Lời nói đầu
Kinh tế thị trường là một môi trường kinh doanh đầy biến động, phức tạp trong đó cạnh tranh quyết liệt là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của nó. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, xu hướng hội nhập quốc tế hoá và tự do hoá trên các thị trường mậu dịch hàng hoá và tư bản đang là xu hướng chung của đất nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng trở nên khó khăn, sự an toàn của các doanh nghiệp luôn bị đe doạ bởi n
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững rủi ro không thể lường trước được. Ngành Ngân hàng cũng không phải trường hợp ngoại lệ, thậm chí rủi ro của Ngân hàng còn cao hơn các doanh nghiệp khác.
Cùng với sự vận động tích cực của nền kinh tế, Ngân hàng như một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhành, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Kết hợp với các ngành kinh tế khác, ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kìm chế và đẩy lùi lạm phát, phát triển thị trường ngoại hối và tạo công ăn việc làm cho người lao động,…. Và đặc biệt quan trọng hơn là Ngân hàng chính là kênh dẫn vốn cho sự phát triển của nền kinh tế.
Trong giai đoạn hiện nay, chiến lược phát triển kinh tế của nước ta do Đảng và Nhà nước đặt ra là phát triển kinh tế theo chiều sâu và thực hiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước từ nguồn vốn do Ngân hàng cung cấp là rất cần thiết đặc biệt là nguồn tín dụng trung và dài hạn. Theo tính toán và dự báo nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển trong 5 năm tới vào khoảng 830 –850 ngàn tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ngân sách và tín dụng mà Nhà nước có thể trực tiếp bố trí từ 35 – 39% còn lại việc đầu tư để tạo ra năng lực sản xuất mới và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm sẽ huy động từ nguồn vốn vay dưới nhiều hình thức…Như vậy nhu cầu vay vốn tín dụng trung dài hạn của các thành phần kinh tế nhằm xây dựng mới, đổi mới công nghệ, cải tạo và mở rộng sản xuất trong thời gian tới là rất cần thiết. Việc đáp ứng các nhu cầu vay vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế vừa là trách nhiệm vừa là cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại nhưng đầu tư vào đâu, đầu tư như thế nào và làm thế nào để vừa mở rộng hoạt động cho vay vừa nâng cao chất lượng của khoản cho vay trung dài hạn nhằm bảo đảm hiệu quả trong kinh doanh của các ngân hàng thương mại đồng thời phục vụ thiết thực cho sự nghiệp Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất nước.
Nhận thức được điều đó, trong thời gian thực tập tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, qua những bài giảng lý thuyết kết hợp với thực tế tại Sở em đã quyết định chọn đề tài:
“Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam”.
Cùng với phần mở đầu và kết luận thì nội dung của luận văn được trình bày theo 3 chương sau.
Chương I. Tín dụng và chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Chương II. Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại sở giao dịch NHNo Việt Nam.
Chương III. Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại sở giao dịch NHNo Việt Nam.
Tuy nhiên, do phạm vi đề tài rộng, thời gian thực tập có hạn và sự hiểu biết về thực tế chưa nhiều, kiến thức của chúng em còn hạn chế nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của toàn thể các thầy giáo, cô giáo và toàn thể cán bộ ngân hàng để bài viết này được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Đàm Văn Huệ và toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng – Tài chính trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, cùng toàn thể các cô chú, các anh chị làm việc tại Sở giao dịch NHNo Việt Nam đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, đóng góp ý kiến cho em trong suốt thời gian thực tập và hoàn thành bài viết này.
Hà Nội, tháng 06 năm 2001.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thành Đô
Chương I: Tín dụng và chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường
I. Tín dụng và các hình thức tín dụng.
khái niệm và các hình thức tín dụng.
Khái niệm về tín dụng.
Có những khái niệm về tín dụng theo cách diễn đạt khác nhau nhưng có thể nêu khái niệm một cách tổng quát: Tín dụng là một quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị ( hình thái tiền tệ hay hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu với những điều kiện mà hai bên thoả thuận với nhau.
Đối tượng của sự chuyển nhượng bao gồm: Chuyển nhượng dươi hình thái hiện vật – hàng hoá, đó chính là việc kéo dài thời hạn thanh toán trong quan hệ mua bán hàng hoá - chuyển nhượng bằng hình thức giá trị thực chất là việc “ ứng trước hay đầu tư” trực tiếp bằng tiền ( cho vay bằng tiền).
Những điều kiện mà hai bên thoả thuận thông thường là:
Khối lượng hàng hoá hay tiền tệ được chuyển nhượng
Thời hạn sử dụng của người vay
Thu nhập mà người cho vay được hưởng ( lãi mà người vay phải trả theo mức lãi suất).
Những ràng buộc nghĩa vụ trả nợ của người đi vay. Những điều kiện này một trong hai bên không chấp nhận thì không thể hình thành quan hệ tín dụng. Như vậy tín dụng thể hiện các đặc trưng cơ bản.
Sự chuyển nhượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng( cho vay và đi vay).
Sau một thời gian thu hồi về một lượng giá tri lớn hơn giá trị ban đầu: thu hồi đúng thời hạn cả gốc và lãi.
Việc chuyển nhượng được thực hiện trên cơ sở có sự tin tưởng của người chuyển nhượng đối với người sử dụng. Về việc sử dụng có hiệu quả và hoàn trả đúng kỳ hạn.
Ngoài ra trong quan hệ tín dụng còn có những đặc trưng khác cần đề cập đến như khả năng rủi ro do mất vốn, lãi…Tính chất đảm bảo của tín dụng chịu sự chi phối của quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quản lý lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
Các đặc trưng của tín dụng được thể hiện đầy đủ trong các hình thức cụ thể của tín dụng.
Các hình thức tín dụng
Các hình thức tín dụng được hình thành trên cơ sở. Căn cứ phân loại khác nhau:
Căn cứ vào thời hạn trong quan hệ tín dụng hình thành:
Tín dụng ngắn hạn ( thời hạn tối đa 12 tháng).
Tín dụng trung hạn và dài hạn – Thời hạn của loại tín dụng này được quy định cụ thể tuỳ thuộc vào từng nước. ở nước ta tín dụng trung là từ 1 đến 5 năm, tín dụng dài hạn là từ 5 năm trở lên.
Căn cứ vào mục đích vay vốn hình thành tín dụng phục vụ sản xuất lưu thông hàng hoá, tín dụng tiêu dùng.
Nhưng tính đa dạng về đối tượng chuyển nhượng và các chủ thể tham gia trong quan hệ chuyển nhượng có thể phân chia tín dụng thành các hình thức : Tín dụng thương mại, Tín dụng ngân hàng, Tín dụng nhà nước, Tín dụng hợp tác xã, Tín dụng quôc tế.
Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế
Tín dụng đã trở thành một phần không thể thiếu được trong cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Việc sử dụng nó có thể là tốt hoặc xấu phụ thuộc vào lí do nhu cầu và khả năng hoàn trả của ngươì vay mượn trong thời gian nhất định. Ví dụ đối với tín dụng kinh doanh, thường được xem là tín dụng tự thanh lý vì mục đích của nó – tín dụng đem lại khả năng thu hút được hàng hoá và dịch vụ và sau đó được bán lại trên thương trường – theo đó nó tự động cung cấp phương tiện để hoàn trả khi hàng hoá được bán lại sau đó.
Dưới đây xem xét vai trò của tín dụng đối với một số chủ thể trong nền kinh tế.
Đối với người tiêu dùng.
Tín dụng góp phần cải thiện mức sống. Nói chung người tiêu dùng nhận được lợi ích từ việc sử dụng tín dụng bởi vì nó tạo ra cơ chế cho phép họ có thể sử dụng các nguồn thu nhập trong tương lai để thanh toán cho những hàng hoá đã được mua sắm trước đó. Như vậy, họ có thể gia tăng mức sống hiện thời trên cơ sở khả năng kiếm hoặc thu được ngân quỹ trong tương lai. Ví dụ, một người trẻ tuổi, một cặp vợ chồng mới cưới có thể mua sắm nhiều vật dụng cần thiết khi tách ra khỏi gia đình để sống riêng. Các sinh viên có thể dùng tín dụng để tham dự các chương trình đào tạo bậc đại học hoặc cao hơn và cơ hội việc làm sau này sẽ tạo ra nguồn thu nhập để hoàn trả nợ đã vay mượn của họ.
Xử lý những nhu cầu khẩn cấp. Những nhu cầu tài chính khẩn cấp, không được dự kiến trước, có thể được tài trợ bằng con đường tín dụng như : sửa chữa nhà ở , phương tiện đi lại, chăm sóc sức khoẻ, mất mát tài sản… Các chương trình tín dụng cung cấp cho người tiêu dùng phương tiện thanh toán cho những trường hợp như thế.
Sự tiện lợi. Ngoài vai trò cung cấp phương tiện thanh toán, tín dụng còn là công cụ tạo ra tiện ích cho người sử dụng. Bằng cách sử dụng thẻ tín dụng, người tiêu dùng có thể du lịch khắp thế giới mà vẫn có thể thanh toán được theo nhiều loại chi phí khác nhau: như dịch vụ khách sạn, vé máy bay, mua hàng lưu niệm…Nhu cầu mang một khối lượng lớn tiền mặt được giảm đáng kể và đã được công dân của nhiều nước đặc biệt ưa thích.
Đối với các doanh nghiệp
mở rộng thị trường: Nhiều doanh nghiệp dựa vào tín dụng để mở rộng tìm kiếm khách hàng. Nếu họ cấp quyền cho mua bằng tín dụng cho khách hàng, nhiều người hơn sẽ có khả năng mua. Nhiều khách hàng thiếu ngân quỹ tiền mặt tạm thời, ưa thích dùng tín dụng để họ có thể trả sau đó. Một số doanh nghiệp sớm nhận ra rằng nhiều nhà cạnh tranh đã dùng nhiều thủ pháp tín dụng để thu hút khách hàng, trong trường hợp này doanh nghiệp cần có biện pháp tương tự mới có cơ may tồn tại.
Dự trữ vật tư - nguyên liệu: Các doanh nghiệp cũng phụ thuộc vào các chương trình tín dụng do nhà nước cung cấp hoặc do các ngân hàng cung cấp để thu được vật tư nguyên liệu, thành phẩm và nhiều loại tài sản khác cần cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Doanh nghiệp có thể mở rộng danh mục mặt hàng kinh doanh của họ và dự trữ nhiều hàng hoá hơn nhiều nếu họ có thể mua bằng tín dụng.
Các khoản vốn tài chính: Cuối cùng nhiều loại doanh nghiệp cần vốn để khởi đầu, để duy trì, để bành trướng các hoạt động của họ. Nhiều doanh nghiệp xảy ra tình trạng không cân bằng các luồng ngân quỹ, ở đây các khoản chi phí cần đến trước khi thu nhập được tạo ra từ việc bán sản phẩm và dịch vụ. Sự phát triển địa điểm kinh doanh mới, sản phẩm mới hoặc thực thi các chương trình tiếp thị mới sẽ là không khả thi nếu không có sự hỗ trợ của các khoản cho vay kinh doanh.
Tín dụng ngân hàng
Là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là Ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức cá nhân trong xã hội trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Với tư cách là người đi vay. Ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Với tư cách là người cho vay, ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này ngân hàng đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội. Cơ sở khách quan để hình thành các chức năng phân phối lại vốn tiền tệ của tín dụng ngân hàng chính là do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội đã thường xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này, trong khi đó ở các tổ chức cá nhân khác lại thiếu vốn cần được bổ sung. Hiện tượng thừa vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời gian, số lượng giữa các khoản thu nhập và chi tiêu ở tất cả các tổ chức, cá nhân trong khi quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Tín dụng thương mại cũng đã giải quyết quan hệ trực tiếp giữa các doanh nghiệp cần tiêu thụ hàng hoá với các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng hàng hoá mà chưa có tiền. Nhưng do hạn chế của tín dụng thương mại đã không đáp ứng được yêu cầu tập chung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng nhu cầu vay vốn với khối lượng thời hạn khác nhau. Chỉ có ngân hàng chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ mới có khả năng giải quyết mâu thuẫn khi ngân hàng vừa giữ vai trò người đi vay vừa giữ vai trò là người cho vay.
II. Tín dụng trung dài hạn của NHTM đối với nền kinh tế.
Khái niệm
Tín dụng trung và dài hạn là một bộ phận của tài sản Ngân hàng được phân theo kỳ hạn. Tín dụng trung và dài hạn là loại cho vay vốn có thời hạn khá dài, thời gian này được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng. Cụ thể là thời hạn cho vay trung hạn: từ trên 12 tháng đến 60 tháng, thời hạn cho vay dài hạn từ trên 60 tháng nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo Quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Mục đích của tín dụng trung dài hạn là để đầu tư cho các dự án, xây dựng mới, mở rộng, cải tạo khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu lợi nhuận, phù hợp với phát triển kinh tế – xã hội và pháp luật của Nhà nước.
