Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Đống Đa

Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại NHCT Đống Đa Lời nói đầu Đất nước đang trong quá trình đổi mới, thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế. Nhu cầu về vốn trung và dài hạn để đầu tư, đổi mới tài sản cố định, trang bị lại máy móc thiết bị, mở rộng cơ sở sản xuất và xây dựng mới là rất lớn. Trong khi đó, khả năng về vốn tự có của doanh nghiệp rất hạn chế, việc huy động vốn của các doanh nghiệp qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu cũng rất kh

doc124 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1323 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó khăn do thị trường chứng khoán của nước ta còn đang ở giai đoạn sơ khai, người dân còn chưa quen thuộc và tin tưởng vào loại hình đầu tư này. Do vậy, để có thể đáp ứng nhu cầu về vốn trung và dài hạn, các doanh nghiệp chủ yếu đi vay các tổ chức trung gian tài chính trong đó hệ thống NHTM là nguồn huy động và cung cấp vốn trung dài hạn chủ yếu cho nền kinh tế. Với tư cách là trung tâm tiền tệ - tín dụng của nền kinh tế, hệ thống NHTM Việt Nam đã đề ra mục tiêu cho toàn ngành “Tìm cách mở rộng và nâng cao tỷ trọng các nguồn vốn trung dài hạn nhằm đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới công nghệ trực tiếp phục vụ cho việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá”. Phù hợp với xu hướng đa dạng hoá các hoạt động ngân hàng nhằm phục vụ bổ sung vốn lưu động và vốn cố định cho doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đã chủ trương đẩy mạnh hoạt động tín dụng trung dài hạn đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế bên cạnh hoạt động tín dụng ngắn hạn truyền thống. Theo chủ trương, định hướng trên, trong mấy năm gần đây, hoạt động tín dụng trung dài hạn của các ngân hàng đã đạt được những kết quả đáng kể, song vẫn còn không ít những hạn chế cả về quy mô cũng như chất lượng tín dụng. Những gì làm được hôm nay còn nhỏ bé so với những đòi hỏi bức thiết ngày càng tăng về vốn cố định của các doanh nghiệp. Với những lý do trên, trong quá trình thực tập khảo sát thực tế tại NHCT Đống Đa, em rất quan tâm đến hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Hiện tại hoạt động này còn nhỏ bé, chưa tương xứng với quy mô, tiềm năng và mục tiêu mà ngân hàng đề ra. Là một sinh viên sắp tốt nghiệp trong giai đoạn này của đất nước, với những kiến thức đã được học tập tại nhà trường và mong muốn được góp phần nhỏ bé vào việc giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của NHTM nói chung, NHCT Đống Đa nói riêng, em đã chọn đề tài “Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại NHCT Đống Đa” để nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp của mình. Với nội dung như trên, ngoài phần lời nói đầu và lời kết, luận văn có kết cấu như sau: Chương I: Tín dụng trung dài hạn và chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng tín dụng và chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng công thương Đống Đa. Chương III: Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng công thương Đống Đa Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng- Tài chính đặc biệt là thầy giáo PGS, PTS Nguyễn Văn Nam và cô giáo Phạm Hồng Vân, người đã tận tâm hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Đồng thời em cũng rất cám ơn toàn thể cán bộ công tác tại Ngân hàng Công thương Đống Đa, đặc biệt là cô Chu Vân Anh, người đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập, tìm hiểu, nghiên cứu thực tế, thu thập và xử lý tài liệu để hoàn thành luận văn. 1.1 Vai trò của tín dụng trung và dài hạn của NHTM đối với nền kinh tế Tín dụng ra đời là một tất yếu khách quan của nền sản xuất hàng hoá, trải qua quá trình hình thành và phát triển, tín dụng đã không ngừng biến đổi cả về nội dung và hình thức, từ tín dụng nặng lãi đến tín dụng thương mại, đến tín dụng ngân hàng. Ngay từ khi ra đời, tín dụng ngân hàng đã và đang thể hiện ngày càng rõ nét những đặc tính ưu việt của mình, đóng vai trò ngày càng to lớn trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung. 1.1.1 Tính tất yếu khách quan của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế. 1.1.1.1 Cơ sở ra đời và tồn tại của tín dụng. * Cơ sở tồn tại và phát triển của tín dụng Cùng với sự tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ là sự ra đời của chế độ chiếm hữu nô lệ gắn liền với nó là sự phân hoá giàu nghèo rất sâu sắc trong xã hội. Của cải, tiền tệ tập trung trong tay một nhóm người. Trong khi một nhóm người khác do thu nhập thấp không đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của mình đặc biệt khi gặp những biến cố rủi ro. Các nhu cầu chi tiêu rất lớn mâu thuẫn với lực lượng sản xuất còn kém phát triển. Các điều kiện kinh tế xã hội đó đã làm nảy sinh một loại quan hệ vay mượn đặc biệt, khác với quan hệ vay mượn thông thường trong dân cư: đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Lãi thường là rất lớn, chiếm gần hết giá trị sản phẩm thặng dư có khi sang cả phần giá trị sản phẩm cần thiết do nhu cầu đi vay rất lớn, mang tính cấp bách, khả năng cho vay lại ít, tính rủi ro cao trong sử dụng vốn vay. Tín dụng nặng lãi gắn liền với nền sản xuất hàng hoá nhỏ, phân tán và phục vụ chủ yếu cho nhu cầu tiêu dùng. Nó phát triển mạnh dưới xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Nó được coi là phương pháp tích luỹ nguyên thuỷ, là công cụ đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn, tạo điều kiện cho phương thức sản xuất mới ra đời. Các điều kiện về kinh tế xã hội phát triển là tiền đề cho sự phát triển các mối quan hệ tín dụng. Quan hệ tín dụng mới kế tiếp tín dụng nặng lãi là tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh. Nó góp phần thúc đẩy quy mô tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh vòng quay tư bản. Tuy vậy, tín dụng thương mại cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định, đó là nhu cầu cho vay và đi vay về một lượng hàng hoá nào đó cũng như thời gian cho vay không thường xuyên khớp nhau (do tính chất tạm thời thừa, thiếu vốn). Vì vậy, việc quyết định thời hạn trong quan hệ tín dụng thường là khó khăn, nảy sinh ra nhu cầu thực hiện giá trị của các kỳ phiếu thương mại trước thời hạn. Để khắc phục hạn chế đó với chức năng kinh doanh tiền tệ mà trước hết là thực hiện đổi tiền và giữ hộ tiền, các NHTM trở thành trung tâm tiền tệ, có một số tiền tạm thời nhàn rỗi tương đối lớn, từ đó nảy sinh ra nhu cầu cho vay lấy lãi. Sự phù hợp hai loại nhu cầu giữa nhà tư bản ngân hàng và tư bản kinh doanh hàng hoá dẫn đến một mối quan hệ mới - quan hệ tín dụng ngân hàng. Ngoài các doanh nghiệp trực tiếp vay vốn, ngân hàng còn thực hiện cho các doanh nghiệp vay thông qua hình thức chiết khấu các kỳ phiếu thương mại và cho đến nay có rất nhiều loại hình dịch vụ mới, đáp ứng cho mọi nhu cầu khác. Như vậy cơ sở của tín dụng ngân hàng là tín dụng thương mại. Một mối quan hệ tín dụng khác ngày càng có mối quan hệ quan trọng trong nền kinh tế hiện đại đó là tín dụng Nhà nước. Lúc đầu nhà nước thu thuế để chi tiêu song do các khoản thu chi của nhà nước là không khớp nhau về thời gian, số lượng và nhiều lúc có các khoản chi đột xuất ngoài dự kiến làm nảy sinh nhu cầu đi vay để chi tiêu. Quan hệ vay mượn giữa nhà nước (người đi vay) với các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư trên nguyên tắc hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định được gọi là tín dụng nhà nước. Trong kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, khối lượng hàng tiêu dùng được sản xuất ra ngày càng lớn với tốc độ chóng mặt. Từ đó làm tăng nhu cầu tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp. Các nhà doanh nghiệp bán chịu (trả chậm) hàng hoá cho nhau (tín dụng thương mại). Song vấn đề cốt lõi lại ở người tiêu dùng, vì sức mua tăng chậm hơn tốc độ tăng khối lượng hàng hoá, hơn nữa có một số mặt hàng có giá trị lớn mà khả năng chi trả của người tiêu dùng lại có hạn. Từ đó hình thành và phát triển một hình thức tín dụng mới-đó là tín dụng tiêu dùng. Các khoản trả nợ tiền hàng thường bắt nguồn từ thu nhập có tính đều đặn, ổn định của người tiêu dùng. * Bản chất của tín dụng Qua nghiên cứu sự ra đời và phát triển của tín dụng cho ta thấy. - Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. - Nội dung của quan hệ tín dụng là sự dịch chuyển vốn tạm thời từ nơi thừa sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả vốn và lãi. - Chất xúc tác cho quan hệ tín dụng được hình thành là lãi tiền vay và lợi nhuận thu được nhờ sử dụng vốn vay đó. - Thực chất quan hệ tín dụng là quan hệ kinh tế nhằm bổ sung vốn tạm thời thiếu hụt của các doanh nghiệp. - Bản chất của tín dụng là quan hệ bình đẳng, hai bên cùng có lợi và mang tính chất thoả thuận lớn. * Phân loại tín dụng Tuỳ theo những tiêu thức phân loại khác nhau mà ta có các hình thức tương ứng. + Phân loại tín dụng theo tính chất hoặc chủ thể các quan hệ tín dụng có: - Tín dụng nặng lãi-lãi rất lớn. - Tín dụng thương mại – quan hệ vay mượn giữa các nhà sản xuất kinh doanh dưới hình thức ứng trước vốn hàng hoá. - Tín dụng ngân hàng - quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các đơn vị kinh tế, các tầng lớp dân cư dưới hình thức ứng trước vốn tiền tệ. - Tín dụng tiêu dùng - quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, các ngân hàng với người tiêu dùng. + Phân loại tín dụng theo đối tượng cấp tín dụng có: - Tín dụng hàng hoá - quan hệ vay mượn dưới hình thức hàng hoá. - Tín dụng tiền tệ - quan hệ vay mượn dưới hình thức tiền tệ. + Phân loại tín dụng theo phạm vi phát sinh tín dụng có: - Tín dụng trong nước - Tín dụng quốc tế Như vậy, qua phần trình bày trên đây chúng ta có thể thấy được những nét cơ bản về quá trình hình thành và phát triển của tín dụng như là một thể thống nhất của nhiều hình thức. Mỗi một hình thức tín dụng đều gắn liền với những điều kiện kinh tế xã hội cụ thể dẫn tới quá trình bổ sung cho nhau giữa các hình thức tín dụng. Vấn đề đặt ra ở đây là: là một hình thức của tín dụng, tín dụng ngân hàng có những đặc điểm riêng gì và nó có vai trò như thế nào đối với sự phát triển cuả nền kinh tế. 1.1.1.2 Vai trò của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế a) Bản chất của tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng đôi bên cùng có lợi. Điều cần lưu ý ở đây là tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với tất cả các doanh nghiệp và cá nhân khác. Mối quan hệ tín dụng này không phải là mối quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang nơi tạm thời thiếu mà thông qua tổ chức trung gian là ngân hàng. Với chức năng huy động và cho vay vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng khắc phục được những hạn chế của những hình thức tín dụng khác (vấn đề thời hạn và quy mô khoản tín dụng). Hai loại nghiệp vụ huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và cho vay đối với những nhu cầu đang thiếu tạm thời gắn chặt với nhau, bổ trợ cho nhau cùng phát triển. Đó là ưu điểm mà loại hình tín dụng khác không có. b) Vai trò của tín dụng ngân hàng - Tín dụng ngân hàng góp phần giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Bằng các nghiệp vụ huy động vốn, thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư, tập trung đem đầu tư vào những nơi thực sự đang cần vốn và sử dụng vốn có hiệu qủa (nghiệp vụ cho vay) tín dụng ngân hàng đã đáp ứng các nhu cầu về vốn một cách đắc lực. - Tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển kinh tế, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trên một phương diện nào