của Nhà nước tổ chức giới thiệu, tuyên truyền quảng bá về tín dụng tiêu dùng, tạo ra các chính sách hỗ trợ, ưu tiên nhằm khuyến khích cho sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng.
-Thứ bảy: Ngoài ra, các cơ quan chức năng cũng cần chấn chỉnh hoạt động của mình trong phạm vi có liên quan, như là việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, hạn chế các sai sót, tiêu cực trong công tác này nhằm bảo vệ quyền lợi của các ngân hàng trong vấn đề liên quan đến cầm cố, thế chấp.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
- Thứ nhất: Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện các văn bản pháp quy về hoạt động cho vay tiêu dùng nhà nước cần có một hệ thống pháp lý đầy đủ và thông thoáng về hoạt động tín dụng tiêu dùng mà thực tế ở Việt Nam hiện nay chưa có luật tín dụng tiêu dùng chỉ ban hành một số văn bản hướng dẫn về một số khía cạnh, lĩnh vực cụ thể của hoạt động tín dụng tiêu dùng. Các NHTM quốc doanh tuy có thực hiện hình thức tín dụng tiêu dùng nhưng đây không phải loại hình được chú trọmg do đó quy mô và doanh số tín dụng tiêu dùng rất nhỏ chỉ mạnh trong việc cung ứng các loại cho vay để xây dựng, xửa chữa nhà ở , mua sắm các vật dụng chủ yếu... Bên cạnh việc các NHTM đang dần từng bước tiến hành hoạt động tín dụng tiêu dùng thì các định chế khác có vẻ không quan tâm lắm đến lĩnh vực này. Vì vậy ngân hàng nhà nước cần hoàn chỉnh ngay các văn bản pháp quy về hoạt động cho vay tiêu dùng vì
Hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp quy sẽ tạo ra nền tảng cơ sở cần thiết cho hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cần ban hành hệ thống các văn bản hướng dẫn cụ thể về các loại hình sản phẩm- dịch vụ của cho vay tiêu dùng, đồng thời cũng ban hành các văn bản hỗ trợ, khuyến khích đối với cho vay tiêu dùng, tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng và đầy đủ, tạo điều kiện cho NHTM phát triển hoạt động này.
- Thứ hai : Hoạch định chiến lược phát triển chung về cho vay tiêu dùng giữa các NHTM.
Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò to lớn trong việc định hướng chiến lược chung cho các NHTM thực hiện nghiệp vụ cho vay tiêu dùng nhằm tạo ra sự thống nhất về quản lý và bình đẳng trong cạnh tranh giữa các NHTM trong cả nứơc. Hơn nữa, nhằm mục đích chung là hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển, Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp hoạt động đồng bộ giữa các NHTM, tạo điều kiện cùng nhau phát triển. Việc này cũng đòi hỏi phải tăng cường sự hợp tác và trao đổi giữa các NHTM.
- Thứ ba: Cần thành lập và phát triển hệ thống thông tin liên ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước cần phải thúc đẩy tăng cường mối quan hệ với các NHTM và giữa các Ngân hàng với nhau, thiết lập mối liên hệ mật thiết để từ đó nắm bắt thông tin về hoạt động của Ngân hàng cũng như các thông tin về khách hàng vay và khách hàng tiềm năng.
Thứ tư : Ngân hàng Nhà nước cũng nên tằng cường các biện pháp hỗ trợ, tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại phát triển hoạt động của mình. Cụ thể như Ngân hàng Nhà nước cần tạo khả năng thêm nữa cho các NHTM tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh .Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước cũng nên hỗ trợ hơn cho các NHTM trong việc thường xuyên tổ chức những khoá học, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung cho các NHTM cùng tham gia; tạo điều kiện cử cán bộ ngân hàng đi nghiên cứu về hoạt động cho vay tiêu dùng tại các nước phát triển để học hỏi kinh nghiệm; liên kết phối hợp hành động giữa các ngân hàng, các ban ngành, đoàn thể...
3.3.3 Kiến nghị với Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm
- Nâng cao mức cho vay tối đa và kéo dài thời hạn cho vay với cán bộ công nhân viên. Trong thực tế, mức cho vay tối đa hiện nay còn nhỏ và chưa phù hợp vì: Nó sẽ giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng mình với ngân hàng đối thủ khi họ có mức cho vay tối đa lớn hơn của minh. Với khoản cho vay ít thì khó có thể phục vụ thoả mãn được các nhu cầu tiêu dùng lớn như mua sắm nhà, đất, ôtô…
- Giảm bớt những thủ tục giấy tờ không cần thiết trong hồ sơ vay. Qua quá trình triển khai thực hiện công tác cho vay tiêu dùng, hồ sơ vay vốn còn có quá nhiều giấy tờ mang nặng tính hình thức, không cần thiết.