Tầm quan trọng của tín dụng trung và dài hạn đối với phát triển kinh tế.
Với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các NHTM, ta có thể thấy tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng như thế nào đối với sự vận hành của một nền kinh tế, trong đó tín dụng trung và dài hạn có vài trò đặc biệt quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
Tín dụng trung và dài hạn giúp các doanh nghiệp có khả năng đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất.
Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định sự tồn tại, phát triển bình đẳng giữa các thành phần kinh tế: Doanh nghiệp nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, Liên doanh liên kết, Công ty tư nhân, Hợp tác xã…Trong cơ chế thị trường, với sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp luôn phải đặt mình trước sự đổi mới về sản phẩm, dịch vụ cung ứng cho thị trường. Điều này đồng nghĩa với doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, đầu từ trang thiết bị hiện đại, mở rộng dây truyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm… thì mới thắng được trong cạnh tranh và chiếm lĩnh được thị trường. Do đó vấn đề đầu tư cho phát triển sản xuất được đưa ra như một yêu cầu bức thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, ngoài nguồn vốn ngân sách hạn hẹp, họ phải chủ động tìm kiếm các nguồn vốn trung dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới, phát triển và mở rộng sản xuất đảm bảo giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nguồn vốn tự có ban đầu phải được hỗ trợ bằng nguồn vốn bên ngoài. Về lý thuyết, có thể huy động vốn trung dài hạn bằng hai cách chủ yếu sau.
=>Phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán
=>Vay ngân hàng.
ở các nước kinh tế phát triển, cách thứ nhất tỏ ra ưu thế hơn. Đây là thị trường vốn dài hạn rất có hiệu quả. Khi có nhu cầu đầu tư mới, công ty có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra thị trường, với chi phí phát hành thấp, hay công ty có thể thuê Ngân hàng đầu tư làm đại lý bán hộ hay bao tiêu số cổ phiếu phát hành. Lãi trả cho mỗi cổ phiếu là do công ty chủ động quyết định, công ty càng có uy tín trong kinh doanh thì trị giá cổ phiếu càng lớn, thu hút được nhiều cổ đông. Thậm chí công ty có thể phát hành trái phiếu đợt này để thanh toán cho đợt phát hành trước. Nếu sử dụng cách này, lãi trả cho cổ phiếu thấp hơn lãi suât Ngân hàng vì phần lớn các cổ đông trông chờ vào thị giá cổ phiếu tăng trong tương lai chứ không phải là một khoản cổ tức nho nhỏ. Hơn nữa, khối lượng cổ phiếu phát hành là tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn trung và dài hạn của công ty, chứ không bị lệ thuộc vào hạn mức tín dụng của Ngân hàng.
Song ở nước ta hiện nay, thị trường chứng khoán mới chỉ ở dạng sơ khai, các sản phẩm trên thị trường tiền tệ chưa nhiều, hoạt động đơn giản, thuần tuý. Đối tượng phát hành mới chỉ là các Ngân hàng hay một số ít công ty lớn, bản thân các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện hoặc uy tín để phát hành cổ phiếu trái phiếu. Mặt khác, khuôn khổ pháp lý, môi trường kinh tế, thói quen, tâm lý của dân chúng chưa cho phép lưu hành cổ phiếu, trái phiếu một cách rộng rãi để thị trường này trở thành thị trường vốn trung và dài hạn tiềm năng hoạt động có hiệu quả. Do vậy doanh nghiệp không còn cách nào khác là tìm đến Ngân hàng. Lúc này, tín dụng dài hạn thực sự là bà đỡ cho những dự án đầu tư chiều sâu, phát triển sản xuất, hiện đại hoá doanh nghiệp.
Mục đích của tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp là đầu tư vào mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị , công nghệ hiện đại, tức là đầu tư theo chiều sâu nên ta có thể thấy tác động trực tiếp của tín dụng trung và dài hạn đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản cố định hình thành từ vốn vay dài hạn sẽ cải tạo, nâng cấp hiện đại hoá cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính nhờ công nghệ hiện đại mà doanh nghiệp có thể nâng cao được năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, dẫn đến sản phẩm sản xuất ra có tính hấp dẫn thu hút khách hàng sẽ thúc đẩy chiếm lĩnh thị trường. Kết quả là tăng khả năng sinh lời, tăng thu nhập cho người lao động đồng thời các khoản thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước như thuế thu nhập, VAT cũng tăng.
Tác động của tín dụng trung dài hạn đối với nền kinh tế.
Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, nền kinh tế nước ta gặp vô vàn khó khăn trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trước mắt là nhu cầu về vốn, nhất là vốn trung và dài hạn. Cho dù có xây dựng, hoặch định thật nhiều chính sách, kế hoạch nhưng nếu không có vốn thì không thể biến kế hoạch thành nhà máy, cơ sở hạ tầng hiện đại được. Bài học xương máu ở Mexico và các nước Châu Mỹ đã lạm dụng vốn nước ngoài để công nghiệp hoá theo hướng đốt cháy giai đoạn. Khi những nước này lâm vào tình trạng khủng hoẳng tài chính năm 1995, 1996 thì dòng chẩy ào ạt của vốn nước ngoài đã kéo các nước này trở lại xuất phát điểm trước đây 5 năm. Hay chẳng xa lạ gì, cuộc khủng hoẳng tài chính gần đây nhất của các nước châu á đã cho thấy việc quá lạm dụng vốn nươc ngoài sẽ đưa đất nước đến biến động tài chính, tiền tệ không kiểm soát được. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của vốn trong nước nên Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định “Vốn nước ngoài là quan trọng, vốn trong nước là quyết định”.
Trong điều kiện thị trường vốn của ta chưa phát triển hoàn thiện thì hiện tại và thời gian tới tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng vẫn đóng vai trò quyết định cho tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng dài hạn là điều kiện cần thiết góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.
Đặc điểm của tín dụng trung dài hạn
Tính rủi ro lớn
Bản chất của tín dụng trung và dài hạn khác so với tín dụng ngắn hạn là ở thời hạn cho vay dài hơn. Tín dụng ngắn hạn thường phục vụ chi tiêu sinh hoạt gia đình, hay chi mua nguyên vật liệu, trả tiền lương, bổ sung vốn lưu động, tức là nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán ngắn hạn. Vì vậy, tín dụng ngắn hạn có tính lỏng cao, có thể xem như là một bộ phận đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng. Trái lại, tín dụng dài hạn thường được đầu từ vào mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị khoa học công nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại, tức là các dự án chưa có khả năng sinh lời trong thời gian ngắn nên thời hạn của các khoản tín dụng này thường dài và nó chỉ được hoàn trả khi xuất hiện nguồn thu từ dự án. Mà thời hạn cho vay càng dài thì tính rủi ro càng cao. Cùng với nó là mỗi một khoản vay trung dài hạn này thường lớn.
Lãi suất cao
Đặc điểm này thực chất là hệ quả của đặc điểm trên. Một khoản vay chứa đựng nhiều rủi ro hơn chắc chắn phải trả lãi suất cao hơn để có thể bù đắp cho những rủi ro có thể xảy ra. Tuy vậy, đã có thời kỳ trước năm 1996 chúng ta duy trì lãi suất cho vay dài hạn nhỏ hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, đây là một sự bất hợp lý mà sau này chúng ta đã chấn chỉnh được. Do đó lãi suất cho vay trung dài hạn phải cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn.
Các vấn đề cơ bản của tín dụng trung và dài hạn
Nguồn cho vay trung và dài hạn
Vốn tự có và các quỹ của Ngân hàng.
Vốn huy động trong nước và nước ngoài từ 1 năm trở lên: Bằng cách phát hành kỳ phiếu dài hạn hoặc huy động tiền gửi định kỳ dài hạn.
Một phần vốn huy động trong nước có thời hạn dưới 1 năm: Trên cơ sở quy định của thống đốc Ngân hàng Nhà nước, mức độ trích phụ thuộc vào tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong từng thời kỳ.
Vốn uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế xã hội ở trong và ngoài nước.
Đối tượng cho vay trung và dài hạn
Đó là các chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục,đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ, bao gồm: giá trị vật tư, máy móc, thiết bị, công nghệ chuyển giao, sáng chế và phát minh, chi phí nhân công, giá thuê và chuyển nhượng đất đai, giá thuê mua các tài sản khác trong khuôn khổ luật định, chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự án đầu tư và các chi phí khác.
Mức cho vay đối với một dự án đầu tư bằng tổng mức vốn đầu tư của dự án trừ đi vốn tự có đầu tư cho dự án của bên vay, nhưng tối đa bằng 70% giá trị tài sản thế chấp, cầm cố.
Thời hạn cho vay trung và dài hạn
Thời hạn cho vay là thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay cho đến khi bắt đầu trả nợ gốc và lãi tiền vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng.
Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng tới 60 tháng.
Thời hạn cho vay dài hạn trên 60 tháng nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập của giấy phép kinh doanh đối với pháp nhân, không quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống.
Các hình thức tín dụng
Ngày nay, về mặt hình thức, tín dụng trung và dài hạn không chỉ đơn thuần là việc phát tiền vay với thời hạn trên 1 năm mà nó ẩn dưới rất nhiều hình thức, trong đó có thể kể ra các hình thức phổ biến sau.
Cho vay theo kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của doanh nghiệp là loại cho vay được thực hiện theo phương pháp cho vay thông thường dựa trên cơ sở nhu cầu vốn vay của từng công trình, hạng mục công trình được xác định trong kế hoặch đầu tư xây dựng cơ bản của mỗi doanh nghiệp.
Cho vay theo dự án là một phương pháp cho vay dựa trên một văn bản hoàn chỉnh về vay vốn và trả nợ được nghiên cứu soạn thảo, xét duyệt, ký kết giữa người đi vay và Ngân hàng, đồng thời dựa trên các căn cứ khoa học kỹ thuật phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước.
Tín dụng tuần hoàn: Là phương thức cho vay dựa vào chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được coi là tín dụng trung và dài hạn khi thời hạn của hợp đồng được kéo dài trên một năm và khi đó người vay có thể rút tiền ra bất cứ khi nào miễn là phải cam kết trả nợ ngay khi có nguồn thu trong thời gian hợp đồng có hiệu lực.
Tín dụng thuê mua: Là một trong những hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn nhưng bằng tài sản thay vì bằng tiền thông qua một hợp đồng tín dụng thuê mua. Bên cho vay lấy một hợp đồng tín dụng để mua lại tài sản cố định và giữ quyền sở hữu. Bên vay ký một hơp đồng thuê mua tài sản và trả góp giá trị tài sản cả gốc và lãi cho đến khi hết giá trị tài sản hoặc là cho đến khi hết thời hạn hợp đồng. Tài sản sau khi cho thuê thì có thể được bán lại cho bên đi thuê.
Điều kiện vay vốn
Theo tinh thần của luật Ngân hàng thì tất cả những khách hàng thoả mãn đồng thời các điều kiện sau đây đều được tiến hành cho vay:
có tư cách pháp nhân,thể nhân đầy đủ.
Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả.
Có vật tư hay hàng hoá tương đương tài sản thế chấp đảm bảo tiền vay hoặc bảo lãnh của người thứ ba theo quy chế thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Có kế hoạch trả gốc và lãi Ngân hàng .
Sử dụng tiền vay đúng mục đích.
Quy trình thẩm định dự án đầu tư
Thu thập tài liệu, thông tin cần thiết cho việc đánh giá phân tích.
Xử lý thông tin, đánh giá, phân tích.
Nội dung thẩm định dự án đầu tư:
Thẩm định tư cách pháp nhân vay vốn.
Phân tích tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp trong những năm gần đây( ít nhất là 2 năm)
Phân tích tình hình tài chính
Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư
Thẩm định về phương diện kỹ thuật ( quy mô, mặt công nghệ và trang thiết bị, về phương diện tổ chức, quản lý vận hành của dự án).
Thẩm định tính khả thi của dự án về nội dung kinh tế tài chính ( NPV và IRR)
Lập tờ trình kết quả thẩm định dự án đầu tư.
III. Chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHTM và các nhân tố ảnh hưởng.
Quan niệm về chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp nó phản ánh mức độ thích nghi của Ngân hàng đối với sự phát triển của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh của Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Như vậy, đây là một phạm trù rất rộng lớn. Quan niệm về chất lượng tín dụng vừa cụ thể ( thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, sự tác động tới nền kinh tế, sự tác động tới xã hội và môi trường).