đó, cuộc vật lộn cạnh tranh gay go thậm chí khốc liệt làm cho hoạt động kinh tế trở nên sôi động, nhộn nhịp hơn và xét trên bình diện toàn cục thì đó là một báo hiệu sự phát triển của nền kinh tế đất nước. - Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế, hoạt động tín dụng sẽ là trợ thủ đắc lực cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Ngân hàng đang ngày càng mở rộng các nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu. Để thu hút tạo điều kiện cho các công ty nước ngoài đầu tư vào, hệ thống ngân hàng đã mở rộng các chi nhánh ở trong và ngoài nước, tăng cường các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế, mở rộng phạm vi hoạt động cũng như đa dạng hoá các loại hình tín dụng. - Tín dụng ngân hàng là công cụ để nhà nước điều tiết sản xuất, điều tiết lưu thông, giảm phát hành tiền góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định sức mua đồng tiền và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. - Tín dụng ngân hàng ngoài những vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, còn có ý nghĩa đến sự sống còn của ngân hàng. Ngân hàng thực chất là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt - kinh doanh tiền tệ. Hoạt động chủ yếu là hoạt động tín dụng và phục vụ cho các quan hệ tín dụng thanh toán. Thông qua đó tiến hành quản lý tiền tệ, tổ chức lưu thông tiền tệ. Đó là ba mặt hoạt động của ngân hàng, với ba mặt hoạt động đó thì ngân hàng trở thành trung tâm tín dụng, trung tâm thanh toán, trung tâm tiền mặt của nền kinh tế quốc dân. Như vậy, tín dụng ngân hàng ra đời là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử, đóng góp một vai trò tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế. Cùng với sự phát triển kinh tế, các hình thức tín dụng ngân hàng khác nhau đã dần dần được hình thành và khái niệm tín dụng cũng ngày càng được mở rộng. Khi nhắc đến tín dụng người ta có thể bàn luận về nhiều loại hình tín dụng khác nhau như tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn, tín dụng có bảo đảm, tín dụng không có bảo đảm, tín dụng công nghiệp, tín dụng nông nghiệp... tín dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh, tín dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh... Tuỳ theo tiêu thức phân loại ta lại có một cách tiếp cận tín dụng tương ứng. Nếu chỉ phân loại tín dụng theo thời hạn ta có tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu về tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại. Vậy tín dụng trung và dài hạn là gì, có vai trò như thế nào đối với hoạt động của ngân hàng nói riêng và tổng thể nền kinh tế nói chung. Phần viết sau sẽ trả lời câu hỏi đó. 1.1.2 Vai trò của tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế Cho vay là hoạt động truyền thống và quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Một số tài liệu nghiên cứu cho thấy các khoản cho vay chiếm tới 60% tài sản của ngân hàng, đem lại từ 65-70% lợi tức. Do vậy mà thành công của ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế hoạch tín dụng và thành công của hoạt động tín dụng. Để quản lý tiền cho vay, các nhà ngân hàng thường phân loại tín dụng theo nhiều cách, trong đó có hình thức phân loại theo kì hạn. Mục đích của việc phân loại tín dụng theo kỳ hạn là để xem xét, đánh giá trạng thái lỏng -khả năng chuyển thành tiền mặt nhanh và mức độ rủi ro của các khoản cho vay. 1.1.2.1 Khái niệm tín dụng trung và dài hạn. * Tín dụng trung hạn Các nước trên thế giới quy định tín dụng trung hạn là loại cho vay có thời hạn từ 1năm đến 7 năm, riêng Việt Nam quy định loại cho vay này có thời hạn từ 1- 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ và mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. * Tín dụng dài hạn. Cũng tuỳ theo mỗi nước mà quy định kì hạn cho loại tín dụng dài hạn. Hầu hết các nước quy định tín dụng dài hạn có thời hạn trên 7 năm. ở Việt Nam quy định loại hình tín dụng này có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải... có giá trị lớn, các công trình có quy mô lớn. 1.1.2.2 Vai trò của tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế * Vai trò của vốn đầu tư đối với nền kinh tế: Đối với mỗi doanh nghiệp, để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh thì điều đầu tiên là cần có đủ vốn. Vốn để thuê nhân công, vốn để mua máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, xây dựng nhà xưởng... Xét rộng ra cả nền kinh tế, các ngành sản xuất muốn hoạt động đều đặn và phát triển thì cần được đáp ứng đầy đủ vốn, bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động. Để đạt được một tốc độ phát triển kinh tế qua các năm thì các quốc gia không những phải duy trì mà còn phải thường xuyên bổ sung vốn cho nền kinh tế. Nói cách khác, cùng với tốc độ phát triển kinh tế không ngừng, số lượng vốn đầu tư cũng cần phải được tăng lên gấp bội. Khái niệm về vốn cần phải được hiểu không chỉ là vốn tiền tệ mà còn biểu hiện dưới nhiều hình thức khác như vật tư kỹ thuật, đất đai, lao động, tài nguyên... trong đó vốn tiền tệ là linh hoạt nhất. Cùng với quy mô vốn đầu tư được mở rộng, cơ cấu vốn cũng có sự thay đổi theo từng ngành kinh tế, từng khu vực, từng đối tượng đầu tư. Xét theo đối tượng đầu tư, nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế hàng năm bao gồm: vốn để hình thành nên tài sản cố định và vốn để hình thành nên tài sản lưu động (gọi là vốn lưu động). Bất cứ một quốc gia nào để đảm bảo sự tăng trưởng đều phải đầu tư cơ bản theo chiều rộng. Nhưng quá trình thực hiện đầu tư tại mỗi nước cũng khác nhau. Đối với những nước chậm phát triển, hoạt động đầu tư chủ yếu là theo chiều rộng thông qua các hình thức xây dựng mới. Các nước phát triển chủ yếu đầu tư theo chiều sâu theo hướng hiện đại hoá cơ sở hoạt động. Còn đối với các nước đang phát triển đầu tư phát triển lại vừa theo chiều rộng, vừa theo chiều sâu. Các nước đang phát triển do cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp, chưa hoàn thiện nên hàng năm một bộ phận vốn khá lớn được sử dụng vào các mục đích đầu tư đổi mơí các tài sản cố định. Là một nước đang phát triển, Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Điều này có nghĩa là bộ phận vốn mà Việt Nam cần để sử dụng cho đầu tư vào tài sản cố định là rất lớn và là nhân tố vô cùng quan trọng cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Trong những năm tới, công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội được Đảng và nhà nước ta đặt lên nhiệm vụ hàng đầu. Đó là con đường tất yếu để chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại với cơ cấu công nghiệp –nông nghiệp-dịch vụ hợp lý. Điều này càng có ý nghĩa đối với Việt Nam , một nước đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với hơn 80% dân số sống bằng nghề nông. Từ kinh nghiệm của những quốc gia đã từng tiến hành công nghiệp hoá-hiện đại hoá cho thấy các điều kiện cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá-hiện đại hoá là tạo ra một thị trường cho quá trình công nghiệp hoá, xây dựng một nền công nghệ tiên tiến, huy động được nguồn vốn lớn cho quá trình công nghiệp hoá và đầu tư phát triển đội ngũ lao động có chất lượng cao để thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Điều này càng khẳng định vốn là một điều kiện không thể thiếu được để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vốn cho phát triển kinh tế xã hội luôn là vấn đề quan trọng và cấp bách cho quá trình công nghiệp hoá đối với mọi quốc gia. Đặc biệt là đối với Việt Nam, để duy trì những thành quả đã đạt được trong những năm qua nhờ quá trình đổi mới, giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao và tránh cho đất nước rơi vào tình trạng tụt hậu so với các nước trong khu vực thì một trong những vấn đề đang được quan tâm là nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế xã hội. Một mục tiêu quan trọng của Việt Nam trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 là tăng gấp đôi GDP/người vào năm 2000, tức là đạt trên 400USD/người. Qua tính toán và dự tính của các nhà kinh tế thế giới và trong nước thì để đạt được mục tiêu trên, nước ta phải huy động được từ 40-50 tỷ USD cho đầu tư, trong đó vốn trong nước phải đảm bảo từ 20-25 tỷ USD. Nhu cầu vốn đầu tư là rất lớn nhưng lượng vốn thực tế ở Việt Nam hiện vẫn còn trong tình trạng rất khó khăn. Chỉ tính riêng cho năm 1999 thì những tính toán mới đây của Bộ kế hoạch và đầu tư cũng cho thấy nếu không sớm có những giải pháp mới cho việc huy động thêm các nguồn lực trong thời gian tới thì tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội trong năm 1999 sẽ thấp hơn rất nhiều so với nhu cầu đầu tư và năng lực sản xuất của nhiều ngành trong nước. Qua cân đối theo các mục tiêu phát triển kinh tế đã được đề ra, ước tính với cơ chế huy động nguồn lực như hiện tại thì tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội trong năm 1999 chỉ đáp ứng được từ 70-80% nhu cầu đầu tư phát triển. Rõ ràng là nhu cầu vốn đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở nước ta thực sự là một vấn đề nan giải. Nguồn vốn này có thể huy động từ 2 kênh chính vốn trong nước và vốn nước ngoài. Tuy nhiên lịch sử kinh tế thế giới đã cho thấy sự thất bại của một số nước do hoàn toàn ỷ lại vào vốn nước ngoài và đồng thời cũng chứng minh những thành công của CNH-HĐH phải do sự độc lập tự chủ của nguồn vốn, nguồn lực từ bản thân nền kinh tế. Đảng ta cũng xác định rõ: Nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng. Hiện nay theo đánh giá của các nhà kinh tế, nguồn vốn dư thừa trong dân cư chưa được đầu tư vào trong sản xuất là lớn. Nhiệm vụ của các ngành là cần phải tạo đủ vốn cho nền kinh tế, khắc phục tình trạng thiếu vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Nhiều dự án đầu tư phát triển của các doanh nghiệp từ trung ương đến địa phương chưa được duyệt là do không có vốn chứ không phải không cấp bách. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang trong giai đoạn hình thành và phát triển cũng cần có một lượng vốn đầu tư không nhỏ vào các tài sản cố định. Chính vì nhu cầu vốn trung và dài hạn rất lớn, rất bức bách nên ở Việt Nam hiện nay có nhiều doanh nghiệp phải tự ý lấy nguồn vốn vay ngắn hạn ở ngân hàng để đầu tư vào tài sản cố định gây ra sự lộn xộn, khó quản lý. Các nguồn vốn trung và dài hạn trong nước dành cho các doanh nghiệp hiện tại được đáp ứng từ các nguồn chính sau: Vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn cấp phát của ngân sách, vốn đi vay từ các tổ chức tín dụng, vốn huy động được do phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Trong đó nguồn vốn tín dụng ngân hàng đang là nguồn chủ yếu cung cấp vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp. Sở dĩ như vậy là do các nguồn vốn kia hiện tại còn những hạn chế sau: - Vốn tích luỹ và vốn tự có của doanh nghiệp: Đối với phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam, vốn tự có là rất thấp. Còn để có thể dùng nguồn vốn tự tích luỹ để đầu tư dài hạn thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động tương đối ổn định và có lãi trong nhiều năm, có như vậy thì phần lợi nhuận để lại mới đủ lớn để mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ mới, xây dựng nhà xưởng, mở rộng sản xuất kinh doanh. Thực tế là rất ít các doanh nghiệp có thể đáp ứng bằng nguồn vốn tự tích luỹ này, nhất là trong điều kiện nước ta mới chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp không theo kịp phương thức sản xuất mới dẫn đến hàng hóa sản xuất ra không cạnh tranh và không tiêu thụ được. Do vậy, để sử dụng nguồn vốn này các doanh nghiệp phải tích luỹ trong một thời gian dài. - Nguồn vốn