-Cho phép triển khai thực hiện cho vay trả góp đối với cán bộ công nhân viên và hộ có thu nhập thấp để mua nhà ở, đất đai với thời hạn dài và sẽ dùng luôn tài sản đó làm tài sản đảm bảo.
Kết Luận
Đối với các Ngân hàng thương mại thì tín dụng vẫn là một trong những hoạt động quan trọng chủ yếu, đặc biệt là ở Việt Nam thì thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu nhập của các ngân hàng. Trứơc xu hướng toàn cầu hoá, trước yêu cầu cạnh tranh ngày càng gay gắt,các Ngân hàng thương mại Việt Nam phải đa dạng hoá hoạt động của mình. Và vấn đề mở rộng và năng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng là một yêu cầu bức thiết. Trước tình hình đó, luận văn đã đi sâu nghiên cứu tìm hiểu và phân tích hoạt động tín dụng tiêu dùng ở Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm để từ đó đưa ra những đánh giá về thực trạng mở rộng và năng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh và đề xuất những biện pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh.
Thông qua quá trình nghiên cứu, luận văn đã đạt được một số kết quả nhất định.
Thứ nhất: là hiểu rõ hơn về những vấn đề cơ bản của tín dụng tiêu dùng, thấu hiểu được sự cần thiết của việc mở rộng tín dụng tiêu dùng tại các NHTM.
Thứ hai: thông qua tìm hiểu và phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm để thấy được những kết quả đạt được và những hạn chế cần khắc phục,
Trong những năm gần đây, Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã có được sự tăng trưởng về quy mô của tín dụng tiêu dùng, dư nợ tín dụng tiêu dùng tăng lên theo từng năm. Thông qua hoạt động tín dụng tiêu dùng ngân hàng đã tạo được hình ảnh và lòng tin của mình đối với các khách hàng trong và ngoài địa bàn. Tuy nhiên cũng còn có những mặt mà Ngân hàng chưa thực hiện được như quy trình cho vay rườm rà, gây nhiều khó khăn cho cả khách hàng và các cán bộ tín dụng. Chất lượng tín dụng trong tín dụng tiêu dùng còn chưa cao. số nợ quá hạn còn tồn tại lớn là do tín dụng tiêu dùng, tuy tỷ lệ này không cao nhưng đây cũng là một vấn đề mà Ban lãnh đạo ngân hàng cần có biện pháp khắc phục.
Những mặt hạn chế nói trên vẫn còn tồn tại là do các nguyên nhân chủ yếu như hệ thống pháp lý về tín dụng tiêu dùng còn chưa hoàn chỉnh, Ngân hàng chưa có sự quan tâm đúng mức đối với tín dụng tiêu dùng, công nghệ ngân hàng còn chưa phát triển rộng rãi, sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng trên địa bàn và những ngân hàng ngoài địa bàn.
Thứ ba: từ việc tìm hiểu thực trạng, đánh giá được những kết qủa đạt được và những mặt hạn chế trong hoạt động tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, em đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp đối với chính Ngân hàng cũng như những kiến nghị đối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước.
Em mong rằng những gì mình đã trình bày ở luận văn sẽ là sự đóng góp nhỏ bé vào sự phát triển của tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng Công Thương chi nhánh Hoàn Kiếm.
Do hạn chế về mặt kiến thức lý luận cũng như hạn chế về tài liệu và thời gian nghiên cứu, luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong được sự phê bình, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cô chú tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, các bạn bè cũng như bất kỳ ai quan tâm đến vấn đề này để chuyên đề được hoàn thiện hơn nữa.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại- Học Viện Tài Chính- NXB Tài Chính Năm 2005
Quản trị Ngân hàng thương mại- Peter S.Rose
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm các năm 2005,2006,2007.
Sổ tay tín dụng- Lưu hành nội bộ- Ngân hàng Công Thương Việt Nam
Báo cáo tổng hợp tình hình cho vay tiêu dùng Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm
Tạp chí Ngân hàng các số năm 2005,2006,2007.
Công văn số 34/CV – NHNN về việc cho vay không có đảm bảo bằng tài sản đối với CBCNV và thu nợ từ tiền lương, trợ cấp và các khoản thu nhập khác.
Quyết định số 049/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 31/5/2002 của NHCT Việt Nam.
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành qui định về phân loại nợ, trích lập và dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng và của tổ chức tín dụng.
Báo điện tủ Việtnamnet.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36894.doc