Chất lượng tín dụng trung dài hạn là chất lượng tín dụng của các món vay có thời hạn trên 1 năm. Các món vay của Ngân hàng được xem là có chất lượng tốt khi vốn vay được khách hàng sử dụng đưa vào sản xuất kinh doanh đúng mục đích, tạo ra số tiền lớn hơn thông qua đó Ngân hàng thu hồi được gốc và lãi còn doanh nghiệp vừa trả được Ngân hàng đúng thời hạn vừa bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Xét về tổng thể, Ngân hàng vừa phải tạo ra hiệu quả kinh tế vừa đem lại hiệu quả xã hội.
Quản lý chất lượng về cơ bản là những hoạt động và kỹ thuật đựơc sử dụng nhằm đạt được và duy trì chất lượng một sản phẩm hoặc dịch vụ. Để có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động. Hay nói cách khác, chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy. Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích , đánh giá đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn tại về chất lượng tín dụng sẽ giúp cho Ngân hàng tìm được các biện pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường hoạt động sôi động và có sự cạnh tranh gay gắt.
Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Tín dụng là quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả cả vốn và lãi theo thời hạn đã thoả thuận.
Như vậy, để xem xét, đánh giá một khoản tín dụng là tốt, xấu hay trung bình, điều đó cần phải có sự đánh giá từ hai phía: Ngân hàng và khách hàng. Chất lượng của một khoản tín dụng trung và dài hạn cũng không nằm ngoài quy luật này.
Sau đây, chúng ta có thể đưa ra một hệ thống chỉ tiêu để cố gắng có một sự nhìn nhận khách quan, toàn diện về chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Đây sẽ là cơ sở cho việc phân tích thực trạng tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam cũng như cho việc đề nghị một số giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
Xét trên quan điểm Ngân hàng
Chỉ tiêu về huy động vốn trung và dài hạn
Nếu như một Ngân hàng có khả năng huy động nguồn vốn có thời hạn dài, với chi phí thấp nhất có thể phục vụ cho vay và đầu tư trung và dài hạn thì đã tạo cơ sở đảm bảo cho chất lượng tín dụng. Vì một mặt Ngân hàng cân đối được nguồn vốn cho vay, đảm bảo tính an toàn trong thanh toán, mặt khác Ngân hàng có thể chủ động và giảm được chi phí huy động vốn để tăng lợi nhuận.
Khả năng huy động nguồn vốn trung dài hạn được thể hiện ở hai chỉ tiêu:
+ Tổng vốn trung dài hạn huy động được và tốc độ tăng của nguồn vốn này qua các năm phản ánh tốc độ tăng trưởng và khả năng huy động vốn của Ngân hàng.
+ Vốn trung dài hạn / Tổng nguồn vốn huy động : Phản ánh cơ cấu vốn trung dài hạn của Ngân hàng và khả năng cung ứng vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển. Ngân hàng không có cơ hội mở rộng tín dụng trung dài hạn nếu như tỷ lệ này quá thấp.
Chỉ tiêu doanh số cho vay trung và dài hạn: Phản ánh lượng vốn có kỳ hạn trên 1 năm mà Ngân hàng đã giải ngân giúp doanh nghiệp đầu tư, cải tiến, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Con số và tốc độ tăng của doanh số cho vay qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng của việc đầu tư trung và dài hạn là mở rộng hay thu hẹp. Tuy nhiên, không phải ở bất cứ thời điểm nào, việc nâng cao doanh số cho vay cũng là tốt hay giảm doanh số cho vay là sấu. Bởi vì, trong mỗi thời điểm khác nhau, tốc độ phát triển kinh tế, định hướng phát triển ngành nghề là khác nhau. Dó đó mỗi Ngân hàng cần nhậy bén nắm bắt để đầu tư có hiệu quả.
Chỉ tiêu dư nợ
Dư nợ trung và dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho thấy biến động tỷ trọng dư nợ trung dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng của một Ngân hàng qua các thời kỳ khác nhau. Có thể nghiên cứu biến động quy mô, khối lượng tín dụng trung dài hạn nếu chỉ xem xét tử số. Tử số càng cao chứng tỏ mức độ phát triển của nghiệp vụ này càng lớn, mối quan hệ Ngân hàng với khách hàng là có uy tín. Vì tín dụng trung dài hạn có rất nhiều rủi ro tiềm ẩn thế mà dư nợ lại lớn chứng tỏ mối quan hệ khách hàng – Ngân hàng là hoàn toàn tin cậy và có hiệu quả.
Chỉ tiêu này cũng có thể dùng để so sánh giữa các Ngân hàng khác nhau để thấy được thế mạnh của Ngân hàng này so với Ngân hàng khác trong hoạt động tín dụng trung dài hạn. Tuy nhiên, có thể coi đây là một chỉ tiêu định lượng. Để thấy rõ bản chất của tín dụng trung dài hạn của một Ngân hàng cần xem xét các chỉ tiêu sau.
Chỉ tiêu sử dụng vốn:
Sử dụng *100
Huy động
Có thể nói, đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động tín dụng của một Ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ Ngân hàng đã sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn huy động được.
Chỉ tiêu nợ quá hạn:
Nợ quá hạn tín dụng trung và dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn
Đến kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên vay không đủ tiền để trả và không được gia hạn nợ thì Ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh mặt trái của chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Nợ quá hạn rõ ràng là điều không mong muốn của các Ngân hàng nhưng NHNo cũng không phải là thước đo chuẩn để căn cứ vào đó Ngân hàng đánh giá chất lượng tín dụng của món vay. Không phải cứ nợ quá hạn cao thì đã đánh giá chất lượng tín dụng là không tốt, không có khả năng thu hồi nợ và ngược lại. Trên thực tế, các Ngân hàng luôn cố gắng hạ thấp nhất tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn dưới 3% được coi là có thể chấp nhận được.
Chỉ tiêu nợ quá hạn khó đòi:
Nợ quá hạn khó đòi trung dài hạn
Tổng dư n._.ợ trung dài hạn
Nếu tỷ lệ này cao thì khoản tín dụng có chất lượng thấp, không những thế nếu tỷ lệ này bao hàm toàn bộ gốc và lãi của hợp đồng tín dụng thì vốn đầu tư cuả Ngân hàng đã bị lãng phí một cách vô ích. Có rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng này. Yêu cầu đối với cán bộ tín dụng là phải kiểm soát, kiềm chế tỷ lệ này ở mức thấp nhất.
- Chỉ tiêu vòng quay của vốn:
Thu nợ trung dài hạn
Tổng dư nợ trung dài hạn
Chỉ tiêu này hay còn gọi là vòng quay của vốn trung và dài hạn.
ý nghĩa của chỉ tiêu này là cho ta biết Ngân hàng thu nợ theo kế hoạch trong hợp đồng tín dụng được bao nhiêu để có thể lại cho vay dự án mới. Vòng quay càng lớn chứng tỏ Ngân hàng càng thu được nhiều nợ và chứng tỏ nguồn vốn trung dài hạn mà Ngân hàng đã đầu tư hoạt động có hiệu quả.
- Chỉ tiêu lợi nhuận:
Lợi nhuận từ tín dụng trung dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung dài hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung và dài hạn. Lợi nhuận ở đây phải hiểu là chênh lệch giữa chi phí đầu vào tức lãi suất huy động và thu nhập từ lãi suất cho vay của tín dụng trung dài hạn. Xét cho cùng thì khoản tín dụng dù không có nợ quá hạn, nợ quá hạn khó đòi thì cũng chỉ nhằm mục đích tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng đối với các Ngân hàng chưa phát triển các dịch vụ Ngân hàng thì thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu.
Lợi nhuận từ tín dụng trung dài hạn
Tổng lợi nhuận
Chỉ tiêu này cho phép thấy rõ hơn vị trí của tín dụng trung dài hạn trong hoạt động của Ngân hàng. Thu từ khoản tín dụng có chất lượng cao sẽ đóng góp lớn vào thu nhập của Ngân hàng. Nếu khoản tín dụng có chất lượng tồi thì thu không được nợ gốc và lãi mà còn làm tăng chi phí của Ngân hàng nên sẽ kéo lợi nhuận giảm tương ứng.
Tuy nhiên đối với một số dự án trung dài hạn theo kế hoạch nhà nước thì chỉ tiêu này đôi khi tỏ ra không đầy đủ để phản ánh chất lượng tín dụng trung dài hạn. Vì mục tiêu kinh tế xã hội hay chiến lược phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, những ngành công nghiệp non trẻ thì đôi khi mục tiêu lợi nhuận không phải là hàng đầu. Lúc này lợi nhuận không phản ánh thực chất của khoản tín dụng.
Tóm lại, khi xem xét đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn ta không chỉ căn cứ vào một chỉ tiêu cụ thể mà phải sử dụng tổng hợp một hệ thống các chỉ tiêu trên cơ sở xem xét tổng hợp các mục tiêu của dự án vay vốn trung và dài hạn để có thể đưa ra kết luận chính xác.
2.2 Xét trên quan điểm khách hàng
Khách hàng là người trực tiếp quản lý sử dụng vốn trung dài hạn. Đối với khách hàng thì chất lượng tín dụng biểu hiện ở một số chỉ tiêu sau:
- Doanh thu từ dự án
- Lợi nhuận tăng từ dự án
- Lao động tăng lên từ dự án
Có thể nói đây là những chỉ tiêu hiệu quả phản ánh chất lượng tín dụng tốt hay xấu. Ngoài hai chỉ tiêu đầu là những chỉ tiêu quan trọng bậc nhất thì chỉ tiêu lao động tăng lên từ dự án cũng rất đáng quan tâm, nhất là trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp là gần 20%, thì một dự án đầu tư sẽ giải quyết khó khăn việc làm cho doanh nghiệp cho xã hội, có lẽ đây cũng là một khoản tín dụng có chất lượng.
Một khoản tín dụng tốt đối với Ngân hàng thường là tốt đối với doanh nghiệp và ngược lại. Từ nguồn vốn vay Ngân hàng mà doanh nghiệp có thể đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh củng cố vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, cải thiện điều kiện làm việc và góp phần nâng cao đời sống của công nhân viên… xét cho cùng, mục tiêu cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng không chỉ đơn thuần là để thu lãi mà thông qua nguồn vốn đó Ngân hàng kích thích được hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho sự phát triển của nền kinh tế. Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có lãi lại muốn đầu tư vào dự án mới. Cứ như vậy Ngân hàng rót vốn cho doanh nghiệp, doanh nghiệp lại nuôi Ngân hàng, cả doanh nghiệp và Ngân hàng cùng phát triển trong sự phát triển chung của nền kinh tế.
Tóm lại, chỉ tiêu chất lượng tín dụng phải luôn được xem xét, phân tích cả hai mặt định tính và định lượng cả về lợi nhuận thuần tuý và lợi ích xã hội, cả trên quan điểm khách khàng và Ngân hàng.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung dài hạn.
Muốn có giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn, chúng ta phải xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới nó.
Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng chính là những nhân tố gây ra sự biến động tốt hay xấu của các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. Có nhiều nhân tố, chủ quan và khách quan, nhân tố bên trong và bên ngoài… nhưng tựu chung lại có thể phân thành 4 nhóm nhân tố chính:
Môi trường kinh tế
Môi trường pháp lý
Về phía Ngân hàng
Về phía khách hàng
3.1. ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến chất lượng tín dụng
Nghiên cứu sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng sẽ thấy được ảnh hưởng của nó đến chất lượng tín dụng. Bất kỳ một Ngân hàng nào cũng chịu sự chi phối của những chu kỳ kinh tế. Trong giai đoạn nền kinh tế hưng thịnh thì các doanh nghiệp làm ăn phát đạt, xuất hiện nhiều nhu cầu mở rộng sản xuất, nên nhu cầu tín dụng cũng tăng. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng sẽ phát triển. Trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái thì tất yếu nhu cầu tín dụng giảm, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế cũng giảm sút. Lúc này Ngân hàng sẽ dư thừa, ứ đọng một lượng vốn lớn, nguồn vốn huy động được sử dụng không hiệu quả có nghĩa là chất lượng tín dụng giảm.
Chu kỳ kinh tế cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng xét trên quan điểm của khách hàng. Khi nền kinh tế suy thoái, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị đình trệ do sản phẩm không tiêu thụ được. Khi doanh thu giảm sút có nghĩa là doanh nghiệp khó có khả năng trả nợ Ngân hàng , chất lượng tín dụng lúc này bị đánh giá là kém.