cấp phát từ ngân sách: ngân sách nhà nước còn hạn hẹp lại bị phân tán cho quá nhiều ngành kinh tế, đầu tư không tập trung và khó khăn trong vấn đề quản lý. Chủ trương hiện nay vốn ngân sách chỉ đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn và một số công trình công nghiệp lớn, còn lại nhu cầu đầu tư cơ bản của các doanh nghiệp đều do doanh nghiệp tự lo liệu. - Nguồn vốn trong dân cư: Vốn nhàn rỗi trong dân cư thường là những khoản tiết kiệm, xét đối với mỗi cá nhân thì nhỏ nhưng xét trên toàn xã hội thì đây là một nguồn vốn khá lớn. Tuy nhiên việc huy động vốn trong dân cư bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu còn rất nhiều khó khăn trong điều kiện hiện tại. Do nó còn là một hình thức mới lạ đối với đại bộ phận dân cư. Người dân vẫn chưa tin tưởng vào sự lành mạnh trong kinh doanh của doanh nghiệp nên họ chưa dám mạnh dạn bỏ vốn trực tiếp. Nguồn tiết kiệm trong dân cư hiện nay chủ yếu được huy động qua hình thức nhận tiền gửi của các ngân hàng thương mại. Trong bối cảnh đó vốn từ các tổ chức tài chính đặc biệt là hệ thống ngân hàng thương mại đang là cứu cánh cho các doanh nghiệp. Sau khi Hội đồng Nhà nước chính thức ban hành 2 pháp lệnh ngân hàng, các trung gian tài chính đã được đa dạng hoá gồm nhiều hình thức sở hữu và nhiều loại hình hoạt động. Tuy vậy số lượng các trung gian tài chính còn chưa nhiều, các quỹ tín dụng nhân dân sau một thời gian đổ bể đã gây mất lòng tin trong quần chúng nhân dân nay mới thành lập lại. Một số công ty tài chính đã được thành lập song số lượng còn ít ỏi và hoạt động còn cầm chừng dè dặt. Các ngân hàng thương mại với mạng lưới rộng khắp, đội ngũ cán bộ nhiều kinh nghiệm, nguồn vốn khá dồi dào đang đáp ứng hầu hết các yêu cầu bổ sung vốn cho doanh nghiệp, cả vốn cố định và vốn lưu động. Hơn nữa theo xu hướng hoạt động đa dạng, các ngân hàng thương mại đang được khuyến khích phát triển hoạt động cho vay trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Do vậy nguồn vốn trung và dài hạn cung cấp qua hệ thống ngân hàng Thương mại là rất cần thiết đối với Việt Nam hiện nay. * Những lợi ích mà tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại đem lại. + Đối với ngân hàng: Các khoản cho vay trung và dài hạn sẽ là tài sản sinh lợi có nhiều triển vọng khi nó được thực hiện và giám sát đúng đắn. Nếu ngân hàng có một nguồn vốn ổn định trong thời gian dài, dùng nguồn vốn này để đầu tư dài hạn sẽ tạo ra lợi nhuận cao hơn nhiều so với việc dùng nguồn vốn này cho vay ngắn hạn. Bên cạnh khoản lợi nhuận hấp dẫn, tín dụng trung và dài hạn còn là vũ khí cạnh tranh rất lợi hại giữa các ngân hàng với nhau. Với sản phẩm này, ngân hàng sẽ phục vụ tốt hơn cho các chủ doanh nghiệp và thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Khi xác định mở rộng cho vay trung và dài hạn, các ngân hàng không chỉ nhìn vào lợi ích trước mắt mà còn mong đợi ở lợi ích lâu dài hơn, đó là mở rộng tín dụng trung và dài hạn để thúc đẩy mạnh cho vay ngắn hạn. Các doanh nghiệp sau khi được ngân hàng cho vay vốn, trang bị máy móc thiết bị mới hay xây dựng mở rộng, năng lực sẽ tăng lên. Doanh nghiệp lại cần nhiều vốn lưu động hơn để đáp ứng cho sản xuất. Người đầu tiên mà các doanh nghiệp tìm đến chính là các ngân hàng đã đầu tư cho họ, hỗ trợ những điều kiện cần thiết cho sự ở phát triển của họ. Với những ngân hàng này, doanh nghiệp dễ dàng tìm được sự thông cảm do đã hiểu nhau và các dịch vụ rẻ và tiện lợi hơn. Về phía các ngân hàng, họ cũng muốn tạo quan hệ với các doanh nghiệp quen biết để tiện theo dõi tình hình tài chính và các khoản thu chi của doanh nghiệp. + Đối với các doanh nghiệp. Để tồn tại và vươn lên trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải cạnh tranh và giành thắng lợi. Để làm được điều đó doanh nghiệp phải chuẩn bị cho mình một chiến lược kinh doanh hoàn hảo bao gồm các kế hoạch xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, cải tiến trang thiết bị, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, tăng lợi nhuận. Muốn vậy phải có đủ vốn. Nếu chỉ trông vào nguồn vốn tự tích luỹ thì phải mất thời một gian dài doanh nghiệp mới đổi mới được tài sản cố định và sẽ tụt lại xa so với các doanh nghiệp trường vốn đã trang bị hiện đại và những sản phẩm họ tung ra thị trường cũng trở nên lạc hậu. Vì thế lối thoát cho các doanh nghiệp là huy động vốn trên thị trường chứng khoán hoặc vay vốn ngân hàng. Phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán là một biện pháp hỗ trợ vốn tích cực cho các doanh nghiệp nhưng hình thức này chỉ phát huy hiệu quả ở những nước có thị trường vốn và thị trường chứng khoán phát triển. Thậm chí ở các nước này, trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp vẫn có xu hướng ưa thích các khoản vay từ ngân hàng, sở dĩ như vậy là do: - Với các khoản vay từ ngân hàng, doanh nghiệp có thể giảm bớt các chi phí mà lẽ ra họ phải trả khi tổ chức phát hành chứng khoán, chi phí lập thủ tục gọi vốn, chi phí đăng ký, bảo hiểm… - Kỳ hạn của các khoản vay từ ngân hàng dễ điều chỉnh hơn so với việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Do vậy khi thu nhập của doanh nghiệp có biến động, hoặc một số sự kiện diễn biến không như dự kiến ban đầu, doanh nghiệp có thể thương lượng lại với ngân hàng để thay đổi cách thức trả nợ (trả lãi, trả gốc) sao cho thuận lợi nhất cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng được hưởng một khoảng thời gian ân hạn, trong thời gian này doanh nghiệp chưa phải trả nợ gốc ngay mà chỉ phải trả lãi. Những sự thuận lợi này không có ở trái phiếu, cổ phiếu. - Khi vay vốn từ ngân hàng, doanh nghiệp vẫn có thể thu lợi tức mà không mất sự kiểm soát đối với hãng đó hoặc phải đối phó với trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi khi vốn không còn cần đến nữa. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì những vốn vay từ ngân hàng không những là quan trọng mà còn gần như là duy nhất để tài trợ cho nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp. Bởi vì thường những doanh nghiệp lớn, có uy tín mới có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán bằng cách phát hành trái phiếu hay cổ phiếu. Còn những doanh nghiệp vừa và nhỏ thì ít có khả năng gom vốn trên thị trường bằng cách bán các chứng khoán của mình. Thay vào đó họ thường tìm kiếm sự tài trợ từ phía ngân hàng. Chính những nguyên nhân trên làm cho các doanh nghiệp vẫn rất ưa thích hình thức vay vốn trung và dài hạn từ ngân hàng bên cạnh các nguồn vốn khác. ở Việt Nam, nguồn vốn vay ngân hàng lại càng có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vì hệ thống thị trường vốn của ta còn chưa hoàn chỉnh, thị trường chứng khoán còn đang ở gian đoạn sơ khai. Ngân hàng luôn là nguồn bổ sung vốn cố định quan trọng nhất cho doanh nghiệp. Tuy vậy, đầu tư vốn cố định của ngân hàng không rải đều cho mọi đơn vị mà tập trung chủ yếu vào các đơn vị kinh doanh có hiệu quả, có xu hướng phát triển với các điều kiện tín dụng ưu đãi hơn. Còn đối với một số doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, ngân hàng sẽ thắt chặt điều kiện vay vốn, thậm chí từ chối cấp tín dụng. Do vậy để có vốn đầu tư phát triển, để vươn lên và đứng vững trong cơ chế thị trường, bản thân doanh nghiệp phải đổi mới, tổ chức lại sản xuất kinh doanh sao cho có hiệu quả. + Đối với nền kinh tế. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng có hiệu quả sẽ có tác động đến mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Nó góp phần giải quyết nạn thất nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và do vậy cũng giảm bớt các tệ nạn xã hội. Phát triển cho vay trung và dài hạn sẽ giảm bớt đáng kể gánh nặng cho ngân sách nhà nước, giảm các khoản bao cấp từ ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản, góp phần giảm bớt thâm hụt ngân sách. So với hình thức cấp phát vốn từ ngân sách, hình thức tín dụng ngân hàng rõ ràng là có hiệu quả hơn. Bởi lẽ đồng vốn lúc này gắn liền với quyền lợi của ngân hàng cũng như của doanh nghiệp. Đối với ngân hàng để bảo toàn vốn, họ phải ._.theo dõi sát xao đồng vốn của mình và trong những trường hợp cần thiết phải tư vấn cho doanh nghiệp, đưa ra những lời khuyên bổ ích cho doanh nghiệp để đảm bảo đồng vốn sinh lời. Còn với doanh nghiệp lãi suất tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng là chi phí khá cao đối vơí doanh nghiệp, đặc biệt nếu không sử dụng có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ phải chịu lãi suất phạt, tức là lãi suất nợ quá hạn. Do vậy tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế thúc đẩy doanh nghiệp khai thác triệt để hiệu quả của đồng vốn, đồng thời cũng nâng cao tinh thần trách nhiệm của doanh nghiệp, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả và chiến thắng trong cạnh tranh. Với tư cách là trung gian tài chính đi vay để cho vay, ngân hàng huy động các khoản tiền nhỏ nằm rải rác trong các doanh nghiệp và trong dân cư, biến thành nguồn vốn lớn để đầu tư cho các dự án có tính khả thi cao. Do vậy, tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn của nền kinh tế. Thông qua huy động và cho vay theo dự án có định hướng, tín dụng ngân hàng là động lực mạnh mẽ đối với việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân cũng như cơ cấu kinh tế trong từng ngành, từng vùng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá-hiệnđại hoá. Đối chiếu thực tế hiện nay, vốn trong nước và nước ngoài được hút qua kênh tín dụng ngân hàng đã đầu tư cho các tổ chức kinh tế mua vật tư hàng hoá, trang thiết bị và đổi mới công nghệ chiếm tỷ trọng rất lớn. Hầu hết các chương trình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tạo việc làm, xây dựng nhà xưởng... đều có vốn ngân hàng tham gia. Xuất phát từ những lợi ích to lớn mà tín dụng ngân hàng đem lại, cùng với nhu cầu vốn đầu tư trung và dài hạn của nền kinh tế là rất lớn, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam phải nỗ lực hết mình để tìm mọi cách mở rộng tín dụng trung và dài hạn và một điều tất yếu là để đảm bảo an toàn vốn thì mục tiêu mở rộng tín dụng này phải luôn gắn với nâng cao chất lượng tín dụng. Phần viết sau sẽ đi vào tìm hiểu các khái niệm mở rộng tín dụng, chất lượng tín dụng và mối quan hệ giữa hai khái niệm này. 1.2 Mở rộng tín dụng trung và dài hạn phải gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng. 1.2.1 Chất lượng tín dụng trung và dài hạn và các tiêu thức đánh giá. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt, để đứng vững, tồn tại và vươn lên, các ngân hàng thương mại không ngừng phải duy trì, cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là nâng cao chất lượng tín dụng. Để làm được điều đó thì điều kiện đầu tiên là phải hiểu rõ được bản chất của khái niệm chất lượng tín dụng, có như vậy thì những giải pháp đưa ra mới hữu hiệu và có tính khả thi. Vậy chất lượng tín dụng là gì? Tín dụng là mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời gian đã thoả thuận. Tín dụng là một sản phẩm dịch vụ ngân hàng, trong đó ngân hàng đóng vai trò là người bán (bán quyền sử dụng tiền hoặc tài sản) và người đi vay đóng vai trò là người mua (mua quyền sử dụng tiền hoặc tài sản). Do vậy, để có thể có một khái niệm đúng đắn về chất lượng tín dụng, chúng ta cần phải xem xét nó ở cả hai phía: Phía ngân hàng và phía khách hàng. Bởi vì khi nhìn nhận về chất lượng tín dụng, ngân hàng và khách hàng sẽ có 2 cách nhìn khác nhau với những tiêu thức khác nhau. 1.2.1.1 Những tiêu thức thuộc về phía khách hàng. "Chất lượng sản phẩm là năng lực của sản phẩm thể hiện trong việc thoả mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng”. Xuất phát từ khái niệm này với tư cách là một trong những sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, tín dụng ngân hàng để được khách hàng đánh giá là "có chất lượng” thì bản thân nó phải thoả mãn những nhu cầu, mong muốn của khách hàng. Khi vay vốn ngân hàng, khách hàng luôn đòi hỏi được cấp tín dụng mau chóng, kịp thời, thủ tục xem xét tiện dụng và dễ dàng cho khách hàng. Điều này sẽ giúp khách hàng tiết kiệm thời gian, chi phí giao dịch, đi lại... và quan trọng nhất là giúp khách hàng nắm bắt kịp thời cơ hội kinh doanh. Đó chính là một trong những tiêu thức đánh giá chất lượng tín dụng từ phía khách hàng. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu của con người ngày càng tăng lên và đương nhiên đòi hỏi về chất lượng của bất kỳ sản phẩm, dịch vụ nào cũng tăng lên không ngừng. Sự khám phá và đáp ứng kịp thời nhu cầu đó sẽ khiến cho ngân hàng giành được thắng lợi trong cạnh tranh. Khách hàng không chỉ mong muốn được cấp tín dụng mau chóng, kịp thời mà còn cần ở ngân hàng sự cảm thông, chia sẻ khó khăn, sẵn sàng tham mưu cố vấn cho họ để hoạt động kinh doanh của khách hàng luôn tồn tại và phát triển trên thị trường. Muốn vậy, ban lãnh đạo cũng như nhân viên ngân hàng phải là người có trách nhiệm, khi khách hàng đứng trước những rủi ro phải mạnh dạn đưa ra những giải pháp hữu hiệu để cứu nguy cho các doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, với tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ, đòi hỏi ngân hàng phải là người cung cấp, phân tích, xử lý thông tin nhanh chóng, kịp thời để cung cấp cho khách hàng, góp phần giúp khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, hạn chế thấp nhất rủi ro. Như vậy, đứng từ góc độ khách hàng, với tư cách là người đi mua hàng (một loại hàng hoá đặc biệt - hàng hoá “tín dụng”) thì chất lượng tín dụng của ngân hàng phải đảm bảo thoả mãn được những nhu cầu, mong muốn của khách hàng. Nhiệm vụ của ngân hàng là phải phát hiện ra những nhu cầu của khách hàng và thoả mãn nó một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, những khoản cho vay của ngân hàng chỉ được coi là có chất lượng cao khi nó được khách hàng sử dụng một cách có hiệu quả, đúng mục đích. Doanh nghiệp không những bảo tồn được vốn ngân hàng mà còn phải làm cho nó sinh sôi nảy nở, hay nói cách khác, đồng vốn đó vừa cả đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, vừa phải đảm bảo trả gốc và lãi cho ngân hàng. Đây cũng chính là tiêu thức để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. 1.2.1.2 Những tiêu thức thuộc về phía ngân hàng. Chúng ta biết rằng hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng nhưng cũng đồng thời là hoạt động có tính rủi ro cao nhất. Do vậy song song với việc mở rộng tín dụng tín dụng, ngân hàng luôn phải nâng cao chất lượng tín dụng,đảm bảo an toàn vốn. Khái niệm chất lượng tín dụng là một khái niệm rộng, vừa mang tính cụ thể (Thể hiện qua các chỉ tiêu có thể tính toán được như kết qủa kinh doanh, nợ quá hạn...) vừa mang tính trừu tượng(thể hiện ở khả năng thu hút khách hàng, thoả mãn nhu cầu khách hàng...) Ngân hàng sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau để đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn, sau đây là một số chỉ tiêu cơ bản. * Chỉ tiêu đánh giá khả năng thu hồi vốn. + Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Nợ quá hạn là khoản nợ mà thời gian tồn tại của nó vượt quá thời gian cho vay theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng cộng với thời gian đã được gia hạn thêm nếu khách hàng yêu cầu. Thông thường đây được coi là những khoản cho vay có vấn đề, là những khoản cho vay đã quá hạn ít nhất là 90 ngày. Nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng và phổ biến nhất khi đánh giá chất lượng tín dụng bởi vì nợ quá hạn biểu hiện cho những rủi ro tiềm ẩn về khả năng thu hồi gốc và lãi của ngân hàng. Tuy nhiên, khi đánh giá nợ quá hạn cần xem xét chi tiết hơn thông qua việc phân loại nợ quá hạn, có 2 loại nợ quá hạn: - Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản nợ mà người vay vẫn có thể tiếp tục trả được nợ ngân hàng. Lý do của các khoản nợ bị chậm trễ này có thể do tính chủ quan nhất định chẳng hạn như ngân hàng định kỳ hạn trả nợ chưa phù hợp, hoặc sự thay đổi về cơ chế, luật pháp, chính sách... hoặc do những nguyên nhân khách quan như những thay đổi trên thị trường thế giới, thiên tai, địch hoạ... dẫn đến những thay đổi trong môi trường kinh tế làm cho dòng ngân quỹ của con nợ không ăn khớp với thời hạn đã dự tính trước. Kết qủa là con nợ không có khả năng hoàn trả tín dụng theo từng thời hạn đã cam kết. Do đó nợ quá hạn nảy sinh. - Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là các khoản nợ mà người vay rất ít có khả năng trả nợ ngân hàng, do đó ngân hàng bị mất vốn do người vay lừa đảo ngân hàng hoặc làm ăn thua lỗ, dẫn đến không trả được nợ ngân hàng. Dư nợ quá hạn Tổng dư nợ Chỉ tiêu đánh giá: - Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ = 100% x Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. Dư nợ quá hạn không có khả năng thu hồi Tổng dư nợ quá hạn - Tỷ lệ nợ quá hạn không có khả năng = 100% x thu hồi chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. Ngoài hai chỉ tiêu trên, để đánh giá một cách cụ thể hơn, chi tiết hơn, các ngân hàng còn phân loại nợ quá hạn theo phần trăm khả năng thu hồi (100%, 80%, 60%...). Việc phân loại này được căn cứ vào thời gian quá hạn của khoản nợ, tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính, hành vi, thái độ và mong muốn trả nợ của người vay. *Chỉ tiêu đánh giá mức độ thu lãi: Doanh số thu nợ trong năm Tổng dư nợ bình quân trong năm - Tốc độ chu chuyển vốn: Vòng quay của vốn tín dụng trong năm = Vòng quay vốn tăng lên tức là ngân hàng có nhiều vốn hơn từ thu nợ để tiếp tục đầu tư và mỗi một lượng vốn nhất định lưu thông trên thị trường thì tương ứng với một lượng hàng hóa được tạo ra. Thông qua đó ngân hàng còn tăng cường cho vay ngắn hạn và thực hiện các dịch vụ khác. Do vậy chỉ tiêu trên càng lớn càng tốt. - Thu thập từ tiền lãi ròng: Mức lãi ròng từ hoạt động tín dụng được tính bằng cách lấy thu nhập từ lãi cho vay trừ đi chi phí lãi (lãi suất phải trả cho tất cả các khoản tiền gửi, chứng chỉ tiền gửi và tiền vay trực tiếp...) chia cho tổng tài sản có sinh lãi ròng đó. Chỉ tiêu này cũng rất quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng vì ngân hàng cũng như các đơn vị kinh doanh khác hoạt động với mục tiêu lợi nhuận. Do vậy chất lượng tín dụng không thể đánh giá cao nếu lợi nhuận mà nó mang lại âm, thậm chí bằng không. Tuy nhiên ngân hàng không phải lúc nào cũng quan tâm đến việc nâng cao lợi nhuận. Có thời kỳ chủ trương của ngân hàng là nâng cao lợi nhuận thì họ năng động hơn trong việc tìm kiếm nguồn vốn lãi suất thấp và cho vay với lãi suất cao. Nhưng có những thời kỳ ngân hàng chủ trương lợi nhuận vừa phải mục đích lôi kéo khách hàng, kết hợp cho vay ngắn hạn và thực hiện các dịch vụ khác. Nói chung lợi nhuận đem lại cao và ổn định là biểu hiện của chất lượng tín dụng cao của ngân hàng. - Lãi treo: Lãi treo là khoản lãi tính trên nợ quá hạn mà ngân hàng chưa thu được. Vì đây là số tiền mà ngân hàng chưa chắc chắn thu được và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro nên dư nợ lãi treo càng nhỏ càng tốt. Trên đây là những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng nói chung. Là một bộ phận, một hình thức của tín dụng, chất lượng tín dụng trung và dài hạn cũng được tính toán theo những chỉ tiêu đó. Tuy nhiên những chỉ tiêu này cần phải được đặt trong những mối quan hệ, so sánh với các hoạt động khác của ngân hàng. Việc so sánh các chỉ tiêu trên với những chỉ tiêu tương ứng của tín dụng ngắn hạn và hoạt động tín dụng nói chung là rất cần thiết để đảm bảo và đánh giá được toàn diện, khách quan và đồng thời nó cũng phản ánh chi phí cơ hội của việc đầu tư vốn. Nếu hoạt động cho vay trung và dài hạn của ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi thấp tương đương với tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi của hoạt động cho vay ngắn hạn nhưng lãi ròng trên một đồng vốn đầu tư thấp hơn so với tín dụng ngắn hạn thì rất có thể ngân hàng sẽ phải tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn, giảm tỷ trọng cho vay trung và dài hạn. Cũng vậy, mặc dù những khoản cho vay trung và dài hạn của ngân hàng trước mắt không có dấu hiệu gì rủi ro hoặc rủi ro thấp nhưng đặc tính kỳ hạn dài của những khoản vay này làm cho ngân hàng khó có thể tính trước được hết những biến động, sự cố có thể xảy ra. Sự không tương thích về kỳ hạn và lãi suất ở “đầu ra” và “đầu vào” sẽ có thể gây ra cho ngân hàng những khó khăn về tính thanh khoản, sự suy giảm thậm chí phá sản trong tương lai. Do vậy, tín dụng trung và dài hạn chỉ được coi là có chất lượng khi nó được đặt trong một kế hoạch, chiến lược tổng thể của ngân hàng với mọi điều kiện về tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, lãi suất, cách thức thu hồi nợ gốc và lãi... phù hợp với những yếu tố đầu vào, tính toán một cách khoa học và chi tiết những biến cố, rủi ro có thể xảy ra (lượng hóa rủi ro). 1.2.2 Mở rộng tín dụng trung dài hạn và các hình thức mở rộng Tín dụng trung và dài hạn là một khoản mục trong nghiệp vụ tài sản có của ngân hàng và một phần nghiệp vụ dịch vụ ngoài bảng cân đối kế toán (đối với tín dụng bảo lãnh trung và dài hạn). Khối lượng tín dụng biểu hiện ở 2 mặt: - Mặt tuyệt đối biểu hiện ở số dư tuyệt đối của khoản mục này. - Mặt tương đối biểu hiện ở tỉ trọng số dư của các khoản mục này trong tổng số các khoản mục cho vay và đầu tư trong và ngoài bảng cân đối kế toán. Mở rộng tín dụng trung và dài hạn có hai hình thức biểu hiện: - Mở rộng tuyệt đối: là tăng số dư của các khoản mục này trong và ngoài bảng cân đối kế toán so với kỳ trước. - Mở rộng tương đối tín dụng trung và dài hạn là tăng tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn trong tổng số dư nợ và đầu tư của ngân hàng. Việc tăng tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn là làm thay đổi cơ cấu hoạt động kinh doanh ngân hàng theo hướng tăng hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Việc mở rộng tín dụng trung và dài hạn thường được thực hiện bằng cách tăng cả về mặt tương đối và tuyệt đối của những loại hình tín dụng trung và dài hạn mà ngân hàng đang áp dụng trên cơ sở lôi kéo thêm khách hàng, mở rộng thị trường, mở rộng ngành nghề lĩnh vực đầu tư. Ngoài ra mở rộng tín dụng trung và dài hạn cũng có thể thực hiện bằng cách thực hiện hình thức tín dụng trung và dài hạn mới mà trước đó trong hoạt động ngân hàng chưa có. Việc áp dụng hình thức tín dụng mới thường làm tăng số dư tuyệt đối, số tương đối của tín dụng trung và dài hạn trong tổng số dư hoạt động của ngân hàng. 1.2.3 Mở rộng tín dụng trung và dài hạn phải gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng. Như phần trên đã trình bày, ta có thể thấy được tín dụng trung và dài hạn có một vai trò rất to lớn đối với doanh nghiệp, ngân hàng cũng như nền kinh tế nói chung. Do vậy, nhu cầu mở rộng tín dụng trung và dài hạn là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc mở rộng tín dụng trung dài hạn phải gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng vì giữa chúng có một mối liên hệ rất mật thiết: - Quá trình mở rộng tín dụng trung dài hạn sẽ tạo điều kiện để nâng dần tỷ trọng những món tín dụng có chất lượng cao làm cho chất lượng tín dụng nói chung cũng được nâng lên. Sự mở rộng này không những được thực hiện bằng cách tăng thêm các món cho vay có chất lượng cao mà còn là quá trình thay thế những món tín dụng ít chất lượng bằng những món có chất lượng hơn. - Việc mở rộng tín dụng nếu không tính toán cẩn thận, thực hiện một cách nóng vội, thiếu khoa học sẽ làm tăng tính rủi ro và làm giảm chất lượng tín dụng nói chung. - Việc nâng cao chất lượng tín dụng đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng được những yêu cầu chặt chẽ của điều kiện tín dụng. Tuy nhiên, nếu các điều kiện của tín dụng được đưa ra quá chặt chẽ, không phù hợp với tình hình kinh tế xã hội và pháp lý sẽ làm bỏ lỡ những đầu tư có hiệu quả; điều đó làm việc mở rộng tín dụng trung dài hạn bị hạn chế. Việc không thường xuyên quan tâm đến nâng cao chất lượng tín dụng trong quá trình mở rộng tín dụng sẽ làm cho việc mở rộng tín dụng thiếu vững chắc và dễ đẩy ngân hàng sa lầy vào tình trạng khó thu hồi vốn. Tóm lại, mở rộng và nâng cao chất tín dụng trung dài hạn được gắn bó chặt chẽ với nhau. Quá trình mở rộng tín dụng trung và dài hạn phải gắn liền với nâng cao chất lượng, việc nâng cao chất lượng không làm cản trở mà phải thúc đẩy việc mở rộng tín dụng trung dài hạn một cách đúng hướng. Coi trọng cả hai mặt mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng là yêu cầu của mỗi ngân hàng thương mại hiện nay. 1.3.