Những biến động về lãi xuất, tỷ giá trên thị trường cũng ảnh hưởng trực tiếp tới lãi suất của Ngân hàng. Bài học từ cuộc khủng hoẳng tài chính Đông Nam á đã chỉ ra rằng sự mất giá của đồng nội tệ đã ảnh hưởng đầu tiên và trực tiếp đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
3.2.ảnh hưởng của môi trường pháp lý đến chất lượng tín dụng
môi trường pháp lý được hiểu là một hệ thống luật và văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ đã gây khó khăn cho Ngân hàng khi ký kết, thực hiện các hợp đồng tín dụng. Ví dụ như luật Ngân hàng quy định bắt buộc khi cho vay phải có tài sản thế chấp nhưng thực tế đối với các doanh nghiệp Nhà nước, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, nên khi cho vay chủ yếu bằng tín chấp. Nếu phát mại tài sản thế chấp thì cũng chỉ là bỏ từ túi nọ sang túi kia của Nhà nước mà thôi. Rõ ràng, những quy định về tài sản thế chấp đã ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Thực tế cho thấy rằng, Luật Ngân hàng còn nhiều sơ hở, chưa đồng bộ với các quy định, văn bản dưới luật. Điều này ảnh hưởng đến việc quản lý chất lượng tín dụng của các Ngân hàng.
Sự thay đổi các chủ trương, chính sách của Nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Nhất là về cơ cấu kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu, do thay đổi một cách đột ngột, gây xáo chộn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm hay chưa có phương án kinh doanh mới dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi.
Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp còn nhiều sơ hở, Nhà nước cho phép nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức năng, nhiệm vụ vượt quá trình độ, năng lực quản lý dẫn đến rủi ro, thua lỗ, làm giảm sút chất lượng tín dụng.
3.3.Về phía Ngân hàng
thẩm định tín dụng:
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của dự án để ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
Mục đích của việc thẩm định dự án là nhằm giúp Ngân hàng các kết luận chính xác về tính khả thi, tính hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những khả năng rủi ro có thể xẩy ra của dự án để ra quyết định cho vay hay từ chối. Đồng thời, cũng từ việc thẩm định Ngân hàng có thể tham gia góp ý cho chủ đầu tư, xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý phù hợp với năng lực của doanh nghiệp , nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cao.
Với những mục đích quan trọng như vậy nên thẩm định là khâu phức tạp và khâu hay mắc sai sót nhất của Ngân hàng. Nhưng nếu công tác thẩm định được tiến hành tốt thì sẽ tạo tiền dề cho một khoản tính dụng trung dài hạn có chất lượng tín dụng cao.
Chất lượng nhân sự
Con người ở đâu và bao giờ cũng vậy, luôn là yếu tố quyết định đến sự thành bại của công việc. Với ngành Ngân hàng , khi các nghiệp vụ Ngân hàng ngày càng phát triển mở rộng thì đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để có thể sử dụng các phương tiện hiện đại, nắm bắt kịp thời các thông tin về kinh tế, thị trường… phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ những người làm Ngân hàng vừa phải là nhà phân tích vừa phải là nhà dự đoán kinh tế. Trên cơ sở thông tin thu thập được, họ sàng lọc ra những khách hàng có đủ phẩm chất tín dụng, những dự án khả thi, lập được những hợp đồng chất lượng tốt có lợi cho Ngân hàng. Nếu là người có trình độ và kinh nghiệm, nhiều khi chỉ cần qua một lần tham quan, khảo sát hiện trạng hoạt động của nhà máy cũng có thể phát hiện ra những điều bất ổn. Hoặc khi một dự án của doanh nghiệp không thoả mãn một số chỉ tiêu nào đó, cán bộ tín dụng phải là người tư vấn cho doanh nghiệp những lời khuyên hữu ích. Điều đó thuộc về “ Nhạy cảm nghề nghiệp” mà không phải cán bộ tín dụng nào cũng có.
Thông tin tín dụng.
Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng. Nhờ có thông tin tín dụng, người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tiền vay. Thông tin tín dụng càng nhanh, càng chính xác và toàn diện bao nhiêu thì càng thuận tiện cho công việc kinh doanh của ngân hàng bấy nhiêu và rủi ro có thể được hạn chế ở mức thấp nhất có thể.
Lãi suất tín dụng trung và dài hạn
NHTM là tổ chức kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuân. Các doanh nghiệp khác nhau, các chủ đầu tư khác nhau, bản thân từng dự án có mức lợi nhuận khác nhau, lại có mức rủi ro, khối lượng vay vốn, thời hạn cho vay khác nhau. Việc áp dụng lãi suất khác nhau ở từng dự án là có hiệu quả nhằm khuyến khích cả doanh nghiệp và Ngân hàng vay vốn trung dài hạn.
Việc đưa ra mặt bằng rủi ro cho các dự án đầu tư và việc cho phép áp dụng lãi suất linh hoạt tuỳ mức rủi ro, thời hạn số tiền vay là một trong những điều kiện mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng.
Tổ chức bộ máy và quy trình quản lý tín dụng
Tổ chức bộ máy và quy trình quản lý tín dụng quy định quyền hạn trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận, mối quan hệ của từng bộ phận trong quá trình thực hiện từ thẩm định đến khi thiết lập quan hệ tín dụng và thu hồi vốn tín dụng. Tổ chức và quản lý tín dụng phù hợp sẽ nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng, hạn chế được tình trạng lựa chọn đối nghịch hay rủi ro đạo đức trong tín dụng.
Tổ chức quản lý tín dụng chủ yếu gồm các yếu tố: Bộ máy quản lý, hệ thống thông tin chiến lược, chính sách và quy trình quản lý tín dụng. Tuỳ theo mục tiêu quản lý chiến lược tín dụng mà Ngân hàng cần xác định chiến lược cụ thể hướng vào ưu tiên cho các loại khách hàng riêng, ngành nghề riêng, sản phẩm tiêu thụ riêng. Điều đó cho phép Ngân hàng mạnh dạn đầu tư vào đối tượng ưu tiên và đây là điều kiện cần thiết cho mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng.
Quy trình quản lý tín dụng được bố trí khoa học, phân tích rõ ràng về trách nhiệm góp phần nâng cao chất lượng của thông tin tới cấp ra quyết định tín dụng, giảm yếu tố sai lệch thông tin là cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn. Việc phân công cán bộ và mức độ chuyên môn hoá cán bộ trong tổ chức bộ máy quản lý tín dụng đóng vai trò quan trọng. Nhờ chuyên môn hoá, Ngân hàng có sự hiểu biết sâu hơn về lĩnh vực mình hoạt động, đủ cơ sở xác định khách hàng nào có độ rủi ro cao, xác định xu hướng của ngành kịp thời phát hiện ngành kinh doanh có chiều hướng đi xuống để chuyển hướng tín dụng.
tiêu chuẩn tín dụng trung dài hạn
tiêu chuẩn tín dụng là những yêu cầu mà các doanh nghiệp phải đạt được để thiết lập quan hệ tín dụng. Tuỳ theo quy mô của quan hệ tín dụng trong giới hạn an toàn của ngân hàng, tiêu chuẩn tín dụng được đưa ra để so sánh, đánh giá những mặt, những mục tiêu doanh nghiệp cần đạt được. Trên cơ sở đó Ngân hàng tiến hành phân loại doanh nghiệp để nhìn nhận mở rộng hay thu hẹp quy mô tín dụng, đồng thời đưa ra các biện pháp phù hợp để đảm bảo an toàn tín dụng.
Điều kiện tín dụng quyết định khả năng thiết lập quan hệ tín dụng và quy mô quan hệ này. Khi tiêu chuẩn tín dụng nâng cao, khả năng mở rộng tín dụng càng hạn chế, khả năng hấp thụ khách hàng càng thấp nhưng tính an toàn cao và ngược lại.
Chính sách tín dụng của Ngân hàng
Chính sách tín dụng một mặt phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời phải đảm bảo kết hợp hài hoà quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay và chính bản thân của Ngân hàng. Đối với các NHTM, một chính sách tín dụng đúng đắn, rõ ràng, hợp lý phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ luật pháp và đường lối, chính sách của Nhà nước, đồng thời phải đảm bảo tính công bằng và hấp dẫn đối với khách hàng. Một chính sách tín dụng như vậy sẽ khuyến khích khách hàng phát hiện và thoả mãn các nhu cầu về vốn.
Hiện nay, sự không chặt chẽ của chính sách, chế độ tín dụng đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Chính vì có những khe hở trong những quy định trên nên một số cán bộ Ngân hàng đã lợi dụng những khe hở đó để luồn lách, gây hiệu quả nghiêm trọng cho hoạt động của Ngân hàng.
3.4.Về phía khách hàng
Năng lực của khách hàng
Nằng lực của khách hàng ở đây được hiểu là khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn đòi hỏi của tín dụng trung dài hạn. Điều kiện tín dụng được đưa ra nhằm tiêu chuẩn hoá khả năng của doanh nghiệp trong quá trình vay vốn đồng thời đảm bảo cho khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng. Khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng thể hiện ở những mặt sau.
+ Năng lực thị trường của doanh nghiệp
Biểu hiện ở các mặt như: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ, chất lượng sản phẩm như thế nào, có phù hợp với thị hiếu của người tiêudùng hay không ? Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường? Quá khứ hiện tại và tương lai phát triển của doanh nghiệp? Hệ thống tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp , mối quan hệ với các bạn hàng, với các đối tác?
Năng lực thị trường của doanh nghiệp được lượng hoá theo tiêu thức cơ bản là sự gia tăng của doanh số tiêu thụ sản phẩm. Doanh số tiêu thụ biểu hiện khả năng phát triển thị trường của sản phẩm, qua đó bộc lộ khả năng phát triển của doanh nghiệp.
Nghiên cứu năng lực thị trường của doanh nghiệp cho biết khả năng mở rộng đầu tư của doanh nghiệp cũng như định hướng đầu tư của doanh nghiệp nhằm kiểm tra sự phù hợp của dự án hoạt động với khả năng của doanh nghiệp.
+ Năng lực sản xuất của doanh nghiệp
Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu hiện giá trị công cụ lao động mà chủ yếu là tài sản cố định, biểu hiện cụ thể là quá trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất, các nhu cầu đầu tư trước đây…
Nghiên cứu năng lực sản xuất của doanh nghiệp cho biết quy mô sản xuất của doanh nghiệp, sự phù hợp của quy mô đó với thị trường, cơ cấu và khả năng làm chủ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
Năng lực thị trường và năng lực sản xuất tạo nên khả năng tìm kiếm lợi nhuận. Một điều kiện tín dụng đòi hỏi doanh nghiệp phải có sản xuất ổn định, kinh doanh có lãi, có năng lực sản xuất và quản lý đáp ứng một trình độ nhất định theo yêu cầu của thị trường.
+ Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở số vốn tự có của doanh nghiệp và tỷ trọng vốn tự có trên tổng nguồn vốn huy động. Ngoài ra, năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với các khoản nợ. Năng lực tài chính của doanh nghiệp trong tín dụng trung và dài hạn còn đòi hỏi doanh nghiệp có số vốn lưu động tối thiểu cho việc duy trì hoạt động thường xuyên của tài sản cố định. Vì vậy, năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao thì càng thuận lợi cho Ngân hàng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng.
+ Năng lực quản lý của doanh nghiệp
Việc xem xét khả năng thích nghi của bộ máy quản lý doanh nghiệp với biến động của cơ chế thị trường là điều cần thiết trước khi Ngân hàng quyết định cho vay. Ngoài ra, việc xem xét sự phù hợp của hệ thống hạch toán kế toán và quản lý tài chính của doanh nghiệp vơí quy định của pháp luật sẽ cho kết quả đánh giá về năng lực quản lý của doanh nghiệp một cách chính xác hơn.
Quyền sở hữu tài sản và khả năng đáp ứng các biện pháp bảo đảm
Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với quyền sở hữu một khối lượng tài sản cố định. Giá trị tài sản, chất lượng, cơ cấu tài sản mà doanh nghiệp sở hữu quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh, đo lường giá trị doanh nghiệp và quyết định khối lượng tín dụng. Quyền sở hữu gắn liền với năng lực pháp luật của doanh nghiệp và khả năng sử dụng tài sản đó để thực hiện các biện pháp bảo đảm tín dụng. Quan hệ thường đưa ra đòi hỏi có tài sản làm đảm bảo bằng các hình thức : Thế chấp , cầm cố hoặc được đảm bảo bằng bảo lãnh của người thứ ba. Việc đòi hỏi biện pháp bảo đảm bằng tài sản sẽ tạo ra quyền chủ động cho Ngân hàng được thanh toán khi có rủi ro xẩy ra.