Điều kiện mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. 1.3.1.Về phía doanh nghiệp 1.3.1.1.Nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp là điều kiện để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Nhu cầu đầu tư trung dài hạn của doanh nghiệp quyết định nhu cầu vay vốn trung dài hạn ngân hàng. Bởi vì, một ngân hàng mặc dù có nguồn vốn trung dài hạn khá dồi dào nhưng nếu nhu cầu về vốn vay trung dài hạn đối với ngân hàng là không có hoặc quá ít thì ngân hàng sẽ không hình thành và mở rộng được hoạt động cho vay trung dài hạn. Khi đặt ra một chiến lược mở rộng tín dụng trung dài hạn thì ngân hàng phải thực hiện việc xác định và dự đoán nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp với ngân hàng. Trên cơ sở đó ngân hàng sẽ chủ động đặt kế hoạch huy động vốn của nền kinh tế trên các khía cạnh sau: - Xem xét nhu cầu vay vốn đầu tư vào tài sản cố định chung của nền kinh tế và xu hướng biến động của nó. Ngân hàng dựa trên tình hình kinh tế trong hiện tại và những dự đoán trong tương lai để đi đến kết luận trong thời gian tới các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư nhiều vào tài sản cố định không. Chẳng hạn, nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển, sản xuất chưa đạt đến sản lượng tiềm năng, tài nguyên còn nhiều thì chắc chắn các doanh nghiệp rất muốn đầu tư vào tài sản cố định để tăng năng lực sản xuất, tăng lợi nhuận và ngược lại. Nhu cầu đầu tư còn bị ảnh hưỏng bởi chính sách khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế của nhà nước vào các ngành. Trong thời gian tới ngành nào được khuyến khích phát triển thì nhu cầu đầu tư vào ngành đó sẽ cao hơn các ngành khác và ngược lại. - Xác định được đặc trưng của từng nhóm khách hàng vay vốn, xác định các lĩnh vực mà ngân hàng có thể đầu tư vốn dài hạn theo ngành hay thành phần kinh tế . Sau khi đã phân chia nhu cầu vay vốn theo các thị trường, ngân hàng xem xét sự ổn định của từng loại thị trường trước sự thay đổi của các chính sách Nhà nước và dự đoán xu hướng phát triển trong tương lai. Trên cơ sở đó ngân hàng đi tới các quyết định nên đầu tư nhiều vào lĩnh vực nào thì an toàn hơn và không nên đầu tư vào lĩnh vực nào rủi ro lớn mặc dù nhu cầu xin vay nhiều. 1.3.1.2.Khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn của tín dụng trung và dài hạn : Các doanh nghiệp có thể có mong muốn, nhu cầu đầu tư rất lớn nhưng nếu doanh nghiệp không có khả năng làm cho đồng vốn đi vay sinh lãi thì ngân hàng đành phải bó tay, chịu cảnh “đồng vốn bị đông cứng”. Do vậy, khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện tiêu chuẩn tín dụng trung dài hạn được các ngân hàng coi là nhân tố quan trọng hàng đầu và cũng là mối quan tâm lớn nhất của các ngân hàng thương mại hiện nay. Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn tín dụng thể hiện ở các mặt sau: Năng lực thị trường của doanh nghiệp. Năng lực này thể hiện ở khối lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp, vị trí của doanh nghiệp trong nền kinh tế, vị trí trên thị trường trong nước hay quốc tế, vị trí và tương lai phát triển của ngành kinh tế mà doanh nghiệp đang hoạt động... Năng lực thị trường cho biết khả năng thích ứng của doanh nghiệp với thị trường, thể hiện mức độ chấp nhận của thị trường đối với những sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp có năng lực thị trường càng cao thì độ rủi ro càng thấp và ngân hàng càng có điều kiện mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn. Năng lực sản xuất của doanh nghiệp: Nghiên cứu năng lực sản xuất của doanh nghiệp cho biết quy mô sản xuất của doanh nghiệp, sự đáp ứng của quy mô ấy với thị trường, cơ cấu và việc làm chủ giá thành của sản phẩm. Qua đó ngân hàng thấy được tính cấp thiết, qui mô phải đầu tư mới. Biểu hiện cụ thể và rõ nhất và năng lực sản xuất là doanh nghiệp phải sản xuất ổn định và có lãi. Điều nay được quy định cụ thể trong điều kiện tín dụng của ngân hàng. Năng lực tài chính của doanh nghiệp. Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khối lượng và tỷ trọng vốn tự có trong tổng số nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng. Điều kiện tín dụng thường quy định một tỷ lệ cụ thể, tối thiểu của vốn tự có trong tổng nguồn vốn hoạt động hay tỷ lệ vốn đầu tư tự có tương ứng với khối lượng vốn vay, tỷ lệ vốn tự có tham gia dự án vay vốn. Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng của ngân hàng càng lớn. Năng lực quản lý của doanh nghiệp. Sự thành bại của doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào năng lực quản lý của doanh nghiệp đó. Do vậy, việc thẩm định khả năng của bộ máy quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá những người quản lý này có khả năng xoay sở trong mọi tình huống hay không là rất cần thiết đối với ngân hàng. Nhất là trong cho vay trung dài hạn, do thời gian dài, nhiều rủi ro, nhiều biến động bất ngờ thì tài xoay sở của doanh nghiệp sẽ làm cho đồng vốn đầu tư của ngân hàng ít chịu rủi ro hơn. Quyền sở hữu tài sản và khả năng đáp ứng các biện pháp đảm bảo. Việc đòi hỏi biện pháp đảm bảo bằng các hình thức thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của người thứ ba có mục tiêu là tạo quyền chủ động của ngân hàng, được ưu tiên thanh toán từ tài sản khi có rủi ro. Do vậy doanh nghiệp có tài sản đảm bảo càng có giá trị, dễ phát mại thì ngân hàng càng mong muốn mở rộng tín dụng nói chung và tín dụng trung dài hạn nói riêng. Tính khả thi của dự án. Trong điều kiện hiện nay, tính khả thi của dự án đã được coi là một điều kiện tín dụng mà các Ngân hàng rất quan tâm xem xét. Nên doanh nghiệp thuyết trình và chứng minh được dự án xin được vay vốn đầu tư là có tính khả thi thì ngân hàng sẽ có cơ sở để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn. 1.3.2 Về phía ngân hàng 1.3.2.1 Khả năng về nguồn vốn cho vay trung dài hạn của ngân hàng Để đáp ứng nhu cầu vốn cho vay trung dài hạn, ngân hàng có thể huy động từ các nguồn sau: Vốn chủ sở hữu ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung dài hạn phụ thuộc vào tương quan giữa vốn chủ sở hữu ngân hàng với tổng khối lượng vốn huy động và vốn cho vay đối với một khách hàng. Để đảm bảo chất lượng tín dụng cho Ngân hàng, hạn chế rủi ro, luật các tổ chức tín dụng quy định các điều kiện ràng buộc ngân hàng về mặt pháp lý đối với phạm vi giới hạn tín dụng là tổng dư nợ cho vay một khách hàng không được vượt quá 15% vốn chủ sở hữu của ngân hàng và giao cho thống đốc ngân hàng nhà nước quy định tỷ lệ tối thiểu giữa vốn tự có và tài sản có. Vì vậy vốn chủ sở hữu ngân hàng quyết định khối lượng tín dụng tối đa cho một doanh nghiệp , quyết định khả năng huy động vốn tối đa của ngân hàng. Từ đó quyết định chiến lược mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng . Các nguồn vốn khác. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng sử dụng trong cho vay trung dài hạn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ như trong tổng số nguồn vốn cho vay trung và dài hạn. Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn vay trung dài hạn chủ yếu từ các nguồn sau: - Vốn huy động và đi vay trong nước và ngoài nước có kỳ hạn từ một năm trở lên. - Một phần vốn huy động trong nước có kỳ hạn dưới một năm (Vốn huy động ngắn hạn) được thống đốc ngân hàng nhà nước cho phép sử dụng để cho vay trung dài hạn. - Vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư của nhà nước, của các tổ chức kinh tế xã hội trong và ngoài nước. Những nguồn vốn này thường không có cùng kỳ hạn. Cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn mặc dù không có vai trò quyết định nhưng nó ảnh hưởng lớn tới kỳ hạn của vốn cho vay. Ngân hàng thương mại có thể dùng những khoản tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung dài hạn nhưng hoạt động này chỉ giới hạn ở tỷ lệ nhất định của nguồn vốn ngắn hạn để đảm bảo tính thanh khoản của tài sản có. Do vậy, việc mở rộng tín dụng trung dài hạn phải xem xét đến nguồn vốn huy động và cơ cấu của nó, đặc biệt là phải có sự chuẩn bị chu đáo về những nguồn vốn huy động có kỳ hạn từ một năm trở lên. 1.3.2.2 Năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định, giám sát, xử lý tín dụng. Như ta đã biết, nhu cầu, mong muốn và khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng của doanh nghiệp là tiền đề trước tiên cho việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng. Tuy nhiên, trong một nền kinh tế, bên cạnh những doanh nghiệp có tiềm năng, sản xuất kinh doanh hợp pháp và luôn cố gắng giữ chữ tín đối với khách hàng thì vẫn còn vô số những doanh nghiệp làm ăn thiếu trung thực, theo kiểu lừa đảo, chụp giật, thiếu đạo đức kinh doanh. Thực tế này buộc các ngân hàng phải hết sức chú trọng trước khi cho vay, tránh chọn lầm đối tượng hay còn gọi là chọn lựa đối nghịch. Để khắc phục rủi ro do lựa chọn đối nghịch, ngân hàng cần có năng lực thẩm định tín dụng tốt (trước hết là năng lực thẩm định khách hàng và món vay tốt). Năng lực thẩm định tốt sẽ loại trừ được những sai lệch của thông tin mà doanh nghiệp cung cấp, lựa chọn được những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có uy tín. Bên cạnh rủi ro do lựa chọn đối nghịch (xảy ra trước giao dịch), các ngân hàng còn phải đối mặt với rủi ro xảy ra sau khi giao dịch, đó là “rủi ro đạo đức” của khách hàng. Đó là rủi ro mà người cho vay phải gánh chịu khi người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt (hay còn gọi là thiếu đạo đức-xét theo quan điểm của người vay) làm cho món vay ít có khả năng hoàn trả. Để giảm thiểu rủi ro này, Ngân hàng cần có khả năng giám sát và xử lý tín dụng tốt. Việc theo dõi sát sao món vay sẽ là biện pháp quan trọng ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi xuất phát từ bản thân ý thức trả nợ của khách hàng. Trong cùng một môi trường kinh tế xã hội như nhau, với các điều kiện tác động về cơ bản giống nhau thì có những ngân hàng có tình hình tín dụng trung dài hạn rất khả quan nhưng ngược lại cũng có không ít những ngân hàng có quy mô cũng như chất lượng tín dụng rất thấp. Như vậy, rõ ràng là khả năng thẩm định, giám sát, xử lý tín dụng là vô cùng quan trọng đối với việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng. 1.3.2.3 Tiêu chuẩn tín dụng mà ngân hàng đưa ra Tiêu chuẩn tín dụng cụ thể hoá điều kiện tín dụng. Đó là một hệ thống các chỉ tiêu, các biểu hiện cụ thể của doanh nghiệp cần phải đạt để được vay vốn ngân hàng. Tiêu chuẩn tín dụng càng cao, khả năng mở rộng tín dụng càng hạn chế, khả năng thu hút khách hàng thấp, nhưng bù lại tính an toàn cao. Ngược lại, tiêu chuẩn tín dụng thấp thì có điều kiện mở rộng tín dụng nhưng dễ mất an toàn. Việc đưa ra tiêu chuẩn tín dụng gắn chặt với chiến lược tín dụng , chính sách khách hàng, cơ chế tín dụng và nó ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng trung dài hạn, cũng như ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung dài hạn. 1.3.3 Tác động của môi trường kinh tế xã hội đối với việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại. Hoạt động của các ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác đều phải chịu sự chi phối, tác động của môi trường kinh tế xã hội. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển các tế bào kinh tế xã hội nằm trong nó. Bởi vì sự phát triển của mỗi một đơn vị, mỗi tổ chức kinh tế xã hội phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của tổng thể nền kinh tế, sự phát triển của thị trường hàng hoá, sự hoàn thiện của môi trường pháp lý, các chính sách kinh tế xã hội của nhà nước. Doanh nghiệp hoạt động trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa phát triển, thị trường trong nước và nước ngoài thông thương, thuận lợi, hệ thống thông tin ngày càng phát triển đa dạng, hiện đại, sự xuất hiện ngày càng nhiều các tổ chức dịch vụ như tư vấn đầu tư, bảo hiểm... các chính sách kinh tế xã hội của nhà nước như chính sách xuất nhập khẩu, thuế quan, chính sách đầu tư...luôn tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, môi trường pháp lý vừa chặt chẽ, vừa thông thoáng... sẽ làm cho doanh nghiệp có khát vọng đầu tư, mong muốn đầu tư và hỗ trợ mạnh mẽ cho việc đầu tư của doanh nghiệp có hiệu quả cao. Ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp khác nếu được hoạt động trong môi trường kinh tế xã hội thuận lợi sẽ có điều kiện phát huy hết những tiềm năng sức mạnh của mình. Ngân hàng thương mại thường xuyên chịu sự điều chỉnh của ngân hàng nhà nước, của luật về các văn bản dưới luật của Chính phủ. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, ngân hàng thương mại phải đảm bảo các tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, quy định về lãi suất, về tỷ giá hối đoái, quản lý ngoại tệ của ngân hàng nhà nước. Các hoạt động của ngân hàng thương mại cũng phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của từng ngành, từng địa phương... Sự tác động này tất yếu ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng. Tóm lại, do hoạt động của các cá nhân, tổ chức kinh tế cũng như các ngân hàng thương mại... đều chịu sự điều tiết, tác động mạnh mẽ của môi trường kinh tế xã hội nên hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại cũng không thể nằm ngoài sự tác động đó. Hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại có điều kiện để mở rộng và nâng cao chất lượng hay không, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào môi trường kinh tế xã hội. 2.1. Giới thiệu chung về Ngân hàng công thương Đống Đa 2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa là một ngân hàng cấp quận, trực thuộc ngân hàng công thương Việt Nam, có trụ sở đóng ở đường Tây Sơn, quận Đống Đa thành phố Hà Nội. Quận Đống Đa là một quận có địa bàn rộng lớn với tổng số 26 phường và dân số gần 40 vạn người, là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp chủ chốt của Trung ương và địa phương. Bên cạnh đó còn có rất nhiều công ty TNHH, các xí nghiệp tư nhân, các tổ sản xuất, các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và các hộ công thương. Trên khu vực quận cũng có nhiều điểm thương mại lớn nên khách hàng của ngân hàng công thương Đống Đa rất phong phú, đa dạng. Đây là một điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hoạt động huy động vốn cũng như sử dụng vốn của ngân hàng. Từ một đơn vị trực thuộc ngân hàng Nhà nước hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chuyển thành chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (từ ngày 1/7/1988) hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, ban đầu chi nhánh đã gặp không ít khó khăn, trở ngại. Thoát ra từ cơ chế cũ, ngân hàng phải đương đầu với nền kinh tế thị trường hết sức sôi động và cạnh tranh nghiệt ngã với trên 60 ngân hàng._.HNN. Một vấn đề cần chú ý là thông tin về doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng (Báo cáo Lưu chuyển tiền tệ, báo cáo kết quả Kinh doanh...) rất có thể là với các thông tin sai lệch. Trong điều kiện hiện nay khi việc bắt buộc các danh nghiệp thực hiện kiểm toán và công khai quyết toán còn chưa được Nhà nước qui định và khả năng khó có thể thực hiện trong tương lai gần do nhiều nguyên nhân khác nhau thì NHCT Đống Đa cũng phải có đối sách thích hợp để đảm bảo thông tin thu nhận được từ doanh nghiệp là chính xác. NHCT Đống Đa nếu đề ra qui định bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện kiểm toán trước khi vay vốn ngân hàng thì có lẽ sẽ tạo ra rào cản đối với khách hàng, khách hàng sẽ tìm đến các ngân hàng khác với các qui định thuận lợi, dễ dàng hơn. Do vậy, thiết nghĩ NHCT Đống Đa có thể tiến hành tuyển chọn một số nhân viên kiểm toán chuyên nghiệp vào làm việc tại ngân hàng. Các cán bộ thẩm định khi có nghi ngờ, khúc mắc về tính chính xác của số liệu mà doanh nghiệp cung cấp hoặc trong trường hợp các món vay lớn, phức tạp thì các nhân viên kiển toán này sẽ tiến hành trực tiếp kiểm toán. Việc xâydựng một hệ thống thông tin phục vụ công tác tín dụng không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của NHCT Đống Đa mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ từ các cơ quan khác như NHCT Trung ương, NHNN. NHCT Trung ương cũng như NHNN cần phải tạo lập một kho dữ liệu phong phú, đầy đủ, chính xác, tạo "vốn thông tin" cơ bản cho các ngân hàng thương mại, các chi nhánh trong đó có chi nhánh NHCT Đống Đa. Với sự góp sức của nhiều người, nhiều đơn vị tổ chức thì chất lượng thông tin mới trở nên phong phú và hữu ích. 3.2 Kiến nghị với NHCT Việt nam và Nhà nước để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại NHCT Đống Đa 3.2.1 Kiến nghị với NHCT Việt Nam Cũng như các chi nhánh khác trong cùng hệ thống, NHCT Đống Đa luôn chịu sự chỉ đạo sát sao và phải tuân thủ các qui định, thể lệ do NHCT Việt Nam ban hành, trong đó có những qui định liên quan chặt chẽ tới kết quả hoạt động cũng như tương lai phát triển của hoạt động tín dụng trung dài hạn. Chính vì vậy, với mục tiêu mở rộng và nâng cao cho vay tín dụng trung dài hạn tại NHCT Đống Đa, đề nghị NHCT Việt Nam xem xét một số vấn đề sau: 3.2.1.1 Xây dựng chế độ tín dụng phù hợp đối với các tổng công ty Nhà nước Trong thời gian gần đây các tổng công ty Nhà nước thành lập theo quyết định 90, 91 đang được coi là những khách hàng lớn được ưu tiên chú trọng đầu tư của NHCT Việt Nam. Tuy nhiên qua thực tế thực hiện công tác cho vay trung dài hạn đối với các doanh nghiệp thành viên trực thuộc các tổng công ty 90, 91 tại NHCT Đống Đa đã nảy sinh một vấn đề cần được nghiên cứu giải quyết: - Tổng công ty Nhà nước (TCT) là pháp nhân phức tạp. Bản thân tổng công ty là một pháp nhân, bên trong TCT là các thành viên cũng có năng lực pháp luật độc lập tương đối với TCT. Tính chất sở hữu, quản lý định đoạt tài sản của TCT cũng phức tạp. Căn cứ vào tầm quan trọng về độ lớn và giá trị tài sản mà có sự phân quyền giữa TCT và công ty thành viên về tính chất sở hữu, quản lý, định đoạt tài sản, về quyền được đầu tư. Mặt khác các doanh nghiệp thành viên đóng ở những địa bàn khác nhau, thiết lập quan hệ tín dụng và tiền gửi ở nhiều chi nhánh NHCT khác nhau. Các chi nhánh đã cấp nhiều khoản tín dụng ngắn hạn cũng như trung dài hạn cho các doanh nghiệp thành viên dưới sự bảo lãnh của TCT. Từng chi nhánh cũng như Hội sở chính NHCT không có thông tin tổng hợp toàn diện về tình hình vay mượn, bảo lãnh... của các doanh nghiệp thành viên trong mỗi TCT. Thông tin về nhu cầu đầu tư, qui hoạch của TCT, tình hình tài chính và kinh doanh toàn TCT rất hạn chế và phân tán. Sự không cân xứng về thông tin này chứa đựng những nguy cơ rủi ro tiềm ẩn. - Theo tính chất pháp lý có ba loại hình doanh nghiệp: thể nhân, pháp nhân, pháp nhân phức tạp. TCT Nhà nước thuộc loại pháp nhân phức tạp có các thành viên cũng có đủ tư cách pháp nhân. Tuy nhiên chế độ tín dụng hiện tại của NHCT lại được áp dụng chung cho cả ba loại hình pháp lý của doanh nghiệp nên còn thiếu tính cụ thể , rõ ràng và gây ra sự áp dụng máy móc trong việc thực hiện ở các chi nhánh. Để khắc phục nhược điểm này tôi xin đề xuất một số giải pháp sau: - Thứ nhất, NHCT cần ký kết và tham gia ngay từ đầu các kế hoạch dự án, quy hoạch tổng thể và đầu tư trung dài hạn của TCT, định kỳ thu thập tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của toàn TCT. Trên nền tảng đó có thể giao hạn mức tín dụng trung dài hạn cho chi nhánh nơi có doanh nghiệp thành viên TCT có quan hệ tín dụng khi doanh nghiệp đó thực hiện các dự án, các quy hoạch tổng thể của TCT. - Thứ hai, xây dựng chế độ báo cáo riêng của các chi nhánh về tình hình tài chính kinh doanh, tín dụng của các doanh nghiệp thành viên tập hợp, phân tích trong toàn TCT. - Thứ ba, xây dựng chế độ tín dụng cho TCT và các doanh nghiệp thành viên có thể yêu cầu TCT dùng tài sản thuộc quyền định đoạt của TCT hay các tài sản nằm trong quyền quản lý của các doanh nghiệp thành viên TCT có nhu cầu tín dụng thấp để bảo lãnh cho các doanh nghiệp thành viên khác của TCT vay vốn. Với việc thu nhận thông tin tổng hợp, toàn diện về TCT ngân hàng Trung ương có điều kiện nhanh chóng tiếp cận và xử lý nhu cầu đầu tư của TCT và từng doanh nghiệp thành viên. Việc xử lý cho vay ở NHCT Đống Đa cũng như các chi nhánh trong hệ thống này được nhanh chóng thuận lợi do giảm thông tin không cân xứng, tránh tình trạng các chi nhánh đầu tư tràn lan cho các doanh nghiệp thuộc cùng một TCT không xét duyệt thẩm định kỹ càng do "trông cậy" và tin tưởng vào sự bảo lãnh của TCT. Mặt khác tận dụng triệt để năng lực tài chính và năng lực đáp ứng tài sản làm đảm bảo của TCT, có điều kiện để mở rộng tín dụng ở chi nhánh NHCT Đống Đa nói riêng và các chi nhánh khác cùng hệ thống nói chung. 