Khả năng đáp ứng các biện pháp đảm bảo bằng tài sản có quan hệ mật thiết với tính chất của tài sản làm đảm bảo.
+ Tính pháp lý của tài sản làm đảm bảo phù hợp với năng lực pháp luật của doanh nghiệp.
+ Chu kỳ sống của sản phẩm phải ít nhất bằng thời hạn của tín dụng trung dài hạn.
4.Mở rộng tín dụng trung và dài hạn phải gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng.
Như phần trên đã trình bầy, tín dụng trung và dài hạn có một vai trò rất to lớn đối với doanh nghiệp, Ngân hàng cũng như đối với sự phát triển của nền kinh tế. Do vậy, nhu cầu mở rộng tín dụng trung dài hạn là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc mở rộng tín dụng trung và dài hạn phải gắn liền với chất lượng tín dụng vì giữa chúng có môí quan hệ mật thiết.
Quá trình mở rộng tín dụng sẽ tạo điều kiện để nâng dần tỷ trọng những món tín dụng có chất lượng cao làm cho chất lượng tín dụng nói chung cũng được nâng lên. Sự mở rộng này không những được thực hiện bằng cách tăng thêm những món cho vay có chất lượng cao mà còn là quá trình thay thế những món tín dụng có chất lượng thấp bằng những món có chất lượng cao hơn.
Việc mở rộng tín dụng nếu không tính toán cẩn thận, thực hiện một cách nóng vội , thiếu khoa học sẽ làm tăng tính rủi ro và làm giảm chất lượng tín dụng nói chung.
Việc nâng cao chất lượng tín dụng đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng được những yêu cầu chặt chẽ của các điều kiện tín dụng. Tuy nhiên, nếu các điều kiện tín dụng được đưa ra quá chặt chẽ không phù hợp với tình hình kinh tế xã hội và pháp lý hiện hành thì Ngân hàng sẽ bỏ lỡ những cơ hội đầu tư có hiệu quả. Điều này làm cho việc mở rộng tín dụng trung dài hạn bị hạn chế. Việc không thường xuyên quan tâm đến chất lượng tín dụng trong qúa trình mở rộng tín dụng sẽ làm cho việc mở rộng tín dụng thiếu vững chắc và dễ đẩy Ngân hàng sa lầy vào tình trạng khó thu hồi vốn.
Tóm lại, mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là hai mặt của một vấn đề, giữa chúng luôn có mối quan hệ bổ sung cho nhau.Việc coi trọng cả hai mặt là yêu cầu đối với mỗi NHTM hiện nay.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam
I.Giới thiệu đôi nét về sở giao dịch nhno & ptnt Việt Nam.
A. giới thiệu chung về ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam(NHNo &PTNT Việt Nam ) là một trong các ngân hàng thương mại lớn ở Việt Nam. Tổ chức tiền thân của nó là Ngân hàng phát triển nông nghiệp Việt Nam .
Thành lập ngày 26/3/1988 theo nghị định 53/HĐBT của chủ tịch hội đồng bộ trưởng (Nay là Thủ tướng Chính phủ ) với mức vốn điều lệ là 2200tỷ VNĐ ,trụ sở chính tại số 4 Phạm Ngọc Thạch, Đống Đa, Hà Nội.
Trong quá trình hoạt động, NHNo & PTNT Việt Nam có thay đổi tên :Theo quyết định số 400/CT ngày 14/11/1990 của thủ tướng chính phủ đổi thành Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam và đã đổi thành NHNo & PTNT Việt Nam theo quyết định số 280/QĐNH5 ngày 15/10/1996 của thống đốc Ngân hàng nhà nước được thủ tướng chính phủ uỷ quyền ký quyết định thành lập tại văn bản số 3329/ĐMDN ngày 11/7/1996 với tên viết tắt là NHNo Việt Nam.
Các đơn vị thành viên
Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc
Đơn vị hạch toán phụ thuộc
- Chi nhánh kinh doanh tổng hợp
Sở dao dịch
Chi nhánh kinh doanh chuyên ngành
Đơn vị hạch toán độc lập
-Trung tâm đào tạo tay nghề
-Trung tâm tin học
-Trung tâm thanh toán phòng ngừa rủi ro
Đơn vị hạch toán độc lập
-Công ty kinh doanh mỹ nghệ vàng bạc đá quý
-Công ty cho thuê tài chính 1
-Công ty cho thuê tài chính 2
HĐQT
Mô hình tổ chức của NHNo thể hiện qua sơ đồ sau :
B.sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp Việt Nam
Sở Giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam (gọi tắt là sở giao dịch – SGD ) ra đời trên cơ sở tiền thân là Sở kinh doanh hối đoái trước đây mô hình tổ chức còn đơn giản, chức năng nhiệm vụ cơ bản của Sở kinh doanh hối đoái là:
Quản lý về phương diện vốn ngoại tệ của NHNo Việt Nam.
Tổ chức quản lý và điều hoà vốn ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến trong toàn hệ thống NHNo Việt Nam theo cơ chế điều động quỹ dự trữ an toàn về ngoại tệ.
Tổ chức hướng dẫn kỹ thuật nghiệp vụ đối với các chi nhánh Ngân hàng cơ sở thực hiện thanh toán quốc tế, tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.
Thay mặt NHNo Việt Nam trực tiếp tham gia kinh doanh trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Trực tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh đối vơi khách hàng, như: Tín dụng xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ, cho vay chiết khấu, tái chiết khấu bộ chứng từ, thực hiện các hình thức huy động vốn ngoại tệ.
Sau hơn 5 năm hoạt động (1994- 1999) chuyên biệt trong lĩnh vực kinh doanh đối ngoại và quản lý ngoại hối của toàn hệ thống NHNo, Sở kinh doanh hối đoái đã đạt được những kết quả nhất định trong hoạt động kinh doanh và có những đóng góp tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ chung của toàn hệ thống NHNo Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự phát triển của toàn hệ thống ngân hàng nông nghiệp nói chung và Sở kinh doanh hối đoái nói riêng trong tình hình mới, ngày 13 tháng 5 năm 1999 Chủ tịch Hội đồng Quản trị NHNo Việt Nam đã có quyết định số 232/QĐ/HĐQT –02 về việc thành lập Sở giao dịch NHNo& PTNT Việt Nam với cơ cấu tổ chức bộ máy khá hoàn chỉnh và chức năng nhiệm vụ mới là thực hiện các nghiệp vụ tác nghiệp theo sự uỷ quyền củaTổng giám đốc thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trực tiếp, đa năng cả vốn nội và ngoại tệ, qua đó xác định rõ vị thế là một sở giao dịch chính của toàn hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam.
Sở giao dịch là một đơn vị hạch toán phụ thuộc, đại diện theo uỷ quyền của NHNo Việt Nam, có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của NHNo Việt Nam, có con dấu riêng, có bảng cân đối tài sản theo quy định của NHNo Việt Nam, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi với NHNN, chịu trách nhiệm cuối cùng về các nghĩa vụ do cam kết của Sở giao dịch trong phạm vi uỷ quyền.
Sở giao dịch tại số 2 Láng Hạ - Quận Ba Đình- Hà Nội.
Nhiệm vụ chính của Sở giao dịch.
Thực hiện nhiệm vụ theo lệnh của Tổng giám đốc NHNo Việt Nam .
Quản lý quỹ vốn nội, ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi của NHNo Việt Nam.
Đầu mối quản lý, điều hoà thanh toán ngoại tệ trong toàn hệ thống NHNo Việt Nam.
Trực tiếp kinh doanh trên thị trường nội, ngoại tệ liên ngân hàng.
- Thực hiện nhiệm vụ theo phân cấp uỷ quyền của NHNo Việt Nam .
Điều hoà vốn nội tệ trong khu vực các tỉnh phía bắc.
- Trực tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh.
Huy động vốn: Nhận gửi, huy động tiết kiệm, phát hành những chứng chỉ nhận tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng.
Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác đầu tư của chính phủ và các tổ chức kinh tế.
Cho vay ngắn hạn, trung hạn dài hạn bằng VND, ngoại tệ.
Cho vay xuất nhập khẩu, chiết khấu, tái chiết khấu bộ chứng từ.
Cho vay theo các chương trình dự án kinh tế.
Thực hiện các dịch vụ ngân hàng: thanh toán quốc tế, bảo lãnh, mua bán ngoại tệ…
Đầu tư tài chính dưới các hình thức: hùn vốn, liên doanh, mua cổ phần và các hình thức đầu tư khác.
Tổ chức kiểm tra, kiểm soát, báo cáo thống kê theo quy định.
Và các nhiệm vụ khác được Tổng giám đốc giao.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của sgd –NHNo Việt Nam.
theo quy chế tổ chức và hoạt động của SGD NHNo, giám đốc là người điều hành trực tiếp mọi hoạt động của SGD với sự giúp đỡ của 3 phó giám đốc, trong đó có 1 phó giám đốc thường trực. Dưới ban giám đốc, SGD có 7 phòng chức năng :
Sơ đồ bộ máy tổ chức của SGD.
Các PGĐ SGD (3 người )
KD ngoại tệ
KD
TTQT
SWIFT
Hành chính nhân sự
Kiểm tra kiểm toán nội bộ
Kế toán ngân quỹ
GĐ SGD
1.1 phòng kinh doanh ngoại tệ :
chức năng : đại diện theo uỷ quyền của NHNo trên thị trường liên ngân hàng quyết định mua bán để cân đối về trạng thái ngoại tệ, kinh doanh vốn trên tài khoản, điều hoà vốn ngoại tệ trên toàn hệ thống …ngoài ra, đây còn là nơi thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận và triển khai một số sản phẩm dịch vụ mới
Phòng kinh doanh :
thực hiện 2 nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng .đó là huy động vốn và cho vay (dưới các hình thức :chiết khấu, cho vay theo dự án, đồng tài trợ, bảo lãnh …theo kỳ hạn và không kỳ hạn bằng VND ). Phòng kinh doanh cũng chịu trách nhiệm quản lý về việc chi tiêu của các dự án và kinh doanh các dịch vụ Ngân hàng. Các kế hoạch kinh doanh cũng do bộ phận này đảm nhận.
1.3 Phòng thanh toán quốc tế (TTQT):
ngoài nhiệm vụ chính là thực hiện các nghiệp vụ về TTQT( bao gồm chiết khấu ,tái chiết khấu chứng từ, mở và theo dõi thư bảo lãnh, thư tín dụng theo lệnh của tổng giám đốc NHNo ). Phòng này còn thực hiện một chức năng quan trọng là tham gia đào tạo và tổ chức hướng dẫn các nghiệp vụ về TTQT trong hệ thống NHNo .
1.4 phòng SWIFT
là đầu mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức có liên quan tới SWIFT, phòng này có nhiệm vụ quản trị, cập nhật và vận hành hệ thống SWIFT, Telex…của NHNo. Bên cạnh đó phòng còn thực hiện việc thiết lập, quản lý và sử dụng mật mã thanh toán quốc tế cũng như thiết lập và duy trì hệ thống theo chỉ định của tổng giám đốc NHNo Việt Nam nên các nghiệp vụ TTQT của các chi nhánh cũng đều phải được thực hịên qua đây:
phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ :
cũng giống như bộ phận chức năng về kiểm toán kiểm tra ở bất kỳ đơn vị nào khác, phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ của SGD NHNo Việt Nam thực hiện việc rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm toán nôị bộ, kiểm tra các thông tin do kế toán cung cấp, xem xét việc tính và ghi các chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính, kiểm tra tính chiếm lược và tính hiệu quả trong các đơn vị .
phòng hành chính nhân sự :
với chức năng hành chính, phòng hành chính nhân sự thực hiện công tác văn thư, hành chính, quản trị, tuyên truyền, tiếp thị lễ tân, tiếp khách … nhằm mục tiêu xây dựng SGD văn minh, lịch sự, với chức năng nhân lực, phòng giúp giám đốc quy hoạch, sắp xếp và bố trí cán bộ của SGD, thực hiện các quyết định khen thưởng, kỷ luật cán bộ khi có quyết định của Hội đồng khen thưởng và kỷ luật, thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động cũng như đề xuất cho cán bộ của sở đi học tập, tham quan …
1.7 phòng kế toán ngân quỹ :
các cán bộ phòng kế toán, ngân quỹ không chỉ hạch toán các nghiệp vụ kinh doanh của SGD theo quy định mà còn tổ chức hạch toán, theo dõi các quỹ, vốn tập trung toàn hệ thống NHNo. Phòng này có nhiệm vụ thực hiện các dịch vụ rút tiền tự động, két sắt, thu chi tiền mặt, ngân phiếu thanh toán, vận chuyển tiền, quản lý kho, quỹ nghiệp vụ, tham gia thanh toán liên hàng …phòng còn đảm nhận các công việc về tài chính, phân tích hoạt động tài chính …cho đến việc nộp ngân sách nhà nước theo quy định.
Tình hình hoạt động kinh doanh của sở
Kể từ khi nước ta bước sang nền kinh tế thị trường, bước sang một giai đoạn mới – một giai đoạn phát triển theo chiều sâu, theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Đó là một lĩnh vực nhậy cảm đòi hỏi phải có những bước đi thận trọng trong quá trình đổi mới, trong hệ thống Ngân hàng nói chung và sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam nói riêng có những nhiệm vụ rất nặng nề, vừa phải khắc phục những hậu quả cũ, vừa phải đáp ứng nhu cầu của đổi mới trước những khó khăn thử thách phải vượt qua.
Để có thể bước qua được những thử thách, khó khăn đó và hoà chung với nhịp độ phát triển của đất nước, Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam đã bám sát định hướng của các ngành, tổ chức thực hiện các công tác như đã định. Cụ thể trong năm qua Sở đã có nhiều phấn đấu, tập chung cải thiện chất lượng tín dụng, phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách với phương châm “ ổn định, an toàn, hiêu quả, phát triển” góp phần hoàn thành nhiệm vụ chung của toàn hệ thống.
2.1.Tình hình huy động vốn.
Đối với một Ngân hàng thì nguồn vốn là yếu tố đầu vào của quá trình hoạt động kinh doanh. Khi nguồn vốn có cơ cấu hợp lý, chi phí huy động vốn thấp thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.
Hướng theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn trong hai năm qua ta đã thấy rõ được sự phát triển mạnh mẽ của Sở giao dịch. Sở đã tập chung khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế bằng cách đưa ra các hình thức huy động năng động và phù hợp có tính cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng, khơi tăng nguồn vốn huy động đặc biệt là nguồn có thời hạn dài phục vụ cho đầu từ phát triển.
Biểu 1: Tình hình huy động vốn tại SGD – NHNo & PTNT Việt Nam ( đã quy ra VND). Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
1999
2000
Tổng số
Tỷ trọng(%)
Tổng số
Tỷ trọng(%)
Tổng nguồn huy động
Phân theo ngành
Tiền gửi doanh nghiệp
Tiền gửi dân cư
Phân theo thời hạn
Không kỳ hạn
Kỳ hạn dưới 12 tháng
Kỳ hạn trên 12 tháng
Phân theo đơn vị t._. hết các yêú tố khách quan như cung cầu thị trường, xu thế phát triển của ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động, không nắm bắt được hết các quy định của chính phủ…tất cả các thứ đó đều dẫn tới dự án thiếu khả thi.
Giải pháp nâng cao chât lượng tín dụng trung dài hạn
Song song với việc mở rộng tín dụng thì nâng cao chất lượng luôn luôn được chú trọng. Sẽ là vô nghĩa nếu một ngân hàng nào đó chỉ quan tâm đến mở rộng tín dụng mà không để ý tới chất lượng của các khoản này. Để có thể làm được việc này mang lại nhiều hiệu quả thì ta cần làm một số công việc sau.
Phân tích, xếp loại doanh nghiệp
Đây là mấu chốt rất quan trọng để quyết định có cho vay hay không. Cho dù có một dự án với tính khả thi cao nhưng nếu rơi vào tay một doanh nghiệp có hoạt động vay trả không rứt khoát, rõ ràng thì vốn sẽ được sử dụng sai mục đích. Một điều thật chớ chêu là những dự án rủi ro cao thường lại có lợi nhuận được phác thảo ra rất cao, vì vậy mà nhà đầu tư thường dùng các biện pháp để vay được tiền. Những nhà quản trị ngân hàng nếu mà không am hiểu rộng, không có đủ các thông tin thì sẽ dẫn tới sự lựa chọn đối nghịch hay tình trạng thông tin không cân xứng. Lúc đó những dự án nhiều rủi ro sẽ được xét duyệt và những dự án ít rủi ro hơn lại bị bỏ qua cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng đã đi vào mạo hiểm.
Nội dung phân tích hoạt động kinh tế bao gồm.
- phân tích khái quát tình hình bảo đảm vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh.
- Phân tích tình hình vốn trong luân chuyển và trong dự trữ ( tình hình tài sản cố định, dự trữ tài sản lưu động, vốn luân chuyển, hiệu quả sử dụng vốn).
- Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Phương pháp phân tích:
-So sánh kỳ này với kỳ trước, số thực tế với số dế hoạch để thấy được mức độ phát triển.
- So sánh với tiêu chung cũng như tiêu chuẩu toàn ngành để đánh giá doanh nghiệp trong mối quan hệ với các doanh nghiệp khác, trên cơ sở đó đánh giá chính xác tình thình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chín và xu hướng phát triển của doanh nghiệp.
- So sánh mức độ trung bình của các thông số giữa ngành này với ngành khác để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn giữa các ngành.
Để có thể xếp hạng khách hàng theo độ rủi ro, ngân hàng cần phải dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu tín dụng. Căn cứ vào các chỉ tiêu tín dụng này cán bộ tín dụng chyên quản hoặc cán bộ thẩm định có thể đánh giá và chấm điểm khách hàng trên mọi phương diện với những tiêu thức, những biểu hiện đã được cụ thể hoá. Khi đánh giá mức độ rủi ro của doanh nghiệp,theo em cán bộ tín dụng nên chú trnọg đến các chỉ tiêu: khả năng sinh lời tài chính, hệ số tài trợ, năng lực đi vay, khả năng sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán ngắn hạn vì đây là những chỉ tiêu cơ bản phản ánh thực trạng kinh doanh và taì chính của doanh nghiệp.
Trong đó:
Khả năng sinh lời tài chính hay tỷ xuất lợi nhuận phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận phải cao hơn lãi vay ngân hàng thì mới có lợi về phía doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận =
Lợi nhuận của doanh nghiệp
Nguồn vốn của doanh nghiệp
Khả năng tự chủ về tài chính thể hiện khả năng tự can đối về tài chính của doanh nghiệp để đáp ứng các khoản nợ phải trả, biểu hiện bằng hệ số tài rợ:
Hệ số tài trợ =
Nguồn vốn hiện có của doanh nghiệp
Tổng số nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng
Hệ số này càng cao biểu hiện khả năng chi trả cao của doanh nghiệp
Năng lực đi vay là khả năng kêu gọi vốn vay của doanh nghiệp, một doanh nghiệp có khả năng tự chủ về tài chính cao thường có năng lực đi vay rất lớn. Điều này dễ hiểu vì người đi vay chỉ có thể vay được khi chứng minh được bản thân mình có khả năng trả nợ.
Năng lực đi vay =
Nguồn vốn hiện có của doanh nghiệp
Vốn thường xuyên
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp được biểu hiện rõ nhất bằng chỉ tiêu khả năng thanh toán ngắn hạn. Đó chính là khả năng thanh toán đối với các khoản nợ ngắn hạn:
Khả năng thanh toán ngắn hạn =
Vốn bằng tiền + các khoản phải thu
Nợ ngắn hạn + các khoản phải trả
Ngoài ra, doanh nghiệp có hiệu quả sử dụng vốn cao chứng tỏ có khả năng quản lý vốn, được biểu hiện bằng chỉ tiêu khả năng sản xuất kinh doanh.
Khả năng sản xuất kinh doanh =
Giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện
Nguồn vốn của doanh nghiệp
Chỉ tiêu này cho thấy với một đồng vốn thì doanh nghiệp có khả năng sinh ra bao nhiêu đồng giá trị sản lượng hàng hoá.
Sau khi sử dụng hệ thống chỉ tiêu trên, kết hợp với một số chỉ tiêu khác, cán bộ tín dụng tiến hành cho điểm đối với từng chỉ tiêu theo mức độ cụ thể khác nhau mà doanh nghiệp đạt được. Khâu cuối cùng là tính tổng số điểm mà mỗi doanh nghiệp đạt được va tiến hành đánh giá, phân loại doanh nghiệp.
Có thể nói đây là một phương pháp hữu hiệu giúp cán bộ tín dụng nhìn thấy rõ thực trạng tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, có một yêu cầu đối với phương pháp này là số liệu dùng để phân tích phải chính xác và được cập nhật thường xuyên. Nếu số liệu không chính xác hay đã lỗi thời thì điểm số doanh nghiệp đạt được sẽ hoàn toàn khác xa với thực tế. vì vậy, đề nghị Sở giao dịch nên phổ cập phương pháp này một cách có tính hệ thống như đã nêu để góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư là một công việc rất quan trọng bao gồm tám bước:
Sự cần thiết của dự án
Thẩm định về phương diện thị trường
Thẩm định về phương diện kỹ thuật
Thẩm định về phương diên tài chính
Thẩm định môi trường xã hội
Phương án thực hiện
Thẩm định phương diện tổ chức quản lý
Kết luận
Đây là giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. nếu việc thẩm định được thực hiện tốt thì rủi ro của khoảng cho vay giảm đi nhiều và ngược lại. Đối với việc thẩm định một dự án đầu tư, thẩm định về phương diện tài chính là quan trọng nhất. Để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư cần chú ý tới các vấn đề sau:
Một là: Hệ thống chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án đầu tư phải vừa đủ và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau để phản ánh hiệu quả dự án được toàn diện, chính xác. Hệ thống chỉ tiêu đó tựu chung chia làm hai nhóm: Một là phản ánh khả năng sinh lợi của dự án, nhóm kia phản ánh độ rủi ro của dự án. Còn xuất phát từ đặc thù của góc độ nhà thẩm định là chủ ngân hàng, người thẩm định bổ xung thêm nhóm chỉ tiêu nói lên khả năng hoàn vốn của dự án. trong mỗi nhóm chỉ tiêu cần phản ánh theo phương diện của nhóm phù hợp hoàn cảnh phần tích cụ thể. Tuy nhiên, cần phải đưa ra các chỉ tiêu phù hợp với thực tế hoạt động ở các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Hai là, Sau khi xác định được hệ thống chỉ tiêu cần thiết để thẩm định tài chính dự án đầu tư, vấn đề tiếp theo là phải xây dựng, tính toán đến các dòng lợi ích và chi phí của dự án. hiệu quả của dự án là kết quả của sự so sánh giữa lợi ích và chi phí. Do vậy có xác định chính xác lợi ích và chi phí trong mỗi trường hợp mới đánh giá đúng hiệu quả của dự án đầu tư. khi các định lợi ích và chi phí cần phải xác định lợi ích và chi phí có thể phát sinh, từ các lợi ích và chi phí chung đến các loại lợi ích và chi phì riêng của từng loại dự án đặc thù.
Việc xác định các loại lợi ích và chi phí trong khi xây dựng tính toán các chỉ tiêu cũng được quyết định bởi chỉ tiêu nghiên cưu, thẩm định. Chẳng hạn với chủ ngân hàng cũng như chủ doanh nghiệp thì mục tiêu thẩm định chỉ giới hạn chủ yếu trong phân tích tài chính chứ không mở rộng ra phạm vi phân tích kinh tế. Phân tích kinh tế không chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế của nhà đầu tư như phát triển tài chính mà còn quan tâm tới sự đónggóp của dự án vào việc thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. Do vậy quan niệm và tính toán về lợi ích và chi phí phải có sự thay đổi và điều chỉnh.
Thực chất việc xây dựng tính toán các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án đầu tư có một nền tảng toán học chặt chẽ, phong phú. ở đây, nếu quá chú trọng đến cơ sở lý thuyết ấy thì cũng thật khó cho việc triển khai áp dụng trong thực tế vì bị giới hạn bởi nhiều điều kiện như về giữ liệu, thời gian, tổ chức. Song về cơ bản các chỉ tiêu đó phải thể hiện được tình phương pháp, và khi tính toán các chỉ tiêu phải theo phương pháp phân tích tài chính bằng giá trị hiện tại ròng, đó là phương pháp thẩm định tính khả thi của dự án dựa vào các chỉ tiêu như lãi kép. Hiện giá thuần, tỉ suất doanh lợi nội bộ, phân tích độ nhậy của dự án.
Cuối cùng việc vận dụng tính toán các chỉ tiêu không thể không chú ý đến tính khả thi của dự án. Việc này liên quan rất lớn đến các chỉ tiêu trong thẩm định phải phù hợp và sát với thực tế hoạt động ở các ngân hàng thương mại. Tiêu điểm của vấn đề chính là dữ liệu. Các yếu tố cấu thành chỉ tiêu phải dựa trên có cơ sở số liệu có thể thu thập hoặc dự kiến được một cách chính xác trong thực tế, chẳng hạn như về giá cả, lãi suất, sản lượng, doanh thu…Đặc biệt, trong xu hướng hiện đại hoá công nghệ ngân hàng như hiện nay, cần nhậy bén năng động, tiếp cận mối quan hệ giữa yêu cầu nàyvà sự phát triển của ứng dụng tin học.