3.2.1.2 Tăng cường công tác thông tin cho các chi nhánh trong hệ thống NHCT Việt Nam Với tư cách là “ngân hàng mẹ”, NHCT Trung ương có những ưu thế và điều kiện thuận lợi hơn trong việc thu thập, phân tích và xử lý thông tin tín dụng. Do vậy để hệ thông thông tin của NHCT Đống Đa được đầy đủ, phong phú hơn, góp phần phục vụ tốt hơn cho công tác tín dụng, những thông tin thu được từ Hội sở chính NHCT phải đóng vai trò cơ sở nền tảng. Hội sở chính cần cung cấp thêm cho chi nhánh các thông tin về hoạt động của ngành như: lợi tức, lợi nhuận bình quân, giá trị sản lượng, các tỷ lệ tài chính bình quân, các thông tin về trình độ công nghệ của ngành, chủ trương, chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước, các qui hoạch tổng thể kinh tế, xã hội, các mối quan hệ tín dụng của khách hàng với các chi nhánh khác trong hệ thống và ngoài hệ thống. Xây dựng mối quan hệ trao đổi, mua bán thông tin giữa NHCT với NHNN, ngân hàng khác, các cơ quan thông tin và các cơ quan tư pháp nhằm phát hiện các trường hợp gian lận trong quá trình vay của doanh nghiệp để kịp thời xử lý. 3.2.1.3 Tăng cường hỗ trợ NHCT Đống Đa trong công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Để nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống, NHCT Việt Nam cần quan tâm bồi dưỡng không chỉ những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các chi nhánh mà còn cần tăng cường mở rộng việc bồi dưỡng đào tạo kiến thức và trình độ chuyên môn cho những cán bộ có năng lực, triển vọng tại các chi nhánh trong hệ thống. NHCT Việt Nam nên tổ chức các lớp tập huấn đào tạo riêng, mời các chuyên gia có chuyên môn cao giảng dạy hoặc cử cán bộ đi học ở các trường đại học, trung tâm nghiên cứu kinh tế, khoa học trong và ngoài nước. Cung cấp đầy đủ các tư liệu, văn bản qui phạm, qui chế, hướng dẫn về các nghiệp vụ chuyên môn cũng như những qui định có liên quan của chính phủ, của NHNN, NHCT cho mỗi cán bộ để họ có điều kiện tự tham khảo và nghiên cứu. 3.2.1.4 Kiến nghị về chiến lược khách hàng của NHCT Việt Nam Về chiến lược khách hàng theo quyết định số 35QĐ-HĐQT ngày 22/5/1998 của Chủ tịch HĐQT NHCT Việt Nam và công văn số 321 ngày 29/1/1999 của NHCT Việt Nam có điều qui định về ưu đãi lãi suất cho vay, phí dịch vụ, điều kiện vay vốn, ký quỹ, chế độ phân biệt ưu đãi lãi suất đối với khách hàng của ngân hàng có tổng mức dư nợ khác nhau như: - Đối với các ngân hàng có tổng dư nợ cho vay dưới 100 tỷ: khách hàng có dư nợ từ 5 tỷ trở lên được ưu đãi giảm lãi suất cho vay. - Đối với các ngân hàng có tổng dư nợ cho vay từ 100 tỷ tới 200 tỷ: khách hàng có dư nợ từ 7 tỷ trở lên được ưu đãi giảm lãi suất cho vay. - Đối với các ngân hàng có tổng dư nợ cho vay trên 200 tỷ: khách hàng có dư nợ từ 10 tỷ trở lên được ưu đãi giảm lãi suất cho vay. Do trên cùng một địa bàn khách hàng được lựa chọn ngân hàng nên quy định này sẽ gây ra tình trạng khách hàng rời bỏ ngân hàng đang giao dịch để tìm đến ngân hàng có tổng dư nợ thấp hơn để được hưởng lãi suất ưu đãi. NHCT Việt Nam cần xem xét lại qui định này để tạo ra sự bình đẳng về chế độ ưu đãi ở mọi chi nhánh, mọi khách hàng cần được hưởng sự ưu đãi lãi suất như nhau nếu khách hàng đó hoạt động tốt. 3.2.2 Kiến nghị với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 3.2.2.1 Tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng và an toàn cho hoạt động tín dụng ngân hàng * Nhà nước cần ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn về vấn đề thế chấp, cầm cố tài sản để cụ thể hoá các vấn đề sở hữu có liên quan tới việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền chuyển giao quyền sở hữu trong việc thế chấp và giải chấp tài sản. - Nhà nước cần có qui định chặt chẽ về việc tịch biên và phát mại tài sản thế chấp khi người đi vay dù ở thành phần kinh tế nào khi không trả được nợ vay ngân hàng phải được thực hiện trong một thời gian nhất định sau khi có phán quyết của toà án. Các qui định phải ràng buộc các ngành thực thi pháp luật như (công an, kiểm sát, toà án, thi hành án) coi việc giúp ngân hàng thực hiện xử lý tài sản thế chấp là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong chương trình góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế và đảm bảo trật tự, an ninh xã hội của bản thân các ngành thực thi pháp luật, loại bỏ quan niệm cho rằng việc xử lý thu hồi tài sản, tiền vốn đối với các khách hàng vay cố tình không trả nợ ngân hàng chỉ là công việc “giúp đỡ ngành ngân hàng”. - Nhà nước cần thành lập một cơ quan thực hiện công việc đăng ký thế chấp tài sản, giải trừ thế chấp tài sản. Cơ quan này có nhiệm vụ quản lý việc đăng ký thế chấp, giải trừ thế chấp, cung cấp những thông tin về bất động sản thế chấp nhanh chóng, chính xác khi giải quyết những vấn đề có liên quan đến thế chấp tài sản theo hướng Nhà nước không quan hệ vào những quan hệ giữa các bên trong giao dịch kinh tế mà chỉ tạo ra công cụ để các bên có thể sử dụng để tự bảo vệ quyền lợi của mình. Khi thực hiện xử lý tài sản thế chấp, nếu cần thiết, cơ quan này phải hỗ trợ bênthế chấp, nhận thế chấp xác định chính xác ranh giới, quyền sử dụng và sở hữu bất động sản trong khi nhà nước chưa thực hiện được việc cấp giấy chứng nhận như đã nêu ở trên. Cơ quan này cũng có chức năng định giá tài sản thế chấp theo qui định của nhà nước nhằm xác định đúng giá trị của tài sản khi vay vốn hoặc khi phát mại tài sản để thanh toán. Các thủ tục hành chính để tiến hành phát mại tài sản, giải quyết chuyển dịch sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua lại tài sản cần đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng giải toả các khoản nợ vay của bên thế chấp tài sản. * Nhà nước cần có những biện pháp thiết thực để đảm bảo tăng chất lượng thông tin cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng. - NHNN thành phố Hà Nội cần nắm vững phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế của thành phố, qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội trên toàn thành phố, những ngành kinh tế mũi nhọn để tư vấn cho các tổ chức tín dụng trên địa bàn đầu tư vốn cho các dự án của doanh nghiệp đúng hướng, phát huy được hiệu quả vốn tín dụng. - NHNN mở rộng phạm vi, nội dung thông tin tín dụng trên địa bàn nhằm cung cấp các thông tin theo yêu cầu của các tổ chức tín dụng về các doanh nghiệp, giúp cho các tổ chức tín dụng có những nhận định đúng và có cơ sở trước khi đầu tư vốn tín dụng cho các doanh nghiệp. - Nhà nước chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ kế toán thống kê và thông tin báo cáo theo đúng qui trình của nhà nước, ban hành qui chế bắt buộc kiểm toán và công khai quyết toán của doanh nghiệp. - Để phát huy trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin, nâng cao chất lượng thông tin cần thành lập các công ty tư vấn chuyên mua bán thông tin. Qua đó tách biệt vai trò quản lý Nhà nước của NHNN và vai trò kinh doanh thông tin của các công ty tư vấn. - Nhà nước qui định rõ các biện pháp chế tài, biện pháp xử lý nghiêm trong các trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin giả, sử dụng đồng thời hai loại cân đối... để đưa các doanh nghiệp hoạt động và phát triển nhằm nâng cao pháp chế XHCN. * Phân biệt rõ chức năng quản lý và kinh doanh để giảm thấp sự can thiệp của các cấp quản lý kinh tế vào việc thực hiện tín dụng trung dài hạn của NHCT Đống Đa. Trong quá trình thực hiện chế độ tín dụng trung dài hạn nhiều dự án cho vay của NHCT Đống Đa còn phải thực hiện dưới sức ép của các cấp chính quyền địa phương. Sự can thiệp quá sâu của các cấp quản lý kinh tế Nhà nước ngay cả khi doanh nghiệp vay không có đủ điều kiện và tiêu chuẩn tín dụng hay dự án đầu tư được xây dựng khi qui hoạch tổng thể về kinh tế tại địa phương chưa có. Do vậy, để trao quyền tự chủ trong kinh doanh cho Chi nhánh, tăng cường chất lượng tín dụng trung dài hạn, Nhà nước cần có chính sách quản lý cần thiết nhằm làm rõ chức năng, giảm sự can thiệp sâu vào hoạt động tín dụng của NHCT Đống Đa. 3.2.2.2 Nâng cao khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng của doanh nghiệp - Làm trong sạch lành mạnh hoá hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Ngân sách Nhà nuớc không đủ và không thể bao sân cho tất cả các doanh nghiệp Nhà nước thì nên tập trung cấp vốn cho một số doanh nghiệp lớn mang tính chất chủ đạo, giải thể, cho phá sản, bán đấu giá các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả, cổ phần hoá các doanh nghiệp còn lại. Thông qua đó các doanh nghiệp nhà nước còn lại sẽ có cơ hội để tăng vốn tự có, hiệu quả hoạt động và trên cơ sở này sẽ có điều kiện để tăng vốn vay ngân hàng, tiếp tục phát triển nhanh và mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu. - Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần phải rà soát lại vốn thực cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng vốn điều lệ cho phù hợp với qui mô và tốc độ phát triển của các doanh nghiệp. Đặc biệt các cơ quan chức năng cần phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp công ty “ma” có “vốn ảo”, thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn đăng ký kinh doanh, quyết định thành lập đối với các trường hợp vi phạm pháp luật: buôn lậu, làm hàng giả, lừa đảo... - Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của quỹ tín dụng hoặc quỹ đầu tư quốc gia cho các doanh nghiệp vay vốn đầu tư trung dài hạn ở các ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp được khuyến khích đầu tư, có phương án đầu tư có hiệu quả. 3.2.2.3 Tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp Để tạo tiền đề cho hoạt động tín dụng trung dài hạn Nhà nước cần có những biện pháp, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư. Một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp là chi phí đầu tư, trong đó có chi phí vay vốn ngân hàng. Ngoài lãi suất vay vốn, doanh nghiệp còn chịu các chi phí như: chi phí công chứng vay vốn, chi phí công chứng tài sản thế chấp. Hiện nay chi phí công chứng là 0,2% trên số tiền vay là quá cao như nhiều doanh nghiệp phàn nàn. Không những thế trong quá trình kinh doanh doanh nghiệp còn phải chịu nhiều chi phí khác như các khoản chi phí đăng ký sở hữu tài sản, các lệ phí không tên do tính quan liêu, mang nặng tính giấy tờ của các cơ quản lý hành chính Nhà nước. Do vậy để kích thích doanh nghiệp đầu tư Nhà nước cần rà soát lại toàn bộ các thủ tục, các loại lệ phí mà doanh nghiệp phải chịu và giảm cho doanh nghiệp. Mức lệ phí công chứng tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh cũng cần giữ cố định, không lệ thuộc vào số tiền vay hay thời gian thế chấp cầm cố. Ngoài ra các cơ quan quản lý vĩ mô cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc cân đối nhu cầu đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng, tránh tình trạng đầu tư ồ ạt vào một ngành, lĩnh vực nào đó gây lãng phí do cung vượt quá cầu. Đồng thời tiến hành cải cách các thủ tục hành chính, đơn giản hoá các thủ tục đầu tư nhằm tạo một môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn đối với các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó mở rộng tín dụng nói chung, tín dụng trung dài hạn nói riêng. Lời kết Trong suốt chặng đường hơn 10 năm thành lập và đổi mới, NHCT Đống Đa đã và đang không ngừng vươn lên, đạt được nhiều tiến bộ về mọi mặt. Được sự quan tâm chú ý của ban lãnh đạo ngân hàng, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của NHCT Đống Đa trong những năm qua đã có những chuyển biến tích cực. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn tăng liên tục qua các năm, được triển khai toàn diện ở cả lĩnh vực cho vay nội tệ và ngoại tệ, không phân biệt thành phần kinh tế, thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng, việc đầu tư được thực hiện một cách có trọng điểm với chất lượng tương đối cao, góp phần quan trọng giúp các doanh nghiệp khắc phục tình trạng thiếu vốn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế trên địa bàn quận. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của NHCT Đống Đa vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn còn chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong tổng dư nợ (14%), nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn chủ yếu là vốn ngắn hạn, thị trường vốn trung và dài hạn hầu như chưa được khai thác, hình thức tín dụng trung dài hạn chưa được đa dạng hoá, khả năng cho vay của ngân hàng còn nhỏ bé so với nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp. Những tồn tại và hạn chế này do những nguyên nhân khách quan và chủ quan đòi hỏi NHCT Đống Đa xem xét và khắc phục. Luận văn này tập hợp những nhận thức về lý luận và thực tế mà em đã tích luỹ được qua quá trình học tập ở trường và khảo sát tại Ngân hàng Công thương Đống Đa cùng một số giải pháp có thể áp dụng để mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Em mong rằng những giải pháp đề xuất trong luận văn này sẽ phần nào tháo gỡ được những khó khăn của NHCT Đống Đa và trong một chừng mực nào đó có thể áp dụng cho những NHTM khác ở Việt Nam hiện nay. Do hạn chế về thời gian khảo sát cũng như hạn chế về trình độ bản thân, bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và bạn bè để bài viết được hoàn thiện hơn. Tài liệu tham khảo Edword.W.Reed và Edword.K.Gill - Ngân hàng thương mại. F.S Mishkin - Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - NXB khoa học kỹ thuật 1995. Robert Raymond - Tiền tệ ngân hàng và tín dụng. Trần Tử Tô và Nguyễn Hoài Sản - Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê mua - NXB Trẻ thành phố Hồ Chí Minh 1996. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến năm 2000 - Viện kinh tế thế giới - NXB KHXH 1996 Hệ thống hoá các văn bản pháp luật về ngân hàng tập 2,3 - NXB Pháp lý. Hướng dẫn thực hiện quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng của NHCT Việt Nam. Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính Quy trình nghiệp vụ cho vay của NHCT Việt Nam (tháng 10/1997). Quyết định số 217/QĐ - NH1 ngày 17/8/1996 của NHNN quy định về việc ban hành quy chế thế chấp cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn Ngân hàng. Thể lệ tín dụng trung và dài hạn (ban hành theo quyết định số 367QĐ-NH1 ngày 21/2/1995 của Thống đốc NHNN Việt Nam). Tạp chí Ngân hàng các số năm 1997, 1998, 1999. Tạp chí thông tin khoa học Ngân hàng các số năm 1996, 1997 Tạp chí nghiên cứu kinh tế các số năm 1997, 1998, 1999. Báo đầu tư và thời báo kinh tế Việt Nam các số năm 1998. Báo cáo tổng kết các năm của chi nhánh NHCT Đống Đa. Mục lục Trang Lời mở đầu Chương I: tín dụng trung dài hạn và chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại 1.1.Vai trò của tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. 1 1.1.1.Tính tất yếu khách quan của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế. 1 1.1.2.Vai trò của tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. 5 1.2.Mở rộng tín dụng trung dài hạn phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng tín dụng 13 1.2.1.Chất lượng tín dụng trung dài hạn và các tiêu thức đánh giá 13 1.2.2.Mở rộng tín dụng trung dài hạn và các hình thức mở rộng 18 1.2.3.Mở rộng tín dụng trung dài hạn phải gắn với nâng cao chất lượng tín dụng 19 1.3.Điều kiện mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 20 1.3.1.Về phía doanh nghiệp 20 1.3.2.Về phía ngân hàng 22 1.3.3.Tác động của môi trường kinh tế xã hội đối với việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại 25 chương II: Thực trạng tín dụng và chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng công thương Đống Đa. 2.1.Giới thiệu chung về NHCT Đống Đa. 27 2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển. 27 2.1.2.Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa trong thời gian qua 29 2.2.Thực trạng tín dụng và chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng công thương Đống Đa trong những năm qua 35 2.2.1.Chế độ tín dụng trung dài hạn của ngân hàng công thương Việt Nam 35 2.2.2.Bộ máy, qui trình quản lý nghiệp vụ tín dụng trung dài hạn 37 2.2.3.Tình hình tín dụng trung dài hạn cuả ngân hàng công thương Đống Đa trong những năm qua 39 2.2.4.Đánh giá về tín dụng và chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng công thương Đống Đa 51 chương III: giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng công thương Đống Đa 3.1.Các giải pháp đối với ngân hàng công thương Đống Đa nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn 61 3.1.1.Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. 61 3.1.2.Các giải pháp mở rộng tín dụng trung và dài hạn. 72 3.1.3.Các giải pháp hỗ trợ. 79 3.2.Kiến nghị với ngân hàng công thương Việt Nam và nhà nước để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại NHCT Đống Đa 83 3.2.1.Kiến nghị với ngân hàng công thương Việt Nam 83 3.2.2.Kiến nghị với Nhà nước và NHNN Việt Nam. 86 Lời kết 90 Bảng 1: Tình hình huy động vốn của NHCT Đống Đa qua các năm Đơn vị: tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 Năm 1997 so với 1996 Năm 1998 so với 1997 1. Tiền gửi tiết kiệm 630 760 970 120.63% 127.63% Bằng VND 515 630 720 122.33% 114.28% Bằng ngoại tệ 115 130 250 113.04% 192.30% 2. Tiền gửi của các tổ chức KT 230 180 350 -20.44% 194.44% Bằng VND 188 145 350 -22.88% 241.38% Bằng ngoại tệ 42 35 50 -16.67% 142.85% 3. Phát hành kỳ phiếu 20.6 11 55 -46.61% 500% Bằng VND 20.6 9.8 17 -52.43% 173.47% Bằng ngoại tệ - 1.2 38 - 316.67% 4. Tiền gửi khác 8 6.5 10 -18.75% 153.84% Bằng VND 7.1 4.7 8 -33.8% 170.29% Bằng ngoại tệ 0.9 1.8 2 200% 111.11% Tổng vốn huy động 888.6 957.5 1385 107.75% 144.64% Bằng VND 730.7 789.5 1045 108.04% 132.36% Bằng ngoại tệ 157.9 168 340 106.4% 202.38% (Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh tổng hợp Ngân hàng Công thương Đống Đa) Bảng 2: Tình hình huy động vốn của NHCT Đống Đa qua các năm (phân loại theo tỷ trọng các hình thức huy động) Năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1. Tiền gửi TK 70.90% 79.37% 70.04% 2. Tiền gửi TCKT 25.88% 18.80% 25.27% 3. Phát hành kỳ phiếu 2.32% 1.15% 3.79% 4. Tiền gửi khác 0.90% 0.68% 0.32% (Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh tổng hợp Ngân hàng Công thương Đống Đa) Bảng 6: Tình hình sử dụng vốn của NHCT Đống Đa qua các năm Năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 Năm 1997 so với 1996 Năm 1998 so với 1997 I. Cho vay 1397 1472 1850 105.37% 125.68% - Quốc doanh 909 920 1400 101.21% 125.17% - Ngoài quốc doanh 448 552 450 113.11% 81.52% - Vốn cố định 55 70 120 127.27% 171.42% - Vốn lưu động 1342 1412 1730 103.44% 122.52% II. Thu nợ 1365 1427 1565 104.54% 111.47% - Quốc doanh 814 880 1055 108.9% 119.88% - Ngoài quốc doanh 551 537 510 97.46% 94.97% - Vốn cố định 41 63 100 153.65% 158.73% - Vốn lưu động 1324 1364 1465 103.02% 107.4% III. Dư nợ 480 525 810 102.04% 154.29% - Quốc doanh 228 315 660 138.15% 209.52% - Ngoài quốc doanh 192 210 150 109.37% 71.43% - Vốn cố định 58 75 95 129.31% 126.7% - Vốn lưu động 432 450 715 104.17% 158.89% (Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh tổng hợp NHCT Đống Đa) Biểu đồ so sánh các chỉ tiêu cho vay, thu nợ, dư nợ qua các năm Bảng 10: Nhu cầu vay vốn và doanh số cho vay trung dài hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa. (đơn vị tỷ đồng) Năm Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1. Nhu cầu vay vốn trung dài hạn 269 275 321 373 2. Doanh số cho vay trung dài hạn 56 55 70 94 3. Tỷ lệ doanh số cho vay trên tổng nhu cầu cho vay 20.8% 20% 21.8% 25.2% (Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh tổng hợp Ngân hàng Công thương Đống Đa) Biểu đồ so sánh nhu cầu vay vốn và doanh số cho vay trung dài hạn của ngân hàng Công thương Đống Đa Bảng 14: Cơ cấu dư nợ cho vay trung dài hạn theo ngành tại Ngân hàng Công thương Đống Đa Năm Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 Tổng số % Tổng số % Tổng số % Tổng số % 1. Công nghiệp 25.17 4.6 24.07 41.5 30.75 41 51.6 41.6 2. Xây dựng 5.15 8.3 3.07 5.3 4.2 5.6 6.8 5.5 3. Giao thông 1.24 2 3.31 5.7 5.7 7.6 9.84 8.0 4. Thương nghiệp 24.37 39.3 22.74 39.23 31.6 42.1 50.9 41.4 5. Ngành khác 6.07 9.8 4.81 8.3 2.7 3.6 4.3 3.5 Tổng dư nợ trung dài hạn 62 100 58 100 75 100 123 100 (Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh tổng hợp Ngân hàng Công thương Đống Đa) Biểu đồ so sánh cơ cấu dư nợ cho vay trung dài hạn theo ngành tại Ngân hàng Công thương Đống Đa Bảng 3: Tình hình huy động vốn của Ngân hàng Công thương Đống Đa qua các năm (Phân loại theo loại tiền huy động) Năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 VND 82,23% 82,,45% 75,45% Ngoại tệ 17,77% 17,55% 24,55% (Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh tổng hợp Ngân hàng Công thương Đống Đa) Bảng 6: Tình hình sử dụng vốn của NHCT Đống Đa qua các năm Năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 Năm 1997 so với 1996 Năm 1998 so với 1997 I. Cho vay - Quốc doanh - Ngoài quốc doanh - Vốn cố định Vốn lưu động 1397 1472 1850 105,37% 125,68% 909 920 1400 101,21 152,17 448 552 450 113,11 81,52 55 70 120 127,27 171,42 1342 1412 1730 103,44 122,52 II. Thu nợ - Quốc doanh - Ngoài quốc doanh - Vốn cố định - Vốn lưu động 1365 1427 1565 104,54% 111,47% 814 880 1055 108,9% 119,88% 551 537 510 97,46% 94,97% 41 63 100 153,65% 158,73% 1324 1364 1465 103,02% 107,4% III. Dư nợ - Quốc doanh - Ngoài quốc doanh - Vốn cố định - Vốn lưu động 480 525 810 102,04% 154,29% 228 315 660 138,15% 09,52% 192 210 150 109,37% 71,43% 58 75 95 129,31% 126,7% 432 450 715 104,17% 158,89% (Nguồn số liệu: phòng kinh doanh tổng hợp ngân hàng công thương Đống Đa) Biểu đồ so sánh các chỉ tiêu cho vay, thu nợ, dư nợ qua các năm Bảng 10: Nhu cầu vay vốn và doanh số cho vay trung dài hạn của Ngân hàng Công thương Đống Đa (đơn vị tỷ đồng) Năm Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1. Nhu cầu vay vốn trung dài hạn 269 275 321 373 2. Doanh số cho vay trung dài hạn 56 55 70 94 3. Tỷ lệ doanh số cho vay trên tổng nhu cầu vay 20,8% 20% 21,8% 25,2% (Nguồn số liệu: phòng kinh doanh tổng hợp ngân hàng công thương Đống Đa) biểu đồ so sánh nhu cầu vay vốn và doanh số cho vay trung dài hạn tại ngân hàng công thương Đống Đa (Nguồn số liệu: phòng kinh doanh tổng hợp ngân hàng công thương Đống Đa) Bảng 13: Cơ cấu dư nợ cho vay trung dài hạn theo ngành tại Ngân hàng Công thương Đống Đa Năm Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 Tổng % Tổng % Tổng % Tổng % 1. Công nghiệp 2. Xây dựng 3. Giao thông 4. Thương nghiệp 5. Ngành khác 25,17 5,15 1,24 24,37 6,07 4,6 8,3 2 39,3 9,8 24,07 3,07 3,31 22,74 4,81 41,5 5,3 5,7 39,23 8,3 30,75 4,2 5,7 31,6 2,7 41 5,6 7,6 42,1 3,6 51,6 6,8 9,84 50,9 4,3 41,6 5,5 8,0 41,4 3,5 Tổng dư nợ trung dài hạn 62 100 58 100 75 100 123 100 (Nguồn số liệu: phòng kinh doanh tổng hợp ngân hàng công thương Đống Đa) Biểu đồ so sánh cơ cấu dư nợ cho vay trung dài hạn theo ngành tại NHCT Đống Đa Bảng 1: Tình hình huy động vốn của NHCT Đống Đa qua các năm Đơn vị: tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1996 so với 1997 1997 so với 1998 1. Tiền gửi tiết kiệm 630 760 970 120,63% 127,635 Bằng VND 515 630 720 122,33% 114,28% Bằng ngoại tệ 115 130 250 113,04% 192,30% 2. Tiền gửi của các tổ chức KT 230 180 350 -20,44% 194,44% Bằng VND 188 145 350 -22,88% 241,38% Bằng ngoại tệ 42 35 50 -16,67% 142,85% 3. Phát hành kỳ phiếu 20.6 11 55 -46,61% 500% Bằng VND 20.6 9.8 17 -52,43% 173,47% Bằng ngoại tệ - 1.2 38 - 316,67% 4. Tiền gửi khác 8 6.5 10 -18,75% 153,84% Bằng VND 7.1 4.7 8 -33,8% 170,21% Bằng ngoại tệ 0.9 1.8 2 200% 111,11% Tổng vốn huy động 888.6 957.5 1385 107,75% 144,64% Bằng VND 730.7 789.5 1045 108,04% 132,36% Bằng ngoại tệ 157.9 168 340 106,4% 202,38% (Nguồn số liệu: phòng kinh doanh tổng hợp ngân hàng công thương Đống Đa) Bảng 2: Tình hình huy động vốn của NHCT Đống Đa qua các năm (phân loại theo tỷ trọng các hình thức huy động) Năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1. Tiền gửi TK 70,90% 79,37% 70,04% 2. Tiền gửi TCKT 25,88% 18,80% 25,27% 3. Phát hành kỳ phiếu 2,32% 1,15% 3,79% 4. Tiền gửi khác 0,90% 0,68% 0,72% (Nguồn số liệu: phòng kinh doanh tổng hợp ngân hàng công thương Đống Đa) Năm 1997 Năm 1998 Năm 1996 Năm 1998 Biểu đồ về huy động vốn của ngân hàng Công thương Đống Đa qua các năm (Phân loại theo tỷ trọng các hình thức huy động) Bảng 3: Tình hình huy động vốn của NHCT Đống Đa qua các năm (phân loại theo loại tiền huy động) Năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 VND 82,23% 82,45% 75,45% Ngoại tệ 17,77% 17,55% 24,55% (Nguồn số liệu: phòng kinh doanh tổng hợp ngân hàng công thương Đống Đa) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34419.doc