Ba là, đánh giá những gì mà các chỉ tiêu và phương pháp phân tích mang lại.
Mỗi chỉ tiêu từ hệ thống chỉ tiêu thẩm định được xem xét trong dự án sẽ được so sánh với các tiêu chuẩn chấp nhận dự án. Tuỳ chỉ tiêu mà có cách lựa chọn đánh giá khác nhau. Chẳng hạn, chỉ tiêu là một tiêu chuẩn do nội chỉ tiêu mang lại như NPV giá trị hiện tại ròng phải >=0… hoặc là một chỉ tiêu chuẩn qua so sánh với chỉ tiêu khác như IRR hệ số thu hồi vốn nội bộ phải lớn hơn lãi xuất cho vay của ngân hàng, hoặc chỉ tiêu là một tiêu chuẩn do thống kê kinh nghiệm thực tế, do thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên, tiêu chuẩn chấp nhận dự án ở đây cũng phụ thuộc vào điều kiện không gian, thời gian cụ thể và có thay đổi khi không gian và thời gian phân tích thay đổi.
Kết quả thẩm định sau khi so sánh với tiêu chuẩn phải nói lên được ý nghĩa của từng vấn đề. Vậy qua việc thẩm định bằng một hệ thống các chỉ tiêu, kết luận chung cuối cùng về dự án phải là một kết luận mang tính tổng hợp, khái quát, thậm chí phải nhờ vào sự cho điểm để có thể phân biệt tầm quan trọng khác nhau của chỉ tiêu đánh giá. Mặt khác, kết luận chung đôi khi cũng cần có tính linh hoạt tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể và sự ưu tiên khía cạnh nào đó của dự án và hoàn cảnh thực tế ở Việt Nam.
Bốn là, Đối với những dự án lớn phức tạp, các khách hàng lớn hoạt động đa dạng, cần kết hợp thẩm định giữa cán bộ ngân hàng và các chuyên gia.
Cuối cùng cần nhận thức rõ ràng cách đánh giá, kết luận dự án còn phụ thuộc loại dự án vào chủ đề thẩm định. Như ưu tiên cho sinh lợi, nhưng đối với các ngân hàng thì lại xem mặt thời gian trả nợ là đầu tiên và kết cấu tài chính cuả doanh nghiệp.
Tăng cường hơn nữa công tác giám sát tiền vay
Giám sát quá trình sử dụng tiền vay của khách hàng là một biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro đạo đức. Việc giám sát sẽ giúp ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm bảo đồng vốn được sử dụng đúng hiệu quả, mục đích. Nếu việc giam sát không được thực hiện chặt chẽ tạo ra những lỗ hổng cho khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, làm phát sinh rủi ro tín dụng. Trong việc giám sát tiền vay tại Sở giao dịch các cán bộ tín dụng đã xem xét đến các báo cáo tài chính mới nhất, một số giấy tờ,hoá đơn liên quan( các giấy tờ chứng nhận doanh nghiệp đã nhập máy móc, dây chuyền sản xuất ). Ngoài ra định kỳ mỗi quý một lần, các cán bộ tín dụng đến cơ sở kiểm tra. Tuy nhiên, thực hiện việc giám sát như vậy sẽ không kịp thời phát hiện những biến cố rủi ro có thể xẩy ra nhất là các báo cáo tài chính đưa đến ngân hàng toàn là đồ giởm. Hơn nữa, việc xuống cơ sở kiểm tra không thường xuyên và không mang tính đột xuất có thể khiến cho khách hàng lợi dụng những sơ hở để thực hiện những hành vi trái với những điều đã thoả thuận. Do vậy, cán bộ ngân hàng cần có những cuộc viếng thăm không báo trước, và tránh gây tâm lý khó chịu cán bộ tín dụng phải là người có kinh nghiệm và có khiếu giao tiếp và ngay từ đầu phải có mối quan hệ tốt với khách hàng.
Bên cạnh việc kiểm tra quá trình sử dụng tiền vay, cán bộ cũng đặc biệt cần lưu ý tới tài sản thế chấp của khách hàng, đánh giá lại tài sản theo giá hiện hành, nếu giảm so với giá ban đầu thì yêu cầu khách hàng bổ xung tài sản thế chấp hoặc giảm dư nợ tương ứng.
Cán bộ tín dụng cần nắm rõ các nguồn thu của khách hàng và yêu khách hàng phải thực hiện việc thanh toán cho đơn vị qua ngân hàng. thường xuyên kiểm tra tài khoản của khách hàng là một phương thức để đánh giá tình trạng tài chính của họ. Nếu trong một thời gian nhất định ở giai đoạn dự án đi vào hoạt động mà khách hàng không có một khoản thu đáng kể nào để chứng tỏ họ có tiêu thụ được hàng hoá dịch vụ thì cần xem xét kỹ hơn về tình hình tiêu thụ và sản xuất của khách hàng. Nếu phát hiện tính trạng có thể sấu đi , ngay lập tức cán bộ ngân hàng phải bàn bạc với khách hàng thay đổi kế hoạch sản xuất kinh doanh hoặc phải tìm biện pháp để thu hồi nợ. Vấn đề ở đây là cán bộ tín dụng không được để tình cảm chi phối công việc của mình.
Trích lập quỹ bù đắp rủi ro
Như đã biết, chất lượng tín dụng được hình thành từ hai phía đó là từ người cho vay và người đi vay. Ngân hàng cho vay với hy vọng nắm trong tay những khoản cho vay có chất lượng tốt. Tuy nhiên trải qua một thời gian, dưới sự tác động của nhiều yếu tố, dự án sản xuất kinh doanh của người vay trở nên kém hiệu quả. lúc này mức độ rủi ro của các khoản cho vay tăng lên đe doạ khả năng thu hồi của ngân hàng. Vì thế để đảm bảo khả năng an toàn cho ngân hàng, ngân hàng phải lập nên những lá chắn bảo vệ đó là phải trích lập quỹ bù đắp rủi ro. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường thì lợi nhuận cao luôn đi kèm với rủi ro cao. Quỹ này một mặt sẽ giúp ngân hàng khắc phục hậu quả thiệt hại, mặt khác sẽ tăng cướng sức mạnh tài chính, khả năng thanh toán của ngân hàng, từ đó nâng cao được chất lượng tín dụng.
2.5 Tập trung giải quyết các tồn tại về nợ quá hạn và xử lý tài sản thế chấp , cầm cố bảo lãnh.
Tỷ lệ nợ quá hạn tại Sở giao dịch là khá cao, vì vậy Sở cần phải tích cực thu hồi số nợ cũ, kiên quyết không để nợ quá hạn mới phát sinh. Với khoản nợ quá hạn đang tồn tại, ngân hàng cần tiến hành phân loại theo khả năng thu hồi và phân tích nguyên nhân đưa đến nợ quá hạn rồi đưa ra kết luận do yếu tố khách quan hay chủ quan. Qua đó, ngân hàng sẽ có những biện pháp sử lý cụ thể: những khoản nợ có khả năng thu hồi thì ngân hàng tiếp tục đôn đốc khách hàng trả nợ, tăng cường giám sát để khi có khoản thu thì thu ngay, những khoản nợ không có khả năng thu hồi thì kiên quyết sử lý tài sản thế chấp, cầm cố để xiết nợ, giải phóng nhanh nguồn vốn kinh doanh.
2.6 Chuyên môn hoá cán bộ tín dụng
Để có một khoản tín dụng có chất lượng, yếu tố quan trọng trước tiên thuộc về người cán bộ tín dụng ngân hàng. Cán bộ tín dụng phải là người am hiểu khách hàng, hiểu biết sâu sắc thực lực tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng kể cả hiện tại cũng như sau này, xác định tiềm năng phát triển và dự báo được các biến động trong tương lai. Không những vậy, cán bộ tín dụng cũng cần nắm rõ tư cách đạo đức của người vay vì tư cách đạo đức của người vay sẽ quyết định ý muốn trả nợ của họ.
Sự tác động của chính sách kinh tế hay ảnh hưởng của biến động thị trường đến kết quả hoạt động của một doanh nghiệp là vô cùng phức tạp. Điều này đòi hỏi mỗi cán bộ tín dụng cần có một vốn hiểu biết nhất định về thị trường và về lĩnh vực chuyên môn mà khách hàng của mình đang tiến hành sản xuất.
Tất cả những yêu cầu đó đối với một cán bộ tín dụng hình như là quá nhiều, một cán bộ tín dụng giỏi đến đâu thì cũng không thể hiểu biết sâu sắc về mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, giải pháp đưa ra ở đây là: chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ tín dụng.
Hiện nay, ở hầu hết các ngân hàng thì việc phân công cán bộ tín dụng chỉ dựa trên cơ số khách hàng, mức dư nợ và thành phần kinh tế. một cán bộ tín dụng khi đó sẽ phải vừa cho vay kinh doanh dịch vụ – thương mại, vừa phải cho vay xây dựng cơ bản, chế biến, vận tải… Như vậy, cán bộ tín dụng sẽ rất khó khăn trong việc thu thập và sử lý thông tin.
Nên chăng, ngân hàng thực hiện chuyên môn hóa đối với từng cán bộ bằng cách chia khách hàng theo từng nhóm đặc điểm riêng. Trên cơ sở đó, căn cứ vào năng lực, sở trường và kinh nghiệm của từng cán bộ hay từng nhóm cán bộ để phân công thực hiện cho vay đối với nhóm khách hàng nhất định.
Việc chuyên môn hoá cán bộ tín dụng như vậy khắc phục được mâu thuẫn giữa chuyên môn hoá và đa dạng hoá, làm tăng chất lượng tín dụng và độ tin cậy của thông tin tín dụng, tạo cơ sở cho việc xây dựng các mối quan hệ khách hàng lâu dài. Đồng thời nó cũng làm giảm chi phí trong công tác điều tra tìm hiểu khách hàng, thẩm định và phân tích tín dụng, giám sát khách hàng trong quá trình sử dụng tiền vay. Bên cạnh việc thực hiện chuyên môn hoá ngân hàng cũng không ngừng nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ công nhân viên.
Một số kiến nghị
Để có thể mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn thì những nỗ lực từ phía ngân hàng là chưa đủ. Đối với một công việc khó khăn như vậy, ngân hàng rất cần đến sự giúp đỡ từ phía ngân hàng cấp trên, các ban, Ngành chức năng và từ phía nhà nước.
Kiến nghị đối với NHNo & PTNTVN
Đề nghị NHNo & PTNTVN sớm có chiến lược và chính sách khách hàng làm định hướng cho các chi nhánh xây dựng chiến lược và chính sách cụ thể như xây dựng cơ chế tài chính trong tiếp thị va ưu đãi đối với khách hàng vừa mang tính hệ thống có khả năng cạnh tranh cao, vừa tạo quyền chủ động cho các đơn vị thành viên trong việc vận dụng có hiệu quả các cơ chế đó.
Cần phải thành lập phòng thẩm định dự án, tập trung được các cán bộ có trình độ kinh tế, kỹ thuật phù hợp với đặc điểm kinh doanh của NHNo Việt Nam tạo các điều kiện cơ sở vật chất và công nghệ cần thiết phục vụ cho công tác nghiên cứu, thẩm định dự án.
NHNo Việt Nam cần có chiến lược huy động vốn trung dài hạn cả nội ngoại tệ, nâng cao tỷ lệ nguồn vốn trung dài hạn trong tổng nguồn vốn nhằm có nguồn vốn ổn định để cho vay các dự án lớn.
Hoàn thiện các quy trình về nghiệp vụ thẩm định dự án, cho vay hợp vốn, bảo lãnh trả chậm nhằm tạo điều kiện cho các chi nhánh mở rộng tín dụng.
Bám sát quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, các bộ , ngành để xây dựng chiến lược kinh doanh của NHNo đến năm 2010.
Nâng cao hiệu quả công tác thông tin phòng ngừa rủi ro. Trong nền kinh tế thị trường thông tin kinh tế đóng vai trò quan trọng, thông tin chính xác về các khách hàng đặc biệt là thông tin trong các dự án đồng tài trợ.
Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát. chấn chỉnh và xử lý dứt.
Kiến nghị đối với các ban ngành chức năng
Đối với dự án đầu tư trung dài hạn thì tính khả thi của dự án đóng vai trò rất quan trọng, quyết định đến chất lượng tín dụng vì thế các cơ quan có thẩm quyền duyệt dự án đầu tư cần chấn chỉnh theo hướng nâng cao hơn nữa trách nhiệm của mình đối với sự phát triển kinh tế, tránh tình trạng dự án được duyệt thiếu căn cứ khoa học, thiếu tính thực tiễn nên không phát huy hiệu quả, gây tình trạng lãng phí đọng vốn và ngân hàng thì khó thu hồi vốn.
Bộ tài chính cần tổ chức hạch toán tốt việc kiểm tra, hạch toán kế toán của các doanh nghiệp theo pháp lệnh hạch toán kế toán và thống kê nhằm đảm bảo số liệu chính xác, trung thực, kịp thời. Các báo cáo tài chính, sổ sách kế toán là nguồn số liệu chủ yếu về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở đó ngân hàng tiến hành thẩm định khả năng tài chính của doanh nghiệp, một trong những yếu tố cơ bản để ngân hàng xem xét và đi đến quyết định có nên đầu tư cho dự án hay không.
Các cơ quan quản lý về xuất nhập khẩu cần đề cao trách nhiệm của mình. Trước hết phải đảm bảo cân đối, tránh tình trạng nhập tràn lan hoặc hạn chế quá mức sẽ gây nên những biến động trên thị trường. Các chính sách xuất nhập khẩu phải ổn định tương đối lâu dài, tránh tình trạng vốn tín dụng đã được đầu tư vào dự án sản xuất các hàng hoá xuất khẩu chưa kịp thu hồi vốn thì đã có sự thay đổi chính sách khiến cho ngân hàng không thu hồi được nợ.
Các cơ quan chức năng cần kiểm tra và chẩn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho đồng bộ, thống nhất, chỉ cấp một bản gốc duy nhất nhằm ngăn chặn sự lợi dụng của khách hàng quy định rõ trách nhiệm của sở nhà đất và các cơ quan tương đương trong việc làm thủ tục chuyển nhượng không đúng pháp luật gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ từ tài sản thế chấp.
Đẩy mạnh công tác thống kê nhằm thống kê tổng hợp các tỷ lệ tài chính của các ngành, các doanh nghiệp, từ đó rút ra tỷ lệ trung bình năm để làm căn cứ phân tích kinh tế, so sánh, đánh giá các doanh nghiệp hiện đang ở tình trạng nào.
Đối với Ngân hàng Nhà nước phải hoàn thiện và phát triển hệ thống thông tin tín dụng (gọi tắt là CIC ) của ngành ngân hàng. Ngân hàng cần có những chính sách, biện pháp tích cực sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin. Khi thị trường chứng khoán đi vào hoạt động thì ngân hàng cần hiện đại hoá hệ thống máy móc thiết bị để thu thập và sử lý thông tin cập nhật chính xác mà vẫn có nguồn để bù đắp chi phí. Và cần có văn bản sử lý nợ đối với các doanh nghiệp chuyển từ sở hữu nhà nước sang cổ phần, có cơ chế xử lý tài sản thế chấp bị xiết nợ.
Kiến nghị đối với Nhà nước
Ngày nay, vai trò của Nhà nước ngày càng được nhấn mạnh và coi trọng. Trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ, mục tiêu của Nhà nước là có được chính sách điều hành đúng đắn để bảo vệ những nhà đầu tư. hệ thống tài chính ổn định, phát triển và minh bạch là điều kiện tốt nhất để các nhà đầu tư an tâm kinh doanh. Muốn thực hiện chính sách thu hút đầu tư, Nhà nước Việt Nam phải nỗ lực nhanh chóng lành mạnh hoá hệ thống tài chính còn đang rất yếu kém hiện nay. Ngân hàng với tư cách một nhà đầu tư lớn của nền kinh tế, trông đợi rất nhiều vào những cải cách trong chính sách điều hành hệ thống tài chính của Nhà nước.
Đẩy mạnh công tác thông tin cho nhà đầu tư:
Hiện nay xu hướng công khai hoá thông tin đang phát triển rất mạnh trên toàn cầu. Phạm vi thông tin không ngừng được mở rộng, độ tin cậy của thông tín không ngừng được nâng cao đã làm cho môi trường đầu tư ngày càng trở nên hấp dẫn. Thông tin được mở rộng đem chơ hội kinh doanh đến cho mọi người. Tuy nhiên, ở nước ta, vai trò của thông tin mới chỉ được nhình nhận đúng đắn trong vài năm trở lại đây, thế nên tình trạng trông tin phân tán, không kịp thời, thiếu chính xác, nội dung thôn gtin cồn hạn hẹp, chất lượng không cao là phổ biến và không thể tránh khỏi. Mảng thông tin về các doanh nghiệp là quan trọng nhất nhưng việc tổ chức, thực hiện chưa đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
Thông qua đây để thấy Nhà nước cần phải là cầu nối cung cấp thông tin kịp thời cho các nhà đầu tư cũng như đưa được thông tín chính xác lên thị trường.
Lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng thương mại
+ Hoàn thiện quy chế thể lệ, luật liên quan đến các hoạt động của ngân hàng, tạo môi trường pháp luật thuận lợi cho các tổ chức tín dụng hoạt động.
+ Sắp sếp lại một số ngân hàng cổ phần hoạt động kém hiệu quả
+ Tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của ngân hàng nhà nước đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
Hoàn thiện cơ chế vận hành chính sách tiền tệ quốc gia
+ Chính sách lãi xuất
+ Chính sách tỷ giá hối đoái
+ Ngoài ra Nhà nước cần phối hợp với các giải pháp khác.
Kết luận
Cùng với các ngành, các cấp khác, Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường cũng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Nổi bật lên là hoạt động tín dụng của nó, trong đó có hoạt động tín dụng trung và dài hạn nó góp phần không nhỏ trong quá trình xây dựng đất nước trên con đường Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá. Qua đây cho ta thấy việc nâng cao và mở rộng tín dụng trung dài hạn xét trên một khía cạnh lớn nhất nó mang lại hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế đất nước, cho toàn hệ thống ngân hàng nói chung và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn nói riêng trong chiến lược huy động và sử dụng vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển.
Qua quá trình thực tập tại Sở giao dịch – NHNo Việt Nam , được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo hướng dẫn và các cô chú, anh chị công tác tại phòng kinh doanh của Sở, em đã hoàn thành việc nghiên cứu đề tài:
“ Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam”.
Do trình độ còn hạn chế, luận văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiết sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn để em có thể hiểu biết sâu hơn về đề tài mà mình đã quan tâm, cũng mong rằng bài viết sẽ đóng góp một phần nào đó dù rất nhỏ vào sự nghiệp đổi mới hiện đại hoá hoạt động ngân hàng, đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế đang ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng – Tài chính, đặc biệt là thầy giáo Đàm Văn Huệ người đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình hoàn thành bài viết. Em cũng xin được bầy tỏ lòng biết ơn tới các cô chú, các anh chị công tác tại phòng kinh doanh Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam đã tận tình chỉ dẫn, giải đáp những thắc mắc cho em trong thời gian thực tập tại ngân hàng.
Hà nội, tháng 06 năm 2001
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thành Đô
Danh mục tài liệu tham khảo
Báo cáo tổng kết của Sở giao dịch năm 1999, 2000.
Báo cáo hoạt động tín dụng của Sở giao dịch năm 1999, 2000.
Điều lệ Ngân hàng Nông nghiêp Việt Nam.
Các văn bản thể lệ tín dụng của NHNo Việt Nam.
GS. TS. Lê Văn Tư - Giáo trình Ngân hàng thương mại.
Frederic s. mishkin: Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ.
Nghiệp vụ ngân hàng nâng cao – Học viện ngân hàng1999.
Tạp chí ngân hàng các số.
Thời báo ngân hàng.
Tạp chí thị trường tài chính.
Lời nói đầu 1
Chương I: Tín dụng và chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường 3
I. Tín dụng và các hình thức tín dụng. 3
1. khái niệm và các hình thức tín dụng. 3
1.1. Khái niệm về tín dụng. 3
1.2. Các hình thức tín dụng 4
1.3. Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế 4
1.3.1. Đối với người tiêu dùng. 4
1.3.2. Đối với các doanh nghiệp 5
2. Tín dụng ngân hàng 5
II. Tín dụng trung dài hạn của NHTM đối với nền kinh tế. 6
1. Khái niệm 6
2. Tầm quan trọng của tín dụng trung và dài hạn đối với phát triển kinh tế. 6
3. Đặc điểm của tín dụng trung dài hạn 9
3.1. Tính rủi ro lớn 9
3.2. Lãi suất cao 9
4. Các vấn đề cơ bản của tín dụng trung và dài hạn 9
4.1. Nguồn cho vay trung và dài hạn 9
4.2. Đối tượng cho vay trung và dài hạn 10
4.4. Các hình thức tín dụng 10
4.5. Điều kiện vay vốn 11
4.6. Quy trình thẩm định dự án đầu tư 11
III. Chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHTM và các nhân tố ảnh hưởng. 12
1. Quan niệm về chất lượng tín dụng trung và dài hạn. 12
2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn 12
2.1 Xét trên quan điểm Ngân hàng 13
I. 2.2 Xét trên quan điểm khách hàng 16
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung dài hạn. 16
II. 3.1. ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến chất lượng tín dụng 17
3.2.ảnh hưởng của môi trường pháp lý đến chất lượng tín dụng 17
3.3.Về phía Ngân hàng 18
3.4.Về phía khách hàng 21
4.Mở rộng tín dụng trung và dài hạn phải gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng. 22
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam 24
I.Giới thiệu đôi nét về sở giao dịch nhno & ptnt Việt Nam. 24
A. giới thiệu chung về ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. 24
B.sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp Việt Nam 24
1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của sgd –NHNo Việt Nam. 26
1.1 phòng kinh doanh ngoại tệ : 27
1.2 Phòng kinh doanh : 27
1.3 Phòng thanh toán quốc tế (TTQT): 27
1.4 phòng SWIFT 27
1.5 phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ : 28
1.6 phòng hành chính nhân sự : 28
1.7 phòng kế toán ngân quỹ : 28
2. Tình hình hoạt động kinh doanh của sở 28
2.1.Tình hình huy động vốn. 29
2.2 Hoạt động cho vay. 31
2.3 Hoạt động mua bán ngoại tệ 33
2.4 Hoạt động thanh toán quốc tế 34
2.5 Kết quả kinh doanh ( xem biểu 3 trang bên) 35
II. thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại sở giao dịch nhno & ptnt Việt Nam. 36
1. Thực trạng tín dụng trung dài hạn tại sở giao dịch. 36
2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch NHNo Việt Nam. 38
2.1 Xét trên quan điểm Ngân hàng. 38
2.2 Xét trên quan điểm khách hàng 40
III. đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại sở giao dịch nhno Việt Nam. 41
1. Những kết quả đạt được. 41
2. Những mặt còn hạn chế và nguyên nhân 43
III. 2.1 Những mặt còn hạn chế 43
2.2 Nguyên nhân của những hạn chế trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch NHNo & PTNTVN. 45
Chương III 48
Giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại sở giao dịch nhno & ptnt Việt Nam. 48
I. Phương hướng hoạt động kinh doanh của Sở năm 2001 48
1. Tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ do NHNo & PTNTVN giao như: Đầu mối TTQT, mua bán ngoại tệ, tham gia giao dịch trên thị trường mở, quản lý tài khoản nội, ngoại tê, hạch toán các loại quỹ… 48
2. Chỉ tiêu kế hoạch năm 2001: 48
3. Hướng hoạt động kinh doanh năm 2001. 48
II. giải pháp mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch nhno Việt Nam. 49
1. Giải pháp mở rộng tín dụng trung dài hạn. 49
1.1 Các giải pháp về vốn. 49
1.2 Đa dạng hoá các hình thức cho vay trung dài hạn 51
1.3 Mở rộng tín dụng ngoài quốc doanh 53
1.4 Tăng cường thực hiện marketing. 54
1.5 Thực hiện dịch vụ tư vấn cho khách hàng 54
2. Giải pháp nâng cao chât lượng tín dụng trung dài hạn 54
2.1 Phân tích, xếp loại doanh nghiệp 55
2.2 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư 57
2.3 Tăng cường hơn nữa công tác giám sát tiền vay 59
2.4 Trích lập quỹ bù đắp rủi ro 60
2.5 Tập trung giải quyết các tồn tại về nợ quá hạn và xử lý tài sản thế chấp , cầm cố bảo lãnh. 60
2.6 Chuyên môn hoá cán bộ tín dụng 61
III. Một số kiến nghị 62
1. Kiến nghị đối với NHNo & PTNTVN 62
2. Kiến nghị đối với các ban ngành chức năng 62
3. Kiến nghị đối với Nhà nước 63
Kết luận 65
Danh mục tài liệu tham khảo 66
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- X0133.doc